Tải bản đầy đủ (.docx) (85 trang)

Nghiên cứu đái tháo đường type 2 và một số yếu tố liên quan ở cán bộ trung cao cấp đến kiểm tra sức khỏe tại khoa Khám-Quản lý sức khỏe cán bộ bệnh viện Đà Nẵng năm 2020 (FULL TEXT)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (861.14 KB, 85 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ Y TẾ

ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y - DƯỢC

NGUYỄN BĂNG ĐÌNH

NGHIÊN CỨU ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TYPE 2 VÀ
MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN Ở CÁN BỘ TRUNG
CAO CẤP ĐẾN KIỂM TRA
SỨC KHỎE TẠI KHOA KHÁM-QUẢN LÝ SỨC
KHỎE CÁN BỘ BỆNH VIỆN ĐÀ NẴNG NĂM
2020

LUẬN VĂN CHUYÊN KHOA CẤP II


HUẾ, 2021

MỤC LỤC


DANH MỤC BẢNG

HÌNH ẢNH


4


ĐẶT VẤN ĐỀ
Đái tháo đường là một bệnh chuyển hóa mãn tính đặc trưng bởi lượng
đường trong máu tăng cao. Đái tháo đường type 2 là loại thể đái tháo đường
phổ biến nhất, chiếm trên 90% tổng số bệnh đái tháo đường trên toàn thế giới.
Bệnh đái tháo đường phát triển khi tuyến tụy của một người không sản xuất
đủ insulin hoặc cơ thể không thể sử dụng hiệu quả insulin mà nó tạo ra. Đái
tháo đường dẫn đến chuyển hóa carbohydrate bất thường và nồng độ glucose
trong máu cao, sau đó dẫn đến các biến chứng nghiêm trọng ảnh hưởng đến
sức khỏe bao gồm mất thị lực, cắt cụt chân, đau tim, đột quỵ, suy thận và tổn
thương thần kinh; hơn nữa, bệnh đái tháo đường thậm chí cịn làm tăng nguy
cơ phát triển một số loại ung thư [15], [70].
Theo báo cáo của Liên đoàn Đái tháo đường thế giới (IDF) mới nhất
2021, tỷ lệ đái tháo đường ngày càng gia tăng và khơng có khuynh hướng
thun giảm trong những thập niên tới nếu khơng có các chương trình can
thiệp kịp thời (IDF 2021). Nằm trong xu hướng chung, đái tháo đường type 2
vẫn chiếm tỷ lệ mắc cao và tăng cao khắp các châu lục. Điều này được giải
thích bởi sự già hóa dân số, phát triển kinh tế, đơ thị hóa, và chính những điều
này dẫn đến càng tăng các lối sống ít vận động và tiêu thụ nhiều thực phẩm
không lành mạnh càng liên quan đến béo phì. Tuy nhiên, những chương trình
sàng lọc, phát hiện sớm, và hiệu quả điều trị cũng góp phần làm gia tăng tỷ lệ
và xu hướng này.
Tại Việt Nam, đái tháo đường gây ra gánh nặng bệnh tật khá lớn [50].
Tỷ lệ lưu hành bệnh đái tháo đường trên toàn quốc là 6,1% trong năm 2021,
với khoảng 6 triệu người lớn được chẩn đoán mắc bệnh đái tháo đường trong
độ tuổi 20-79 tuổi và một trong 2 bệnh nhân chưa được chẩn đoán trước đây
[70]. Gánh nặng kinh tế của bệnh đái tháo đường hiện chiếm 12% tổng sản
phẩm quốc nội bình quân đầu người [5]. Bằng chứng từ các nghiên cứu trước
đây ở Việt Nam cho thấy tỷ lệ mắc bệnh đái tháo đường cao hơn ở nhóm tuổi
trên 40 [4], [52], [60]. Những thay đổi về nhân khẩu học, cùng với tăng thu



5

nhập và lối sống ít vận động, bên cạnh các yếu tố hành vi nguy cơ khác như
hút thuốc lá, uống rượu bia và chế độ ăn uống và đặc biệt là q trình đơ thị
hóa tại thành phố lớn, sẽ làm thay đổi sự phân bố của bệnh đái tháo đường
trong tương lai [67]. Dữ liệu sàng lọc trong giai đoạn 2011-2017 tại thành phố
Đà Nẵng cho thấy, mặc dù khơng có sự gia tăng về tỷ mắc đái tháo đường, tuy
nhiên có sự gia tăng nhanh của tiền đái tháo đường. Vì vậy, việc tiếp tục kiểm
sốt bệnh đái tháo đường và tiền đái tháo đường ở những người có nguy cơ
cao trên 45 tuổi có thể đóng một vai trò quan trọng trong việc quản lý các
bệnh không lây nhiễm tại thành phố Đà Nẵng [76].
Từ Đề án số 02-Đa/TU ngày 19/10/2018 của ban Thường vụ thành ủy
khoa Khám và Quản lý sức khỏe cán bộ trực thuộc bệnh viện Đà Nẵng thành
lập từ đầu năm 2019 với tổng số 16 cán bộ. Thực hiện sự chỉ đạo của Ban Bảo
vệ, chăm sóc sức khỏe cán bộ thành phố Đà Nẵng và Lãnh đạo Bệnh viện Đà
Nẵng. Khoa khám và Quản lý sức khỏe cán bộ thành phố Đà Nẵng thực hiện
khám và quản lý sức khỏe của gần 1500 đồng chí, trong đó 4 đối tượng theo
quy định của Ban Bảo vệ và chăm sóc sức khỏe cán bộ Trung ương là 774
người cùng với một số cán bộ mở rộng và diện mở rộng của thành ủy là ủy
viên Ban thường vụ các quận, huyện, tổng số lượt khám trong năm 2019 là
2262 lượt. Tổng số cận lâm sàng qua các đợt khám kiểm tra sức khỏe là 5122
trường hợp bao gồm: siêu âm, điện tim, xquang, xét nghiệm máu, qua đó
khám và phát hiện rất nhiều trường hợp bệnh lý đái tháo đường cũng như
bệnh lý khơng lây nhiễm ở nhóm cán bộ trung và cao cấp. Chính vì vậy chúng
tơi thực hiện đề tài: “Nghiên cứu đái tháo đường type 2 và một số yếu tố
liên quan ở cán bộ trung cao cấp đến kiểm tra sức khỏe tại khoa KhámQuản lý sức khỏe cán bộ bệnh viện Đà Nẵng năm 2020”. Với 2 mục tiêu:
1.

Mô tả đặc điểm bệnh nhân và một số yếu tố nguy cơ đái tháo đường type 2 ở

cán bộ trung cao cấp đến kiểm tra sức khỏe tại khoa Khám-Quản lý sức khỏe
cán bộ bệnh viện Đà Nẵng năm 2020.

2.

Xác định tỷ lệ đái tháo đường type 2 và một số yếu tố liên quan ở đối tượng
nghiên cứu.


6

Chương 1
TỔNG QUAN
1.1. SƠ LƯỢC VỀ BỆNH ĐÁI THÁO ĐƯỜNG
1.1.1. Định nghĩa đái tháo đường, tiền đái tháo đường
Từ những năm 1550 trước Công nguyên, mô tả đầu tiên giống với các
đặc điểm của bệnh đái tháo đường đã được tìm thấy trong giấy Ebers. Thuật
ngữ "Đái tháo"; lần đầu tiên được đặt ra bởi thầy thuốc Aretaeus của Hi Lạp.
Từ thế kỷ thứ 3 sau Công nguyên bệnh cũng được ghi nhận ở Ấn Độ, Trung
Quốc và Nhật Bản là một bệnh với tiểu ngọt và sau một thế kỷ Dobson chứng
minh vị ngọt là do đường [15], [27], [66].
Theo Hiệp Hội đái tháo đường Hoa Kỳ (ADA) năm 2006, định nghĩa:
Đái tháo đường (đái tháo đường) type 2 là bệnh chuyển hóa đặc trưng bởi
tăng đường huyết do sự phối hợp kháng insulin và thiếu đáp ứng insulin [50].
Hiện nay ĐTĐ được định nghĩa “là một rối loạn mạn tính, có những
thuộc tính sau: (1) tăng glucose máu, (2) kết hợp với những bất thường về
chuyển hoá carbohydrat, lipid và protein, (3) bệnh luôn gắn liền với xu hướng
phát triển các bệnh lý về thận, đáy mắt, thần kinh và các bệnh tim mạch do
hậu quả của xơ vữa động mạch” [3], [15], [5].
Tổ chức Y tế thế giới (TCYTTG) đã nêu khái niệm giảm dung nạp

glucose thay cho thuật ngữ “Đái tháo đường giới hạn”. Giảm dung nạp
glucose được TCYTTG và ADA xem là giai đoạn tự nhiên của rối loạn
chuyển hóa carbohydrate. Đến năm 1999, tình trạng rối loạn glucose máu lúc
đói là thuật ngữ mới được giới thiệu. Cả hai tình trạng này đều là tăng glucose
máu nhưng chưa đạt tiêu chuẩn chẩn đoán ĐTĐ. Năm 2008, tình trạng trên
được ADA có sự đồng thuận của TCYTTG đặt tên chính thức là tiền đái tháo
đường (Pre -diabetes).


7

Ngày nay thuật ngữ, “Tiền đái tháo đường” (TĐTĐ) được định nghĩa là
tình trạng suy giảm chuyển hóa glucose bao gồm hai tình huống là rối loạn
glucose lúc đói (Impaired Fasting Glucose - IFG) và giảm dung nạp glucose
(Glucose Tolerance - IGF) [15], [5], [52].
Theo IDF năm 2010, định nghĩa ĐTĐ: “Đái tháo đường là nhóm những
rối loạn khơng đồng nhất gồm tăng đường huyết và rối loạn dung nạp glucose
do thiếu insulin, do giảm tác dụng của insulin hoặc cả hai. ĐTĐ type 2 đặc
trưng bởi kháng insulin và thiếu tương đối insulin, một trong hai rối loạn này
có thể xuất hiện ở thời điểm có triệu chứng lâm sàng bệnh ĐTĐ [60].
1.1.2. Phân loại đái tháo đường
Phân loại có hệ thống đầu tiên được Nhóm nghiên cứu dữ liệu ĐTĐ
quốc gia của Mỹ xây dựng và công bố vào năm 1979, chính thức cơng nhận
ĐTĐ phụ thuộc insulin đồng nghĩa ĐTĐ type 1 và ĐTĐ không phụ thuộc
insulin đồng nghĩa ĐTĐ type 2 (ADA) [4].
Nhóm nghiên cứu ĐTĐ quốc gia Mỹ và TCYTTG phát triển tiêu chuẩn
chẩn đoán ĐTĐ bằng nghiệm pháp dung nạp glucose và được ADA cập nhật
vào năm 1997 và được duyệt lại vào năm 2003[66]. Các năm 1999, 2003,
2006, Ủy ban chuyên gia của ADA, Hội Đái tháo đường Châu Âu đã cập nhật
phân loại như sau:

- ĐTĐ type 1 là có phá hủy tế bào bêta và thiếu insulin tuyệt đối, được
chia làm hai thể theo nguyên nhân là do cơ chế tự miễn dịch (miễn dịch qua
trung gian tế bào) và (vô căn) do không tự miễn, không phụ thuộc kháng thể
kháng bạch cầu ở người (Human Leucocyst Antigen: HLA).
- ĐTĐ type 2 đặc trưng bởi kháng insulin, giảm tiết insulin, tăng sản
xuất glucose từ gan và bất thường chuyển hóa mỡ. Béo phì đặc biệt mỡ nội
tạng hoặc béo phì trung tâm là phổ biến nhất trong ĐTĐ type 2.


8

- ĐTĐ thai kỳ là ĐTĐ phát hiện lần đầu lúc mang thai và sau khi sinh
phần lớn glucose máu trở về bình thường, một số ít tiến triển thành ĐTĐ type
2. ĐTĐ thể LADA (Latent Autoimmune Diabetes in Adulthood) là ĐTĐ tự
miễn nhưng xảy ra ở người lớn.
- Các type đặc hiệu khác như ĐTĐ do thiếu hụt chức năng tế bào bê ta
di truyền (MODY:1,2,3,4,5,6), do thiếu hụt hoạt động insulin do di truyền, do
các bệnh tuyến tụy ngoại tiết, do các bệnh nội tiết như hội chứng đa nội tiết tự
miễn, Cushing, u tế bào tiết glucagon, u tủy thượng thận, cường giáp, u tế bào
tiết somatin, u vỏ thượng thận.
1.1.3. Cơ chế bệnh sinh
Nhiều chuyên gia hàng đầu về bệnh đái tháo đường trên thế giới đều
thống nhất cơ chế hình thành bệnh ĐTĐ type 2 là quá trình tác động qua lại
phức tạp của hai nhóm ngun nhân chính đó là các yếu tố mơi trường và yếu
tố gen.
KHÁNG INSULIN

Giảm khối tế bào bê ta

TẾ BÀO BÊ TA BỊ TỔN THƯƠNG


Nhiễm độc do glucose

GIẢM DUNG NẠP GLUCOSE

Amyloid đảo

ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TYPE 2

HỘI CHỨNG GIỐNG ĐTĐ TYPE 1
(PHỤ THUỘC INSULIN)
Hình 1.1. Cơ chế bệnh sinh


9

Dưới tác động của yếu tố môi trường như chế độ ăn nhiều lipid, đặc
biệt nhiều acid béo bão hòa, nhiều carbohydrat tinh chế, ít vận động thể lực
hoặc sự tăng lên của tuổi tác, béo phì sẽ làm xuất hiện hoặc làm tăng sự đề
kháng của các cơ quan đích (tế bào cơ, gan, tổ chức mỡ) đối với insulin ở
những đối tượng có những gen quyết định mắc bệnh ĐTĐ. Sự kháng insulin ở
các cơ quan đích ngày càng mạnh dẫn đến hiện tượng giảm sử dụng đường ở
cơ quan đích (giảm dung nạp glucose) và hậu quả của nó là tăng lượng đường
trong máu và rối loạn các chuyển hóa liên quan khác. Sự tăng đường máu liên
tục (trên 120mg/dl), tích lũy sợi fibrin giống amyloid trong tế bào bêta, tăng
acid béo tự do và giảm khối lượng tế bào bêta đảo tụy dẫn đến tổn thương và
giảm chức năng tế bào bêta. Khi cơ thể không cịn bù được tình trạng kháng
insulin hoặc khi chức năng của tế bào bê ta khơng cịn khả năng bù trừ thì
bệnh đái tháo đường xuất hiện. Như vậy, nếu tác động vào các yếu tố môi
trường như chế độ ăn, chế độ luyện tập, béo phì ở giai đoạn chưa hoặc mới

xuất hiện hiện tượng kháng insulin hoặc rối loạn dung nạp glucose thì hồn
tồn có thể ngăn chặn lại quá trình tiến triển thành bệnh ĐTĐ [4].
1.1.4. Giới thiệu một số tiêu chuẩn chẩn đoán đái tháo đường
Tiêu chuẩn chẩn đoán ĐTĐ của WHO năm 1999 về chẩn đốn bệnh
ĐTĐ có thể dựa vào mức đường trong máu mao mạch (toàn phần và huyết
tương), máu tĩnh mạch (toàn phần và huyết tương).


10

Bảng 1.1.Tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh đái tháo đường (TCYTTG - 1999)
Nồng độ đường máu (mmol/l)
Máu toàn phần

Xét nghiệm

Tĩnh
Mao
mạch
mạch
Đái tháo đường

Huyết tương
Tĩnh
mạch

Mao mạch

Khi đói (sau ăn 8h)


≥6,1

≥ 6,1

≥7,0

≥ 7,0

Hoặc giờ thứ 2 sau
OGTT*/ hoặc cả 2

≥10,0

≥ 11,1

≥ 11,1

≥ 12,2

Rối loạn dung nạp Glucoza (IGT)
Khi đói (nếu đo)
Giờ thứ 2 sau OGTT*

< 6,1

< 6,1

< 7,0

< 7,0


6,7 - 9,9

7,8-11,0

7,8 -11,0

8,9 - 12,1

Rối loạn đường máu khi đói (IFG)
Đường khi đói
(sau ăn 8 giờ)
Giờ thứ 2 sau OGTT*
(nếu đo)

5,6 - 6,0

5,6 - 6,0

6,1-6,9**

6,1 - 6,9 **

< 6,7

< 7,8

< 7,8

< 8,9


* OGTT (oral glucose tolerance test – test dung nạp glucose)
** Theo tiêu chuẩn mới do ADA đề xuất năm 2005, chẩn đoán “Rối
loạn đường huyết đói” (IFG) khi đường huyết lúc đói từ 5,6 – 6,9 mmol/L.
Năm 2004, ADA đã đề xuất hạ tiêu chuẩn chẩn đốn rối loạn glucose
máu lúc đói từ 6,1 mmol/l huyết tương tĩnh mạch xuống 5,6 mmol/l huyết
tương tĩnh mạch và đưa ra khái niệm “tiền đái tháo đường” pre - diabetes
được quy ước gồm giảm dung nạp glucose (IGT) và IFG. Năm 2008 ADA và
TCYTTG chính thức đặt tên là tiền đái tháo đường (pre – diabetes).
Bảng 1.2.Tiêu chuẩn chẩn đoán đái tháo đường theo ADA năm 2016 [52]


11

Chẩn đoán

Nồng độ glucose huyết tương tĩnh mạch
Glucose huyết tương lúc đói ≥ 7,0 mmol/l (126mg/dl)
và xét nghiệm lại vào một ngày khác tại cơ sở Y tế
hoặc:

Đái
tháo đường

Glucose huyết tương máu 2 giờ làm nghiệm pháp
tăng đường huyết ≥ 11,1mmol/l (200mg/dl)
hoặc:
HbA1c ≥ 6,5% ( 48mmol/l)
Hoặc:
Glucose huyết tương tĩnh mạch tại thời điểm

bất kỳ ≥11,1mmol/l (200mg/dl) và bệnh nhân có triệu
chứng
cấp tính của tăng glucose máu như ăn nhiều, uống nhiều,
sụt cân nhanh, tiểu nhiều hoặc cơn tăng glucose máu cấp
Glucose máu lúc đói: 5,6-6,9 mmol/l (100-125mg/dl)

Tiền
đái tháo
đường

Hoặc:
Glucose máu sau 2 giờ làm nghiệm pháp tăng
đường huyết từ 7,8 đến 11 mmol/l (140-199 mg/dl)
hoặc
HbA1c từ 5,7-6,4% (39 - 46mmol/l)

Bình thường

Glucose máu lúc đói <5,6 mmol/l

1.2. CÁC YẾU TỚ NGUY CƠ LIÊN QUAN
Các yếu tố liên quan đến ĐTĐ type 2, được mơ tả bằng sơ đồ dưới
(Hình 1.2), bao gồm các yếu tố: Liên quan đến béo phì, dấu ấn sinh học, ăn
uống, tâm lý xã hội, lối sống và tiền sử bệnh. Tuy nhiên, trong tổng quan và


12

cũng như nghiên cứu này chúng tôi chỉ lựa chọn một số yếu tố nguy cơ đặc
trưng để mô tả và nghiên cứu.


Hình 1.2. Các yếu tố nguy cơ của ĐTĐ type 2
1.2.1. Các yếu tố di truyền và tiền sử gia đình
Có vai trị quan trọng trong bệnh ĐTĐ type 2. Những người có bố, me
hoặc anh chị em ruột của mình bị ĐTĐ type 2 có nguy cơ phát triển bệnh lý
đái tháo đường gấp 2-3 lần so với những người khác Nguy cơ này sẽ cao lên
5 đến 6 lần nếu cả bố me đều mắc ĐTĐ type 2 [11], [12], [67, 79]. Khi bố
hoặc me mắc ĐTĐ thì tỷ lệ nguy cơ là 30%, khi cả bố và me đều mắc bệnh thì
người kia sẽ được xếp vào nhóm bị đe doạ thật sự đối với bệnh ĐTĐ [4], [11].
Người có tiền sử gia đình có người mắc bệnh ĐTĐ có nguy cơ mắc
ĐTĐ cao gấp 2,09 lần so với người khơng có tiền sử gia đình mắc bệnh ĐTĐ
với p < 0,01 [14], [48]. Nhóm đối tượng có tiền sử gia đình mắc bệnh ĐTĐ có
tỷ lệ mắc bệnh (46,8%) cao hơn nhóm khơng có tiền sử này (28,2%) [34].


13

Di truyền: ĐTĐ type 2 xảy ra trên anh em sinh đôi đồng hợp tử nhiều
hơn anh em sinh đôi dị hợp tử, điều này chứng tỏ yếu tố di truyền có vai trị
quan trọng trong việc quyết định tính nhạy cảm đối với bệnh ĐTĐ type 2.
Nhiều nghiên cứu trên các cặp sinh đôi đồng hợp tử người ta nhận thấy
tỷ lệ tương đồng cùng mắc ĐTĐ type 2 lên đến hơn 90%, ngay cả khi trọng
lượng cơ thể khác nhau. Tuy vậy không phải tất cả hai thành viên sinh đôi
đồng hợp tử đều mắc ĐTĐ type 2 nếu một người bị mắc ĐTĐ [72].
1.2.2. Các yếu tố nguy cơ liên quan nhân khẩu học (giới, tuổi, chủng tộc)
Theo sắc tộc: Tỷ lệ mắc bệnh và tuổi mắc bệnh ĐTĐ thay đổi theo sắc
tộc. Ở Tây Âu, tỷ lệ mắc bệnh ĐTĐ type 2 ở người da vàng cao hơn người
dân trắng từ 2 - 4 lần; tuổi mắc bệnh ở người da vàng trẻ hơn, thường trên 30
tuổi, người da trắng thường hơn 50 tuổi [4].
Dữ liệu từ Nghiên cứu sức khỏe y tá tương lai (NHS) ở Mỹ được thu

thập trong hơn 20 năm cho thấy nguy cơ phát triển bệnh đái tháo đường ở phụ
nữ và nguy cơ này tăng lên đối với người Mỹ gốc Á, Tây Ban Nha và Da đen
theo lần (nguy cơ tương đối [RR] 2,26, 1,86, và 1,34) so với người Mỹ da
trắng [74].
Sự khác biệt về tỷ lệ mắc bệnh đái tháo đường ở các nhóm dân tộc có
thể liên quan một phần đến các yếu tố nguy cơ có thể phịng ngừa. Ví dụ,
trong một phân tích hồi cứu của nghiên cứu thuần tập trên 4251 thanh niên da
đen và da trắng không mắc bệnh đái tháo đường ở thời điểm ban đầu (theo dõi
trung bình 30 năm), sự đa dạng về chủng tộc trong nguy cơ mắc bệnh đái tháo
đường chủ yếu liên quan đến các yếu tố nguy cơ sinh học (ví dụ: chỉ số khối
cơ thể (BMI), vòng eo, huyết áp) kèm các yếu tố như hàng xóm, tâm lý xã
hội, kinh tế xã hội và hành vi trong thời kỳ thanh niên [85].
Theo độ tuổi: Đây là yếu tố được xếp lên vị trí đầu tiên trong số các yếu
tố nguy cơ liên quan của người bệnh ĐTĐ type 2. Khi cơ thể già đi, đặc biệt


14

từ tuổi ≥ 45 chiếm đến 90 - 95% người bị ĐTĐ type 2, bệnh đang có xu
hướng xuất hiện ở những người trẻ tuổi, tuổi càng cao thì nguy cơ mắc bệnh
càng lớn. Người tuổi ≥ 45 có nguy cơ mắc ĐTĐ cao gấp 4,42 lần so với người
< 45 tuổi [48].
1.2.3. Các yếu tố nguy cơ liên quan hành vi, lối sống
- Luyện tập thể dục
Một lối sống ít vận động làm giảm tiêu hao năng lượng, thúc đẩy tăng
cân và làm tăng nguy cơ mắc bệnh đái tháo đường ĐTĐ type 2 [64]. Trong số
các hành vi ít vận động, việc xem tivi kéo dài liên tục có liên quan đến sự
phát triển của bệnh béo phì và bệnh đái tháo đường [57]. Ít hoạt động thể
chất, ngay cả khi không tăng cân, dường như làm tăng nguy cơ mắc bệnh đái
tháo đường loại 2. Hoạt động thể chất với cường độ vừa phải làm giảm tỷ lệ

các trường hợp mới mắc bệnh đái tháo đường loại 2, bất kể có hay khơng có
IGT [78].
Nhiều nghiên cứu cho thấy tầm quan trọng của việc không hoạt động
thể lực trong việc hình thành tiền ĐTĐ type 2, lối sống tĩnh tại đã kéo theo sự
gia tăng tương ứng tỷ lệ béo phì. Khơng hoạt động là ngun nhân chính của
bệnh tim mạch, bệnh mạch vành và tử vong, người khơng hoạt động thể lực
có khả năng dễ phát triển bệnh tim gấp đơi những người có nhiều hoạt động
[27], [54]. Vận động thể lực làm tăng nhạy cảm insulin và dung nạp glucose.
Tập thể dục làm giảm nguy cơ ĐTĐ type 2 ở cả người béo phì và khơng béo
phì. Tập thể dục ít nhất 7 giờ trong 1 một tuần làm giảm nguy cơ của ĐTĐ
type 2 đến 39% so với tập thể dục dưới 30 phút trong một tuần. Đối tượng có
TSGĐ, bằng việc tập luyện và có lối sống lành mạnh sẽ làm chậm lại, thậm
chí phịng ngừa được sự khởi phát của ĐTĐ lâm sàng [27], [81] .
- Chế độ ăn
Chế độ tiết thực với tiêu thụ nhiều rau, trái cây, cá, thịt gia cầm và ngũ
cốc nguyên cám, làm giảm nguy cơ ĐTĐ type 2. Số lượng lẫn chất lượng của


15

chất béo đều ảnh hưởng đến chuyển hóa glucose và sự nhạy cảm insulin.
Thức ăn có nhiều chất béo gây rối loạn chuyển hóa glucose bằng nhiều cơ chế
khác nhau như giảm khả năng gắn insulin vào thụ thể, gây rối loạn vận
chuyển glucose, giảm tổng hợp glycogen và tích tụ triglyceride ở cơ vân [27].
Một số nghiên cứu cho thấy ăn nhiều carbohydrate, đặc biệt cà
carbohydrate tinh chế làm tăng tần suất mắc ĐTĐ. Đặc biệt có rất nhiều
nghiên cứu chứng tỏ ăn nhiều carbohydrate làm giảm HDL và làm gia tăng
triacylglycerol. Chế độ ăn nhiều carbohydrate sẽ kích thích sự sản xuất insulin
liên tục, sẽ dẫn đến làm giảm khả năng tiết insulin, gây ra ĐTĐ type 2 khởi
phát sớm [27].

- Hút thuốc lá:
Các nghiên cứu thuần tập quy mô lớn đưa ra các kết quả cho thấy có
khả năng hút thuốc lá làm tăng nguy cơ mắc ĐTĐ type 2 [65]. Trong một
phân tích tổng hợp trên nghiên cứu thuần tập tiền cứu đưa ra bằng chứng cho
thấy người hút thuốc hiện tại có nguy cơ phát triển ĐTĐ type 2 khoảng 40% so
với những người không hút thuốc [82]. Nguy cơ ngày càng tăng tương quan với
số lượng thuốc lá hút mỗi ngày và tiền sử số gói tăng lên hàng năm. Trong một
nghiên cứu, nguy cơ cũng tăng lên đối với những người không hút thuốc nhưng
đã tiếp xúc với khói thuốc, so với những người khơng tiếp xúc [71].
- Rượu bia.
Tiêu thụ chất có cồn lớn dẫn đến làm giảm hấp thụ glucose qua trung
gian insulin và RLDNG, có lẽ do tác dụng độc của rượu trực tiếp lên tế bào
đảo tụy hay ức chế sự tiết insulin và tăng đề kháng insulin. Hơn nữa, dùng
nhiều chất có cồn làm tăng chỉ số khối cơ thể và nguy cơ khác của ĐTĐ trong
khi uống rượu ít hoặc vừa làm giảm các nguy cơ này [27].
Nhiều nghiên cứu cũng đã xác định rằng bệnh liên hệ đến uống nhiều
rượu và nghiện rượu là đột quỵ, bệnh cơ tim do rượu, nhiều loại ung thư, xơ


16

gan, và viêm tụy, tai nạn...Nghiên cứu ca bệnh đối chứng và sinh thái học
chứng tỏ giảm nguy cơ bệnh mạch vành bằng uống rượu mức độ thấp hoặc
vừa phải. Lượng rượu vừa phải có thể được xác định bằng hoặc không nhiều
hơn 1 cốc /ngày đối với phụ nữ và không nhiều hơn 2 cốc/ ngày đối với đàn
ông [51].
1.2.4. Các yếu tố chuyển hoá và các loại nguy cơ trung gian
- Thừa cân/béo phì, béo phì dạng nam:
Thừa cân (BMI ≥ 23 đối với người châu Á), béo phì dạng nam (vịng eo
≥ 90 cm đối với nam; vòng eo ≥ 80 cm đối với nữ, tỷ lệ WHR từ 0,85 trở lên).

Những người có vịng eo lớn có nguy cơ mắc ĐTĐ cao hơn những người có
vịng eo bình thường là 2,6 lần; tương ứng với việc có vịng eo lớn, những
người có chỉ số khối cơ thể BMI ≥ 23 có nguy cơ mắc ĐTĐ cao hơn những
người có chỉ số BMI < 23 là 2,01 lần [48].
Béo phì: Béo phì là một đặc điểm thường đi kèm trong ĐTĐ type 2 và
là một yếu tố nguy cơ của ĐTĐ type 2. Với sự cải thiện về tình trạng kinh tế,
một tỷ lệ ngày càng tăng của bệnh béo phì và hội chứng chuyển hóa được
nhìn thấy ở các nước phát triển vùng Nam Á [87]. Béo phì đã tăng nhanh ở
nhiều nhóm dân cư trong vài năm gần đây do hậu quả của sự tác động qua lại
giữa yếu tố di truyền và môi trường bao gồm: Rối loạn chuyển hóa, ít hoạt
động thể lực, ăn quá nhiều so với nhu cầu. Theo tác giả Trương Tuyết Mai và
cộng sự năm 2014, trên người trưởng thành độ tuổi 40 - 59 mắc thừa cân - béo
phì thì tỷ lệ RLĐLĐ là rất cao chiếm 64,4%, tăng huyết áp trung bình là
47,4%, tỷ lệ tăng triglyceride là 67,7% [29].
Theo nghiên cứu của Trần Đức Thọ và cộng sự tại Việt Nam, những
người có BMI > 25 có nguy cơ mắc ĐTĐ type 2 nhiều hơn gấp 3,74 lần so
với người bình thường. Chỉ số khối cơ thể BMI, nguy cơ mắc bệnh ĐTĐ được
xếp loại như sau: BMI < 18,5: khơng có nguy cơ; 18,5 < BMI < 22,9: nguy cơ


17

thấp; 23 < BMI < 24,9: có nguy cơ mức trung bình; 25 < BMI < 29,9 (béo độ 1):
nguy cơ cao; BMI ≥ 30 (béo phì độ 2): nguy cơ rất cao. Theo nghiên cứu của
Thái Hồng Quang, người béo phì độ 1 tỷ lệ mắc bệnh ĐTĐ tăng 4 lần, béo phì độ
2 tăng 30 lần so với người bình thường.
- Tăng huyết áp và bệnh tim mạch
Huyết áp 140/90 mmHg hoặc cao hơn. Tăng huyết áp (THA) là một
trong những yếu tố nguy cơ gây bệnh ĐTĐ type 2. Khoảng 2/3 người bệnh
ĐTĐ có THA. Cả hai bệnh ĐTĐ và THA đều làm tăng nguy cơ nhồi máu cơ

tim. Hội ĐTĐ và Viện Y tế Quốc gia Mỹ đề nghị người mắc ĐTĐ nên giữ
huyết áp dưới 130/80 mmHg và nên kiểm tra huyết áp ít nhất 2 đến 4 lần
trong một năm. THA có ĐTĐ gây biến chứng tim mạch nặng. Những người
THA có nguy cơ mắc ĐTĐ cao hơn những người không mắc gấp 3,45 lần [2].
Nguyên nhân thường gặp nhất gây tử vong hoặc các biến cố liên quan đến
ĐTĐ là bệnh tim mạch. Những người bệnh ĐTĐ type 2 có nguy cơ tử vong
do bệnh tim mạch cao gấp 2 - 4 lần so với người không bị bệnh [28].
- Rối loạn lipid máu: Sự gia tăng acid béo tự do huyết tương đóng vai
trị quan trọng trong sự phát triển ĐTĐ type 2 thông qua cơ chế gây đề kháng
insulin. ĐTĐ type 2 phát triển bởi vì tế bào tụy khơng tiết đủ insulin để bù
cho tình trạng kháng insulin càng ngày càng tiến triển. Có sự liên quan chặt
chẽ giữa rối loạn lipid máu và ĐTĐ type 2.
Phụ nữ có tiền sử đái tháo đường thai kỳ, hoặc tiền sử sinh con to ≥
4000 gam, Sự phát triển của thai nhi. Có mối liên quan giữa trọng lượng lúc
sinh và chuyển hóa glucose - insulin bất thường về sau.
Theo Quỹ Nhi đồng Liên hiệp quốc (UNICEF), trẻ mới sinh người
Châu Á có cân nặng dưới 2500 gam là có cân nặng lúc sinh thấp, trẻ có cân
nặng bình thường từ 2500 gam - < 4000 gam. Gần đây người ta quan tâm đến
mức độ ảnh hưởng đến nguy cơ mắc ĐTĐ của việc phát triển thai nhi trong tử


18

cung người me. Con của những người me bị ĐTĐ thường lớn và nặng cân khi
sinh, thường có khuynh hướng bị béo phì trong thời kỳ niên thiếu và nguy cơ
mắc ĐTĐ type 2 sớm [27], [58].
Người có rối loạn đường huyết lúc đói (RLĐHD) hoặc RLDNG. Đây là
nhóm người có glucose trong máu cao hơn trong giới hạn bình thường nhưng
chưa đủ tiêu chuẩn chẩn đoán ĐTĐ.
Bảng 1.3. Các yếu tố nguy cơ bị đái tháo đường type 2

(IDF-2007) [11], [61]
Yếu tố thay đởi được
- Thừa cân, béo phì
- Lối sống tĩnh tại, ít vận động
- Rối loạn đường huyết lúc đói,

Yếu tố khơng thay đởi được
- Dân tộc
- Tiền sử gia đình bị ĐTĐ type 2
- Tuổi

giảm dung nạp glucose
- Hội chứng chuyển hóa:

- Tiền sử ĐTĐ thai kỳ

+ THA
+ Giảm HDL-c
+ Tăng Triglycerid
- Yếu tố dinh dưỡng;
- Tình trạng viêm

- Hội chứng buồng trứng đa nang

1.3. TÌNH HÌNH ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TRÊN THẾ GIỚI VÀ VIỆT
NAM
1.3.1 Tình hình đái tháo đường trên thế giới
Bệnh đái tháo đường, chủ yếu là ĐTĐ type 2 đang trở thành đại dịch
của thế kỷ 21 với các đặc trưng: Sự gia tăng nhanh số lượng người mắc ĐTĐ
và sự xuất hiện bệnh ngày càng nhiều ở người trẻ tuổi; bệnh gây các biến

chứng nặng nề ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khoẻ, tuổi thọ và chất lượng
cuộc sống; chi phí điều trị bệnh rất tốn kém, là gánh nặng cho bản thân và gia
đình người bệnh, rào cản cho sự phát triển kinh tế và xã hội của mỗi quốc gia.
Tỷ lệ mắc Đái tháo đường


19

Hình 1.3. Xu hướng số người mắc đái tháo đường tồn cầu đến năm 2019
và ước tính cho những thập niên tới (triệu người)
Trong báo cáo xuất bản năm 2019, Liên đoàn đái tháo đường Quốc tế
(IDF) đã đưa ra xu hướng bệnh ĐTĐ toàn cầu cho thấy toàn cầu có 351,7
triệu người trong độ tuổi lao động (20–64 tuổi) mắc bệnh đái tháo đường
được chẩn đoán hoặc chưa được chẩn đoán. Con số này dự kiến sẽ tăng lên
417,3 triệu vào năm 2030 và lên 486,1 triệu vào năm 2045 (Hình 1.3) [84].
Sự gia tăng lớn nhất sẽ diễn ra ở các khu vực các nền kinh tế đang
chuyển từ trạng thái thu nhập thấp sang trung bình (Bảng 1.4).
Bảng 1.4. Tỷ lệ mắc ĐTĐ 2019 và xu hướng mắc trong những thập niên tới
ở các quốc gia có thu nhập khác nhau

Phân bố theo độ tuổi


20

Các ước tính về bệnh đái tháo đường cho năm 2019 cho thấy tỷ lệ mắc
bệnh đái tháo đường ngày càng gia tăng theo độ tuổi. Các xu hướng tương tự
được dự đoán trong các năm 2030 và 2045. Tỷ lệ mắc bệnh thấp nhất ở người
trưởng thành từ 20–24 tuổi (1,4% vào năm 2019). Tỷ lệ mắc bệnh đái tháo đường
ở người lớn từ 75-79 tuổi được ước tính là 19,9% vào năm 2019 và dự đoán sẽ

tăng lên lần lượt là 20,4% và 20,5% vào năm 2030 và 2045 (Hình 1.4) [84].

Hình 1.4. Tỷ lệ mắc ĐTĐ theo các nhóm tuổi ở năm 2019 và xu hướng mắc
ở 2030 và 2045
Cũng trong báo cáo này, cho thấy tỷ lệ mắc bệnh đái tháo đường ước
tính ở phụ nữ 20–79 tuổi thấp hơn so với nam giới không đáng kể (9,0% so
với 9,6%). Năm 2019, có khoảng 17,2 triệu nam giới nhiều hơn nữ giới sống
chung với bệnh đái tháo đường. Tỷ lệ mắc bệnh đái tháo đường dự kiến sẽ
tăng ở cả nam và nữ vào năm 2030 và 2045 [84].
Phân bố tỷ lệ ĐTĐ ở thành thị và nông thôn năm 2019: Nhiều người
mắc bệnh đái tháo đường sống ở thành thị (310,3 triệu) so với nông thôn
(152,6 triệu) - tỷ lệ mắc bệnh ở thành thị là 10,8% và ở nông thôn là 7,2%. Số
người mắc bệnh đái tháo đường ở khu vực thành thị dự kiến sẽ tăng lên 415,4
triệu người vào năm 2030 và lên 538,8 triệu người vào năm 2045, liên quan


21

đến q trình đơ thị hóa tồn cầu. Tỷ lệ này tương đương với tỷ lệ phổ biến là
11,9% vào năm 2030 và 12,5% vào năm 2045.
Tỷ lệ đái tháo đường chưa được chẩn đoán
Vào năm 2019, một trong hai bệnh nhân (50,1%), hoặc 231,9 triệu
trong số 463 triệu người trưởng thành sống chung với bệnh đái tháo đường,
(chủ yếu là bệnh đái tháo đường Type 2, từ 20–79 tuổi) không biết rằng họ
mắc bệnh. Phần lớn bệnh được phát hiện một cách tình cờ hoặc khi đã xuất
hiện biến chứng. Những ước tính này chỉ ra nhu cầu cấp thiết về việc phát
hiện kịp thời để cải thiện tầm sốt bệnh đái tháo đường trên tồn cầu. Phát
hiện sớm đái tháo đường là rất quan trọng; vì bệnh đái tháo đường kéo dài mà
khơng được chẩn đốn có thể có những tác động tiêu cực, chẳng hạn như
nguy cơ cao mắc các biến chứng liên quan đến bệnh đái tháo đường, tăng sử

dụng dịch vụ chăm sóc sức khỏe và các chi phí liên quan, ảnh hưởng nghiêm
trọng đến chất lượng cuộc sống [55]. Mặt khác, đái tháo đường phát hiện ở
giai đoạn sớm có thể kiểm sốt được bằng cách điều chỉnh chế độ ăn và vận
động thể lực hợp lý.
Tác động kinh tế
Mặc dù tác động của ĐTĐ type 2 được đặc trưng bởi tỷ lệ tử vong sớm
và chất lượng cuộc sống thấp hơn do các biến chứng liên quan đến bệnh đái
tháo đường, tuy nhiên bệnh đái tháo đường cịn có tác động kinh tế đáng kể
đối với các quốc gia, hệ thống y tế bởi các chăm sóc sức khỏe cần phải tự chi
trả từ tiền túi, đối với những người mắc bệnh đái tháo đường và gia đình của
họ [73].


22

Hình 1.5. Chi phí y tế (triệu đơ la - $) năm 2019 và ước
tính cho 2030 và 2045
Chi phí y tế do bệnh đái tháo đường gây ra - bất kể chi phí này do bệnh
nhân tự chi trả hay do tư nhân hoặc nhà nước chi trả hoặc chính phủ chi trả.
Mức tăng chi tiêu này là đáng kể, tăng từ 232 tỷ USD chi trên toàn thế giới
vào năm 2007, lên 727 tỷ USD vào năm 2017 cho những người từ 20–79 tuổi
(Hình 1.5). Năm 2019, IDF ước tính tổng chi phí y tế liên quan đến bệnh đái
tháo đường sẽ đạt 760 tỷ USD. Con số này tăng 4,5% so với ước tính năm
2017. Tác động kinh tế của bệnh đái tháo đường dự kiến sẽ tiếp tục gia tăng.
Dự báo chi tiêu sẽ đạt 825 tỷ USD vào năm 2030 và 845 tỷ USD vào năm
2045. Mức tăng tương ứng là 8,6% và 11,2%. Tuy nhiên những dự báo này
mang tính tham khảo bởi các giả định rằng chi tiêu trung bình cho mỗi người
và tỷ lệ mắc bệnh đái tháo đường không đổi, trong khi chỉ tính đến những
thay đổi về nhân khẩu học.
1.3.2.


Tình hình đái tháo đường tại Việt Nam
Theo Nguyễn Huy Cường, năm 1999 - 2001, điều tra 3.555 người ≥ 15
tuổi với xét nghiệm glucose mao mạch lúc 17 giờ có trị số trên 105 mg/dl rồi
tiếp tục làm nghiệm pháp dung nạp glucose ghi nhận tỷ lệ mắc bệnh ĐTĐ


23

chung ở Nội và Ngoại thành Hà Nội là 2,42%. Trong đó 64% mới phát hiện,
tỷ lệ Nội thành là 4,31% và ngoại thành là 0,61% và GDNG ở nội thành là
3,27% và ngoại thành là 1,56%.
Theo tác giả Nguyễn Hứa Quang, Nguyễn Hải Thủy (2004 - 2005) nghiên
cứu trên 101 đối tượng ≥ 40 tuổi là con của bệnh nhân ĐTĐ type 2. Các đối
tượng được tiến hành làm nghiệm pháp dung nạp glucose ghi nhận tỷ lệ tăng
glucose máu là 36,63%, trong đó ĐTĐ là 18,81% và GDNG là 17,82%. Tỷ lệ
này cao hơn trong các nghiên cứu trong cộng đồng cùng độ tuổi.
Theo điều tra ĐTĐ toàn quốc năm 2008, tỷ lệ mắc ĐTĐ tăng gần gấp đôi
năm 2002 (5,0% so với 2,7%) và tỷ lệ này tăng nhanh ở các thành phố lớn (4,0%
năm 2000 so với 7,2% năm 2008). Theo Trần Minh Long (2010) tại Nghệ An, tỷ
lệ ĐTĐ type 2 ở người từ 30 - 69 tuổi là 9,37% và tỷ lệ TĐTĐ là 17,97%.
Theo tác giả Cao Mỹ Phượng tại Trà Vinh năm 2012, tỷ lệ bệnh ĐTĐ
tương đương ở người trên 45 tuổi là 9,5% và TĐTĐ có tỷ lệ cao hơn 19,3%;
Các yếu tố nhân chủng học và TSGĐ có liên quan là tuổi, giới, dân tộc, có
TSGĐ mắc bệnh ĐTĐ. Tuổi càng cao tỷ lệ mắc bệnh càng tăng (45 - 59 tuổi:
25,2%, 60 - 74 tuổi: 33,5%, ≥ 75 tuổi: 33,6%). Giới nữ có tỷ lệ mắc bệnh cao
hơn nam (31,2% so với 25,2%). Dân tộc Kinh có tỷ lệ mắc bệnh cao hơn
người Khmer (31,3% so với 23,8%).
Dự báo tỷ lệ đái tháo đường trong 10 năm tới ở người từ 45 tuổi trở lên
cho quần thể nghiên cứu là 13,9%. Chỉ số khối cơ thể, vòng bụng, tiền sử tăng

huyết áp là ba yếu tố liên quan trong thang điểm FINDRISC; huyết áp tâm
trương, tỷ lệ mỡ cơ thể, mức mỡ nội tạng là ba yếu tố ngoài thang điểm
FINDRISC liên quan đến sự tiến triển TĐTĐ thành ĐTĐ type 2 [34].
Theo tác giả Ngô Thanh Nguyên và cộng sự (2012), ở người từ 30 tuổi
trở lên tại thành phố Biên Hòa năm 2011, tỷ lệ mắc ĐTĐ người 30 trở lên là
8,1%, trong đó nữ chiếm 51,9% và nam là 48,1%.


24

Theo Nguyễn Quốc Viêt, Nguyễn Vinh Quang năm 2012, điều tra dịch
tễ học ĐTĐ toàn quốc tại các vùng Miền núi phía Bắc, Đồng bằng sơng
Hồng, Dun hải Miền Trung, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ, Tây Nam Bộ lần
lượt là: 4,82%, 5,81%, 6,37%, 3,82%, 5,95%, 7,18 % và toàn quốc là 5,42%
(95% CI: 4,88% - 6,02%). Tỷ lệ mắc RLDNG máu tại các vùng Miền núi phía
Bắc, Đồng bằng sơng Hồng, Duyên hải Miền Trung, Tây Nguyên, Đông Nam
Bộ, Tây Nam Bộ lần lượt là: 10,7%, 11,25%, 13,06%, 10,7%, 17,53%,
13,58% và toàn quốc là 13,68%, những người trên 45 tuổi có nguy cơ mắc
ĐTĐ cao hơn 4,42 lần so với người dưới độ tuổi; những người THA có nguy
cơ mắc ĐTĐ cao hơn những người không mắc THA là 3,45 lần; người có
vịng eo lớn có nguy cơ mắc ĐTĐ cao hơn những người có vịng eo bình
thường là 2,60 lần; những người có huyết áp tăng có nguy cơ mắc ĐTĐ cao
hơn những người không mắc là 3,45 lần; tương ứng với việc có vịng eo lớn,
những người có chỉ số khối cơ thể BMI ≥ 23 có nguy cơ mắc ĐTĐ cao hơn
2,01 lần so với nhóm BMI < 23; những người trong gia đình có thân nhân
mắc ĐTĐ thì có nguy cơ mắc cao hơn nhóm cịn lại 2,09 lần [48].
Theo Lê Đình Quang và cộng sự tại Huế (2011), nghiên cứu bệnh
chứng tỷ lệ 1:1 về các yếu tố gen thì tỷ lệ phân bố TĐTĐ và TSGĐ mắc ĐTĐ
có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa nhóm bệnh và nhóm chứng với OR
=3,02; về yếu tố nhân chủng học thì tỷ lệ mắc TĐTĐ và độ tuổi > 45 rất cao

giữa nhóm bệnh và nhóm chứng với OR =1,93; về yếu tố hành vi lối sống thì
BMI < 23 nhóm chứng 69% nhóm bệnh 55,9%, BMI ≥ 23 nhóm bệnh rất cao
chiếm 44,1% nhóm chứng 31,2 % có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa 2
nhóm nghiên cứu p<0,05, OR=1,73; tỷ lệ THA giữa nhóm bệnh và nhóm
chứng có liên quan chặt chẽ với tiền ĐTĐ (p<0,05, OR = 3,02). Nhóm đối
tượng bị THA có tỷ lệ mắc tiền ĐTĐ cao hơn hẳn so với nhóm chứng khơng
bị tăng huyết áp. Như vậy THA thực sự là yếu tố nguy cơ gây ra ĐTĐ; không


25

có sự khác biệt giữa thói quen uống rượu bia và hút thuốc giữa nhóm bệnh và
nhóm chứng với ĐTĐ [36].
Theo Nguyễn Văn Lành năm (2013), ở người Khmer trên 45 tuổi tỉnh
Hậu Giang tỷ lệ ĐTĐ là 11,91%, TĐTĐ là 17,91%. Trong đó 78,6% người
bệnh mới phát hiện lần đầu; sau khi phân tích hồi quy đa biến để loại bớt yếu
tố nhiễu thì tìm ra được một số YTNC như có mối liên quan giữa tình trạng
mắc bệnh ĐTĐ và vòng bụng; mức mỡ nội tạng; chỉ số WHR; chỉ số BMI ≥
23; huyết áp cao; chế độ ăn nhiều đường; ăn sau 20 giờ đêm; hoạt động thể
lực thường xuyên; uống rượu bia và thuốc lá so với bình thường lần lượt là
0,6:3,4:1,4:2,3:1,7:2,0:0,6:1,7:2 với p < 0,05; KTC 95% CI. Sau khi phân tích
ĐTĐ type 2 trong 10 năm tới ở người Khmer bình thường trên 45 tuổi kết quả
người dân ở nhóm xếp loại thấp nhe có tỷ lệ cao nhất 55,3% và ước tính tỷ lệ
mắc ĐTĐ type 2 trong 10 năm sẽ tăng thêm là 8,26% năm 2021. Dự báo đối
với người TĐTĐ thì tỷ lệ ĐTĐ type 2 trong 10 năm tới tỷ lệ đối tượng ở
nhóm xếp loại nguy cơ cao tỷ lệ 16,8%. Ước tính tỷ lệ mắc ĐTĐ type 2 trong
10 năm tới ở người Khmer bị mắc TĐTĐ là 13,39% [27].
Theo tác giả Lê Quang Toàn và cộng sự tại tỉnh Quảng Ngãi năm 2011,
tỷ lệ mắc ĐTĐ của toàn tỉnh là 5,5%, nam 5,9% và nữ 5,1%, tỷ lệ mắc tiền
ĐTĐ là 21,4%. Tỷ lệ mắc ĐTĐ chưa được chẩn đoán 65,2% [40].

Kết quả nghiên cứu của tác giả Hoàng Thị Thùy Nhi khảo sát trên 463
người từ 45-63 tuổi tại huyện miền núi Đăk KRông, Quảng Trị cho thấy tỷ lệ
mắc ĐTĐ Type 2 là 8,4%. Các yếu tố liên quan đến tỷ lệ ĐTĐ được xác định
như hút thuốc lá, uống rượu bia, ít rèn luyện thể dục và chế độ ăn mặn [32].
Báo cáo mới nhất của IDF 2019, cho thấy tỷ lệ mắc đái tháo đường tại
Việt Nam trong nhóm tuổi 20-79 tuổi là 6,0% với tổng số người mắc là gần
3,8 triệu người vào năm 2019 và xu hướng mắc tiếp tục tăng trong những thập


×