Tải bản đầy đủ (.doc) (67 trang)

nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại ngân hàng xuất nhập khẩu việt nam – chi nhánh láng hạ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (327.82 KB, 67 trang )

GVHD: Phan Hữu Nghị
LỜI NÓI ĐẦU
Ngân Hàng Thương Mại (NHTM) là tổ chức kinh doanh trong lĩnh vực
tiền tệ tín dụng. Nó cũng như các tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh
khác, luôn có mục tiêu hàng đầu là lợi nhuận.Có thể nói rằng lợi nhuận là
yếu tố cụ thể nhất nói lên kết quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng, nó
là hiệu số giữa tổng thu nhập và tổng chi phí. Để gia tăng lợi nhuận, ngân
hàng cần quản lý tốt các khoản mục tài sản có nhất là các khoản mục cho
vay và đầu tư,
đa dạng hoá các sản phẩm dịch vụ ngân hàng, tiết kiệm chi
phí. Khi lợi nhuận tăng,
ngân hàng có điều kiện trích dự phòng rủi ro, mở
rộng tín dụng, bổ sung nguồn vốn tự có.
Vấn đề nổi bật trong hoạt động Ngân hàng là công tác huy động vốn
và sử dụng vốn. Mục tiêu đặt ra là làm sao cho công tác sử dụng vốn đạt
hiệu quả cao nhất.
Và trong bài viết này, em sẽ đề cập đến vấn đề huy động vốn và sử
dụng vốn tại Ngân hàng Xuất Nhập Khẩu Việt Nam – Chi nhánh Láng
Hạ. Với mục tiêu đặt ra là gắn liền lý luận khoa học với hoạt động thực
tiễn, trong thời gian thực tập tại Ngân hàng Xuất Nhập Khẩu Việt Nam –
Chi nhánh Láng Hạ, em đã nhận thấy được tầm quan trọng của việc sử
dụng vốn đối với sự tồn tại của Ngân hàng. Di đó em đã chọn đề tài “
Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Ngân hàng Xuất Nhập Khẩu VIệt
Nam – Chi nhánh Láng Hạ” để làm chuyên đề tốt nghiệp.
Chuyên đề gồm 3 chương :
CHƯƠNG I. LÝ THUYẾT CHUNG VỀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG
VỐN CỦA NHTM.
CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG VỀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN TẠI
NGÂN HÀNG XUẤT NHẬP KHẨU VIỆT NAM (EXIMBANK) – CHI
NHÁNH LÁNG HẠ.
CHƯƠNG III. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG


VỐN TẠI NGÂN HÀNG XUẤT NHẬP KHẨU VIỆT
NAM(EXIMBANK) – LÁNG HẠ.
Do thời gian tìm hiểu và khả năng còn hạn chế nên bài viết của em
còn nhiều thiếu sót.Em rất mong nhận được sự nhận xét góp ý của các
thầy cô để chuyên đề của em được hoàn thiện.
SVTH:PHẠM ĐÌNH CHUNG
1
GVHD: Phan Hữu Nghị
CHƯƠNG I. LÝ THUYẾT CHUNG VỀ HIỆU QUẢ SỬ
DỤNG VỐN CỦA NHTM.
I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ NHTM.
1. Khái niệm chung về Ngân hàng thương mại.
Ngân hàng là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền
kinh tế.Ngân hàng bao gồm nhiều loại tuỳ thuộc vào sự phát triển của nền
kinh tế nói chung và hệ thống tài chính nói riêng, trong đó Ngân hàng
thương mại thường chiếm tỷ trọng lớn nhất về quy mô tài sản, thị phần và
số lương các Ngân hàng.
Bản chất của Ngân hàng thương mại là một trung gian tài chính, là
một cơ quan nhận một bộ phận tiền nhàn rỗi trong xã hội đến tay những
người có nhu cầu chi tiêu cho đầu tư phát triển. Trong quá trình đó, Ngân
hàng thương mại tạo ra cho mình những công cụ tài chính thay thế tiền
làm phương tiện thanh toán trong đó công cụ quan trọng nhất là tiền gửi
không kỳ hạn, tiền gửi có thể phát séc. Nhờ các công cụ này mà đại bộ
phận tiền giao dịch trong nền kinh tế chu chuyển thông qua Ngân hàng,
gắn các nhu cầu về lưu thông tiền tệ, thanh toán trong nước và quốc tế lại
với nhau.
Ngân hàng thương mại là một doanh nghiệp đặc biệt kinh doanh trên
lĩnh vực tiền tệ, là doanh nghiệp thường xuyên tiến hành các nghiệp vụ
huy động vốn và làm công tác tín dụng , cung cấp các phương tiện thanh
toán, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và các nghiệp vụ tài chính khác.

Bên cạnh các Ngân hàng thương mại, trong nền kinh tế cũng còn tồn
tại các trung gian tài chính khác, đó là các tổ chức phi Ngân hàngl như
công ty Bảo Hiểm… làm nhiệm vụ nhận tiền gửi của khách hang. Nhưng
SVTH:PHẠM ĐÌNH CHUNG
2
GVHD: Phan Hữu Nghị
điểm khác biệt của Ngân hàngl thương mại và các trung gian tài chính là
sự chuyên môn hoá của các tổ chức tài chính. Nó chỉ thực hiện một trong
hai vai trò là nhận tiền gửi không cho vay hoặc là chuyên cấp phát.
Tóm lại, Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ hoạt
động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hang với trách
nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện chiết khấu làm
phương tiện thanh toán.
2. Chức năng của Ngân hàng thương mại.
2.1. Trung gian tài chính.
Ngân hàng là một tổ chức trung gian tài chính với hoạt động chủ yếu
là chuyển tiết kiệm thành đầu tư, đòi hỏi sự tiếp xúc với hai loại cá nhân
và tổ chức trong nền kinh tế: (1) các cá nhân và tổ chức tạm thời thâm hụt
chi tiêu , tức là chi tiêu cho tiêu dùng và đầu tư vượt quá thu nhập và vì
thế họ là những người cần bổ xung vốn; và (2) các cá nhân và tổ chức
thặng dư trong chi tiêu, tức là thu nhập hiện tại của họ lớn hơn các khoản
chi tiêu cho hàng hoá, dịch vụ và do vậy họ có tiền để tiết kiệm.
Sự tồn tại hai loại cá nhân và tổ chức trên hoàn toàn độc lập với Ngân
hàng. Điều tất yếu là tiền sẽ chuyển từ nhóm thứ (2) sang nhóm thứ (1)
nếu cả hai cùng có lợi. Như vậy thu nhập gia tăng là động lực tạo ra mối
quan hệ tài chính giữa hai nhóm. Nếu dòng tiền di chuyển với điều kiện
phải quay trở lại với một lượng lớn hơn trong một khoảng thời gian nhất
định thì đó là quan hệ tín dụng. Nếu không thì đó là quan hệ cấp phát hoặc
hùn vốn. Lấy quan hệ tín dụng làm ví dụ. Người có tiền tiết kiệm đòi 1%
chi phí giao dịch, 2% phòng rủi ro và 3% là thu nhập ròng từ số tiền tiết

kiệm mà anh ta đang phải tạm thời từ bỏ quyền sử dụng. Tổng cộng anh ta
đòi 6% trên số tiền cho vay. Người vay phải chi 1% chi phí giao dịch, 6%
SVTH:PHẠM ĐÌNH CHUNG
3
GVHD: Phan Hữu Nghị
trả cho người có tiền, tổng cộng phí tổn tín dụng là 7%. Nếu sử dụng tiền
vay có thể tạo ra cho anh ta một tỷ suất thu nhập lớn hơn 7% ( giả sử
10%) thì quan hệ tín dụng sẽ được thiết lập. Quan hệ tín dụng trực tiếp
(quan hệ tài chính trực tiếp) đã có từ rất lâu và tồn tại cho đến ngày hôm
nay.
Tuy nhiên, quan hệ trực tiếp bị nhiều giới hạn do sự không phù hợp về
quy mô, thời gian, không gian… Điều này cản trở quan hệ trực tiếp phát
triển và là điều kiện nảy sinh trung gian tài chính. Do chuyên môn hoá,
trung gian tài chính có thể làm giảm chi phí giao dịch. Ví dụ, từ 2% xuống
còn 1% ở ví dụ trên, chi phí rủi ro từ 2% xuống 1%. Trung gian có thể trả
cho người tiết kiệm 3,5% với cam kết không có rủi ro lớn (lớn hơn 3% thu
nhập trước đó), và đòi hỏi người sử dụng 6,5% ( nhỏ hơn 7% trước đó).
Chênh lệch 6,5% - 3,5% =3% chính là thu nhập của trung gian. Như vậy
trung gian tài chính đã làm tăng thu nhập cho người tiết kiệm, từ đó mà
khuyến khích tiết kiệm, đồng thời giảm phỉ tổn tín dụng cho người đầu tư
( tăng thu nhập cho người đầu tư) từ đó mà khuyến khích đầu tư. Trung
gian tài chính đã tập hợp các người tiết kiệm và đầu tư, vì vậy mà giả
quyết được mâu thuẫn của tín dụng trực tiếp. Cơ chế hoạt động của trung
gian sẽ có hiệu quả khi nó gánh chịu rủi ro và sử dụng các kỹ thuật nghiệp
vụ để hạn chế, phân tán rủi ro và giảm chi phí giao dịch.
Hầu hết các lý thuyết hiện đại đều giải thích sự tồn tại của Ngân hàng
bằng cách chỉ ra sự không hoàn hảo trong hệ thống tài chính. Chẳng hạn,
các khoản tín dụng và chứng khoán không thể chia thành những khoản
nhỏ mà mọi người đều có thể mua. Ngân hàng cung cấp một dịch vụ có
giá trị trong việc chia chứng khoán đó thành các chứng khoán nhỏ ( dưới

dạng tiền gửi) phục vụ cho hàng triệu người.
SVTH:PHẠM ĐÌNH CHUNG
4
GVHD: Phan Hữu Nghị
Một đóng góp khác của Ngân hàng là họ sẵn sàng chấp nhận các
khoản cho vay nhiều rủi ro trong khi lại phát hành các chứng khoán ít rủi
ro cho người gửi tiền. Thực tế các Ngân hàng tham gia vào kinh doanh rủi
ro. Ngân hàng cũng thoả mãn nhu cầu thanh khoản của nhiều khách hàng.
Một lý do nữa, làm cho Ngân hàng phát triển và thịnh vượng là khả
năng thẩm định thông tin. Sự phân bổ không đồng đều thông tin và năng
lực phân tích thông tin được gọi là tình trạng “ thông tin không cân xứng”
làm giảm tính hiệu quả của thị trường nhưng tạo ra một khả năng sinh lợi
cho Ngân hàng, nơi có chuyên môn và kinh nghiệm đánh giá các công cụ
tài chính và có khả năng lựa chọn những công cụ với các yếu tố rủi ro -
lợi nhuận hấp dẫn nhất.
2.2. Tạo phương tiện thanh toán.
Tiền – vàng có một chức năng quan trọng là làm phương tiện thanh
toán. Các Ngân hàng đã không tạo được tiền kim loại.Các Ngân hàng thợ
vàng tạo phương tiện thanh toán khi phát hành giấy nhận nợ với khách
hàng. Giấy nhận nợ do Ngân hàng phát hành với ưu điểm nhất định đã trở
thành phương tiện thanh toán rộng rãi được nhiều người chấp nhận. Như
vậy, ban đầu các Ngân hàng đã tạo ra phương tiện thanh toán thay cho
tiền kim loại dựa trên số lượng tiền kim loại đang nắm giữ. Với nhiều ưu
thế, dần dần giấy nợ của Ngân hàng đã thay thế tiền kim loại làm phương
tiện lưu thông và phương tiện cất trữ; nó trở thành tiền giấy.
Việc in tiền mang lại lợi nhuận rất lớn, đồng thời với nhu cầu có đồng
tiền quốc gia duy nhất đã dẫn đến việc Nhà nước tập trung quyền lực phát
hành tiền giấy vào một tổ chức hoặc là Bộ Tài chính hoặc là Ngân hàng
Trung Ương. Từ đó chấm dứt việc các Ngân hàng Thương mại tạo ra các
giấy bạc của riêng mình.

SVTH:PHẠM ĐÌNH CHUNG
5
GVHD: Phan Hữu Nghị
Trong điều kiện phát triển thanh toán qua Ngân hàng, các khách hàng
nhận thấy nếu họ có được số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán, họ có
thể chi trả để có được hàng hoá và dịch vụ theo yêu cầu. Theo quan điểm
hiện đại, đại lượng tiền tệ bao gồm nhiều bộ phận. Thứ nhất là tiền giấy
trong lưu thông (Mo), thứ hai là số dư trên tài khoản tiền gửi giao dịch
của khách hàng tại các Ngân hàng, thứ ba là tiền gửi trên các tài khoản
tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi có kỳ hạn…
Khi Ngân hàng cho vay, số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của
khách hàng tăng lên, khách hàng có thể dùng để mua hàng và dịch vụ. Do
đó , bằng việc cho vay các Ngân hàng đã tạo ra phương tiện thanh
toán( tham gia tạo ra M1).
Toàn bộ hệ thống Ngân hàng cũng tạo phương tiện thanh toán khi các
khoản tiền gửi được mở rộng từ Ngân hàng này đến Ngân hàng khác trên
cơ sở cho vay. Khi khách hàng tại một Ngân hàng sử dụng khoản tiền vay
để chi trả thì sẽ tạo nên khoản thu (tức làm tăng số dư tiền gửi) của một
khách hàng khác tại một Ngân hàng khác từ đó tạo ra các khoản cho vay
mới. Trong khi không một Ngân hàng riêng lẻ nào có thể cho vay lớn hơn
dự trữ dư thừa, toàn bộ hệ thống Ngân hàng có thể tạo ra khối lượng tiền
gửi ( tạo phương tiện thanh toán) gấp bội thông qua hoạt động cho vay
( tạo tín dụng)
Các nhà nghiên cứu đã chỉ ra lượng tiền gửi mà hệ thống Ngân hàng
tạo ra chịu tác động trực tiếp của các nhân tố như tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tỷ
lệ dự trữ vượt bắt buộc, tỷ lệ thanh toán bằng tiền mặt qua Ngân hàng, tỷ
lệ tiền gửi không phải là tiền gửi thanh toán…
2.3. Trung gian thanh toán.
Ngân hàng trở thành trung gian thanh toán lớn nhất hiện nay ở hầu hết
các quốc gia. Thay mặt khách hàng, Ngân hàng thực hiện thanh toán giá

SVTH:PHẠM ĐÌNH CHUNG
6
GVHD: Phan Hữu Nghị
trị hàng hoá và dịch vụ. Để thanh toán nhanh chóng, thuận tiện và tiết
kiệm chi phí, Ngân hàng đưa ra cho khách hàng nhiều hình thức như
thanh toán bằng séc, uỷ nhiệm chi, nhờ thu, các loại thẻ… cung cấp mạng
lưới thanh toán điện tử, kết nối các quỹ và cung cấp tiền gửi khi khách
hàng cần. Các Ngân hàng còn thực hiện thanh toán bù trừ với nhau thông
qua Ngân hàng Trung ương hoặc thông qua các trung tâm thanh toán.
Công nghệ thanh toán qua Ngân hàng càng đạt hiệu quả cao khi quy mô
sử dụng công nghệ đó càng được mở rộng. Vì vậy, công nghệ thanh toán
hiện đại qua Ngân hàng thường được các nhà quản lý tìm cách áp dụng
rộng rãi. Nhiều hình thức thanh toán được chuẩn hoá góp phần tạo tính
thống nhất trong thanh toán không chỉ giữa các Ngân hàng trong một
quốc gia mà còn giữa các Ngân hàng trên toàn thế giới. Các trung tâm
thanh toán quốc tế được thiết lập đã làm tăng hiệu quả của thanh toán qua
Ngân hàng, biến Ngân hàng trở thành trung tâm thanh toán quan trọng và
có hiệu quả, phục vụ đắc lực cho nền kinh tế toàn cầu.
3. Các hoạt động của Ngân hàng Thương mại.
3.1. Mua bán ngoại tệ.
Một trong những dịch vụ Ngân hàng đầu tiên được thực hiện là trao
đổi (mua bán) ngoại tệ - một Ngân hàng đứng ra mua bán một loại tiền
này lẫy một loại tiền khác và hưởng phí dịch vụ. Trong thị trường tài
chính hịên nay, mua bán ngoại tệ chỉ do các Ngân hàng lớn nhất thực hiện
bởi vì những giao dịch như vậy có mức độ rủi ro cao, đồng thời yêu cầu
phải có trình độ chuyên môn cao.
3.2. Nhận tiền gửi.
Cho vay được coi là hoạt động sinh lời cao, do đó các Ngân hàng đã
tìm mọi cách để huy động được tiền. Một trong những nguồn quan trọng
là các khoản tiền gửi( thanh toán, tiết kiệm của khách hàng). Ngân hàng

SVTH:PHẠM ĐÌNH CHUNG
7
GVHD: Phan Hữu Nghị
mở dịch vụ nhận tiền gửi để bảo quản hộ người có tiền với cam kết hoàn
trả đúng hạn. Trong cuộc cạnh tranh để tìm và dành được các khoản tiền
gửi, các Ngân hàng đã trả lãi cho tiền gửi như là phần thưởng cho khách
hàng về việc sẵn sàng hi sinh nhu cầu tiêu dùng trước mắt và cho phép
Ngân hàng sử dụng tạm thời để kinh doanh.
3.3. Cho vay.
3.3.1. Cho vay thương mại
Ngay ở thời kỳ đầu, các Ngân hàng đã chiết khấu thương phiếu mà
thực tế là cho vay đối với những người bán ( người bán chuyển các khoản
phải thu cho Ngân hàng để lấy tiền trước). Sau đó là bước chuyển tiếp từ
chiết khấu thương phiếu sang cho vay trực tiếp đối với các khách hàng ( là
người mua), giúp họ có vốn để mua hàng dự trữ nhằm mở rộng sản xuất
kinh doanh.
3.3.2. Cho vay tiêu dùng.
Trong giai đoạn đầu hầu hết các Ngân hàng không tích cực cho vay
đối với các cá nhân và hộ gia đình bởi vì họ tin rằng các khoản cho vay
tiêu dùng rủi ro vỡ nợ tương đối cao. Sự gia tăng thu nhập của người tiêu
dùng và sự cạnh tranh trong cho vay buộc các Ngân hàng phải hướng tới
người tiêu dùng như là một khách hàng tiềm năng. Sau chiến tranh thế
giới lần thứ hai, tín dụng tiêu dùng đã trở thành một trong những loại hình
tín dụng tăng trưởng nhanh nhất ở các nước có nền kinh tế phát triển.
3.3.3. Tài trợ dự án.
Bên cạnh cho vay truyền thống là cho vay ngắn hạn, các Ngân hàng
ngày càng trở nên năng động trong việc tài trợ cho xây dựng nhà máy mới
đặc biệt là trong nghành công nghệ cao. Do rủi ro trong loại hình tín dụng
này nói chung là cao song lãi lại lớn. Một số Ngân hàng còn cho vay để
đầu tư vào đất.

SVTH:PHẠM ĐÌNH CHUNG
8
GVHD: Phan Hữu Nghị
3.4. Bảo quản vật có giá.
Các Ngân hàng thực hiện và các vật có giá khác cho khách hàng trong
kho bảo quản. Ngân hàng giữ hàng và giao cho khách hàng tờ biên nhận
(giấy chứng nhận do Ngân hàng phát hành). Do khả năng chi trả bất cứ
lúc nào cho giấy chứng nhận, nên giấy chứng nhận đã được sử dụng như
tiền – dùng để thanh toán các khoản nợ trong phạm vi ảnh hưởng của
Ngân hàng phát hành. Lợi ích của việc sử dụng phương tiện thanh toán
bằng giấy thay cho bằng kim loại đã khuyến khích khách hàng gửi tiền
vào Ngân hàng để đổi lấy giấy chứng nhận của Ngân hàng. Đó là hình
thức đầu tiên của giấy bạc Ngân hàng. Ngày nay. vật có giá được tách
khỏi tiền gửi và khách hàng phải trả phí bảo quản.
3.5. Cung cấp các tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán.
Khi các doanh nhân gửi tiền vào Ngân hàng, họ nhận thấy Ngân hàng
không chỉ bảo quản mà còn thực hiện các lệnh chi trả cho khách hàng của
họ. Thanh toán qua Ngân hàng đã mở đầu cho thanh toán không dùng tiền
mặt, tức là người gửi tiền không cần đến Ngân hàng để lấy tiền mà chỉ cần
viết giấy chi trả cho khách ( còn được gọi là sec), khách hàng mang giấy
đến Ngân hàng sẽ nhận được tiền. Các tiện ích của thanh toán không dùng
tiền mặt ( an toàn, nhanh chóng, chính xác, tiết kiệm chi phí) đã góp phần
rút ngắn thời gian kinh doanh và nâng cao thu nhập cho các doanh nhân.
Khi Ngân hàng mở chi nhánh, thanh toán qua Ngân hàng được mở rộng
phạm vi, càng tạo nhiều tiện ích cho các doanh nhân. Điều này đã khuyến
khích các doanh nhân gửi tiền vào Ngân hàng để nhờ Ngân hàng thanh
toán hộ. Như vậy, một dịch vụ mới, quan trọng nhất được phát triển đó là
tài khoản tiền gửi giao dịch, cho phép người gửi tiền viết séc thanh toán
cho việc mua hàng hoá và dịch vụ. Việc đưa ra loại tài khoản tiền gửi mới
này được xem là một trong những bước đi quan trọng nhất trong công

SVTH:PHẠM ĐÌNH CHUNG
9
GVHD: Phan Hữu Nghị
nghiệp Ngân hàng. Cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin, nhiều
thể thức thanh toán được phát triển như Uỷ nhiệm chi, nhờ thu, L/C, thanh
toán bằng điện, thẻ…
3.6. Quản lý Ngân quỹ.
Các Ngân hàng mở tài khoản và giữ tiền của phần lớn các doanh
nghiệp và nhiều cá nhân. Nhờ đó, Ngân hàng thường có mối liên hệ chặt
chẽ với nhiều khách hàng. Do có kinh nghiệm trong quản lý ngân quỹ và
khả năng trong việc thu ngân, nhiều Ngân hàng đã cung cấp cho khách
hàng dịch vụ quản lý Ngân quỹ, trong đó Ngân hàng đồng ý quản lý việc
thu và chi của một công ty kinh doanh và tiến hành đầu tư phần thặng dư
tiền mặt tạm thời vào các chứng khoán sinh lợi và tín dụng ngắn hạn cho
đến khi khách hàng cần tiền mặt để thanh toán.
3.7. Tài trợ các hoạt động của Chính phủ.
Khả năng huy động và cho vay với khối lượng lớn của Ngân hàng đã
trở thành trọng tâm chú ý của các Chính phủ. Do nhu cầu chi tiêu lớn và
thường là cấp bách trong khi thu không đủ, Chính phủ các nước đều muốn
tiếp cận với các khoản cho vay của Ngân hàng. Trong điều kiện các Ngân
hàng tư nhân không muốn tư nhân không muốn tài trợ cho Chính phủ vì
rủi ro cao, Chính phủ thường dùng một số đặc quyền trao đổi lấy các
khoản vay của những Ngân hàng lớn. Khi Ngân hàng Trung ương thành
lập, Chính phủ đều tìm cách tham dự, hoặc trực tiếp can thiệp để có được
các khoản tín dụng lớn. Ngày nay, Chính phủ giành quyền cấp phép hoạt
động và kiểm soát các Ngân hàng. Các Ngân hàng được cấp giấy phép
thành lập với điều kiện là họ phải cam kết thực hiện với mức độ nào đó
các chính sách của Chính phủ và tài trợ cho Chính phủ. Các Ngân hàng
phải mua trái phiếu Chính phủ theo một tỷ lệ nhất định trên tổng lượng
SVTH:PHẠM ĐÌNH CHUNG

10
GVHD: Phan Hữu Nghị
tiền gửi mà Ngân hàng huy động được; hoặc phải cho vay với các điều
kiện ưu đãi cho các doanh nghiệp của Chính phủ.
3.8. Bảo lãnh.
Do khả năng thanh toán của Ngân hàng cho một khách hàng rất lớn và
do Ngân hàng nắm giữ tiền gửi của các khách hàng, nên Ngân hàng có uy
tín trong bảo lãnh cho khách hàng. Trong những năm gần đây, nghiệp vụ
bảo lãnh ngày càng đa dạng và phát triển mạnh. Ngân hàng thường bảo
lãnh cho khách hàng của mình mua chịu hàng hoá và trang thiết bị, phát
hành chứng khoán, vay vốn của tổ chức tín dụng…
3.9. Cho thuê thiết bị trung và dài hạn ( Leasing).
Nhằm để bán được các thiết bị, đặc biệt là các thiết bị có giá trị lớn,
nhiều hãng sản xuất và thương mại đã cho thuê ( thay vì bán ) các thiết bị.
Cuối hợp đồng thuê, khách hàng có thể mua ( do vậy còn được gọi là hợp
đồng thuê mua ). Rất nhiều Ngân hàng tích cực cho khách hàng kinh
doanh quyền lựa chon thuê các thiết bị, máy móc cần thiết thông qua hợp
đồng thuê mua, trong đó Ngân hàng mua thiết bị và cho khách hàng thuê.
Hợp đồng cho thuê thường phải đảm bảo yêu cầu khách hàng phải trả tới
hơn 2/3 giá trị của tài sản cho thuê. Do vậy, cho thuê của Ngân hàng cũng
có nhiều điểm giống như cho vay, và được xếp vào tín dụng trung và dài
hạn.
3.10. Cung cấp dịch vụ uỷ thác và tư vấn.
Do hoạt động trong lĩnh vực tài chính các Ngân hàng có rất nhiều
chuyên gia về quản lý tài chính. Vì vậy, nhiều cá nhân và doanh nghiệp đã
nhờ Ngân hàng quản lý tài sản và quản lý hoạt động tài chính hộ. Dịch vụ
uỷ thác phát triển sang cả uỷ thác vay hộ, uỷ thác cho vay hộ, uỷ thác phát
hành , uỷ thác đầu tư… Thậm chí, các Ngân hàng đóng vai trò là người
được uỷ thác trong di chúc, quản lý tài sản cho khách hàng đã qua đời
SVTH:PHẠM ĐÌNH CHUNG

11
GVHD: Phan Hữu Nghị
bằng cách công bố tài sản, bảo quản các tài sản có giá. Nhiều khách hàng
còn coi Ngân hàng như một chuyên gia tư vấn tài chính. Ngân hàng sẵn
sàng tư vấn đầu tư, về quản lý tài chính, về thành lập, mua bán, sáp nhập
doanh nghiệp.
3.11. Cung cấp dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán.
Nhiều Ngân hàng đang phấn đấu cung cấp đủ các dịch vụ tài chính
cho phép khách hàng thoả mãn mọi nhu cầu. Đây là một trong những lý
do chính khiến các Ngân hàng bắt đầu bán các dịch vụ môi giới chứng
khoán, cung cấp cho khách hàng cơ hội mua cổ phiếu, trái phiếu và các
chứng khoán khác mà không phải nhờ đến người kinh doanh chứng
khoán. Trong một vài trường hợp, các Ngân hàng tổ chức ra công ty
chứng khoán hoặc công ty môi giới chứng khoán.
3.12. Cung cấp các dịch vụ bảo hiểm.
Từ nhiều năm nay, các Ngân hàng đã bán bảo hiểm cho khách hàng,
điều đó đảm bảo việc hoàn trả trong trường hợp khách hàng bị chết, bị tàn
phế hay gặp rủi ro trong hoạt động, mất khả năng thanh toán.
3.13. Cung cấp các dịch vụ đại lý.
Nhiều Ngân hàng trong quá trình hoạt động không thể thiết lập chi
nhánh hoặc văn phòng ở khắp nơi. Nhiều Ngân hàng ( thường Ngân hàng
lớn) cung cấp dịch vụ Ngân hàng đại lý cho các Ngân hàng khác như
thanh toán hộ, phát hành hộ các chứng chỉ tiền gửi, làm Ngân hàng đầu
mối trong đồng tài trợ…
4. Các loại hình Ngân hàng Thương mại.
Có thể phân chia Ngân hàng theo các tiêu thức khác nhau tuỳ theo
yêu cầu của người quản lý.
4.1. Các loại hình Ngân hàng thương mại chia theo hình thức sở
hữu.
SVTH:PHẠM ĐÌNH CHUNG

12
GVHD: Phan Hữu Nghị
4.1.1. Ngân hàng sở hữu tư nhân.
Là Ngân hàng do cá nhân thành lập bằng vốn của cá nhân. Loại Ngân
hàng thường nhỏ, phạm vi hoạt động trong từng địa phương. Các Ngân
hàng này thường gắn liền với doanh nghiệp vá cá nhân ở địa phương. Chủ
Ngân hàng thường rất am hiểu tình hình của người vay, vì vậy hạn chế
được lừa đảo của khách. Tuy nhiên, do kém đa dạng nên khi địa phương
đó gặp rủi ro ( ví dụ thiên tai, mất mùa… ) ngân hàng thường không tránh
được tổn thất.
4.1.2. Ngân hàng sở hữu của các cổ đông ( Ngân hàng cổ phần) :
Ngân hàng này được thành lập thông qua phát hành các cổ phiếu. Việc
nắm giữ cổ phiếu cho phép người sở hữu có quyền tham gia quyết định
các hoạt động của Ngân hàng, tham gia chia cổ tức từ thu nhập của Ngân
hàng đồng thời phải gánh chịu các tổn thất có xảy ra. Do vốn sở hữu được
hình thành thông qua tập trung, các Ngân hàng cổ phần có khả năng tăng
vốn nhanh chóng, vì vậy thường là các Ngân hàng lớn. Các tổ hợp Ngân
hàng lớn nhất trên thế giới hiện nay là các ngân hàng cổ phần. Các ngân
hàng cổ phần thường có phạm vi hoạt động rộng, hoạt động đa năng, có
nhiều chi nhánh hoặc công ty con. Khả năng đa dạng hoá cao nên các
Ngân hàng cổ phần có thể giảm được rủi ro gây nên bởi tính chuyên môn
hoá ( thiên tai của một vùng, sự suy thoái của một nghành hoặc một quốc
gia… ), song chúng thường phải gánh chịu các rủi ro từ cơ chế quản lý
phân quyền ( nhiều chi nhánh được phân quyền lớn và hoạt động tương
đối độc lập với trụ sở Ngân hàng mẹ, giám đốc các chi nhánh này có thể
có hành vi lạm dụng hoặc bất cẩn gây tổn thất cho Ngân hàng).
4.1.3. Ngân hàng sở hữu Nhà nước.
Đây là loại hình Ngân hàng mà vốn sở hữu do Nhà nước cấp, có thể là
Nhà nước Trung ương hoặc Tỉnh, Thành phố. Các Ngân hàng này được
SVTH:PHẠM ĐÌNH CHUNG

13
GVHD: Phan Hữu Nghị
thành lập nhằm thực hiện một số mục tiêu nhất định thường là do chính
sách của các chính quyền Trung ương hoặc địa phương quy định. Tại các
nước đi theo con đường phát triển Xã hội chủ nghĩa, Nhà nước thường
quốc hữu hoá các Ngân hàng tư nhân hoặc cổ phần lớn, hoặc tự xây dựng
nên các Ngân hàng.Những Ngân hàng sở hữu Nhà nước thường được Nhà
nước hỗ trợ về tài chính và bảo lãnh phát hành giấy nợ, do vậy rất ít khi bị
phá sản. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp các ngân hàng này phải thực
hiện các chính sách của Nhà nước có thể gây bất lợi cho hoạt động kinh
doanh.
4.1.4. Ngân hàng liên doanh.
Ngân hàng này được hình thành dựa trên góp vốn của hai hoặc nhiều
bên, thường là giữa ngân hàng trong nước với ngân hàng nước ngoài để
tận dụng các ưu thế của nhau.
4.2. Các loại hình Ngân hàng Thương mại chia theo tính chất hoạt
động.
4.2.1. Hoạt động chuyên doanh và đa năng.
Ngân hàng hoạt động theo hướng chuyên doanh.
Loại Ngân hàng này chỉ tập trung cung cấp một số dịch vụ ngân hàng
ví dụ như chỉ cho vay đối với xây dựng cơ bản, hoặc đối với nông nghiệp;
hoặc chỉ cho vay ( không bảo lãnh hoặc cho thuê)… Tính chuyên môn
hoá cao cho phép Ngân hàng có được đội ngũ cán bộ giàu kinh nghiệm,
tinh thông nghiệp vụ. Tuy nhiên, loại ngân hàng này thường gặp rủi ro lớn
khi ngành hoặc lĩnh vực hoạt động mà ngân hàng phục vụ sa sút.
Ngân hàng đơn năng có thể là ngân hàng nhỏ, phạm vi hoạt động hẹp,
trình độ cán bộ không đa dạng, hoặc là những ngân hàng sở hữu của công
ty ( nhiều tập đoàn công nghiệp tổ chức ngân hàng để phục vụ cho các
thành viên của tập đoàn).
SVTH:PHẠM ĐÌNH CHUNG

14
GVHD: Phan Hữu Nghị
Ngân hàng đa năng: là ngân hàng cung cấp mọi dịch vụ ngân hàng
cho mọi đối tượng. Đây là xu hướng hoạt động chủ yếu hiện nay của các
Ngân hàng thương mại. Ngân hàng đa năng thường là Ngân hàng lớn
(hoặc sở hữu công ty). Tính đa dạng sẽ giúp ngân hàng tăng thu nhập và
hạn chế rủi ro.
4.2.2. Hoạt động bán buôn và Ngân hàng bán lẻ.
Hoạt động Ngân hàng bán buôn: cung cấp các dịch vụ cho các Ngân
hàng, các công ty tài chính, cho Nhà nước, cho các doanh nghiệp lớn.
Những ngân hàng có hoạt động bán buôn phát triển thường là ngân hàng
lớn hoạt động tại các trung tâm tài chính quốc tế, cung cấp các khoản tín
dụng lớn.
Hoạt động của Ngân hàng bán lẻ: cung cấp các dịch vụ trực tiếp cho
doanh nghiệp, hộ gia đình và các cá nhân, với các khoản tín dụng nhỏ.
Dịch vụ bán lẻ thường kết hợp đa tiện ích, được xây dựng trên cơ sở công
nghệ hiện đại. Ví dụ thẻ tín dụng vừa là phương tiện để cung cấp khoản
vay vừa là phương tiện để thanh toán, truy vấn tin trên tài khoản… cung
cấp dịch vụ ngân hàng 24h/ngày.
Xu hướng hiện nay là các ngân hàng cung cấp kết hợp cả dịch vụ bán
lẻ và bán buôn.
4.3. Các loại hình Ngân hàng thương mại chia theo cơ cấu tổ chức.
Ngân hàng sở hữu công ty và công ty sở hữu Ngân hàng. Ngân hàng
sở hữu công ty là Ngân hàng nắm giữ phần vốn chi phối của công ty, cho
phép Ngân hàng được quyền tham gia quyết định các hoạt động cơ bản
của công ty. Do luật nhiều nước cấm hoặc hạn chế Ngân hàng Thương
mại tham gia trực tiếp vào một số loại hình kinh doanh như chứng khoán,
bất động sản… nên các Ngân hàng lớn đã thành lập hoặc mua lại một số
SVTH:PHẠM ĐÌNH CHUNG
15

GVHD: Phan Hữu Nghị
công ty chứng khoán, quỹ đầu tư… nhằm mở rộng hoạt động trên một số
lĩnh vực liên quan mật thiết với kinh doanh tiền tệ.
Ngân hàng thuộc sở hữu công ty: các tập đoàn kinh tế ( công nghiệp,
thương mại , dịch vụ) thường tổ chức thành lập Ngân hàng nhằm cung
cấp dịch vụ tài chính cho các đơn vị thành viên của tập đoàn và ngoài tập
đoàn.
Ngân hàng đơn nhất và ngân hàng có chi nhánh. Ngân hàng đơn nhất
được hiểu là một ngân hàng không có chi nhánh, tức là các dịch vụ ngân
hàng chỉ do một hội sở ngân hàng cung cấp. Ngân hàng có chi nhánh
thường là ngân hàng có vốn tương đối lớn, cung cấp dịch vụ ngân hàng
thông qua nhiều đơn vị ngân hàng. Việc thành lập chi nhánh thường bị
kiểm soát chặt chẽ bởi Ngân hàng Nhà nước thông qua các quy định về
mức vốn sở hữu, về chuyên môn của đội ngũ cán bộ, về sự cần thiết của
dịch vụ ngân hàng trong vùng…
II. HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN TẠI NHTM.
1. Vốn của Ngân hàng Thương mại và kết cấu.
1.1. Vốn chủ sở hữu.
Để bắt đầu hoạt động Ngân hàng thì chủ Ngân hàng phải có một
lượng vốn nhất định.Đây là loại vốn Ngân hàng có thể sử dụng lâu dài,
hình thành nên trang thiết bị, nhà cửa cho Ngân hàng.Nguồn hình thành
và nghiệp vụ hình thành loại vốn này rất đa dạng tùy theo tính chất sở hữu
, năng lực tài chính của chủ Ngân hàng, yêu cầu và sự phát triển của thị
trường.
1.1.1.Nguồn vốn hình thành ban đầu.
Tùy theo tính chất của mỗi Ngân Hàng mà nguồn hình thành vốn ban
đầu khác nhau.Nếu là Ngân hàng thuộc sở hữu Nhà Nước do NSNN cấp,
còn nếu là Ngân hàng cổ phần thì các cổ đông đóng góp thông qua mua cổ
SVTH:PHẠM ĐÌNH CHUNG
16

GVHD: Phan Hữu Nghị
phần hoặc cổ phiếu. Ngân hàng liên doanh do các bên liên doanh góp;
Ngân hàng tư nhân là vốn thuộc sở hữu tư nhân.
1.1.2.Nguồn vốn bổ xung trong quá trình hoạt động.
Trong quá trình hoạt động, Ngân hàng gia tăng vốn chủ theo phương
thức khác nhau tùy vào điều kiện cụ thể.
Nguồn từ lợi nhuận: Trong điều kiện thu nhập ròng lớn hơn không,
chủ Ngân hàng có xu hướng gia tăng vốn chủ bằng cách chuyển một phần
thu nhập ròng thành vốn đầu tư.Tỷ lệ tích lũy tùy thuộc vào cân nhắc của
chủ Ngân hàng về tích lũy và tiêu dùng.Những Ngân hàng lâu năm, thu
nhập ròng lớn, nguồn vốn tích lũy từ lợi nhuận sẽ cao so với vốn chủ hình
thành ban đầu.
Nguồn bổ xung từ phát hành thêm cổ phần, góp thêm, cấp thêm… để
mở rộng quy mô hoạt động, hoặc để đổi mới trang thiết bị, hoặc để đáp
ứng nhu cầu gia tăng vốn của chủ do Ngân hàng Nhà nước quy định…
Đặc điểm của hình thức huy động này là không thường xuyên, song giúp
cho Ngân hàng có được lượng vốn sở hữu lớn vào lúc cần thiết.
1.1.3. Các Quỹ.
Ngân hàng có nhiều quỹ.Mỗi quỹ có một mục đích riêng.Trước tiên là
quỹ dự phòng tổn thất.Quỹ này được trích lập hàng năm và được tích lũy
lại nhằm bù đắp những tổn thất xảy ra.Quỹ bảo toàn vốn nhằm bù đắp hao
mòn của vốn dưới tác động của lạm phát.Quỹ thặng dư là phần đánh giá
lại tài sản của Ngân hàng và chênh lệch giữa mệnh giá và thị giá cổ phiếu
khi phát hành cổ phiếu mới. Tuỳ theo quy đinh cụ thể của từng nước, các
Ngân hàng còn có thể có quỹ phúc lợi, quỹ khen thưởng , quỹ giám đốc…
Các quỹ của Ngân hàng thuộc sở hữu của chủ Ngân hàng. Nguồn hình
thành các quỹ này là tư thu nhập của Ngân hàng. Tuy nhiên khả năng sử
SVTH:PHẠM ĐÌNH CHUNG
17
GVHD: Phan Hữu Nghị

dụng các quỹ này vào hoạt động kinh doanh tuỳ thuộc vào mục đích sử
dụng quỹ.
1.1.4.Nguồn vay nợ có thể chuyển đổi thành cổ phần.
Các khoản vay trung và dài hạn của NHTM có khả năng chuyển đổi
thành vốn cổ phần có thể được coi là một bộ phận vốn sở hữu của Ngân
hàng do nguồn này có một số đặc điểm như sử dụng lâu dài, có thể đầu tư
vào nhà cửa đất đai và có thể không hoàn trả khi đáo hạn.
1.2.Nguồn tiền gửi.
Tiền gửi của khách hàng là nguồn tài nguyên quan trọng nhất của
NHTM.Khi một Ngân hàng bắt đầu hoạt động, nghiệp vụ đầu tiên là mở
các tài khoản tiền gửi để giữ hộ và thanh toán hộ cho khách hàng, bằng
cách đó Ngân hàng huy động tiền gửi của các thành phần trong nền kinh
tế.
Tiền gửi là nguồn tiền quan trọng, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng
nguồn tiền của Ngân hàng.Để gia tăng tiền gửi trong môi trường cạnh
tranh và để có được nguồn tiền có chất lượng càng cao, các Ngân hàng đã
đưa ra nhiều hình thức huy động khác nhau.
1.2.1. Tiền gửi thanh toán.
Đây là tiền của các doanh nghiệp hoặc cá nhân gửi vào Ngân hàng để
nhờ giữ và thanh toán hộ.Trong phạm vi số dư cho phép, các nhu cầu chi
trả của doanh nghiệp và cá nhân đều được Ngân hàng thực hiện. Các
khoản thu bằng tiền của doanh nghiệp và cá nhân đều có thể được nhập
vào tiền gửi thanh toán theo yêu cầu. Nhìn chung, lãi suất của khoản tiền
này rất thấp (hoặc bằng không), thay vào đó chủ tài khoản có thể được
hưởng các dịch vụ của Ngân hàng với mức phí thấp. Ngân hàng mở tài
khoản tiền gửi thanh toán ( tài khoản có thể phát sec )cho khách hàng.Thủ
tục mở rất đơn giản.Yêu cầu của Ngân hàng là khách hàng phải có tiền và
SVTH:PHẠM ĐÌNH CHUNG
18
GVHD: Phan Hữu Nghị

chỉ thanh toán trong phạm vi số dư. Một số Ngân hàng kết hợp tài khoản
tiền gửi thanh toán với tài khoản cho vay ( thấu chi – chi trội trên số dư có
của tài khoản tiền gửi thanh toán). Một số ngân hàng sử dụng nhiều hình
thức biến tướng của tài khoản thanh toán để nâng lãi suất loại tiền gửi này
nhằm cạnh tranh với các tổ chức tín dụng khác.
1.2.2. Tiền gửi có kỳ hạn của doanh nghiệp, các tổ chức xã hội.
Các khoản thu bằng tiền của các doanh nghiệp, tổ chức sẽ được Ngân
hàng chi trả sau một thời gian xác định.Tiền gửi thanh toán tuy rất thuận
tiện cho hoạt động thanh toán nhưng lãi suất thấp. Để đáp ứng nhu cầu
tăng thu của người gửi tiền, ngân hàng đã đưa ra hình thức tiền gửi có kỳ
hạn. Người gửi không được sủ dụng các hình thức thanh toán đối với tiền
gửi thanh toán để áp dụng đối với loại tiền gửi này. Nếu cần chi tiêu,
người gửi phải đến Ngân hàng để rút tiền ra. Tuy không thuận lợi cho tiêu
dùng bằng hình thức tiền gửi thanh toán, song tiền gửi có kỳ hạn được
hưởng lãi suất cao hơn tuỳ theo độ dài của kỳ hạn.
1.2.3. Tiền gửi tiết kiệm của dân cư.
Các tầng lớp dân cư đều có các khoản thu nhập tạm thời chưa dùng
đến và họ đều có thể gửi tiết kiệm nhằm mục tiêu bảo toàn và sinh lời đối
với các khoản tiết kiệm, đặc biệt là nhu cầu bảo toàn.
Nhằm thu hút ngày càng nhiều tiền tiết kiệm, các Ngân hàng thường
cố gắng khuyến khích dân cư thay đổi thói quen giữ vàng và tiền mặt tại
nhà bằng cách mở rộng mạng lưới huy động, đưa ra các hình thức huy
động đa dạng và lãi suất cạnh tranh hấp dẫn. Ngân hàng có thể mở cho
mỗi nguời tiết kiệm nhiều chương mục tiết kiệm( hoặc là sổ tiết kiệm) cho
mỗi kỳ hạn và mỗi lần gửi khác nhau. Sổ tiết kiệm này không dùng để
thanh toán tiền hàng và dịch vụ song có thể thế chấp để vay vốn nếu được
ngân hàng cho phép.
SVTH:PHẠM ĐÌNH CHUNG
19
GVHD: Phan Hữu Nghị

1.2.4.Tiền gửi của các Ngân hàng khác.
Nhằm mục đích nhờ thanh toán hộ và một số mục đích khác, Ngân
hàng thương mại này có thể gửi tiền tại Ngân hàng khác.Tuy nhiên quy
mô nguồn này thường không lớn.
1.3. Nguồn vốn vay.
Tiền gửi là nguồn quan trọng nhất của Ngân Hàng Thương Mại.Tuy
nhiên khi cần Ngân hàng thường vay mượn thêm.Tại nhiều nước, Ngân
hàng Trung Ương thường quy định tỷ lệ giữa nguồn tiền huy động và vốn
của chủ.Do vậy, nhiều Ngân hàng vào những giai đoạn cụ thể phải vay
mượn thêm để đáp ứng nhu cầu khi khă năng huy động bị hạn chế.
1.3.1. Vay Ngân Hàng Nhà Nước.
Đây là khoản vay nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách trong chi trả của
NHTM.Trong trường hợp thiếu hụt dự trữ (thiếu dự trữ bắt buộc, bắt buộc
thanh toán) NHTM thường vay NHNN.
Hình thức cho vay chủ yếu của NHNN là tái chiết khấu( hoặc tái cấp
vốn).Các thương phiếu đã được các NHTM chiết khấu(hoặc tái chiết
khấu) trở thành tài sản của họ.Khi cần tiền, các NHTM mang những
thương phiếu này lên tái chiết khấu tại NHNN. Nghiệp vụ này làm thương
phiếu của NHTM giảm đi và dự trữ( tiền mặt hoặc tiền gửi tại Ngân hàng
Nhà nước) tăng lên.Ngân hàng nhà nước điều hành vay mượn này một
cách chặt chẽ; ngân hàng thương mại phải thực hiện các điều kiện đảm
bảo và kiểm soát nhất định.
Thông thường NHNN chỉ tái chiết khấu cho những thương phiếu có
chất lượng ( Thời gian đáo hạn ngắn, khả năng trả nợ cao) và phù hợp với
mục tiêu của Ngân hàng Nhà nước trong từng thời kỳ. Trong điều kiện
chưa có thương phiếu, NHNN cho NHTM vay dưới hình thức tái cấp vốn
theo hạn mức tín dụng nhất định.
SVTH:PHẠM ĐÌNH CHUNG
20
GVHD: Phan Hữu Nghị

1.3.2. Vay các tổ chức tín dụng khác.
Đây là nguồn các Ngân hàng vay mượn lẫn nhau và vay của các tổ
chức tín dụng khác trên thị trường liên Ngân hàng.Các Ngân hàng đang có
dự trữ vượt yêu cầu do có kết dư gia tăng bất ngờ về các khoản tiền huy
động hoặc giảm cho vay sẽ có thể sẵn lòng cho các Ngân hàng khác vay
để tìm kiếm lãi suất cao hơn.Ngược lại, các Ngân hàng đang thiếu hụt dự
trữ có nhu cầu vay mượn tức thời để đảm bảo các khoản thanh khoản.
Như vậy , nguồn vay mượn từ các ngân hàng khác là để đáp ứng nhu
cầu dự trữ và chi trả cấp bách và trong nhiều trường hợp nó bổ xung hoặc
thay thế cho nguồn vay mượn từ NHNN. Quá trình vay mượn rất đơn
giản. Ngân hàng vay chỉ cần liên hệ trực tiếp với Ngân hàng cho vay hoặc
thông qua Ngân hàng đại lý ( hoặc Ngân hàng Nhà nước). Khoản vay có
thể không cần đảm bảo, hoặc được đảm bảo bằng các chứng khoán kho
bạc. Kết quả là dự trữ của Ngân hàng cho vay giảm đi và của Ngân hàng
đi vay tăng lên.
1.3.3. Vay trên thị trường vốn.
Giống như các doanh nghiệp khác, các Ngân hàng cũng vay mượn
bằng cách phát hành các giấy nợ ( kì phiếu, tín phiếu, trái phiếu) trên thị
trường vốn. Rất nhiều NHTM thiếu nguồn tiền gửi trung và dài hạn dẫn
đến không đáp ứng được nhu cầu cho vay trung và dài hạn. Do vậy, các
khoản vay trung và dài hạn nhằm bổ xung cho các nguồn tiền gửi, đáp
ứng nhu cầu cho vay và đầu tư trung và dài hạn.Thông thường, đây là
khoản vay không có đảm bảo. Những Ngân hàng có uy tín hoặc trả lãi
suất cao sẽ vay mượn được nhiều hơn. Các Ngân hàng nhỏ thường khó
vay mượn trực tiếp bằng cách này, họ thường phải vay thông qua các
Ngân hàng đại lý hoặc được bảo lãnh của ngân hàng đầu tư. Khả năng vay
SVTH:PHẠM ĐÌNH CHUNG
21
GVHD: Phan Hữu Nghị
mượn còn phụ thuộc vào trình độ phát triển của thị trường tài chính, tạo

khả năng chuyển đôỉ cho các công cụ nợ dài hạn của Ngân hàng.
1.4. Các nguồn vốn khác.
1.4.1. Nguồn uỷ thác.
NHTM thực hiện các dịch vụ uỷ thác như uỷ thác cho vay, uỷ thác
đầu tư, uỷ thác cấp phát… Các hoạt động này tạo nên nguồn uỷ thác tại
Ngân hàng.Cùng với sự phát triển các mối quan hệ đa phương , rất nhiều
các tổ chức kinh tế, xã hội có cùng mục tiêu phát triển như của Ngân
hàng, có nguồn tài chính, đã sử dụng mạng lưới ngân hàng như các kênh
dẫn vốn tới các mục tiêu. Kết quả là hình thành nguồn uỷ thác, làm gia
tăng nguồn vốn của Ngân hàng.
1.4.2. Nguồn trong thanh toán.
Các hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt có thể hình thành
nguồn trong thanh toán( séc trong quá trình chi trả, tiền kí quỹ để mở
L/C…). Những Ngân hàng là ngân hàng đầu mối trong đồng tài trợ có kết
số dư từ tiền của các Ngân hàng thành viên chuyển về để thực hiện cho
vay.
1.4.3. Nguồn khác :
Các khoản nợ khác như thuế chưa nộp, lương chưa trả …
2. Đặc điểm và các nhân tố ảnh hưởng đến nguồn vốn của NHTM.
2.1. Đặc điểm nguồn tiền gửi và các nhân tố ảnh hưởng.
Đặc điểm chung của tiền gửi là chúng phải được thanh toán khi khách
hàng yêu cầu ngay cả khi đó là tiền gửi có kỳ hạn chưa đến hạn. Sự thay
đổi, đặc biệt là tiền gửi ngắn hạn, làm thay đổi cầu thanh khoản của Ngân
hàng.
SVTH:PHẠM ĐÌNH CHUNG
22
GVHD: Phan Hữu Nghị
Quy mô của tiền gửi rất lớn so với các nguồn khác. Thông thường
nguồn này chiếm hơn 50% tổng nguồn vốn và là mục tiêu tăng trưởng
hàng năm của Ngân hàng.

Tiền gửi là đối tượng phải dự trữ bắt buộc, do vậy chi phí tiền gửi
thường cao hơn lãi trả cho tiền gửi. Ở nhiều nước, ngân hàng phải mua
bảo hiểm cho tiền gửi.
Tiền gửi, đặc biệt là tiền gửi ngắn hạn, thường nhạy cảm với các biến
động về lãi suất, tỷ giá, thu nhập, chu kỳ chi tiêu và nhiều nhân tố khác.
Lãi suất cao là một nhân tố kích thích các doanh nghiệp, dân cư gửi và
cho vay. Trong điều kiện có lạm phát, người có tiền tiết kiệm thường quan
tâm tới lãi suất thực, điều đó có nghĩa là lãi suất thực dương mới thực sự
hấp dẫn các nguồn tiền tiết kiệm. Các yếu tố khác như địa điểm Ngân
hàng, mạng lưới chi nhánh và quầy tiết kiệm, các loại hình huy động đa
dạng, các dịch vụ đa dạng… đều ảnh hưởng tới quy mô và cấu trúc của
nguồn tiền. Thời vụ chi tiêu ảnh hưởng tới quy mô và tính ổn định của
nguồn tiền. Vào dịp tết nguồn tiền tiết kiệm cũng như nguồn tiền gửi của
doanh nghiệp có xu hướng giảm sút, đặc biệt trong điều kiện thanh toán
bằng tiền mặt còn phổ biến. Tại các thành phố lớn, nơi tập trung tầng lớp
dân cư có thu nhập cao, hình thành người gửi tiền lớn. Thu nhập gia tăng
là điều kiện để gia tăng quy mô và thay đổi kỳ hạn của nguồn tiền. Khi
ngân hàng mở rộng cho vay, tiền gửi của các doanh nghiệp và cá nhân
cũng gia tăng. Các nguồn tiền gửi thanh toán thường biến động mạnh
( kém ổn định) hơn tiền gửi tiết kiệm.
Ngân hàng cân nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến tiền gửi thông
qua nghiên cứu đặc điểm nguồn tiền của ngân hàng để có biện pháp và
quản lý thích ứng. Tuy nhiên Ngân hàng thường khó biết được chính xác
việc thay đổi quy mô và kết cấu của tiền gửi.
SVTH:PHẠM ĐÌNH CHUNG
23
GVHD: Phan Hữu Nghị
2.2. Đặc điểm nguồn đi vay và các nhân tố ảnh hưởng.
Tỷ trọng của loại nguồn này trong tổng nguồn vốn thường thấp hơn
tiền gửi, trừ một số ngân hàng chuyên hoạt động bán buôn. Các khoản đi

vay thường là với thời hạn và quy mô xác định trước, do vậy tạo thành
nguồn ổn định cho ngân hàng. Khác với nhận tiền gửi, ngân hàng không
nhất thiết phải đi vay thường xuyên : Ngân hàng chỉ vay lúc cần thiết;
ngân hàng hoàn toàn chủ động quyết định khối lượng vay phù hợp với
nhu cầu sử dụng. Nguồn vay có thể không phải chịu dự trữ bắt buộc và
bảo hiểm tiền gửi. Tuy nhiên do rủi ro lớn hơn nên lãi suất trả cho tiền
vay thường lớn hơn lãi suất trả cho tiền gửi cùng kỳ hạn. Các khoản vay
NHNN và vay Ngân hàng khác tuy lãi suất thấp song thường có thời hạn
ngắn, chỉ nhằm đảm bảo thanh toán tức thời cho ngân hàng. Việc cho vay
của NHNN phụ thuộc rất lớn vào chính sách tiền tệ mà NHNN theo đuổi
trong từng thời kỳ. Việc vay mượn các ngân hàng khác trên cùng địa bàn
cũng gặp khó khăn khi nhiều ngân hàng đang thiếu phương tiện thanh
toán. Muốn mở rộng quy mô vay mượn trên thị trường liên ngân hàng,
một ngân hàng cần vươn tới thị trường liên ngân hàng quốc tế với khả
năng phân tích rủi ro lãi suất và rủi ro hối đoái.
Vay thông qua phát hành các giấy nợ trung và dài hạn đóng vai trò
quan trọng trong việc tạo và gia tăng các nguồn trung và dài hạn ổn định
cao cho ngân hàng. Ngân hàng có thể sử dụng nguồn vốn này để cho vay
các dự án, tài trợ trang thiết bị và bất động sản của doanh nghiệp và người
tiêu dùng. Các nhân tố ảnh hưởng quan trọng nhất là thu nhập dân cư và
ổn định vĩ mô, sau đến là các kỹ thuật nghiệp vụ của Ngân hàng nhằm tạo
ra tính thanh khoản của các giấy nợ và thuận tiện đối với người cho vay.
Mặc dù, lãi suất thường cao hơn các nguồn khác, song ngân hàng vẫn phải
sử dụng phát hành giấy nợ trung và dài hạn khi tiền gửi không đáp ứng
SVTH:PHẠM ĐÌNH CHUNG
24
GVHD: Phan Hữu Nghị
được những yêu cầu như ổn định, quy mô đủ lớn trong khoảng thời gian
xác định.
2.3. Đặc điểm các nguồn khác.

Phần lớn các nguồn khác của Ngân hàng không phải trả lãi (lãi suất
danh nghĩa bằng không). Tuy nhiên chi phí để có và duy trì chúng là rất
đáng kể. Ví dụ, để có các nguồn uỷ thác Ngân hàng phải tìm kiếm các chủ
đầu tư, tìm hiểu yêu cầu của họ, nghiên cứu các dự án mà họ tài trợ…
Nhìn chung, các nguồn khác trong Ngân hàng thường không lớn ( trừ một
số ngân hàng có dịch vụ uỷ thác cho Nhà nước hoặc cho các tổ chức quốc
tế). Việc gia tăng các nguồn này nằm trong chính sách tăng nguồn thu cho
ngân hàng và bị ảnh hưởng rất lớn bởi khả năng thực hiện và mở rộng các
loại hình dịch vụ khác.
3. Hiệu quả sử dụng vốn tại Ngân hàng Thương mại.
3.1. Khái niệm và vai trò của vốn trong kinh doanh Ngân hàng
3.1.1. Khái niệm về vốn
Vốn của Ngân hàng Thương mại là những giá trị tiền tệ do Ngân hàng
Thương mại tạo lập hoặc huy động được dùng để cho vay đầu tư hoặc
thực hiện các dịch vụ kinh doanh khác.
Vốn chi phối toàn bộ các hoạt động kinh doanh và quyết định đối với
việc thực hiện các chức năng của Ngân hàng thương mại.
3.1.2. Vai trò của vốn đối với hoạt động kinh doanh Ngân hàng
•Vốn là cơ sở để Ngân hàng tổ chức mọi hoạt động kinh doanh.
Với đặc trưng của hoạt động Ngân hàng, vốn không chỉ là phương tiện
kinh doanh, chính mà còn là đối tượng kinh doanh chủ yếu của Ngân hàng
Thương mại. Ngân hàng là tổ chức kinh doanh loại hàng hoá đặc biệt trên
thị trường tiền tệ (thị trường vốn ngắn hạn) và thị trường chứng khoán (thị
trường vốn dài hạn) và thị trường chứng khoán (thị trường vốn dài hạn).
SVTH:PHẠM ĐÌNH CHUNG
25

×