Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

phân biệt lãnh đạo phương tây và lãnh đạo phương đông khả năng vận dụng vào việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (156.29 KB, 16 trang )

BÀI TẬP NHÓM
Phân biệt lãnh đạo phương Tây và lãnh đạo
phương Đông? Khả năng vận dụng vào Việt Nam?
Bên cạnh việc thay đổi về kỹ thuật, công nghệ, đào tạo những tư duy mới
trong công tác lãnh đạo - quản lý cũng là những nhân tố đóng vai trò hết sức
quan trọng đối với sự phát triển của tổ chức. Khác với những ông chủ tư bản
trước kia điều khiển xí nghiệp bằng roi vọt, ra những quyết định từ chiếc ghế
phô tơi, hay những vị giám đốc không dám nghĩ, dám làm chỉ thụ động làm
theo những quy định cứng nhắc của cơ chế cũ dưới thời bao cấp, những nhà
lãnh đạo - quản lý giỏi hiện nay là người có những cái nhìn thực tế hơn về giá
trị của họ đối với tổ chức mà họ quản lý. Các nhà lãnh đạo hiện nay có một
phong cách quản lý mới và hợp lý hơn. Phong cách lãnh đạo hợp lý là phong
cách phù hợp với điều kiện xã hội và ở đó người lãnh đạo vừa đáp ứng được
các nhu cầu khác nhau của người lao động, vừa phát huy được sức mạnh cá
nhân và tập thể. Có thể khẳng định rằng, phong cách lãnh đạo sẽ là một yếu tố
quan trọng trong những yếu tố làm nên sự thành công trong làm ăn của một
doanh nghiệp. Vậy phong cách lãnh đạo của phương Đông và phương Tây có
gì khác nhau và lựa chọn phong cách lãnh đạo phù hợp nhất trong bối cảnh
Việt Nam hiện nay?
Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi sẽ đề cập đến các vấn đề về
phong cách lãnh đạo và lựa chọn phong cách lãnh đạo phù hợp nhất trong bối
cảnh Việt Nam hiện nay thông qua các nội dung sau:
1. Tầm quan trọng của lãnh đạo
2. Phong cách lãnh đạo phương Đông thông qua quan điểm lãnh đạo của
một số nhân vật điển hình
3. Phong cách lãnh đạo theo kiểu phương Tây
2
4. Sự khác biệt giữa lãnh đạo phương Đông và lãnh đạo phương Tây
5. Vận dụng vào điều kiện của Việt Nam
1. Tầm quan trọng của lãnh đạo
Trong bối cảnh nền kinh tế phát triển hiện nay, những nhà lãnh đạo -


quản lý giỏi phải là người có giá trị đối với tổ chức mà họ quản lý. Người lãnh
đạo là người vừa đáp ứng được các nhu cầu khác nhau của người lao động, vừa
phát huy được sức mạnh cá nhân và tập thể người lao động trong môi trường
hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp để đạt được mục tiêu của tổ
chức. Có thể khẳng định rằng, lãnh đạo là một yếu tố quan trọng trong những
yếu tố làm nên sự thành công của một doanh nghiệp nhưng lại bị ảnh hưởng
nhiều từ các yếu tố của môi trường. Vậy lãnh đạo là gì và tầm quan trọng của
nó như thế nào? Có điều gì khác biệt giữa lãnh đạo phương Tây và lãnh đạo
phương Đông, khả năng vận dụng chúng ở Việt Nam ra sao?
Lãnh đạo là quá trình ảnh hưởng mang tính xã hội trong đó người lãnh
đạo tìm kiếm sự tham gia tự nguyện của cấp dưới nhằm đạt mục tiêu của tổ
chức. Thuật lãnh đạo không chỉ đơn thuần là khả năng lôi cuốn người khác mà
đôi khi chỉ là sự mị dân. Đó cũng không chỉ là khả năng gây cảm tình, thuyết
phục người khác mà đôi khi đó là kỹ năng của người phụ trách bán hàng. Lãnh
đạo là nâng tầm nhìn của con người một mức cao hơn, đưa việc thực hiện đạt
tới một tiêu chuẩn cao hơn, và phát triển tính cách con người vượt qua những
giới hạn thông thường.
Trong bất kỳ một gia đình, một tập thể, một tổ chức hay một quốc gia
nào mà không có người lãnh đạo thì chẳng khác nào như một thân thể
không có đầu, đối với doanh nghiệp thì lãnh đậo là hoạt động quan trọng
nhất.
3
- Tầm nhìn của người lãnh đạo: lãnh đạo thực thụ là người có tầm
nhìn đúng đắn, được ví như hệ thần kinh trung ương trong một cơ thể có thể
cảm nhận những phản ứng bên ngoài thấy được và nghĩ ra được những giải
pháp tối ưu để điều khiển các bộ phận khác trong cơ thể tồn tại và phát triển
- Trách nhiệm của người lãnh đạo: là một tấm gương có ảnh hưởng
rất lớn đến cấp dưới, là ngưòi đựợc sự ủy nhiệm của tập thể có bổn phận
giải thích, bảo vệ, thực hiện cho kỳ được những công việc vì lợi ích tối cao
của cả tập thể

- Vai trò của người lãnh đạo: nhân tố trung tâm tập hợp lực lượng
nhằm thực thi mục tiêu của doanh nghiệp một cách tốt nhất
- Định hướng của người lãnh đạo: lãnh đạo là người dẫn đường chỉ
lối cho mọi hoạt động của doanh nghiệp “Một ngưòi lãnh đạo xứng đáng
phải biết cách làm cho đội ngũ của mình thấy những thành quả đạt được,
đồng thời với những nguy hiểm họ đang đương đầu, nhằm dùng những kết
quả đó mà chứng minh rằng họ đang đi đúng hướng”(Carrard).
Như đã nói ở trên, lãnh đạo có rất nhiều đặc trưng khác nhau tuy
nhiên mới chỉ nhấn mạnh đến mặt chủ quan, mặt cá tính của chủ thể lãnh
đạo chứ chưa đề cập, xem xét lãnh đạo như một kiểu hoạt động. Kiểu hoạt
động đó được diễn ra như thế nào còn phụ thuộc vào yếu tố môi trường xã
hội, trong đó có sự ảnh hưởng của hệ tư tưởng, của nền văn hoá Sự khác
biệt về vị trí địa lý về lịch sử phát triển của các vùng, miền trên thế giới đã
tạo nên sự đa dạng về văn hoá giữa các dân tộc từ đó dẫn đến những nét đặc
trưng rất riêng đối với mỗi dân tộc, mỗi quốc gia cũng như đối với mỗi tổ
chức dù là kinh tế, xã hội hay tôn giáo.
Phương thức lãnh đạo đối với mỗi tổ chức thuộc các nền văn hoá
khác nhau cũng có những nét khác biệt rất căn bản. Người ta thường so sánh
giữa văn hoá phương Tây, nơi chịu nhiều ảnh hưởng của đạo thiên chúa, nơi
được coi là có trình độ phát triển cao hơn về kinh tế, khoa học kỹ thuật, kỹ
4
năng quản trị tổ chức, doanh nghiệp với những giá trị tương tự của phương
Đông, nơi được coi là thuỷ tổ của đạo Phật với những giá trị mang tính nhân
văn của Khổng tử nhưng có một trình độ phát triển tương đối thấp hơn về
kinh tế và khoa học kỹ thuật.
2. Phong cách lãnh đạo phương Đông thông qua quan điểm
lãnh đạo của một số nhân vật điển hình
Lãnh đạo phương Đông do chưa có nghiên cứu một cách hệ thống
nên chưa thành một học thuyết mà mới chỉ nghiên cứu thông qua quan điểm
lãnh đạo của các học giả. Trong giới hạn của bài viết, chúng tôi xin đề cập

đến 3 quan điểm lãnh đạo của 3 học giả điển hình phương Đông là Lão Tử,
Lưu Bị và Tào Tháo.
Trước hết là quan điểm lãnh đạo của Lão Tử. Tư tưởng của Lão Tử
được biểu lộ qua cuốn Đạo Đức Kinh, vỏn vẹn chỉ có năm ngàn chữ, thế mà
đã gây ảnh hưởng sâu rộng đến xã hội Trung Hoa. Tư tưởng của Lão Tử có
thể khái quát như sau:
- Chống xã hội đương thời: Lão Tử luôn luôn giữ thái độ đả kích tập
tục và chế độ xã hội đương thời, khiến cho tư tưởng và hành vi của Người,
nhất nhất đều trái ngược với tình trạng thực tế trong lúc đó. Lúc đó là thời
đại hiếu chiến, nước nào cũng lo tăng cường binh bị thì Lão Tử bảo rằng:
“Giai binh giả bất tường chi khí”. (Quân lực mạnh, là thứ chẳng lành), và
rằng: "Dĩ Đạo tá nhân chủ giả, bất dĩ binh cưỡng thiên hạ". (Kẻ biết dùng
Đạo mà phò chúa, thì chẳng lấy chiến tranh làm phương tiện, để cưỡng bức
thiên hạ). Đang lúc phần tử trí thức đua nhau chu du liệt quốc, ai nấy cố
gắng thuyết phục vua chúa các nước chấp nhận ý kiến của mình, mong có
thể làm được cái gì đó, thì Lão Tử lớn tiếng cảnh cáo họ rằng: "Thủ thiên
hạ thường dĩ vô sự, kịp kỳ hữu sự, bất túc dĩ thủ thiên hạ". (Được thiên hạ
thường là chẳng gây nên chuyện, nếu đã gây nên chuyện, thì không đủ tư
cách để được thiên hạ). Đó là lý tưởng chính trị trong thuyết "Vô vi" của
Lão Tử.
5
- Chất phác quy chân: Đây là đời sống lý tưởng của Lão Tử. Bối
cảnh dựng lên lý tưởng này có hai mặt: Về mặt chính trị, là thái độ ghét bỏ
hành động bạo lực và đời sống xa xỉ, tâm tư dối trá của tầng lớp quyền thế
trong xã hội đương thời; về mặt cá nhân đã gọi là "Ẩn quân tử", thì chất
phác quy chân (Đời sống đơn giản bình dị, trở về với chân thật, với thiên
nhiên), mới thật là đúng với cảnh sống mà Lão Tử hằng mơ ước.
- Công thành phất cư: Lão Tử cho rằng, mọi thành quả đó, rất có
thể đưa lại tai họa cho con người. Lão Tử bảo: "Sinh nhi bất hữu, vi nhi bất
thị, trường nhi bất tể, thi vi nguyên đức". (Sống mà không giữ của, làm mà

chẳng ỷ công, dù lớn cũng không đứng làm chủ tể, đó mới là cái đức
nguyên vẹn) và rằng: "Công toại thân thoái, thiên chi đạo". (Khi đã đạt tới
thành quả rồi thì rút lui ngay, là đúng với lẽ trời) và "Vi giả bại chi, chấp
giả thất chi". (Kẻ ham làm sẽ gặp thất bại, kẻ ôm giữ sẽ bị mất mát).
- Họa phước vô môn: Lão Tử cho rằng, cái lẽ đó không chắc chắn.
Bởi trong quá trình đời người, đâu là họa đâu là phước, thật khó nói lắm.
Lão Tử bảo rằng, họa ư, lắm khi phước nhờ đó mà có; phước ư, biết đâu đó
là căn nguyên của họa. Cho nên đã có chuyện "Tái ông thất mã, yên tri phi
phúc".
- Dĩ nhu khắc cương: Lão Tử tin rằng "Nhu nhược thắng cương
cường", và giải thích rằng: "Thiên hạ mạc nhu nhược ư thủy, nhi công kiên
cường giả mạc chi năng thắng". (Dưới bầu trời này, còn thứ gì yếu mềm
hơn nước, thế mà kẻ mạnh phá được thành trì kiên cố, cũng chẳng thể
thắng nổi nước). Thuyết "Nhu khắc cương", là một trong những đặc điểm
của triết lý Lão Tử.
Từ tư tưởng của Lão tử, nếu phân tích riêng về quan điểm lãnh đạo,
có thể đúc rút từ một trong những giáo huấn của Ông đối với học trò:
“Người lãnh đạo giỏi nhất hiếm khi lên tiếng nói mà chỉ lẳng lặng theo
dõi, động viên tập thể. Người lãnh đạo không thành công khi cấp dưới tán
thưởng, xu nịnh và cuối cùng, họ thất bại khi tập thể ganh ghét, tỵ hiềm”.
6
Những triết lý đạo giáo ấy đến nay vẫn còn là mục tiêu phấn đấu
của những nhà lãnh đạo sáng suốt. Có thể áp dụng qua điểm đó vào
phương thức lãnh đạo và quản trị nhân lực hiện nay. Có thể hiểu như sau:
Chọn mặt gửi vàng: Tìm được nhân viên vừa ý cả về năng lực lẫn
tính cách quyết định 80% thành công về sau của người lãnh đạo. điều đầu
tiên người lãnh đạo cần ở nhân viên chính là sự nhiệt tình và thân thiện,
bởi công việc tập thể đòi hỏi từng thành viên phải hạn chế tối đa cái tôi để
hòa đồng và đóng góp cho thành quả chung. Người lãnh đạo có thể rèn
luyện bất kỳ chuyên môn nào cho nhân viên mới, nhưng khó thể bắt buộc

họ hòa đồng, vui vẻ bởi vì thân thiện không phải một kỹ năng có thể đào
tạo được.
Xây dựng lòng tự trọng cho nhân viên: Nếu người lãnh đạo xem
nhẹ vị trí của cấp dưới thì sự cống hiến của nhân viên ấy cũng sẽ ít tương
ứng. Người lãnh đạo giỏi phải luôn tự hỏi bất kỳ hành động, lời nói nào
của mình có khích lệ nhân viên không, hay chỉ làm họ thêm e dè, bức xúc.
Một cử chỉ nhỏ như lời khen ngợi, mời ăn trưa, hỏi han chuyện gia đình…
đều rất quan trọng, để từng cá nhân cảm thấy được tôn trọng và từ đó hết
lòng đóng góp cho công việc chung.
Sự tôn trọng luôn phải đến từ hai phía: Người lãnh đạo giỏi còn
phải biết bảo vệ và bênh vực quyền lợi nhân viên. Tại nhà hàng nổi tiếng
nhất Nam Phi là Carnivore, thực khách còn nhớ mãi chuyện người quản lý
Peter đã đuổi thẳng hai người khách đã vô cớ nạt nộ bồi bàn. Điều này
không hề làm giảm uy tín của Carnivore (hai năm gần đây doanh thu của
nhà hàng vẫn đứng đầu tại Nam Phi) mà còn khiến người quản lý Peter
được nhân viên thêm kính trọng. Điều này thêm một lần nữa khẳng định:
nhà lãnh đạo giỏi trước hết phải là một nhà lãnh đạo đắc nhân tâm.
7
Khích lệ tinh thần cấp dưới thường xuyên và lắng nghe ý kiến
đóng góp từ nhân viên: Khi nhân viên nói rằng: “Sếp thật may mắn khi có
tôi giúp giải quyết công việc!” thì người lãnh đạo hãy tỏ ra phấn khởi thật
sự, vì đó là chất xúc tác cho mọi sự nỗ lực, cống hiến của nhân viên. Người
lãnh đạo nên đề ra “lịch khen thưởng” trong suốt năm cho từng cá nhân.
Những khen thưởng cụ thể sẽ là động lực tinh thần tốt để gắn kết tình cảm
giữa mọi người, phát huy tối đa sức mạnh của tập thể.
Có nhiều nhà lãnh đạo chỉ cho phép nhân viên làm y theo khuôn
mẫu những kế hoạch đã đề ra nhằm hạn chế sơ suất. Điều này hoàn toàn
sai lầm. Sự thành công của một dự án nhiều khi đến từ chính đề xuất của
nhân viên. Một ví dụ: trong 40 năm hoạt động của Toyota, họ đã tiếp nhận
trên 20 triệu ý kiến đóng góp và phần lớn đều mang lại hiệu quả nhất định.

Đây cũng là quan điểm của Microsoft hay IBM khi thiết lập một hệ thống
chia sẻ thông tin nơi mọi nhân viên đều có thể đề xuất ý kiến đóng góp cho
lãnh đạo và tổ chức.
Không bỏ quên những nhân viên bình thường: Thông thường,
người lãnh đạo chỉ chú ý đến những cá nhân xuất sắc, hoặc những người
còn thụ động trong công việc. Hậu quả là một số nhân viên thường thường
bậc trung hầu như bị lãng quên và họ sẽ làm việc hời hợt cho xong trách
nhiệm. Người lãnh đạo phải biết thúc đẩy bộ phận nhân viên này nhiệt tình
trở lại trong công việc bằng cách tiếp lửa, truyền sự say mê cống hiến cho
họ.
Phát huy ưu điểm, hạn chế nhược điểm: Cuối cùng, nên có sẵn
bảng liệt kê những ưu, khuyết điểm của nhân viên và của chính bản thân.
Ai cũng có thể phạm sai lầm, nên đừng vội phê bình nhân viên khi họ mắc
lỗi mà hãy hỏi họ đã học được gì từ sai lầm vừa phạm phải. Khai thác điểm
mạnh, hạn chế và khắc phục dần sự non kém của đội ngũ nhân viên sẽ giúp
con đường đi đến thành công của doanh nghiệp ngắn hơn.
8
Về quan điểm lãnh đạo của Tào Tháo: Tào Tháo được mang danh
kẻ gian hùng. Trong những thời kỳ đầu còn loạn lạc. Tào Tháo đã xông
pha trận mạc, dù đứng giữa vòng vây của nhiều kẻ thù nhưng cuối cùng
cũng bình định được phương Bắc trung nguyên rộng lớn. Triết lý sống
"Thà phụ người chứ không bao giờ để người phụ mình". Chính vì triết lý
này, nếu ai làm trái ý ông điều gì, người đấy nghiễm nhiên trở thành kẻ thù
của ông, dù trung thành hay không trung thành. Là người cũng rất trọng tài
và đa mưu mà Tào Tháo đã có trong tay rất nhiều mãnh tướng và quân sư
tài năng. Tào Tháo có công dẹp loạn khăn vàng, chống lại Đổng Trác, tiêu
diệt Lã Bố, anh em Viên Thiệu, Viên Thuật. Cho đến sau này khi gặp
Khổng Minh thì sự nghiệp thống nhất đất nước của Tào Tháo phải chững
lại.
Khác với Lão tử có thể nói là một học giả, một nhà nghiên cứu,

Tào Tháo là một nhà lãnh đạo thực sự, quan điểm lãnh đạo của Ông xuất
phát từ thực tế, từ sự nhìn nhận về cục diện hoàn cảnh và quan điểm của cá
nhân Ông về cách dùng và quản trị người. Có thể tổng hợp quan điểm lãnh
đạo của Tào Tháo vào một số nội dung sau:
Dùng mọi cách để thu phục lòng người và tập hợp đám đôn: Tào
Tháo có phẩm chất của một người lãnh đạo lớn đó là khả năng tập hợp,
hiệu triệu đám đông. Tào Tháo có thể dùng mọi thủ đoạn nhưng không
phải là không thực lòng khi chiêu mộ nhân tài. Cứ nhìn cách Tào Tháo đối
xử với Điển Vi khi mất và những phát biểu coi trọng các tướng lĩnh hơn cả
người thân đã tạo nên một sự tin tưởng về tính minh bạch, không vị thân
của người lãnh đạo.
Khi lâm vào tình trạng hết lương thực do bị quân địch vây, Tào
Tháo đã chủ ý dùng thủ đoạn “thí” Quan quản lương để yên lòng quân sĩ.
Đây là cách hành xử hiểu theo nghĩa thông thường thì là “một thủ đoạn
tiểu nhân” nhưng nó lại có hiểu quả ngay tức thì cho đại cuộc - ở đây là
9
nguy cơ tan rã và tinh thần xuống cấp của toàn tổ chức. Ở đây có thể coi là
việc hy sinh lợi ích của một số ít người để đạt được lợi ích của cả một tập
thể - Nguyên lý này cũng đã và đang được áp dụng ở nhiều tổ chức nhưng
có thể ở những cấp độ khác nhau.
Cận thận trong mọi hoạt động, bảo hiểm rủi ro toàn bộ: Đây
chính là phương châm “giết nhầm còn hơn bỏ sót” hoặc “thà ta phụ người
còn hơn người phụ ta” của Tào Tháo. Đây chính là quan điểm phòng ngừa
và ngăn chặn mọi rủi ro trước khi nó có thể xảy đến với mình. Quan điểm
lãnh đạo của nhiều doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp đang nắm
giữ thị phần về một số sản phẩm đều có thể hiểu đang áp dụng theo hướng
này. Thực chất các doanh nghiệp chi phối đều có xu hướng loại bỏ các
doanh nghiệp nhỏ mà xét thấy có thể có nguy cơ cạnh tranh với mạnh dù là
trong ngắn hạn hay dài hạn.
Áp dụng chế độ thưởng phạt phân minh: Nhìn vào cách thiết lập

và tổ chức quân đội của Tào Tháo sẽ thấy sự nhất quán và khoa học trong
phương thức lãnh đạo của Tào Tháo. Trong tổ chức của Tào Tháo có sự
phân quyền và lựa chọn các vị trí lãnh đạo phù hợp cho mỗi vị trí. Cách xử
lý cấp dưới cũng dứt khoát và nghiêm khắc tạo nên kỷ cương, chặt chẽ cho
tổ chức.
Học giả thứ ba của phương Đông nhóm chúng tôi muốn nói đến là
Lưu Bị. Lưu Bị là một người sống rất vì nghĩa. Chính vì thế mà ông lận
đận nay đây mai đó trong suốt gần 30 năm đầu loạn lạc. Cơ duyên khiến
cho ông gặp được Khổng Minh để rồi chiếm được vùng Tây Thục hình
thành thế chân vại tam phân. Mặc dù thế ông cũng có tài lãnh đạo rất giỏi,
các tướng dưới tay ông lúc nào cũng luôn muốn ra trận để lập công. Ngụy
Diên không vì chuyện mang tiếng "cốt phản chủ" nhưng lúc nào cũng luôn
hăng hái xông pha đánh Ngụy. Là một người rất được lòng dân, nên khi
10
chiếm được Tây Thục, vẫn có thể vỗ yên lòng dân trong thời gian ngắn.
Dùng tấm lòng mình để lãnh đạo và trị nước.
Có thể nói Lưu Bị là một điển hình của một người lãnh đạo biết
khắc phục được những điểm yếu của mình. Cái điểm yếu lớn nhất của Lưu
Bị chính là năng lực điều hành tổ chức nhưng bù lại Ông lại rất biết cách
sử dụng “vũ khí tối thượng” của mình là “lòng nhân đức thông qua nước
mắt và sự nhẫn nại” để thu phục được một loạt nhân tài trong đó đặc biệt là
Khổng Minh và các võ tướng thân cận.
Có thể khái quát quan điểm lãnh đạo của Lưu Bị bằng cụm từ
“Lấy tình cảm để thuyết phục nhân tâm” Ở đây đề cập đến “kỳ tích” Lưu
Bị ba lần đi mời Khổng Minh. Ở đây thể hiện một phẩm chất của người
lãnh đạo đó là biết cách chiêu mộ hiền tài. Cách thức này cũng đã và đang
được rất nhiều nhà quản lý áp dụng đặc biệt là trong việc chiêu mộ “chất
xám” cao cấp của các đối thủ cạnh tranh.
Tuy nhiên cũng chính vì lối sống đặt tình cảm quá nặng của Lưu
Bị mà dẫn đến việc không nghe lời can gián của Khổng Minh khi nhất

quyết đòi trả thù cho Quan Vân Trường. Ở đây chính là điểm cần lưu tâm
đối với những người lãnh đạo để chuyện cá nhân ảnh hưởng đến quyết
định chung của tổ chức.
Thông qua việc phân tích phương thức lãnh đạo của một số nhân
vật phương Đông như Lão Tử, Lưu Bị, Tào Tháo, có thể rút ra quan điểm
lãnh đạo phương Đông như sau:
* Lãnh đạo dựa nhiều trên yếu tố cảm tính và phụ thuộc nhiều vào
cá tính của người đứng đầu:
Có thể thấy hầu hết tại các tổ chức, doanh nghiệp phương Đông
tiêu chuẩn quản lý, lãnh đạo chịu ảnh hưởng rất lớn bởi tính cách cá nhân
11
của người đứng đầu. Ít có sự chuẩn hoá chung giữa các tổ chức do cơ cấu
tổ chức, vận hành rất khác nhau giữa các nơi.
Yếu tố văn hoá tổ chức cũng được xây dựng với những nét đặc
trưng của mỗi người đứng đầu, không thực sự có những chuẩn tắc được áp
dụng chung theo qui chuẩn của các cơ quan quản lý nhà nước hoặc hiệp
hội. Có thể thấy điều này rất rõ qua tác phong lãnh đạo của Tào Tháo và
Lưu Bị - hai nhân vật lịch sử của cùng một thời kỳ. Cả hai nhân vật này
nếu đánh giá một cách khách quan đều đạt được những thành công như
nhau - ở đây đề cập đến thế chân vạc Thục - Nguỵ - Ngô nhưng cách thức
lãnh đạo và xây dựng văn hoá tổ chức khác hẳn nhau.
Quan điểm của Tào Tháo là dùng kỷ luật kết hợp với phương
pháp “thu phục lòng người” thông qua cơ chế khen thưởng và kỷ luật cũng
như việc sử dụng nhiều người ngoài thay cho hoàng tộc trong khi Lưu Bị
lại thiên về cách dùng tình cảm để “chinh phục” và có gắng xây dựng một
tổ chức dựa trên sự gắn bó theo hướng “tình cảm gia đình” trong toàn hệ
thống do mình lãnh đạo.
* Lãnh đạo có xu hướng “thụ động”
Quan điểm lãnh đạo này thể hiện rõ trong triết lý của Lão Tử, khi
nhấn mạnh mọi việc nên “thuận theo lẽ tự nhiên” và nhấn mạnh việc nên

tập trung vào việc quan sát và đề phòng hơn là chủ động tạo “thế thượng
phong” ngay từ đầu. Lão Tử cũng nhấn mạnh đến việc sử dụng “Nhu thắng
Cương” có nghĩa là đề phòng và chống đỡ nếu đối phương tấn công.
Đối chiếu với các lãnh đạo phương Đông hiện nay, xu hướng lãnh
đạo thụ động vẫn còn rất phổ biến đặc biệt là việc thiết lập các qui chế
quản lý, lãnh đạo trong tổ chức của mình doanh nghiệp mình. Cách thức
lãnh đạo các thiết chế quản lý vẫn thường đi sau hiện thực kinh doanh hoặc
hiện thực xã hội theo kiểu “vừa làm vừa rút kinh nghiệm” vẫn còn khá phổ
12
biến. Điều này cũng có thể được giải thích là trình độ quản lý cả ở tầm vĩ
mô và vi mô ở phương Đông chưa cao so với phương Tây và thế giới và
nền kinh tế thì đang vận hành theo mô hình mà các nước phương Tây đã có
ít nhiều kinh nghiệm.
* Lãnh đạo thiên về “ngắn hạn”:
Chính do việc lãnh đạo có tính thụ động, mang nhiều yếu tố tình
cảm đã dẫn đến mô thức quản lý thiên về ngắn hạn của lãnh đạo phương
Đông. Cả ba nhân vật được lấy làm điển hình (ở đây không đề cập đến
Khổng Minh là một nhân vật được thần thánh hoá quá mức) thì đều không
có sự nhấn mạnh về chiến lược hay việc hoạch định dài hạn cho tổ chức.
Thông thường các kế hoạch chỉ tập trung vào ngắn hạn trong một năm
hoặc cùng lắm là cho năm kế tiếp.
Cũng có thể thấy rõ việc quản lý chiến lược là một trong những
mặt hạn chế rõ nét của lãnh đạp phương Đông. Công tác hoạch định chính
sách thiếu đồng bộ và chuyên nghiệp gây cản trở lớn cho tầm nhìn dài hạn.
Thông thường thì lãnh đạo phương Đông thường rất tốt trong “sách lược”
sử dụng các quan hệ, hoặc “tiểu xảo” để có được lợi thế hoặc lợi ích ngắn
hạn nhưng lại tỏ ra yếu thế nếu cạnh tranh dài hạn.
Tiểu xảo và thủ đoạn là những khái niệm rất phổ biến và được áp
dụng rất nhiều trong chính trị cũng như kinh doanh tại phương Đông nơi
có sự đua tranh gay gắt đối với những lợi ích ngắn hạn trong khi lại bỏ ngỏ

nhiều cơ hội trong dài hạn.
13
3. Phong cách lãnh đạo theo kiểu phương Tây
Do sự thay đổi về địa lý, văn hóa cũng như chính trị mà lãnh đạo
phương Tây được chia thành 3 giai đoạn rõ ràng: trước năm 30, từ 1930
đến 1960 và sau 1960.
Trong những công trình nghiên cứu của các tác giả phương Tây
trước năm 30 thường nêu lên hai phong cách lãnh đạo cơ bản. Đó là phong
cách dân chủ và phong cách mệnh lệnh.
- Phong cách dân chủ được đặc trưng bằng việc người lãnh đạo biết
phân chia quyền lực của mình, tranh thủ ý kiến cấp dưới, đưa họ tham gia
vào việc khởi thảo các quyết định.
- Phong cách mệnh lệnh độc đoán được đặc trưng bằng việc tập
trung mọi quyền lực vào tay một mình người lãnh đạo , người lãnh đạo
bằng ý chí của mình, trấn áp ý chí và sáng kiến của mọi thành viên trong
tập thể.
K. Lêvin, nhà tâm lý học người Mỹ, là người đầu tiên nghiên cứu
một cách có hệ thống các phong cách lãnh đạo. Theo ông trong 3 thập kỷ
(1930 - 1960), ngoài 2 phong cách lãnh đạo trên còn có một kiểu thứ 3 là
phong cách lãnh đạo hình thức.
Phong cách lãnh đạo hình thức : người lãnh đạo chỉ vạch ra kế
hoạch chung, ít tham gia trực tiếp chỉ đạo, thường giao khoán cho cấp dưới
và làm các việc khác ở văn phòng. Chỉ làm việc trực tiếp với người bị lãnh
đạo hay tập thể trong những trường hợp đặc biệt.
Kế thừa các tư tưởng nghiên cứu về phong cách lãnh đạo - quản lý,
Rensis Likert, một nhà tâm lý học người Mỹ đã nghiên cứu các kiểu mẫu
14
và phong cách lãnh đạo của các nhà lãnh đạo quản lý sau năm 1960. Theo
Likeđ có 4 kiểu phong cách lãnh đạo - quản lý:
- Lãnh đạo độc tài: là người lãnh đạo nắm giữ tất cả quyền hành và

trách nhiệm, giao cho cấp dưới thực hiện các nhiệm vụ đã định.
- Lãnh đạo dân chủ: là người lãnh đạo giao quyền nhưng vẫn chịu
trách nhiệm cuối cùng, công việc được phân chia trên cơ sở quyết định có
sự tham gia của cấp dưới.
- Lãnh đạo tự do: người lãnh đạo giao quyền và trách nhiệm cho
nhóm, các thành viên của nhóm tự thực hiện công việc theo cách tốt nhất.
- Lãnh đạo theo tình huống: chỉ đạo sát sao, định hướng hỗ trợ,
tham gia chia sẻ, trao quyền định hướng kết quả.
Tóm lại cho đến nay có 4 phong cách lãnh đạo phương Tây chủ
yếu: Lãnh đạo độc tài, lãnh đạo dân chủ, lãnh đạo tự do và lãnh đạo theo
tình huống.
Các phong cách lãnh đạo nêu trên đều có điểm mạnh, điểm yếu tuy
nhiên tại thời điểm xã hội ngày càng phát triển như hiện nay phong cách
lãnh đạo dân chủ, coi trọng yếu tố tâm lý con người là chính ngày càng
được áp dụng mạnh mẽ tại nhiều doanh nghiệp, nhiều quốc gia, vùng và
khu vực và hiệu quả của nó đã được kiểm nghiệm, được chứng minh qua
sự thành công và mang lại hiệu quả cao hơn của nhiều doanh nghiệp.

15
4. Sự khác biệt giữa lãnh đạo phương Đông và lãnh đạo phương
Tây
PHƯƠNG ĐÔNG PHƯƠNG TÂY
1. Đặc trưng con người, xã hội: con
người châu Á nhỏ bé, xã hội ít phát triển,
ảnh hưởng văn hóa đạo Phật nên phong
cách lãnh đạo quan liêu, mang tính mệnh
lệnh.
1. Đặc trưng con người, xã hội: xã hội
phát triển, con người tầm vóc, tôn trọng
tính dân chủ, khai thác yếu tố tâm lý con

người một cách mạnh mẽ nên phong
cách lãnh đạo theo xu hướng dân chủ.
2. Về tầm nhìn: là ngắn hạn, chủ yếu
dùng mẹo. thành công do thời cơ không
phải do năng lực, thiên về phát triển các
lĩnh vực sản xuất.
2. Về tầm nhìn: là ngắn hạn
3. Văn hóa, chính trị: các nhà lãnh đạo
phương Đông bị động, ham muốn vừa
phải, không có sẵn quan điểm, chờ ý
kiến người khác thì mới bật ra.
3.Văn hóa, chính trị: Các nhà lãnh đạo
phương Tây chủ động sáng tạo trong
công việc, năng động hơn.
4. Phong cách lãnh đạo: Cái tôi nhiều
hơn là dựa vào trí tuệ tập thể, trách
nhiệm quyền hạn không rõ ràng.
4. Phong cách lãnh đạo: Dựa vào trí tuệ
tập thể, trách nhiệm có trước quyền hạn
có sau.
16
5. Vận dụng vào điều kiện của Việt Nam
Qua phân tích ở trên, chúng ta có thể thấy rằng việc áp dụng một
kiểu lãnh đạo nào đó trong hoạt động quản trị kinh doanh không đơn giản
là áp dụng nguyên bản một kiểu phong cách nào đó trong thực tiễn sản
xuất, kinh doanh mà đòi hỏi người lãnh đạo phải vận dụng một cách linh
hoạt, sáng tạo để tìm ra kiểu lãnh đạo thích hợp, tuỳ vào những điều kiện,
tình huống cụ thể của doanh nghiệp. Như vậy, áp dụng phong cách lãnh
đạo vào các doanh nghiệp Việt Nam trong hoạt động quản trị kinh doanh
cũng phải tuân theo cách làm trên.

Theo đề xuất của chúng tôi cách lãnh đạo phù hợp với các đặc
điểm đặc thù của Việt Nam sẽ là Việt Nam phải thay đổi tư duy và phương
pháp tiếp cận đồng thời Việt Nam phải phát triển theo xu hướng của thế
giới trong điều kiện kết hợp giữa lãnh đạo phương Đông và lãnh đạo
phương Tây phù hợp với các đặc điểm văn hóa Việt Nam.
17

×