Tải bản đầy đủ (.doc) (84 trang)

giải pháp tăng cường hoạt động huy động vốn tại chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (443.12 KB, 84 trang )

Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Ngân hàng – Tài
chính
MỤC LỤC
Trang
Lª ThÞ Trang Ng©n hµng 45C
1
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Ngân hàng – Tài
chính
DANH MỤC BẢNG BIỂU

Trang
Bảng 1:Tình hình biến động vốn huy động
34
Bảng 2: Tình hình cho vay theo thời hạn
36
Bảng 3: Cơ cấu vốn huy động theo kỳ hạn
41
Bảng 4: Cơ cấu vốn huy động theo loại tiền
44
Bảng 5: Cơ cấu vốn huy động theo hình thức huy động
47
Bảng 6: Cơ cấu vốn huy động theo đối tượng
52
Biểu đồ 1: Biến động vốn huy động
34
Biểu đồ 2: Cơ cấu vốn huy động theo kỳ hạn
42
Biểu đồ 3: Cơ cấu vốn huy động theo loại tiền
44
Biểu đồ 4: Cơ cấu vốn huy động theo hình thức huy động
47


Biểu đồ 5: Cơ cấu vốn huy động theo đối tượng huy động
52
Lª ThÞ Trang Ng©n hµng 45C
2
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Ngân hàng – Tài
chính
Lª ThÞ Trang Ng©n hµng 45C
3
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Ngân hàng – Tài
chính
LỜI MỞ ĐẦU
Hệ thống ngân hàng thương mại với chiến lược huy động vốn trong
và ngoài nước đang là vấn đề hết sức quan trọng cả về lý luận khoa học và
thực tiễn trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam trước vận hội mới, thách
thức mới của quá trình hội nhập với khu vực và thế giới. Trong điều kiện
kinh tế Việt Nam đã, đang và chủ yếu trong tương lai là một bộ phận của
chiến lược kinh tế toàn cầu, đối với các nhà kinh tế - đặc biệt là các nhà
kinh tế trong lĩnh vực Tài chính - Ngân hàng không thể không nhận thức và
vận dụng các vấn đề về vốn, hình thức tạo vốn, thị trường vốn trong các
nền kinh tế thị trường vào thực tiễn Việt Nam để trên cơ sở đó xác lập một
chiến lược huy động vốn qua hệ thống Ngân hàng thương mại nhằm thỏa
mãn nhu cầu vốn cho sự nghiệp phát triển của đất nước.
Trong những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, hệ
thống Ngân hàng thương mại nước ta ngày càng phát triển mạnh mẽ, trở
thành “ kênh huy động vốn quan trọng ” đóng vai trò chủ chốt trong nhu
cầu giao lưu vốn của nền kinh tế, thực hiện huy động một khối lượng đáng
kể vốn trong và ngoài nước, thúc đẩy đầu tư cho sản xuất kinh doanh của
các thành phần kinh tế.
Tuy nhiên các Ngân hàng thương mại Việt Nam vẫn chưa thực sự
phát huy hết vai trò của mình vì nguồn vốn huy động được còn chiếm tỷ

trọng nhỏ so với nguồn vốn của xã hội; Chất lượng tín dụng thấp; Tỷ lệ nợ
quá hạn lớn…Bên cạnh đó, thị trường vốn phát triển chậm, tỷ lệ sử dụng
tiền mặt còn lớn, các dịch vụ Tài chính - Ngân hàng chưa đa dạng. Nguồn
vốn trong dân cư chưa được huy động đúng mức, chưa có chính sách đủ
mạnh để khuyến khích dân bỏ vốn đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh.
Xung quanh những vấn đề tưởng như xưa cũ này của kinh tế thị
trường lại đặt ra nhiều điều mới mẻ và cực kỳ bức xức đối với một nước
Lª ThÞ Trang Ng©n hµng 45C
4
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Ngân hàng – Tài
chính
bắt đầu bước vào giai đoạn hội nhập kinh tế thế giới - đầy ắp những cạnh
tranh, cam go và vận hội để tiến hành công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất
nước. Trong bối cảnh đó chúng ta không thể không thành công trên con
đường hiện đại hóa nền kinh tế đất nước nếu không sử dụng linh hoạt và
phù hợp các công cụ về vốn.
Do đó, để đủ sức cạnh tranh hội nhập khu vực và quốc tế các ngân
hàng thương mại cả nước nói chung và Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp
và Phát triển Nông thôn Hà Nội nói riêng phải có chiến lược về huy động
vốn, sử dụng hiệu quả các nguồn vốn trong đó nguồn vốn trong nước là
quyết định, vốn bên ngoài là quan trọng. Nhất là tại thành phố lớn như thủ
đô Hà Nội, bên cạnh sự cạnh tranh quyết liệt trong hoạt động kinh doanh
tiền tệ của các ngân hàng thương mại thì nhu cầu vốn để phục vụ nhu cầu
của khách hàng đặc biệt là nguồn vốn trung và dài hạn là rất lớn.
Trong bối cảnh đó, dù bản thân Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và
Phát triển Nông thôn Hà Nội luôn luôn giữ vững vị trí quan trọng và đóng
góp lớn trong sự phát triển của cả nước nói chung và Thành phố Hà Nội nói
riêng. Nhưng nếu ngân hàng không có sự mở rộng quy mô vốn không có cơ
cấu vốn hợp lý trong điều kiện cạnh tranh gay gắt như hiện nay thì không
thể tồn tại và phát triển được.

Chính vì thế, huy động vốn là vấn đề nóng bỏng đối với Chi nhánh
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội trong quá trình
phát triển của mình. Do đó, em đã mạnh dạn chọn đề tài:“Giải pháp tăng
cường hoạt động huy động vốn tại Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và
Phát triển Nông thôn Hà Nội ” làm đề tài cho Chuyên đề thực tập tốt
nghiệp của mình.
Nội dung chuyên đề thực tâp tốt nghiệp gồm 3 phần:
Chương I: Một số vấn đề cơ bản về huy động vốn của Ngân hàng
thương mại
Lª ThÞ Trang Ng©n hµng 45C
5
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Ngân hàng – Tài
chính
Chương II: Thực trạng hoạt động huy động vốn tại Chi nhánh Ngân
hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội
ChươngIII: Giải pháp tăng cường hoạt động huy động vốn tại Chi
nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội.
Do còn hạn chế về mặt lý luận cũng như kiến thức thực tiễn nên
chuyên đề tốt nghiệp của em không thể tránh khỏi những thiếu sót và hạn
chế, em rất mong được sự chỉ bảo góp ý của cô chú và các thầy cô giáo để
chuyên đề của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Lª ThÞ Trang Ng©n hµng 45C
6
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Ngân hàng – Tài
chính
LỜI CẢM ƠN!
Để hoàn thành chuyên đề thực tập tốt nghiệp này, em xin cảm ơn sâu
sắc tới các cô chú, anh chị công tác tại Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp
và Phát triển Nông thôn Hà Nội đã tạo nhiều điều kiện và giúp đỡ em trong

quá trình thực tập.
Em xin chân thành cảm ơn tới T.S Hoàng Xuân Quế - người đã nhiệt
tình chỉ bảo và hướng dẫn em trong thời gian thực tập tốt nghiệp. Cùng với
vốn hiểu biết sâu sắc về Ngân hàng thương mại nói chung và huy động vốn
ở Ngân hàng thương mại Nhà nước nói riêng, thầy đã hướng dẫn em tìm
hiểu, nghiên cứu tài liệu để thực hiện Chuyên đề thực tập tốt nghiệp này.
Lª ThÞ Trang Ng©n hµng 45C
7
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Ngân hàng – Tài
chính
CHƯƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HUY ĐỘNG VỐN
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1 NGUỒN VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
Để bắt đầu hoạt động kinh doanh của mình, chủ ngân hàng phải có
một số vốn nhất định. Đây là điều kiện không thể thiếu được để một ngân
hàng thành lập và tiến hành các hoạt động kinh doanh. Vốn kinh doanh của
các ngân hàng thương mại là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các tài sản Có
của ngân hàng. Vốn kinh doanh của ngân hàng thương mại được hình thành
từ nhiều nguồn khác nhau như vốn chủ sở hữu, vốn huy động tiền gửi, vốn
từ phát hành tín phiếu…
Như vậy, nguồn vốn của ngân hàng thương mại là toàn bộ các nguồn
tiền ngân hàng tạo lập và huy động được để cho vay, đầu tư hay đáp ứng
các nhu cầu khác nhau trong quá trình hoạt động kinh doanh của mình.
Nguồn vốn của ngân hàng mà chúng ta quan tâm chủ yếu là nguồn vốn huy
động trong quá trình hoạt động.
Cơ cấu nguồn vốn của ngân hàng thương mại bao gồm:
1.1.1 Nguồn vốn chủ sở hữu
Điều kiện hàng đầu để khởi nghiệp trước khi được phép thành lập
ngân hàng là phải có đủ vốn ban đầu theo luật định. Vốn tự có là điều kiện

pháp lý cơ bản, là điểm xuất phát để tổ chức hoạt động ngân hàng, đồng
thời cũng là yếu tố tài chính quan trọng nhất trong việc đảm bảo các khoản
nợ đối với khách hàng. Chính vì vậy quy mô vốn chủ sở hữu là yếu tố
quyết định quy mô vốn và quy mô tài sản có.
Xét về đặc điểm, nguồn này chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng số nguồn
vốn hoạt động kinh doanh của ngân hàng (khoảng 5% - 8%) nhưng lại là
nguồn vốn rất quan trọng bởi vì nó không những thể hiện thực lực quy mô
Lª ThÞ Trang Ng©n hµng 45C
8
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Ngân hàng – Tài
chính
của ngân hàng mà còn là cơ sở để thu hút các nguồn vốn khác và đây cũng
là nguồn vốn khởi đầu tạo nên uy tín của ngân hàng đối với khách hàng.
Theo đà phát triển như hiện nay thì nguồn vốn này sẽ được gia tăng
về số lượng tuyệt đối, song nó vẫn luôn chiếm tỷ trọng nhỏ trong kết cấu
nguồn vốn. Vốn tự có càng lớn thì sức chịu đựng của ngân hàng càng mạnh
khi nền kinh tế và hoạt động ngân hàng gặp khó khăn. Vốn tự có càng lớn
thì khả năng sinh lời càng lớn vì nó có thể đa dạng hoá các nghiệp vụ ngân
hàng, có nhiều cơ hội để kinh doanh hơn trên cơ sở nguồn vốn sẵn có của
mình.
Tuy nhiên, không phải vốn tự có càng lớn càng tốt bởi vốn này quá
lớn sẽ làm cho tỷ suất lợi nhuận trên vốn tự có càng nhỏ. Vốn này cũng
không nên quá nhỏ vì sẽ làm mất đi tính chủ động và gây trở ngại cho hoạt
động của ngân hàng
Nguồn hình thành vốn chủ sở hữu của Ngân hàng thương mại rất đa
dạng tuy theo tính chất sở hữu của Ngân hàng thương mại đó.
1.1.1.1 Vốn điều lệ
Vốn điều lệ là vốn đã được cấp hoặc được đóng góp của các chủ sở
hữu. Tuỳ theo tính chất của ngân hàng mà nguồn gốc hình thành vốn ban
đầu khác nhau.

Đối với ngân hàng quốc doanh vốn điều lệ là vốn được ngân sách
cấp dưới hình thức bằng tiền và trái phiếu chính phủ. Còn đối với ngân
hàng cổ phần vốn điều lệ là vốn do các cổ đông đóng góp, tuy nhiên vốn
góp của ngân hàng cổ phần diễn ra nhiều lần và giá trị góp vốn mỗi lần
không giống nhau. Nếu là ngân hàng liên doanh thì do các bên liên doanh
góp, nếu là ngân hàng tư nhân thì vốn thuộc sở hữu tư nhân.
1.1.1.2 Vốn bổ sung trong quá trình hoạt động
Thứ nhất: Nguồn bổ sung từ lợi nhuận giữ lại trong điều kiện thu
nhập ròng dương, chủ ngân hàng thường có 2 xu hướng là chi trả cổ tức
cho các cổ đông và tăng vốn bằng cách chuyển thu nhập đó thành vốn để
Lª ThÞ Trang Ng©n hµng 45C
9
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Ngân hàng – Tài
chính
đầu tư. Trong trường hợp số lợi nhuận để lại của ngân hàng đủ đáp ứng các
nhu cầu thì đây chính là hình thức vốn cổ phần tốt nhất mà ngân hàng nên
sử dụng. Nhưng để sử dụng phương thức này thì ngân hàng phải đảm bảo
có thể đáp ứng toàn bộ nhu cầu vốn của mình mà không làm tổn hại đến
các cổ đông hoặc giá cổ phiếu. Lợi nhuận để lại không phải là một nguồn
vốn cho không ( chi phí của lợi nhuận để lại sẽ bao gồm cả giá trị cao hơn
của số cổ tức được trả bằng tiền mặt hôm nay so với mức cổ tức sẽ nhận
được trong những năm sắp tới và giá cổ phiếu có thể thấp hơn do mức chi
trả cổ tức bằng tiền mặt giảm đi). Nhưng dù sao thì đây vẫn là nguồn vốn
có chi phí thấp hơn so với việc phát hành cổ phiếu phổ thông mới, đồng
thời phải chịu sự kiểm soát trực tiếp của người quản lý.
Thứ hai: Nguồn bổ sung từ phát hành thêm cổ phần, vốn góp thêm,
cấp thêm…Để tăng thêm vốn chủ sở hữu các ngân hàng có thể phát hành
cổ phiếu ra công chúng lần đầu hoặc phát hành cổ phiếu bổ sung đối với
các ngân hàng đã phát hành cổ phiếu ra công chúng. Ngoài ra, nếu là ngân
hàng quốc doanh có thể gia tăng vốn chủ bằng cách xin nhà nước cấp thêm.

Đây là hình thức tăng vốn để mở rộng quy mô hoạt động, đổi mới trang
thiết bị hoặc đáp ứng nhu cầu gia tăng vốn chủ của Ngân hàng thương mại.
Đặc điểm của hình thức tăng nguồn vốn này là không thường xuyên, song
lại giúp cho ngân hàng có được lượng vốn sở hữu lớn vào lúc cần thiết.
1.1.1.3 Các quỹ
Ngân hàng có một số loại quỹ, trong đó mỗi quỹ đều có mục đích
riêng.
Trước tiên là: Quỹ dự phòng tổn thất, quỹ này được trích lập hàng
năm và được tích luỹ lại nhằm bù đắp tổn thất xảy ra. Theo quy định của
Việt Nam, nguồn bù đắp tổn thất tín dụng bao gồm dự phòng để xử lý rủi
ro và quỹ dự phòng tài chính.
Quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ: Bao gồm 2 khoản chính là các
khoản trích từ lợi nhuận hàng năm và phần đánh giá lại tài sản của ngân
Lª ThÞ Trang Ng©n hµng 45C
10
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Ngân hàng – Tài
chính
hàng và chênh lệch giữa thị giá và mệnh giá cổ phiếu khi phát hành cổ
phiếu.
Tuỳ theo quy định cụ thể của từng nước, các ngân hàng còn có thể có
quỹ phúc lợi, quỹ khen thưởng,…Các quỹ của ngân hàng thuộc sở hữu của
chủ ngân hàng. Nguồn hình thành các quỹ này là từ thu nhập của ngân
hàng. Tuy nhiên một số quỹ không thể sử dụng lâu dài.
1.1.2 Nguồn vốn huy động
1.1.2.1 Tiền gửi
Tiền gửi của khách hàng là nguồn vốn quan trọng của Ngân hàng
thương mại. Khi các ngân hàng hoạt động, nghiệp vụ đầu tiên là mở các tài
khoản tiền gửi để giữ hộ và thanh toán hộ các khách hàng. Bằng cách đó,
ngân hàng huy động tiền từ các doanh nghiệp, các tổ chức và dân cư.
Tiền gửi là nguồn tiền quan trọng, chiếm tỷ trọng lớn trong nguồn

tiền của ngân hàng. Để gia tăng tiền gửi trong môi trường cạnh tranh và để
có được nguồn tiền có chất lượng ngày càng cao các ngân hàng đã đưa ra
và thực hiện nhiều hình thức huy động khác nhau:

Tiền gửi tiết kiệm của dân cư
Đây là một hình thức huy động truyền thống của ngân hàng. Các
tầng lớp dân cư đều có các khoản thu nhập tạm thời chưa sử dụng (các
khoản tiền tiết kiệm ). Trong điều kiện có khả năng tiếp cận với ngân hàng,
họ đều có thể gửi tiết kiệm nhằm thực hiện các mục tiêu an toàn và sinh lời
đối với các khoản tiết kiệm, đặc biệt là nhu cầu an toàn. Nhằm thu hút ngày
càng nhiều tiền tiết kiệm, các ngân hàng đều cố gắng khuyến khích dân cư
thay đổi thói quen giữ vàng và tiền mặt tại nhà bằng cách mở rộng mạng
lưới huy động, đưa ra các hình thức huy động đa dạng và lãi suất cạnh
tranh hấp dẫn như các kỳ hạn khác nhau, mở cho mỗi người nhiều chuyên
mục tiết kiệm ( hoặc sổ tiết kiệm ) cho mỗi kỳ hạn và mỗi lần gửi khác
nhau. Sổ tiết kiệm không thể dùng để mua hàng nhưng có thể dùng để thế
chấp vay vốn ngân hàng .
Lª ThÞ Trang Ng©n hµng 45C
11
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Ngân hàng – Tài
chính
 Tiền gửi thanh toán
Đây là tiền của doanh nghiệp hay cá nhân gửi vào ngân hàng nhằm
mục đích nhờ ngân hàng giữ và thanh toán hộ. Trong phạm vi số dư cho
phép, các nhu cầu chi tiêu của khách hàng sẽ được ngân hàng thực hiện.
Các khoản thu bằng tiền mặt của doanh nghiệp và cá nhân sẽ được nhập
vào tiền gửi thanh toán theo yêu cầu. Nhìn chung, lãi suất của các khoản
tiền gửi thanh toán thấp hơn các hình thức gửi tiền khác, nhưng thay vào
đó, chủ tài khoản sẽ được sử dụng các dịch vụ ngân hàng với mức phí thấp.
Ngân hàng mở các tài khoản tiền gửi thanh toán hay còn gọi là tài khoản có

thể phát hành séc cho khách hàng với thủ tục rất đơn giản. Yêu cầu của
ngân hàng là khách hàng phải có tiền và chỉ được thanh toán trong phạm vi
số dư trên tài khoản. Ngân hàng có thể kết hợp tài khoản tiền gửi thanh
toán với tài khoản cho vay ( thấu chi – vượt mức số dư có của tài khoản
tiền gửi ). Một ngân hàng có thể sử dụng nhiều hình thức tài khoản thanh
toán nhằm cạnh tranh với các tổ chức tín dụng khác.
 Tiền gửi có kỳ hạn của doanh nghiệp và các tổ chức xã hội
Nhiều khoản thu bằng tiền của các doanh nghiệp và các tổ chức xã
hội sẽ được chi trả sau một thời gian xác định. Tiền gửi thanh toán tuy
thuận tiện cho thanh toán nhưng lãi suất lại thấp. Do đó, để đáp ứng nhu
cầu tăng thu của các doanh nghiệp và các tổ chức xã hội, ngân hàng đã đưa
ra hình thức gửi tiền có kỳ hạn, theo đó người gửi không được sử dụng các
hình thức thanh toán giống như tiền gửi thanh toán, nếu cần chi tiêu khách
hàng phải đến ngân hàng để rút tiền ra. Tiền gửi có kỳ hạn mặc dù không
thuận tiện bằng tiền gửi thanh toán nhưng có ưu điểm là có lãi suất cao
hơn.
 Tiền gửi của các tổ chức tín dụng khác
Nhằm mục đích nhờ thanh toán hộ và một số mục đích khác, các
ngân hàng thương mại có thể gửi tiền ở các ngân hàng khác nhưng quy mô
Lª ThÞ Trang Ng©n hµng 45C
12
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Ngân hàng – Tài
chính
của nguồn này thường không lớn, nó phụ thuộc vào tình hình cân đối và
khả năng thanh khoản của Ngân hàng nhận vốn .
1.1.2.2 Tiền vay
Tiền gửi là nguồn quan trọng nhất của ngân hàng thương mại nhưng
Ngân hàng thương mại có thể phải đi vay nếu thấy cần thiết. Tại nhiều
quốc gia, Ngân hàng Trung ương thường quy định tỉ lệ giữa nguồn tiền huy
động và vốn chủ sở hữu. Do vậy nhiều ngân hàng trong từng giai đoạn cụ

thể phải vay mượn thêm để đáp ứng nhu cầu chi trả khi khả năng huy động
bị hạn chế.
 Vay ngân hàng Trung ương
Đây là khoản vay nhằm mục đích giải quyết các nhu cầu chi trả cấp
bách của ngân hàng thương mại. Trong trường hợp thiếu hụt dự trữ ( dự trữ
bắt buộc, dự trữ thanh toán ) ngân hàng thương mại thường vay Ngân hàng
Trung ương. Hình thức cho vay chủ yếu là Ngân hàng Trung ương tái chiết
khấu các thương phiếu đã được các ngân hàng thương mại chiết khấu ( tái
chiết khấu ) trở thành tài sản của họ. Khi cần tiền, ngân hàng thương mại
đem các thương phiếu này lên Ngân hàng Trung ương tái chiết khấu.
Nghiệp vụ này làm giảm thương phiếu của ngân hàng thương mại và dự trữ
của Ngân hàng Trung ương tăng lên. Ngân hàng Trung ương điều hành quá
trình này một cách chặt chẽ, ngân hàng thương mại phải thực hiện các điều
kiện đảm bảo và kiểm soát nhất định. Thông thường Ngân hàng Trung
ương chỉ tái chiết khấu đối với những thương phiếu có chất lượng ( thời
gian đáo hạn ngắn, khả năng trả nợ cao ) và phù hợp với mục tiêu của Ngân
hàng Trung ương trong từng thời kì. Trong điều kiện chưa có thương phiếu,
Ngân hàng Trung ương cho ngân hàng thương mại vay dưới hình thức tái
cấp vốn theo hạn mức tín dụng nhất định.
 Vay các tổ chức tín dụng khác
Các ngân hàng thương mại có thể vay mượn lẫn nhau và vay của các
tổ chức tín dụng khác trên thị trường liên ngân hàng. Các ngân hàng không
Lª ThÞ Trang Ng©n hµng 45C
13
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Ngân hàng – Tài
chính
có dự trữ vượt mức do có kết dư gia tăng bất ngờ về các khoản huy động
hoặc giảm cho vay sẽ có thể cho các ngân hàng khác vay để tìm kiếm lãi
suất cao hơn. Ngược lại, các ngân hàng đang thiếu hụt dự trữ có nhu cầu
vay mượn tức thời để đảm bảo thanh khoản. Như vậy nguồn vay mượn từ

các ngân hàng khác là để đáp ứng nhu cầu dự trữ và chi trả cấp bách trong
nhiều trường hợp nó bổ sung hoặc thay thế cho nguồn vay mượn từ Ngân
hàng Trung ương. Quá trình vay mượn rất đơn giản: Ngân hàng đi vay chỉ
cần liên hệ trực tiếp với ngân hàng đại lí ( hoặc Ngân hàng Trung ương ).
Khoản vay có thể không cần bảo đảm hoặc được đảm bảo bằng các chứng
khoán của kho bạc. Kết quả là dự trữ của ngân hàng cho vay giảm đi và của
ngân hàng đi vay tăng lên.
 Vay trên thị trường vốn
Giống như các doanh nghiệp, các ngân hàng cũng vay mượn bằng
cách phát hành các giấy nợ ( kỳ phiếu, tín phiếu, trái phiếu ) trên thị trường
vốn. Nhiều ngân hàng thiếu nguồn tiền trung và dài hạn dẫn đến không đáp
ứng được nhu cầu cho vay và đầu tư trung và dài hạn. Thông thường đây là
khoản vay không có đảm bảo. Những ngân hàng có uy tín hoặc trả lãi suất
cao hơn sẽ vay được nhiều hơn, còn các ngân hàng nhỏ khó vay trực tiếp
bằng cách này, họ thường phải vay thông qua các ngân hàng đại lí hoặc
được sự bảo lãnh của ngân hàng đầu tư. Khả năng vay còn phụ thuộc vào
trình độ phát triển của thị trường tài chính, tạo khả năng chuyển đổi các
công cụ nợ dài hạn của ngân hàng. Nghiệp vụ này tương đối phức tạp :
ngân hàng cần nghiên cứu kỹ thị trường để quyết định quy mô, mệnh giá,
lãi suất, bảo quản hộ…cũng được quan tâm.
1.1.2.3 Các nguồn vốn khác
Loại này bao gồm nguồn uỷ thác, nguồn trong thanh toán, các nguồn
khác.
Lª ThÞ Trang Ng©n hµng 45C
14
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Ngân hàng – Tài
chính
 Tiền uỷ thác
Ngân hàng thực hiện các dịch vụ uỷ thác cho vay, uỷ thác đầu tư, uỷ
thác cấp phát, uỷ thác giải ngân và thu hộ…Các hoạt động này tạo nên

nguồn uỷ thác tại ngân hàng. Cùng với sự phát triển của các mối quan hệ
đa phương rất nhiều các tổ chức kinh tế xã hội có cùng mục tiêu phát triển
như của ngân hàng, có nguồn tài chính đã sử dụng mạng lưới ngân hàng
như các kênh dẫn vốn tới các mục tiêu. Kết quả đã hình thành nguồn uỷ
thác làm tăng nguồn vốn của ngân hàng.
 Tiền trong thanh toán
Các hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt có thể hình thành các
nguồn trong thanh toán như: séc trong quá trình chi trả, tiền kí quĩ để mở
L/C…những ngân hàng là ngân hàng đầu mối trong hợp đồng tài trợ có kết
dư từ tiền của các ngân hàng thành viên chuyển về để thực hiện cho vay…
1.2 HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.2.1 Sự cần thiết của huy động vốn đối với Ngân hàng thương mại
Huy động vốn là nghiệp vụ cơ bản của các ngân hàng thương mại
hay còn gọi là nghiệp vụ tạo vốn với nhiều hình thức đa dạng, phong phú
nhằm thu hút vốn từ các tổ chức và cá nhân trong trong nền kinh tế để phục
vụ mục đích kinh doanh của mình.
1.2.1.1 Huy động vốn góp phần tiết kiệm chi phí xã hội
Quá trình huy động vốn của Ngân hàng thương mại chính là quá
trình tích tụ và tập trung vốn trong xã hội, sau đó cho vay để đáp ứng nhu
cầu về vốn cho sản xuất kinh doanh, phát triển kinh tế xã hội và tiêu dùng
của các tổ chức các nhân. Với chức năng làm trung gian tài chính hoạt
động huy động vốn của ngân hàng đã góp phần chuyển tiết kiệm thành đầu
tư, lưu chuyển tiền tệ từ nơi thừa sang nơi thiếu. Những người có cung và
cầu về vốn có thể dễ dàng thoả mãn nhu cầu của mình qua kênh đầu tư và
cung ứng vốn gián tiếp khi tìm đến ngân hàng mà không phải tốn thời gian,
công sức và chi phí để tìm kiếm đối tác thích hợp. Huy động vốn đã tiết
Lª ThÞ Trang Ng©n hµng 45C
15
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Ngân hàng – Tài
chính

kiệm được chi phí, nguồn lực cho cả người cung ứng và nhận vốn, do vậy
đã tiết kiệm được chi phí xã hội đồng thời đẩy nhanh quá trình sản xuất lưu
thông hàng hoá, tăng hiệu quả sử dụng vốn. Mặt khác, người tiết kiệm thu
thêm được một khoản lãi từ vốn tạm thời nhàn rỗi của mình, còn người có
nhu cầu về vốn thì có vốn kịp thời cho sản xuất kinh doanh, gia tăng lợi
nhuận.
1.2.1.2 Huy động vốn góp phần thực hiện chính sách tài chính, tiền tệ
quốc gia
Huy động vốn của ngân hàng thương mại góp phần kiềm chế và kiểm
soát lạm phát thông qua vịêc điều tiết lượng tiền mặt trong lưu thông ,giúp
ổn định giá trị đồng tiền. Các ngân hàng cũng là nơi cung cấp một lượng
vốn tín dụng lớn phục vụ cho các dự án của chính phủ về phát triển sản
xuất kinh doanh, phát triển kinh tế, các dự án thực hiện chính sách xã hội,
bù đắp sự thiếu hụt tạm thời cho ngân sách nhà nước thông qua các hình
thức vay nợ giữa ngân sách và ngân hàng
1.2.1.3 Huy động vốn quyết định sự tồn tại và phát triển của ngân hàng
Ở nước ta hiện nay, tín dụng là hoạt động chiếm tỉ trọng lớn trong các
hoạt động của Ngân hàng thương mại và mang lại nguồn thu chủ yếu cho
các ngân hàng. Do vậy đòi hỏi các ngân hàng phải mở rộng và nâng cao
hiệu quả hoạt động tín dụng. Mà muốn có tín dụng thì ngân hàng phải có
vốn và vốn này được huy động từ nền kinh tế. Như vậy, có thể nói huy
động vốn là hoạt động mở màn cho mọi hoạt động của ngân hàng thương
mại, phần lớn vốn huy động sẽ được dùng để cho vay và thu lợi nhuận, góp
phần thúc đẩy sự tồn tại và phát triển của ngân hàng.
1.2.2 Các hình thức huy động vốn của Ngân hàng thương mại
Chức năng cơ bản của hệ thống ngân hàng là tạo ra và cung cấp các
dịch vụ tài chính mà thị trường có nhu cầu. Bất cứ ngân hàng nào mà
thường xuyên làm cho khách hàng thất vọng thì ngân hàng đó khó có khả
năng đứng vững trên thị trường nếu không tìm ra giải pháp để cải thiện
Lª ThÞ Trang Ng©n hµng 45C

16
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Ngân hàng – Tài
chính
được thực trạng đó. Nếu ngân hàng không đủ vốn mà phải từ chối yêu cầu
xin vay của khách hàng thì cũng đồng nghĩa với sự lãng phí về một khoản
tiền gửi và cũng bỏ phí một cơ hội kinh doanh nào đó trong tương lai với
khách hàng do họ đã bị thất vọng và không còn tín nhiệm đối với ngân
hàng đó nữa. Như vậy, việc đưa ra các hình thức huy động phù hợp linh
hoạt là điều rất cần thiết đối với Ngân hàng thương mại. Có thể phân loại
vốn huy động của ngân hàng theo các tiêu thức khác nhau:
1.2.2.1 Theo đối tượng huy động
a) Vốn huy động từ dân cư
Đây là nguồn vốn có tiềm năng lớn và khá ổn định đối với ngân
hàng. Người dân gửi tiền vào ngân hàng vừa chuẩn bị cho những công việc
trong tương lai của mình, đồng thời cũng muốn khoản tiền đó sinh lãi.
Nguồn vốn này rất đa dạng, vì thế nó có thể huy động dưới nhiều hình thức
để phục vụ mục tiêu phát triển của ngân hàng. Khi thu nhập và đời sống
của con người được nâng lên thì ngày càng có nhiều cá nhân mở tài khoản
tiền gửi tại ngân hàng và thực hiện các giao dịch, thanh toán qua ngân
hàng. Do vậy, tài khoản tiền gửi các nhân cũng góp phần tăng cường nguồn
vốn tín dụng cho các Ngân hàng thương mại.
b) Vốn huy động từ các tổ chức kinh tế, các tổ chức tín dụng
Vốn huy động của Ngân hàng thương mại từ các tổ chức kinh tế là số
tiền tạm thời nhàn rỗi, là lượng tiền vừa được giải phóng khỏi quá trình
luân chuyển vốn trong quá trình sản suất kinh doanh của doanh nghiệp
nhưng chưa có nhu cầu sử dụng hay là số tiền được sử dụng cho những
mục tiêu định sẵn vào một thời điểm nhất định được gửi tại ngân hàng với
nhiều mục đích khác nhau. Các ngân hàng phát triển và quản lý tốt các tài
khoản này sẽ cho phép ngân hàng có một nguồn vốn đáng kể với chi phí
thấp.

Ngân hàng thương mại có thể huy động vốn bằng hình thức đi vay
các ngân hàng thương mại khác và các tổ chức tín dụng. Loại vốn này lãi
Lª ThÞ Trang Ng©n hµng 45C
17
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Ngân hàng – Tài
chính
suất có lúc cao hơn lãi suất từ các nguồn tiền gửi hay huy động từ dân cư.
Tuy nhiên, nó cũng hết sức cần thiết để đáp ứng nhu cầu dự trữ, chi trả cấp
bách và trong nhiều trường hợp nó bổ sung hoặc thay thế cho nguồn vay
mượn từ Ngân hàng thương mại. Các ngân hàng có thể vay mượn mà
không cần phải đảm bảo hoặc được đảm bảo bằng chứng khoán của kho
bạc.
c) Vốn huy động khác
Đây là những nguồn vốn mà ngân hàng tạo lập được khi thực hiện
chức năng làm trung gian thanh toán hoặc làm đại lý, tiếp nhận vốn tài trợ
uỷ thác đầu tư.
Vốn trong thanh toán được tạo lập từ các tài khoản mở thư tín dụng,
tài khoản bảo lãnh…mà chưa đến hạn thanh toán, thực hiện nghiệp vụ đại
lý, tiếp nhận vốn tài trợ uỷ thác đầu tư thì Ngân hàng thương mại cũng tạo
lập một lượng nguồn vốn nhất định …
1.2.2.2 Theo hình thức huy động
a) Vốn huy động qua tiền gửi
Tiền gửi của khách hàng là nguồn tài nguyên quan trọng nhất của
ngân hàng thương mại.Tiền gửi là nguồn vốn quan trọng để ngân hàng thực
hiện các nghiệp vụ tín dụng là nền tảng cho sự thịnh vượng và phát triển
của ngân hàng. Ngân hàng cung cấp rất nhiều loại hình tiền gửi khác nhau
và mỗi công cụ huy động tiền gửi mà ngân hàng đưa ra đều có nhưng đặc
điểm riêng. Để gia tăng lượng tiền gửi trong môi trường cạnh tranh và để
có được nguồn tiền có chất lượng ngày càng cao, các ngân hàng đã đưa ra
và thực hiện nhiều hình thức huy động phong phú:


Tiền gửi không kỳ hạn: ( tiền gửi thanh toán hoặc tiền gửi phát séc )
Là loại tiền gửi mà người gửi tiền có thể rút ra bất cứ lúc nào để đáp
ứng nhu cầu sử dụng, ngân hàng phải có trách nhiệm thoả mãn nhu cầu đó
của khách hàng vào bất cứ lúc nào khi khách hàng yêu cầu dù ngân hàng
Lª ThÞ Trang Ng©n hµng 45C
18
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Ngân hàng – Tài
chính
đang gặp khó khăn về vốn hay thị trường đang không ổn định gây bất lợi
cho ngân hàng.
Qua nghiệp vụ này cả khách hàng và ngân hàng cả hai bên sẽ đều có
lợi. Đối với khách hàng, nhờ gửi tiền vào ngân hàng mà thu được lãi tiền
gửi, nhưng vẫn có thể rút tiền bất cứ lúc nào hoặc khi thực hiện các dịch vụ
tiện lợi của ngân hàng như thanh toán bằng chuyển khoản. Còn đối với
ngân hàng thì tiền gửi thanh toán như một khoản nợ mà ngân hàng sẽ phải
trả cho khách hàng gửi tiền vào bất cứ lúc nào họ yêu cầu, nếu chậm trễ
hoặc không đầy đủ coi như ngân hàng vi phạm thoả thuận và phải chịu phạt
theo quy định của luật pháp. Ngân hàng có thể sử dụng loại tiền gửi thanh
toán này để cho vay, tuy nhiên việc cho vay phải có mức độ, phải có dự trữ
nhằm đáp ứng kịp thời, đầy đủ các yêu cầu của khách hàng và chấp hành
quy định của Ngân hàng nhà nước.

Tiền gửi có kỳ hạn:
Đây là loại tiền gửi mà khi gửi tiền vào ngân hàng có sự thoả thuận
giữa ngân hàng và khách hàng về lãi suất tiền gửi và thời hạn rút tiền.
Thông thường ngân hàng quy định khách hàng không được rút tiền trước
thời hạn; Tuy nhiên do áp lực cạnh tranh hiện nay các ngân hàng vẫn phải
chấp nhận cho khách hàng rút ra trước hạn nhưng người gửi chỉ được
hưởng lãi suất thấp hơn lãi suất đã thoả thuận ban đầu hoặc chịu một mức

phạt nhất định tuỳ thuộc vào chính sách huy động vốn của ngân hàng và
loại tiền gửi có kỳ hạn.
Tiền gửi có kỳ hạn là nguồn vốn mang tính ổn định và ngân hàng có
thể sử dụng loại tiền gửi này một cách chủ động làm nguồn vốn kinh
doanh. Do đó để khuyến khích khách hàng gửi tiền, các ngân hàng thường
đưa ra nhiều loại kỳ hạn khác nhau nhằm đáp ứng nhu cầu gửi tiền của
khách hàng. Với mỗi kỳ hạn ngân hàng áp dụng một mức lãi suất tương
ứng theo nguyên tắc: kỳ hạn càng dài thì mức lãi suất càng cao và với
nhiều điều khoản hấp dẫn khách hàng để tạo sự khác biệt.
Lª ThÞ Trang Ng©n hµng 45C
19
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Ngân hàng – Tài
chính

Tiền gửi tiết kiệm
Là hình thức huy động truyền thống của ngân hàng. Khi gửi tiền vào
Ngân hàng, người gửi tiền được nhận sổ tiết kiệm, đó là chứng từ đảm bảo
tiền gửi, là giấy chứng nhận khách hàng đã tiền gửi vào ngân hàng và
người có sổ tiết kiệm có thể mang sổ này đến ngân hàng cầm cố để vay
vốn.
Tiền gửi tiết kiệm của dân cư cũng có 2 loại đó là: Tiết kiệm có kỳ
hạn và tiết kiệm không có kỳ hạn.
Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn: Là khoản tiền tiết kiệm mà khách
hàng có thể rút tiền vào bất cứ lúc nào mà không cần phải báo trước cho
ngân hàng với mục tiêu nhờ ngân hàng giữ hộ tiền là chủ yếu. Với tiền gửi
tiết kiệm không kỳ hạn ngân hàng chỉ trả cho người gửi tiền lãi suất bằng
lãi suất tiền gửi thanh toán. Nguồn vốn này mang lại cho ngân hàng nguồn
lợi cao hơn vì lãi suất thấp, tuy vậy nguồn vốn này không ổn định mà
thường xuyên biến động .
Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn: Đây là nguồn vốn mang tính ổn định

cao nên ngân hàng rất chú trọng huy động nguồn vốn theo hình thức này.
Các Ngân hàng thương mại nhà nước thường đưa ra nhiều loại sản phẩm
với các loại kỳ hạn khác nhau như loại 1, 2, 3 tháng đến 1, 2, 3 năm…nhằm
thu hút ngày càng nhiều hơn nguồn vốn đầy tiềm năng này.
Mỗi lần gửi tiền tiết kiệm có kỳ hạn ngân hàng phải giao cho khách
hàng một sổ tiết kiệm có kỳ hạn, một người gửi nhiều lần thì ngân hàng
phải phát hành nhiều sổ tiết kiệm và người gửi tiền phải lưu giữ và bảo
quản nhiều sổ tiết kiệm đó, đối với ngân hàng sẽ chi phí cao hơn trong việc
in ấn sổ tiết kiệm, khó khăn trong việc hạch toán và theo dõi; đối với khách
hàng thì việc bảo quản cũng không thuận lợi lại không được mua bán
chuyển nhượng trên thị trường đồng thời không được hưởng các dịch vụ
ngân hàng từ tài khoản tiết kiệm này.
Lª ThÞ Trang Ng©n hµng 45C
20
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Ngân hàng – Tài
chính
b) Vốn huy động thông qua phát hành giấy tờ có giá

Trái phiếu ngân hàng: Là một trong nhiều công cụ vay nợ dài hạn trên
thị trường vốn. Nguồn vốn này mang tính ổn định cao về thời gian sử dụng
do đó nó cho phép ngân hàng có được lượng vốn dài hạn để thực hiện các
dự án đầu tư dài hạn. Tuy vậy lãi suất lại phụ thuộc vào thời gian huy động
trái phiếu, thời gian huy động càng dài thì lãi suất càng cao và ngược lại.
 Kỳ phiếu ngân hàng : Là hình thức huy động vốn có ưu thế hơn so với
trái phiếu vì kỳ hạn ngắn hơn và thường có lãi suất cao hơn lãi suất tiết
kiệm, nó được sử dụng tuỳ vào tình hình cụ thể của vốn ngân hàng. Đây là
công cụ có tính lỏng cao, dễ chuyển nhượng thành tiền mặt khi cần cho nên
nó được các nhà đầu tư rất ưa thích.
 Chứng chỉ tiền gửi : Là một giấy biên nhận có hưởng lãi, xác nhận về
khoản vốn gửi tại ngân hàng. Khi Ngân hàng thương mại phát hành chứng

chỉ tiền gửi nhằm vay tiền mặt trên thị trường, chứng chỉ là giấy xác nhận
khoản vay này. Như thế, nó là phiếu nợ, là phiếu vay tiền do các Ngân hàng
thương mại phát ra. Trước đây, lãi suất của chứng chỉ tiền gửi là cố định,
hiện nay các chứng khoán này mang lãi suất thoả thuận, tức là nó có thể
thay đổi theo điều kiện của thị trường. Đây cũng được coi như là một loại
tiền gửi của khách hàng nhưng khác ở chỗ nó chỉ có thể đổi thành tiền khi
đến hạn, nên nó tạo cho ngân hàng một nguồn vốn khá ổn định, giúp ngân
hàng chủ động hơn trong kinh doanh. Chứng chỉ này trở thành loại đầu tư
ngắn hạn hấp dẫn nhất đối với các nhà kinh doanh và hộ gia đình, vì nó
được sử dụng và chấp nhận không khác gì séc hay tiền mặt mà có lãi suất,
trong khi séc và tiền mặt không có lãi suất.
1.2.2.3 Theo thời gian huy động
Việc phân loại vốn theo thời gian có thể giúp cho ngân hàng có thể
chủ động được hoạt động tín dụng của mình. Tuỳ theo kỳ hạn tương ứng
mà ngân hàng có thể đề ra các giải pháp cụ thể để điều chỉnh nguồn vốn
của mình.
Lª ThÞ Trang Ng©n hµng 45C
21
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Ngân hàng – Tài
chính
a) Vốn huy động ngắn hạn: Là những khoản tiền có thời hạn dưới 1
năm mà ngân hàng áp dụng để huy động vốn ngắn hạn trên thị trường. Để
thoả mãn nhu cầu của khách hàng, ngân hàng có thể chia nhỏ từng kỳ hạn
thành nguồn 3, 6, 9, 12 tháng với mức lãi suất phù hợp và thấp hơn so với
loại có kỳ hạn dài hơn. Nguồn vốn này thường chiếm tỷ trọng khá cao
trong tổng nguồn vốn huy động được của ngân hàng.
b) Vốn huy động trung hạn: Để phục vụ chủ yếu cho các khoản vay
trung hạn, các Ngân hàng thương mại đã tạo ra các sản phẩm với các mức
kỳ hạn từ 1 đến 5 năm. Do thời gian huy động khá dài cho nên nguồn này
không được nhiều sự ưa chuộng của khách hàng. Vì nguồn vốn này đóng

vai trò rât quan trong trong hoạt động kinh doanh của mình, cho nên ngân
hàng cần phải thực hiện có hiệu quả các giải pháp để thu hút được nhiều
hơn nguồn vốn này.
c) Vốn huy động dài hạn: Là những khoản tiền mà ngân hàng huy
động có thời hạn từ 5 năm trở lên, được dùng cho các dự án đầu tư dài hạn
mang tính khả thi. Đây là nguồn vốn ổn định mà ngân hàng huy động
nhưng các ngân hàng cũng phải trả mức lãi suất cao hơn cho những khoản
vốn này.
1.3 CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HUY ĐỘNG VỐN CỦA NHTM
1.3.1. Nhóm nhân tố khách quan
Những nhân khách quan thuộc về môi trường bên ngoài ngân hàng
thương mại, các ngân hàng thương mại chỉ có thể nhận biết và tìm cách hạn
chế tác động tiêu cực của chúng mà không thể thay đổi các nhân tố này
được.
1.3.1.1 Môi trường kinh tế - xã hội
Một nền kinh tế ổn định luôn là điều kiện thuận lợi cho hoạt động
ngân hàng. Nền kinh tế được coi là ổn định khi lạm phát được kiểm soát,
không có dấu hiệu của khủng hoảng hay suy thoái, mức sống của người dân
được bảo đảm…Khi đó đời sống của người dân ổn định, hoạt động sản xuất
Lª ThÞ Trang Ng©n hµng 45C
22
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Ngân hàng – Tài
chính
kinh doanh có hiệu quả, nguồn vốn sẽ chảy vào ngân hàng nhiều hơn. Với
một nền kinh tế ổn định, giá cả hàng hoá - dịch vụ cũng như sức mua của
đồng tiền tạo cho người dân cảm giác tin tưởng thì họ mới an tâm gửi tiền
vào ngân hàng. Ngược lại, một nền kinh tế suy thoái hay có lạm phát cao
thì người dân sẽ có xu hướng giữ tiền mặt hoặc mua vàng hay ngoại tệ
mạnh để dự trữ.
Bên cạnh các yếu tố vĩ mô như lạm phát hay suy thoái…hoạt động

huy động vốn còn chịu ảnh hưởng của các yếu tố như mật độ dân cư trong
địa bàn hoạt động, thu nhập trung bình của dân cư, của các tổ chức kinh tế
trong địa bàn…Nếu ngân hàng có địa bàn hoạt động ở khu vực tập trung
đông dân cư và các tổ chức kinh tế thì sẽ có khả năng huy động được nhiều
vốn hơn các ngân hàng hoạt động ở địa bàn miền núi hay hải đảo xa xôi.
Mức thu nhập của dân cư cũng là tác nhân quyết định đến quy mô của
nguồn vốn huy được, điều này có thể dễ dàng thấy được rằng nếu như
người dân có thu nhập tương đối cao, sau khi đã chi trả cho các nhu cầu của
cuộc sống mà vẫn còn lại một khoản tiền thì họ sẽ gửi tiền vào ngân
hàng…
Ngoài ra còn một yếu tố đó là thói quen tiêu dùng và tiết kiệm của
người của người dân. Ví dụ như Việt Nam là một quốc gia mà người dân
vẫn quen giao dịch bằng tiền mặt, một phần là do trình độ khoa học công
nghệ, luật pháp ở Việt nam chưa đủ để đáp ứng yêu cầu thanh toán qua
chuyển khoản nhưng nhìn chung tâm lý của người Việt Nam vẫn “thích”
tiền mặt hơn là sử dụng các loại dịch vụ ngân hàng và điều này cũng làm
giảm hiệu quả hoạt động của ngân hàng nhất là trong lĩnh vực thanh toán.
1.3.1.2 Môi trường chính trị - pháp lí
Đây là nhân tố có ảnh hưởng quan trọng tới toàn bộ nền kinh tế chứ
không phải chỉ riêng ngành ngân hàng. Chính trị và kinh tế là hai phạm trù
có sự tác động qua lại, ảnh hưởng đến nhau rõ rệt. Chính trị ảnh hưởng tới
nền kinh tế và các hoạt động chính trị cũng mang mục đích kinh tế và tạo ra
Lª ThÞ Trang Ng©n hµng 45C
23
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Ngân hàng – Tài
chính
những biến động về chính trị. Bất kỳ một sự thay đổi nào về chính trị cũng
có thể tạo ra một tác động to lớn với nền kinh tế. Tình hình chính trị ổn
định tạo điều kiện cho kinh tế vận hành trôi chảy và ổn định. Nếu tình hình
chính trị bất ổn sẽ tạo ra tâm lý hoang mang trong dân cư, việc họ rút tiền ồ

ạt hoặc chuyển tiền ra các ngân hàng nước ngoài là điều hoàn toàn có thể
xảy ra.
Ngoài các yếu tố chính trị, hoạt động ngân hàng còn chịu sự chi phối
của hành lang pháp lý bao gồm thể chế trong và ngoài quốc gia (đối với các
ngân hàng có phạm vi hoạt động mở rộng ra ngoài biên giới ).Như chúng ta
đã biết, ngân hàng là một ngành có ảnh hưởng quan trọng đối với cả nền
kinh tế, hoạt động của ngân hàng còn mang tính xã hội hoá cao. Do đó, sự
sụp đổ của một ngân hàng sẽ kéo theo sự sụp đổ dây chuyền của cả hệ
thống ngân hàng gây hậu quả nghiêm trọng cho nền kinh tế, thậm chí gây
ra khủng hoảng kinh tế. Vì vậy, ngân hàng cần phải được quản lí chặt chẽ,
nghiêm ngặt để tránh hậu quả đáng tiếc cho nền kinh tế. Khung pháp lý áp
dụng đối với ngành ngân hàng cần phải đảm bảo mức độ an toàn cho các
ngân hàng, ngăn ngừa ngân hàng tham gia vào các vụ đầu tư và hoạt động
mạo hiểm có thể ảnh hưởng đến quyền lợi của khách hàng. Pháp luật về
ngân hàng thông thoáng sẽ tạo điều kiện cho ngân hàng thực hiện tốt các
chức năng của mình và kinh doanh có hiệu quả. Một môi trường pháp lí
không rõ ràng minh bạch, nhiều trở ngại cho nhiều hoạt động ngân hàng
chắc chắn sẽ gây ra khó khăn cho các Ngân hàng thương mại trong quá
trình hoạt động của mình. Bên cạnh các quy định của pháp luật còn phải
nhắc đến các quy định của Ngân hàng nhà nước đối với hoạt động của
Ngân hàng thương mại. Quy định về quy mô các khoản vay, về điều kiện
tín dụng, phát hành các loại giấy nợ…đều gây ra ảnh hưởng tới hoạt động
của ngân hàng thương mại.
Lª ThÞ Trang Ng©n hµng 45C
24
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Ngân hàng – Tài
chính
1.3.1.3 Các nhân tố thuộc về khách hàng
Nhân tố ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động huy động vốn của Ngân
hàng thương mại đó là những người gửi tiền vào ngân hàng, người vay tiền

và các khách hàng sử dụng dịch vụ của ngân hàng. Khách hàng vừa là
nguồn cung về vốn tín dụng đồng thời cũng là nguồn cầu vốn vay. Với tư
cách là bên cung về vốn tín dụng, họ mong nhận được từ ngân hàng một
khoản lãi từ tiền gửi, dịch vụ liên quan. Vì chất lượng tạo vốn phụ thuộc
vào cả 3 yếu tố khách hàng, ngân hàng và uy tín của ngân hàng. Ngân hàng
có uy tín càng cao thì càng thu hút được càng nhiều khách hàng đến với
mình. Trong môi trường cạnh tranh như hiện nay, khách hàng càng có
nhiều cơ hội lựa chọn hình thức đầu tư của mình. Họ chỉ tìm đến địa chỉ để
gửi hay để vay tiền ở những nơi họ thấy thuận tiện nhất. Trong điều kiện ít
có sự khác biệt như hiện nay nếu ngân hàng nào đáp ứng được nhu cầu của
khách hàng với thái độ thân thiện, thủ tục đơn giản sẽ thu hút được nhiều
khách hàng tốt tạo điều kiện cho hoạt động huy vốn được thuận lợi, hiệu
quả kinh doanh của ngân hàng sẽ cao.
1.3.1.4. Đối thủ cạnh tranh của ngân hàng
Trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh là yếu tố không thể tránh khỏi
và cạnh tranh được coi là động lực của sự phát triển trong bất kỳ lĩnh vực
nào. Ngày nay, môi trường cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng ngày càng
khốc liệt khi thị trường tài chính ngày càng đa dạng, phức tạp do có sự
tham gia của nhiều ngân hàng và các tổ chức tài chính phi ngân hàng. Để
cạnh tranh được với các đối thủ các ngân hàng phải nghiên cứu kỹ các điều
kiện thị trường và đưa ra mức lãi suất phù hợp, cải tiến chất lượng phục
vụ…
Bên cạnh đó, thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản cũng là
yếu tố cạnh tranh đối với hoạt động của ngân hàng nói chung và hoạt động
huy động vốn nói riêng. Sự phát triển của những thị trường này đã giúp
người dân ngày càng có nhiều cơ hội lựa chọn các hình thức đầu tư. Để làm
Lª ThÞ Trang Ng©n hµng 45C
25

×