Tải bản đầy đủ (.doc) (63 trang)

Tăng cường huy động vốn tại chi nhánh Ngân hàng Công Thương Hà Tây

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (628.37 KB, 63 trang )

Trường đại học Kinh tế quốc dân

1

chuyên đề tốt nghiệp

Lời mở đầu
Việt Nam là một nước đông dân, tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh
trong khi hệ thống NHTM lại mới phát triển, tiềm lực còn yếu, nguồn vốn
nhàn rỗi trong dân cư còn lớn, đây là thị trường hấp dẫn với các nhà đầu tư
nước ngoài. Đồng thời, theo cam kết khi gia nhập WTO, đến năm 2010 nước
ta sẽ mở cửa nền kinh tế về mọi mặt đã tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà
đầu tư nước ngoài, các Ngân Hàng lớn trên thế giới hoạt động tại Việt Nam,
tạo mơi trưịng cạnh tranh bình đẳng giữa các Ngân Hàng trong và ngồi
nước.
Vì vậy, mỗi Ngân Hàng cần phải xây dựng cho mình chính sách phát
triển tối ưu trong thời gian tới. Đặc biệt là giải pháp để khai thác hiệu quả
nguồn vốn trong nước, tăng cường khả năng cạnh tranh cũng như góp phần
thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Trong xu hướng đó, đề tài: “Tăng cường huy động vốn tại chi nhánh
Ngân hàng Công Thương Hà Tây” được lựa chọn.
Đề tài gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về vốn và nghiệp vụ huy
động vốn của NHTM
Chương 2: Thực trạng công tác huy động vốn tại NHCT Hà Tây giai
đoạn 2005 – 2007
Chương 3: Giải pháp nhằm tăng khả năng huy động vốn tại NHCT Hà
Tây

SVTH: Dương thị huyền


Lớp: TCDN – 46QN


Trường đại học Kinh tế quốc dân

2

chuyên đề tốt nghiệp

CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HUY ĐỘNG VỐN CỦA
NHTM
1.1.

Vốn và vai trò của vốn trong hoạt động kinh doanh của NHTM

1.1.1. khái niệm
Vốn là lượng tiền được dùng để đầu tư vào hoạt động sản xuất kinh
doanh nhằm tạo ra lợi nhuận sau một khoảng thời gian nhất định. Đối với
hàng hóa thơng thường được lưu thơng trên thị trường, người sở hữu hàng
hóa bán quyền sở hữu hàng hóa của mình, cịn “hàng hóa” vốn thì được lưu
thông, mua bán trên thị trường vốn và người sở hữu vốn không bán quyền sở
hữu mà bán quyền sử dụng vốn. Sau một thời gian nhất định, người mua
quyền sử dụng vốn phải trả cho người sở hữu vốn một khoản tiền nhất định.
Đối với ngân hàng, vốn là những giá trị tiền tệ do ngân hàng tự tạo lập
hoặc từ đi vay, từ huy động,.. được dùng vào haọt động cho vay, đầu tư hoặc
thực hiện các dịch vụ kinh doanh khác.
1.1.2.Vai trò của vốn trong hoạt động kinh doanh của NHTM
Đặc trưng của hoạt động Ngân hàng là “Kinh doanh tiền tệ”, vì thế
vốn kinh doanh khơng chỉ là phương tiện kinh doanh mà còn là đối tượng
kinh doanh chủ yếu của Ngân hàng. Một ngân hàng khơng có vốn thì khơng

thể thực hiện được các nghiệp vụ kinh doanh của mình. Vốn quyết định đến
quy mơ hoạt động tầm cỡ của một ngân hàng, vốn lớn là lợi thế đầu tiên trong
việc chấp hành luật pháp, tạo thế mạnh và thuận lợi trong kinh doanh tiền tệ.
Ngân hàng có lượng vốn lớn thể hiện khả năng thanh toán tốt, tạo được niềm
tin của khách hàng, vốn lớn là điệu kiện để gây dựng vị thế của ngân hàng
trên thị trường, tạo khả năng cạnh tranh. Vốn lớn và đa dạng tạo sự thuận lợi
cho việc sử dụng tổng hòa các loại vốn.

SVTH: Dương thị huyền

Lớp: TCDN – 46QN


Trường đại học Kinh tế quốc dân

1.2.

3

chuyên đề tốt nghiệp

Nghiệp vụ huy động vốn của NHTM

Ngân hàng kinh doanh tiền tệ dưới hình thức huy động, cho vay, đầu tư
và cung cấp các dịch vụ khác. Huy động vốn – hoạt động tạo nguồn vốn cho
ngân hàng thương mại – đóng vai trị quan trọng, ảnh hưởng tới chất lượng
hoạt động của ngân hàng.
1.2.1. Vốn chủ sở hữu
Vốn chủ sở hữu được hình thành bằng nhiều cách khác nhau. Với ngân hàng
tư nhân, vốn ban đầu thuộc sở hữu cá nhân. Để phân biệt với các khoản tiền

của chủ thể khác mà ngân hàng đang nắm giữ (các khoản nợ), chủ ngân hàng
cịn gọi vốn mình ứng ra trong kinh doanh là vốn tự có. Với chức năng trung
gian tài chính, chủ ngân hàng khơng ngừng huy động tiền của chủ thể khác để
đầu tư, do vậy dần dần vốn của chủ ngân hàng chỉ chiếm một phần nhỏ trong
tổng vốn. Một số ngân hàng trung ương qui định giới hạn tỷ lệ vốn chủ trên
tổng tiền gửi nhằm tăng đảm bảo an toàn cho người gửi tiền. Tuy chiếm tỷ
trọng nhỏ, song VCSH có vai trị rất quan trọng, góp phần xác định qui mơ và
cơ cấu của ngân hàng, tăng khả năng mở rộng cho vay và đầu tư, đặc biệt là
trung và dài hạn cũng như tạo rat rang thiết bị và công nghệ ngân hàng hiện
đại. Sau đây là các bộ phận cấu thành VCSH:
 Vốn chủ sở hữu ban đầu
Tùy theo tính chất của mỗi ngân hàng mà nguồn hình thành vốn ban
đầu khác nhau. Nếu là ngân hàng thuộc sở hữu Nhà nước, ngân sách Nhà
nước cấp (vốn của Nhà nước).. Nếu là ngân hàng cổ phần, các cổ đơng đóng
góp thơng qua mua cổ phần hoặc cổ phiếu. Ngân hàng liên doanh do các bên
liên doanh góp, ngân hàng tư nhân là vốn thuộc sở hữu tư nhân.
VCSH ban đầu phải tuân thủ các qui định của Nhà nước. Các qui định
thường nêu rõ số vốn tối thiểu – vốn pháp định mà chủ ngân hàng cần phải có

SVTH: Dương thị huyền

Lớp: TCDN – 46QN


Trường đại học Kinh tế quốc dân

4

chuyên đề tốt nghiệp


khi bắt đầu hoạt động. Vốn pháp định có thể được qui định cho từng loại
ngân hàng trong từng điều kiện cụ thể.
VCSH khơng phải hồn trả. Chủ ngân hàng có thể tăng, giảm hoặc thay
đổi cơ cấu VCSH, quyết định chính sách phân phối lợi nhuận.
 Vốn bổ sung trong quá trình hoạt động
Trong quá trình hoạt động, ngân hàng gia tăng vốn của chủ theo nhiều
phương thức khác nhau tùy thuộc vào điều kiện cụ thể:
- Nguồn từ lợi nhuận: Trong điều kiện thu nhập rịng lớn hơn khơng,
chủ ngân hàng có xu hướng gia tăng vốn của chủ bằng cách chuyển
một phần thu nhập ròng thành vốn đầu tư. Tỷ lệ tích lũy tùy thuộc
vào cân nhắc của chủ ngân hàng về tích lũy và tiêu dùng. Những
ngân hàng lâu năm, thu nhập rịng lớn, nguồn vốn tích lũy từ lợi
nhuân sẽ cao so với vốn của chủ hình thành ban đầu. Đối với ngân
hàng thuộc sở hữu Nhà nước, lợi nhuận sau thuế sau khi trừ đi thua
lỗ năm trước và các chi phí đặc biệt, được trích bổ sung VCSH theo
qui định của Nhà nước. Nhiều ngân hàng trong điều lệ hoạt động
của mình đều qui định mức vốn điều lệ (tối thiểu là bằng vốn pháp
định), và thường xuyên bổ sung vốn điều lệ bằng trích lợi nhuận
- Nguồn bổ sung từ phát hành thêm cổ phần, góp thêm, cấp thêm…
để mở rộng quy mơ hoạt động, hoặc để đổi mới trang thiết bị, hoặc
để đáp ứng yêu cầu gia tăng vốn của chủ do Ngân hàng Nhà nước
quy định… Đặc điểm của hình thức huy động này là không thường
xuyên, song giúp cho ngân hàng có được lượng vốn sở hữu lớn tăng
cường năng lực tài chính vào lúc cần thiết. Trong những trường hợp
cần duy trì thị giá cổ phiếu, hoặc duy trì quyền lãnh đạo của những

SVTH: Dương thị huyền

Lớp: TCDN – 46QN



Trường đại học Kinh tế quốc dân

5

chuyên đề tốt nghiệp

cổ đơng quan trọng, Ngân hàng có thể mua lại một số cổ phiếu đã
phát hành hoặc tăng tỷ lệ lợi nhuận chia cho cổ phiếu.
- Các quĩ

Ngân hàng có nhiều quỹ, mỗi quỹ có mục đích riêng:
+ Kinh doanh của Ngân hàng luôn gắn liền với rủi ro, nhiều tài sản của
Ngân hàng đã sinh lãi một thời gian dài sau đó có thể bị tổn thất. Do vậy, các
Ngân hàng trích lập các khoản dự trữ nhằm bù đắp tổn thất (nếu có) gọi là quĩ
dự phịng tổn thất. Nếu tổn thất thực của ngân hàng nhỏ hơn số trích lập,
VCSH sẽ gia tăng và ngược lại. Một số Ngân hàng khơng hạch tốn quĩ này
vào VCSH mà vào các khoản nợ do nguồn gốc của quĩ là trích từ thu nhập
trước thuế như một khoản chi phí, và khi cần sẽ được chi ra để bù đắp tổn
thất. Như vậy độ lớn của quĩ phụ thuộc vào tổn thất rịng, thu nhập của ngân
hàng, và tỷ lệ trích lập quỹ.
+ Trong môi trường lạm phát, VCSH bị giảm giá, để đảm bảo giá trị,
các Ngân hàng có thể tích lập quỹ bảo tồn vốn tính theo tỷ lệ lạm phát. Quĩ
này làm gia tăng VCSH.
+ Trong quá trình hoạt động, có thể thị giá cổ phiếu của ngân hàng lớn
hơn mệnh giá. Khi ngân hàng phát hành cổ phiếu mới, phần chênh lệch giữa
thị giá và mệnh giá cổ phiếu được ghi lại dưới tên gọi thặng dư của vốn.
+ Do giá trị các tài sản và nợ của ngân hàng thường xuyên thay đổi
theo giá thị trường, đặc biệt là các chứng khoán, và bất động sản. Mặc dù
chưa bán, ngân hàng thường xuyên đánh giá lại chúng theo giá thị trường.

Những chênh lệch do đánh giá lại được đưa vào Quĩ đánh giá lại. Quĩ này

SVTH: Dương thị huyền

Lớp: TCDN – 46QN


Trường đại học Kinh tế quốc dân

6

chuyên đề tốt nghiệp

thường xuyên biến động gắn liền với thay đổi thị giá, cho phép nhà quản lý
đánh giá giá trị thị trường của VCSH.
Ngân hàng thường trích lập các quĩ từ lợi nhuận sau thuế như: quĩ khen
thưởng, quĩ phúc lợi, quĩ đào tạo, quĩ nghiên cứu và phát triển sản
phẩm..phần lớn các quĩ này được sử dụng trong kỳ, và khả năng sử dụng các
quỹ này vào kinh doanh tùy thuộc vào mục đích sử dụng của quỹ.
 Nguồn vay nợ có thể chuyển đổi thành cổ phần
Một số ngân hàng coi cổ phần ưu đãi có thời hạn, các khoản vay dài
hạn bằng giấy nợ có thể chuyển đổi thành cổ phiếu cũng thuộc VCSH
mặc dù chúng mang một số tính chất của một khoản nợ, tuy nhiên phần
này thường bị giới hạn và bị kiểm soát chặt chẽ. Việc gia tăng loại vốn
này có nhiều ưu điểm đối với quản lý ngân hàng như không làm thay
đổi quyền kiểm soát, hạn chế giảm cổ tức…
1.2.2. Nguồn tiền gửi và các nghiệp vụ huy động tiền gửi
Tiền gửi của khách hàng là nguồn tài nguyên quan trọng nhất của ngân
hàng thương mại. Khi một ngân hàng bắt đầu hoạt động, nghiệp vụ đầu tiên là
mở các tài khoản tiền gửi để giữ hộ và thanh toán hộ cho khách hàng, bằng

cách đó ngân hàng huy động tiền gửi của các doanh nghiệp, các tổ chức và
dân cư.
Tiền gửi là nguồn tiền quan trọng, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn
tiền cuẩ ngân hàng. Đặc điểm chung của tiền gửi là chúng phải được thanh
toán khi khách hàng yêu cầu ngay cả khi đó là tiền gửi có kỳ hạn chưa đến
hạn. Sự thay đổi, đặc biệt là tiền gửi ngắn hạn, làm thay đổi cầu thanh khoản
của ngân hàng.

SVTH: Dương thị huyền

Lớp: TCDN – 46QN


Trường đại học Kinh tế quốc dân

7

chuyên đề tốt nghiệp

Để gia tăng tiền gửi trong môi trường cạnh tranh và để có được nguồn
tiền có chất lượng ngày càng cao, các ngân hàng đã đưa ra và thực hiện nhiều
hình thức huy động khác nhau.
 Tiền gửi thanh toán (tiền gửi giao dịch hoặc tiền gửi thanh toán)
Đây là tiền của doanh nghiệp hoặc cá nhân gửi vào ngân hàng để nhờ
ngân hàng giữ và thanh toán hộ. Trong phạm vi số dư cho phép, các nhu cầu
chi trả của doanh nghiệp và cá nhân đều được ngân hàng thực hiện. Các
khoản thu bằng tiền của doanh nghiệp và cá nhân đều có thể được nhập vào
tiền gửi thanh tốn theo yêu cầu. Nhìn chung lãi suất của khoản tiền này rất
thấp (hoặc bằng khơng), thay vào đó chủ tài khoản có thể được hưởng các
dịch vụ ngân hàng với mức phí thấp.

Tiền gửi có kỳ hạn có thể được gửi ở một trong hai tài khoản sau:
- Tài khoản séc: tài khoản này chỉ có thể sử dụng số thực có của mình
nghĩa là tài khoản của khách hàng phải ln dư có. Do tính thuận lợi của
tài khoản này (có thể chuyển đổi thành tiền mặt 100% an tồn, thuận lợi
trong thanh tốn) nên nó là hình thức hấp dẫn đối với khách hàng, đồng
thời thông qua việc giữ tài khoản cho một số đông khách hàng, ngân hàng
có thể thu được một lượng tiền gửi rất lớn.
- Tài khoản vãng lai: đây cũng là một loại tài khoản séc nhưng khác ở chỗ
tài khoản này có thể phát séc vượt quá dư của mình đến một mức độ nhất
định (đã được thỏa thuận trước với ngân hàng). Đối với tài khoản vãng lai
có hai lãi suất đồng thời: lãi suất mà đơn vị trả cho ngân hàng (nếu dư nợ
trên tài khoản) và lãi suất ngân hàng trả cho đơn vị (nếu dư có trên tài
khoản). Lãi suất này do chủ tài khoản và ngân hàng thỏa thuận trước và
lãi suất trả cho số dư nợ luôn lớn hơn lãi trả cho số dư có. Chính vì sự
phân biệt đó mà khách hàng phải tìm mọi cách gửi tiền vào tài khoản

SVTH: Dương thị huyền

Lớp: TCDN – 46QN


Trường đại học Kinh tế quốc dân

8

chuyên đề tốt nghiệp

nhằm làm giảm dư nợ đến mức thấp nhất, từ đó làm tăng nguồn vốn của
ngân hàng.
 Tiền gửi có kỳ hạn của các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội

Nhiều khoản thu bằng tiền của các doanh nghiệp và tổ chức xã hội sẽ
được chi trả sau một khoảng thời gian xác định. Tiền gửi thanh toán tuy rất
thuận tiện cho hoạt động thanh toán song lãi suất lại thấp. Để đáp ứng nhu
cầu tăng thu của người gửi tiền, ngân hàng đã đưa ra hình thức tiền gửi có kỳ
hạn. Người gửi khơng được sử dụng các hình thức thanh toán đối với tiền gửi
thanh toán để đáp dụng đối với loại tiền gửi này. Nếu cần chi tiêu, người gửi
tiền phải đến ngân hàng để rút tiền ra. Tuy khơng thuận lợi cho tiêu dùng
bằng hình thức tiền gửi thanh tốn, song tiền gửi có kỳ hạn được hưởng lãi
suất cao hơn tùy theo độ dài của kỳ hạn.
 Tiền gửi tiết kiệm của dân cư
Các tầng lớp dân cư đều có các khoản thu nhập tạm thời chưa sử dụng
(các khoản tiết kiệm). Trong điều kiện có khả năng tiếp cận với ngân hàng, họ
đều có thể gửi tiết kiệm nhằm thực hiện các mục tiêu bảo toàn và sinh lời đối
với các khoản tiết kiệm, đặc biệt là nhu cầu bảo toàn. Nhằm thu hút ngày
càng nhiều tiết kiệm, các ngân hàng đều cố gắng khuyến khích dân cư thay
đổi thói quen giữ vàng vầ tiền mặt tại nhà bằng cách mở rộng mạng lưới huy
động, đưa ra các hình thức huy động đa dạng và lãi suất cạnh tranh hấp dẫn
(ví dụ như tiền gửi với các kỳ hạn khác nhau, tiết kiệm bằng ngoại tệ, bằng
vàng..). Ngân hàng có thể mở cho mỗi người tiết kiệm nhiều sổ tiết kiệm cho
mỗi kỳ hạn và mỗi lần gửi khác nhau. Sổ tiết kiệm này không dùng để thanh
tốn tiền hàng và dịch vụ song có thể thế chấp để vay vốn nếu được ngân
hàng cho phép.
 Tiền gửi của các ngân hàng khác

SVTH: Dương thị huyền

Lớp: TCDN – 46QN


Trường đại học Kinh tế quốc dân


9

chuyên đề tốt nghiệp

Nhằm mục đích nhờ thanh tốn hộ và một số mục đích khác, ngân
hàng thương mại này có thể gửi tiền tại ngân hàng khác. Tuy nhiên, quy mô
nguồn này thường không lớn.
Đặc điểm nguồn tiền gửi:
Đặc điểm chung của tiền gửi là chúng phải được thanh toán khi khách
hàng yêu cầu ngay cả khi đó là tiền gửi có kỳ hạn nhưng chưa đến hạn. Sự
thay đổi, đặc biệt là tiền gửi ngắn hạn làm thay đổi cầu thanh khoản của ngân
hàng.
Qui mô của tiền gửi rất lớn so với các nguồn khác. Thông thường
nguồn này chiếm trên 50% tổng nguồn vốn và là mục tiêu tăng trưởng hàng
năm của các ngân hàng.
Tiền gửi là đối tượng phải chịu dự trữ bắt buộc, do vậy chi phí tiền gửi
thường cao hơn trả lãi cho tiền gửi. Ở nhiều nước, ngân hàng phải mua bảo
hiểm cho tiền gửi.
Một đặc điểm ưu việt của loại hình tiết kiệm là phát hành thường
xuyên và khách hàng không bắt buộc phải đến ngân hàng làm thủ tục đổi sổ
mà khi hết hạn sẽ tự động nhập gốc và ngân hàng sẽ tính lãi kỳ hạn tiếp theo
cho khách hàng. Hiện nay, để giảm bớt thiệt thòi cho khách hàng rút tiền khi
thời gian đã quá nửa kỳ hạn, nhiều ngân hàng áp dụng lãi suất bậc thang cho
khách hàng, nếu khách hàng gửi kỳ hạn một năm nhưng đã quá ba tháng thì
sẽ được hưởng lãi suất kỳ hạn ba tháng cho đến sáu tháng, chín tháng... như
vậy khách hàng sẽ khơng cần phải làm thủ tục vay chiết khấu hoặc không bị
áp dụng lãi suất không kỳ hạn khi rút trước hạn.
1.2.3. Nguồn vốn vay và nghiệp vụ vay vốn của NHTM


SVTH: Dương thị huyền

Lớp: TCDN – 46QN


Trường đại học Kinh tế quốc dân

10

chuyên đề tốt nghiệp

Tiền gửi là nguồn chiếm tỷ trọng lớn nhất của ngân hàng thương mại, tuy
nhiên trong nhiều trường hợp nguồn tiền gửi khơng đáp ứng được nhu cầu
thanh tốn của ngân hàng buộc các ngân hàng phải đi vay bằng nhiều cách
khác nhau như:
a. Vay ngân hàng nhà nước (vay ngân hàng trung ương)
Đây là khoản vay nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách trong chi trả của
ngân hàng thương mại như thiếu hụt dự trữ bắt buộc, dự trữ thanh tốn.
Hình thức cho vay chủ yếu của ngân hàng nhà nước là tái chiết khấu, các
thương phiếu đã được ngân hàng thương mại chiết khấu trở thành tài sản
của ngân hàng. Khi cần tiền, ngân hàng mang những thương phiếu này lên
tái chiết khấu tại ngân hàng nhà nước. Nghiệp vụ này làm thương phiếu của
ngân hàng thương mại giảm đi và dự trữ (tiền mặt hoặc tiền gửi tại ngân
hàng nhà nước) tăng lên .
Việc tái chiết khấu này có thể làm lượng tiền trong lưu thơng
tăng lên trong khi ngân hàng nhà nước không muốn tiền đưa vào lưu thơng
q nhiều sẽ gây tình trạng lạm phát. Do đó ngân hàng nhà nước điều hành
việc vay mượn này một cách chặt chẽ, ngân hàng thương mại phải thực
hiện các điều kiện đảm bảo và kiểm soát nhất định. Thông thường ngân
hàng nhà nước chỉ tái chiết khấu cho những trái phiếu có chất lượng (thời

gian đáo hạn ngắn, khả năng trả nợ cao) phù hợp với muc tiêu của Ngân
hàng Nhà nước trong từng thời kỳ. Trong điều kiện chưa có thương phiếu,
ngân hàng nhà nước cho ngân hàng thương mại vay dưới hình thức tái cấp
vốn theo hạn mức tín dụng nhất định.
b. Vay các tổ chức tài chính khác
Đây là nguồn các ngân hàng vay mượn lẫn nhau và vay của các
ngân hàng khác trên thị trường liên ngân hàng. Các ngân hàng đang có dự

SVTH: Dương thị huyền

Lớp: TCDN – 46QN


Trường đại học Kinh tế quốc dân

11

chuyên đề tốt nghiệp

trữ vượt hạn mức do có kết dư gia tăng bất ngờ về các khoản tiền huy động
hoặc giảm cho vay có thể sẵn sàng cho các ngân hàng khác vay để tìm kiếm
lãi suất cao hơn. Ngược lại, các ngân hàng đang thiếu hụt dự trữ sẽ có nhu
cầu vay mượn tức thời để đảm bảo thanh khoản. Như vậy nguồn vay mượn
từ các ngân hàng khác là để đáp ứng nhu cầu dự trữ và chi trả cấp bách và
trong nhiều trường hợp nó bổ sung hoặc thay thế cho nguồn vay mượn từ
ngân hàng nhà nước. Quá trình vay mượn rất đơn giản, Ngân hàng chỉ cần
liên hệ trực tiếp với ngân hàng cho vay hoặc thông qua ngân hàng đại lý
(hoặc Ngân hàng Nhà nước) .Khoản cho vay có thể khơng cần đảm bảo
hoặc khơng được đảm bảo bằng các chứng khoán của kho bạc. Kết quả là
dự trữ của ngân hàng cho vay giảm đi và của ngân hàng đi vay tăng lên.

Hoạt động này giúp ngân hàng đi vay giảm thiểu chi phí so với đi vay ngân
hàng nhà nước mà vẫn đảm bảo mở rộng thị trường đầu ra trong điều kiện
đầu vào còn bị hạn chế, còn ngân hàng cho vay thu được một khoản lợi
nhuận (tiền lãi) từ việc cho vay.
c. Vay trên thị trường vốn
Giống như các doanh nghiệp khác, các ngân hàng cũng vay mượn
bằng cách phát hành các giấy nợ (kỳ phiếu, tín phiếu, trái phiếu) trên thị
trường vốn. Rất nhiều ngân hàng thương mại thiếu nguồn tiền gửi trung và
dài hạn dẫn đến không đáp ứng được nhu cầu cho vay trung và dài hạn. Do
vậy, các khoản vay trung và dài hạn là nhằm bổ sung cho các nguồn tiền
gửi đáp ứng nhu cầu cho vay và đầu tư trung và dài hạn.
- Kỳ phiếu ngân hàng: kỳ phiếu ngân hàng gần giống như chứng chỉ
tiền gửi đều là một loại hình phiếu nợ do ngân hàng phát hành để huy động
vốn trên thị trường, điểm khác biệt là ở chỗ kỳ phiếu không phát hành
thường xuyên nên thường có lãi suất cao hơn. Do vậy, vốn thu được từ phát

SVTH: Dương thị huyền

Lớp: TCDN – 46QN


Trường đại học Kinh tế quốc dân

12

chuyên đề tốt nghiệp

hành kỳ phiếu thường nhanh, khối lượng lớn, giúp ngân hàng sử dụng vốn
vào kinh doanh ngay được so với vốn từ tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn cần
thời gian dài.

Thực tế khi ngân hàng thương mại quyết định vay của thị trường
bằng hình thức này, bao giờ họ cũng có sẵn những kế hoạch đầu tư nhất
định và chắc chắn có hiệu quả. Do đó, việc phát hành kỳ phiếu thường bị
khống chế về khối lượng cũng như thời hạn.
-Trái phiếu: Trái phiếu là một công cụ vay nợ dài hạn trên thị trường
vốn dưới hình thức giấy nhận nợ để huy động vốn trong đó cam kết trả lãi
và gốc cho người mua (hoặc người sở hữu) sau một thời gian nhất định.
Về hình thức, trái phiếu có những điểm giống với kỳ phiếu nhưng
thời hạn dài hơn. Thời hạn vay nợ dài hơn là có chủ ý của ngân hàng phát
hành sau khi cân nhắc thời điểm và thời gian cần sử dụng vốn, đủ để đồng
vốn sau một quá trình được đưa vào đầu tư sinh lời có thể hồn trả lại cho
người giữ trái phiếu.Thơng thường đây là khoản vay khơng có bảo đảm.
Những ngân hàng có uy tín hoặc trả lãi cao sẽ vay mượn được nhiều hơn,
các ngân hàng nhỏ thường khó vay mượn trực tiếp bằng cách này, họ
thường phải vay thông qua các ngân hàng đại lý hoặc được bảo lãnh. Khả
năng vay mượn cịn phụ thuộc vào trình độ phát triển của thị trường tài
chính, tạo khả năng chuyển đổi cho các công cụ nợ dài hạn của ngân hàng.
Nghiệp vụ vay mượn tương đối phức tạp. Ngân hàng cần nghiên cứu kỹ thị
trường để quyết định qui mô, mệnh giá, lãi suất và thời hạn vay mượn thích
hợp. Các vấn đề chuyển nhượng, điều chỉnh lãi suất, bảo quản hộ cũng
được các ngân hàng quan tâm.

SVTH: Dương thị huyền

Lớp: TCDN – 46QN


Trường đại học Kinh tế quốc dân

13


chuyên đề tốt nghiệp

Về phía người mua, trái phiếu ngân hàng là giấy chứng nhận việc
đầu tư vốn và quyền được hưởng thu nhập của người mua trên số tiền mua
trái phiếu ngân hàng.
c. Vay nợ nước ngồi
Đối với các nước có nền kinh tế phát triển cao, hoạt động ngân hàng
mang tính tồn cầu thì nguồn vốn này thường xuyên và khá quan trọng. Tuy
nhiên, đối với những nước đang phát triểnvà chậm phát triển, các ngân hàng
muốn có được nguồn vốn này phải được phép của Ngân hàng nhà nước và
được vay dưới dạng hiệp định khung. Do đó, các nước đang phát triển nguồn
này chiếm tỷ trọng không lớn trong tổng nguồn của các ngân hàng thương
mại.
Đặc điểm nguồn đi vay
Tỷ trọng của nguồn này thường thấp hơn nguồn tiền gửi, trừ một số
ngân hàng chuyên hoạt động bán buôn. Các khoản đi vay thường là với thời
hạn và qui mô xác định trước, do vậy tạo thành nguồn ổn định cho khách
hàng. Khác với nguồn tiền gửi, ngân hàng không nhất thiết phải đi vay thường
xuyên: ngân hàng chỉ vay lúc cần thiết; ngân hàng hoàn toàn chủ động quyết
định lượng vay phù hợp với nhu cầu sử dụng. Nguồn vay có thể khơng chịu
dự trữ bắt buộc và bảo hiểm tiền gửi. Tuy nhiên, do rủi ro lớn hơn nên lãi suất
trả cho tiền vay thường lớn hơn lãi suất trả cho tiền gửi với cùng kì hạn. Các
khoản vay ngân hàng nhà nước và vay ngân hàng khác tuy lãi suất thấp song
thường có thời hạn ngắn, chỉ nhằm đảm bảo thanh toán tức thời cho ngân
hàng. Việc cho vay của ngân hàng nhà nước phụ thuộc rất lớn vào chính sách
tiền tệ mà ngân hàng nhà nước theo đuổi trong từng thời kì. Việc vay mượn
các ngân hàng khác trên cùng địa bàn cũng gặp khó khăn khi nhiều ngân hàng
đang thiếu phương tiện thanh toán. Muốn mở rộng qui mô vay mượn trên thị


SVTH: Dương thị huyền

Lớp: TCDN – 46QN


Trường đại học Kinh tế quốc dân

14

chuyên đề tốt nghiệp

trường liên ngân hàng, một ngân hàng cần vươn tới thị trường liên ngân hàng
quốc tế với khả năng phân tích rủi ro lãi suất và rủi ro hối đối.
Vay thơng qua phát hành các giấy nợ trung và dài hạn đóng vai trị
quan trọng trong việc tạo và gia tăng các nguồn trung và dài hạn ổn định
cao cho ngân hàng. Ngân hàng có thể sử dụng nguồn này để cho vay các dự
án, tài trợ cho trang thiết bị và bất động sản của doanh nghiệp và người tiêu
dùng. Các nhân tố ảnh hưởng quan trọng nhất là thu nhập của dân cư và ổn
định vĩ mô, sau đến là các kĩ thuật nghiệp vụ của ngân hàng nhằm tạo tính
thanh khoản của các giấy nợ và thuận tiện đối với người cho vay. Mặc dù
lãi suất thường cao hơn các nguồn khác, song ngân hàng vẫn phải sử dụng
phát hành giấy nợ trung và dài hạn khi tiền gửi không đáp ứng được nhũng
yêu cầu như ổn định, qui mô đủ lớn trong khoảng thời gian xác định.
1.2.4. Các nguồn vốn khác
Loại này bao gồm nguồn ủy thác, nguồn trong thanh toán và các
nguồn khác.
*Nguồn ủy thác:
Ngân hàng thương mại thực hiện các dịch vụ ủy thác cho vay, ủy
thác đầu tư, ủy thác cấp phát, ủy thác giải ngân và thu hộ... Các hoạt động
này tạo nên nguồn ủy thác tại ngân hàng. Cùng với sự phát triển các mối

quan hệ đa phương, rất nhiều các tổ chức kinh tế xã hội có cùng mục tiêu
phát triển như của ngân hàng, có nguồn tài chính, đã sử dụng mạng lưới
ngân hàng như các kênh dẫn vốn. Kết quả là hình thành nguồn ủy thác, làm
gia tăng nguồn vốn của ngân hàng.
*Nguồn trong thanh toán

SVTH: Dương thị huyền

Lớp: TCDN – 46QN


Trường đại học Kinh tế quốc dân

15

chuyên đề tốt nghiệp

Các hoạt động thanh tốn khơng dùng tiền mặt có thể hình thành
nguồn trong thanh tốn ( séc trong q trình chi trả, tiền kí quĩ để mở
L/C...). Những ngân hàng là ngân hàng đầu mối trong đồng tài trợ có kết số
dư từ tiền của các ngân hàng thành viên chuyển về để thực hiện cho vay.
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động huy động vốn của
ngân hàng thương mại
Nguồn tiền gửi là nguồn có tỷ trọng lớn, có thể gấp hàng chục lần
vốn tự có của ngân hàng, tạo tiền đề cho ngân hàng mở rộng nghiệp vụ tín
dụng là nghiệp vụ sinh lời chủ yếu của kinh doanh ngân hàng.
Xuất phát từ vai trò của ngân hàng thương mại đối với hoạt động của
nền kinh tế và vốn đối với hoạt động ngân hàng thương mại nên vốn nói
chung và vốn huy động nói riêng phải không ngừng mở rộng qui mô, nâng
cao hiệu quả là tiền đề quan trọng quyết định sự tồn tại và phát triển hoạt

động ngân hàng. Vì vậy, việc tăng cường huy động vốn là sự cần thiết
trong quá trình hoạt động của các ngân hàng thương mại. Việc huy động
vốn được nhiều hay ít của mỗi ngân hàng đều phụ thuộc vào các nhân tố
sau:
1.3.1. Nhân tố chủ quan
1.3.1.1. Lãi suất huy động
Người gửi tiền vào ngân hàng với nhiều mục đích khác nhau, song
rõ ràng là ngân hàng nào ra được mức lãi suất cao hơn cho người gửi thì sẽ
thu hút được nhiều khách hàng đến với mình hơn. Nhưng mức lãi suất mà
một ngân hàng đưa ra cũng phải đảm bảo nó khơng q cao so với các ngân
hàng khác,vì nếu quá cao tuy rằng đồng nghĩa với người gửi tiền nhận được
nhiều tiền lãi hơn nhưng đồng thời cũng đẩy giá đầu ra lên cao, làm hạn chế
hiệu quả cho vay làm khả năng sinh lời của ngân hàng thấp hoặc không đủ

SVTH: Dương thị huyền

Lớp: TCDN – 46QN


Trường đại học Kinh tế quốc dân

16

chuyên đề tốt nghiệp

trả lãi cho nguồn huy động sẽ có thể dẫn đến ngân hàng phá sản, gây tâm
lý lo sợ cho khách hàng. Vì vậy, khi đưa ra mức lãi suất huy động cụ thể
cho từng thời kỳ, ngân hàng phải căn cứ vào tình hình nền kinh tế, váo
chính sách tín dụng và phương hướng phát triển kinh tế của nhà nước.
Ngoài ra, cách thức khác thu hút khách hàng là áp dụng phương thức

trả lãi khác nhau như trả lãi nhiều kỳ hoặc trả lãi trước, lãi suất bậc thang...
1.3.1.2. Nguồn lực của ngân hàng
Một ngân hàng tồn tại lâu năm, đội ngũ nhân viên có kinh nghiệm,
trình độ cao sẽ hấp dẫn hơn ngân hàng mới thành lập, chưa khẳng định
được vị thế chỗ đứng của mình trong lịng khách hàng và trên thị trường.
Nguồn lực ngân hàng chính là yếu tố con người và cơ sở vật chất của
ngân hàng đó.
-Khi đến một ngân hàng thực hiện giao dịch mà khách hàng nhận
được sự phục vụ chu đáo, tận tình, lịch sự, vui vẻ và tác phong làm việc
nhanh nhẹn thì ngân hàng đó đã gây được thiện cảm tốt đẹp với khàch
hàng. Nếu làm được điều đó thì sẽ là điểm mạnh trong cạnh tranh của mỗi
ngân hàng khi mà lãi suất huy động của các ngân hàng gần như là giống
nhau.
-Cơ sở vật chất cũng là điều hết sức quan trọng và cần thiết để đánh
giá tình hình hoạt động của mỗi ngân hàng. Một ngân hàng có trị sở được
trang trí phù hợp, khang trang, sạch sẽ, trang thiết bị hiện đại sẽ làm cho
khách hàng an tâm hơn khi đến giao dịch. Ngoài ra, địa điểm giao dịch
thuận tiện sẽ tạo thuận lợi hơn cho khách hàng khi đến với ngân hàng,
cũng như giúp ngân hàng có thể quảng bá hình ảnh của mình đến với khách
hàng một cách rộng rãi hơn, hiệu quả hơn.

SVTH: Dương thị huyền

Lớp: TCDN – 46QN


Trường đại học Kinh tế quốc dân

17


chuyên đề tốt nghiệp

1.3.1.3. Các loại hình huy động
Do nhu cầu chi tiêu của từng đối tượng khách hàng khác nhau, nên
nhu cầu gửi tiền với các kỳ hạn cũng khác nhau, vì thế mà các ngân hàng
thường đưa ra nhiều hình htức huy động dài ngắn khác nhau, từ không kỳ
hạn đến hai, ba tháng... một năm và trên một năm. Vốn huy động có thể
bằng VNĐ, USD,... theo nguyên tắc thời hạn càng dài thì lãi suất càng cao.
Có thể áp dụng các hình thức tiết kiệm dự thưởng để tăng sức hấp dẫn và trí
tị mị của khách hàng hoặc chiết khấu thẻ tiết kiệm trước hạn cho khách
hàng khi cần... Mỗi sự biến động dù nhỏ về mức lãi suất hoặc hình thức
huy động đều có thể ảnh hưởng đến nguồn huy động này. Vì vậy, các ngân
hàng thương mại trước khi ra quyết định cần tính tốn kỹ những rủi ro có
thể xảy ra do nguồn vốn này lớn song lại chịu ảnh hưởng cua rtâm lý người
tiêu dùng.
1.3.1.4.Các loại dịch vụ đi kèm
Khi một ngân hàng có các dịch vụ tốt và đa dạng thì ngân hàng đó
thường có lợi thế hơn các ngân hàng khác có dịch vụ giới hạn. Vì vậy mà ở
các nước phát triển, bằng việc tạo ra các hoạt động dịch vụ (có bãi gửi xe
rộng, thuận tiện, quầy giao dịch gần đường, hệ thống ngân hàng tự động
phát triển...) đã làm cho ngân hàng của họ đến gần với người dân hơn và
một khách hàng sẽ thấy rất tiện lợi và an tồn khi mà ngân hàng có thể thay
mặt anh ta thực hiện các tài khoản thanh toán như tiền điện, nước, mua
hàng hóa dịch vụ hàng ngày mà khơng cần cầm tiền mặt bên mình.
1.3.2 Nhân tố khách quan
Ngồi nhân tố thuộc về ngân hàng thì những nhân tố bên ngồi cũng
có những ảnh hưởng lớn đến khả năng huy động vốn của một ngân hàng
như yếu tố tâm lý, thu nhập của người dân, môi trường.....

SVTH: Dương thị huyền


Lớp: TCDN – 46QN


Trường đại học Kinh tế quốc dân

18

chuyên đề tốt nghiệp

1.3.2.1.Tâm lý, thu nhập của khách hàng
Ngồi việc ngân hàng có thể cung cấp các sản phẩm, dịch vụ tiện ích
phục vụ khách hàng thì tâm lý khách hàng cũng là một yếu tố vô cùng quan
trọng, quyết định lớn đến khả năng huy động vốn của ngân hàng. Tâm lý
người dân phụ thuộc chủ yếu vào khả năng hiểu biết của họ, nếu trình độ
hiểu biết cu rdân cao, nghĩa là trình độ văn hóa cao, sự am hiểu về hoạt
động kinh doanh ngân hàng thì ngân hàng sẽ dễ dàng hơn trong việc quảng
bá , tuyên truyền các sản phẩm dịch vụ cung ứng của mình đén với khách
hàng như vậy sẽ tạo thuận lợi hơn cho cả khách hàng lẫn ngân hàng trong
việc sử dụng chúng.
Thu nhập của khách hàng cũng là một yếu tố quan trọng quyết định
đến số lượng và chất lượng tiền gửi của ngân hàng. Ở những nơi mà đời
sống phát triển, người dân có thu nhập cao thì ngân hàng sẽ dễ dàng hơn để
huy động vốn lớn mà chi phí thấp, trong khi ở những vùng kinh tế kém phát
triển, xa trung tâm thì lượng tiền nhàn rỗi trong dân thấp, ngân h àng kó
huy động vốn hơn rất nhiều.
1.3.2.2. Điều kiện kinh tế xã hội
Để huy động được nguồn vốn lớn, mỗi ngân hàng cần có những
khách hàng phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội nhất định của mỗi
địa bàn như: cơ cấu dân cư, tình hình xã hội, thu nhập...

Khi nền kinh tế phát triển không ổn định, có lạm phát hoặc có nguy
cơ xảy ra lạm phát thì người dân phần lớn khơng thích gửi tiền tiết kiệm mà
sẽ dùng để mua vàng và ngoại tệ mạnh để tích trữ với kỳ vọng bảo tồn giá
trị trong điều kiện lạm phát xảy ra. Nếu ngân hàng không có hình thức huy
động hấp dẫn như gửi tiền tiết kiệm

SVTH: Dương thị huyền

giá trị theo vàng, gửi tiết

Lớp: TCDN – 46QN


Trường đại học Kinh tế quốc dân

19

chuyên đề tốt nghiệp

kiệm có tính trượt giá, thì sẽ khơng huy động được tiền gửi tiết kiệm và lạm
phát có thể bị đẩy lên.
1.3.2.3.Môi trường pháp lý
Ngân hàng hoạt động trong điều kiện đất nước có mơi trường pháp lý
đầy đủ, chặt chẽ sẽ giúp ngân hàng dễ dàng hơn trong việc thực hiện cơng
tác huy động vốn của mình. Mơi trường pháp lý lành mạnh sẽ giúp hoạt
động kinh doanh của ngân hàng an toàn hơn, người dân cũng được bảo vệ
quyền lợi tốt hơn, khả năng tiếp cận với ngân hàng cũng dễ dàng và an tồn
hơn. Mặt khác chính bản htân ngân hàng cũng phải đảm bảo cho các hoạt
động của mình nằm trong khn khổ pháp luật cho phép, như việc phân
định rõ ràng trách nhiệm và quyền hạn của ngân hàng trong việc giữ bí mật

thơng tin tài chính của người gửi tiền, giúp khách hàng tin tưởng hơn vào
các dịch vụ của ngân hàng.

Chương II : Thực trạng hoạt động huy động vốn của ngân hàng
công thương Hà Tây giai đoạn (2005-2007)
2.1.Giới thiệu về ngân hàng công thương Hà Tây
2.1.1.Tổng quan về môi trường hoạt động
Hà Tây là một tỉnh nằm ở cửa ngõ phía Tây Nam của thủ đơ Hà Nội,
phía Bắc giáp với tỉnh Phú Thọ, phía Tây giáp với tỉnh Hịa Bình, phía
Nam giáp với tỉnh Hà Nam, có diện tích 2147 km², dân số 2,7 triệu người,
tốc độ tăng trưởng xấp xỉ 13,3%. Giá trị sản xuất công nghiệp tăng 25%,
giá trị xuất khẩu tăng 42%. Đặc biệt việc cải thiện môi trường đầu tư có sự

SVTH: Dương thị huyền

Lớp: TCDN – 46QN


Trường đại học Kinh tế quốc dân

20

chuyên đề tốt nghiệp

chuyển biến đáng kể. Hà Tây vươn lên đứng vị trí thứ 42 trong tồn quốc
về cải thiện mơi trường đầu tư đã lấy lại vị thế của mình trong con mắt các
nhà đầu tư trong và ngoài nước.
Hoạt động của các ngân hàng luôn gắn liền với sự phát triển kinh tế
và tình hình kinh tế xã hội. Trong bối cảnh chung đó, ngành ngân hàng đã
thực hiện chính sách tiền tệ thận trọng và linh hoạt nhằm kiềm chế lạm phát

đồng thời hỗ trợ tăng trưởng kinh tế.
Năm 2007, NHCT Hà tây gặp nhiều khó khăn trong hoạt động kinh
doanh, sau khi thực hiện chủ trương của Ngân hàng công thương Việt nam
về chia tách và nâng cấp các chi nhánh cấp II thành cấp I phụ thuộc Ngân
hàng công thương Việt nam. Mạng lưới huy động, các khách hàng tốt,
khách hàng truyền thống bị chia sẻ cho các chi nhánh mới nâng cấp trong
năm 2006 và đầu năm 2007. Như vậy, NHCT Hà tây chỉ còn lại hội sở và
điểm giao dịch số 1 tại La phù mới thành lập tháng 11/2006. Do đó, NHCT
Hà tây lại phải sắp xếp lại tổ chức để từng bước ổn định lại kinh doanh của
chi nhánh.
2.1.1.1.Thuận lợi
Hội sở chính của ngân hàng cơng thương Hà Tây đóng tại 169
Quang Trung, thành phố Hà Đông, Hà Tây trên trục đường vành đai nối thủ
đô Hà Nội với Hà Tây. Đây là điều kiện rất thuận lợi cho ngân hàng trong
việc tiếp cận và học hỏi kinh nghiệm quản lý kinh doanh cũng như tạo điều
kiện cho các đơn vị bạn đến giao dịch tại hội sở. Cũng do gần với thủ đô
nên ngân hàng luôn nhận được sự chỉ đạo chặt chẽ và sát sao của các cấp
chủ quản, có cơ hội tiếp cận với những trang thiết bị phục vụ ngân hàng
hiện đại một cách nhanh chóng.

SVTH: Dương thị huyền

Lớp: TCDN – 46QN


Trường đại học Kinh tế quốc dân

21

chuyên đề tốt nghiệp


Đội ngũ cán bộ cơng nhân viên có trình độ tương đối cao, nhiệt tình,
sáng tạo, đam mê cơng việc. Tính đến nay ngân hàng có 80 cán bộ
trong đó 85% có trình độ đại học và trên đại học.
Đã xây dựng được cho mình chỗ đứng riêng vững chắc, có được
lượng khách hàng thân thiết nhất dịnh và chiếm thị phần tương đối lới trong
hoạt động kinh doanh tiền tệ tại Hà Tây.
2.1.1.2.Khó khăn
Ngồi những thuận lợi nêu trên, ngân hàng công thương Hà Tây
cũng phải đối đầu với không ít khó khăn và thử thách, cụ thể là:
- Một là: Nhu cầu về vốn kinh doanh của các doanh nghiệp hầu hết là
trong thời gian dài, lãi suất thấp nhưng việc huy động vốn trung và dài hạn
lại gặp nhiều khó khăn. Để huy động được nguồn vốn đó thì phải đảm bảo
lợi ích cho người gửi tiền (lãi suất dài hạn phải lớn hơn lãi suất tiền gửi
ngắn hạn). Huy động dài hạn với lãi suất cao nên cho vay đầu tư cũng phải
với lãi suất cao sẽ gây khó khăn cho các doanh nghiệp và cho cả ngân hàng.
- Hai là: Ngân hàng công thương Hà Tây nằm ở trung tâm của tỉnh
Hà Tây, sát với thủ đô Hà Nội do vậy phải chịu sự cạnh tranh gay gắt từ
phía các ngân hàng thương mại khác trên địa bàn Hà Nội.
- Ba là: Điều kiện kinh tế xã hội của Hà Tây cịn nhiều khó khăn, thu
nhập người dân cịn thấp, sức tiêu thụ khơng cao làm vịng quay vốn của
các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của
các doanh nghiệp đối với khoản vay ngân hàng. Mặt khác, do thu nhập
chưa cao nên lượng tiền nhàn rỗi không nhiều làm cho huy động tiết kiệm
từ dân chúng gặp nhiều khó khăn nhất định.

SVTH: Dương thị huyền

Lớp: TCDN – 46QN



Trường đại học Kinh tế quốc dân

22

chuyên đề tốt nghiệp

- Bốn là: Hệ thống chính sách của nước ta cịn chưa đồng bộ, thường
xuyên sửa đổi bổ sung gây khó khăn cho các ngân hàng thương mại trong
việc áp dụng vào hoạt động kinh doanh của mình.
2.1.2.Khái quát về ngân hàng công thương Hà Tây
Ngân hàng công thương Việt Nam được thành lập theo nghị định 53/
CP và chính thức đi vào hoạt động từ tháng 7 năm 1988. Ngân hàng cơng
thương Hà Sơn Bình là một chi nhánh của ngân hàng cơng thương Viêt
Nam, là đơn vị hạch tốn độc lập có trụ sở chính tại thị xã Hà Đơng và một
chi nhánh trực thuộc tại thị xã Hịa Bình được thnàh lập và chính thức đi
vào hoạt đơng từ tháng 8 năm 1988.
Ngày 9 thág 10 năm 1991, tỉnh Hà Sơn Bình được tách ra thành 2
tỉnh Hà Tây và Hịa Bình, cùng với đó là quyết định của thống đốc ngân
hàng nhà nước Việt Nam về việc giải thể ngân hàng cơng thương tỉnh Hà
Sơn Bình phải thành lập chi nhánh ngân hàng công thương Hà Tây, bàn
giao chi nhánh Hịa Bình cho ngân hàng nơng nghiệp và phát triển nông
thôn quản lý.
Cùng với sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế, ngân hàng cơnh
thương Hà Tây đã có những sự đổi mới cho phù hợp:
- Tháng 12 năm 2001, hội đồng quản trị ngân hàng cơng thương Hà
Tây quyết định sáp nhập 2 phịng giao dịch số 2 và số 3 trực thuộc ngân
hàng công thương tỉnh Hà Tây thành chi nhánh cấp hai và chi nhánh ngân
hàng công thương Sông Nhuệ.
- Tháng 12 năm 2004, sáp nhập phòng giao dịch số 2 và số 4, nâng

cấp thành chi nhánh cấp hai Quang Trung.

SVTH: Dương thị huyền

Lớp: TCDN – 46QN


Trường đại học Kinh tế quốc dân

23

chuyên đề tốt nghiệp

- Tháng 8 nănm 2005, thực hiện hiện đại hóa ngân hàng giai đoạn
một : mọi giao dịch, bút toán... đều được hạch tốn trực tiếp từ ngân hàng
cơng thương Việt Nam.
- Ngày 1 tháng 7 năm 2006, các chi nhánh cấp hai: Sông Nhuệ,
Quang Trung, Nguyễn Trãi được tách khỏi ngân hàng công thương Hà Tây,
trở thành ngân hàng cấp một và trực thuộc ngân hàng công thương Việt
Nam.
- Ngày 1 tháng 2 năm 2007, phòng giao dịch Xuân Mai thuộc ngân
hàng công thương Hà Tây được ngân hàng công thương Việt Nam nâng
cấp thành chi nhánh cấp một.
Do quá trình phát triển kinh tế xã hội của địa phương cũng như tình
hình hoạt động kinh doanh của ngân hàng công thương Hà Tây mà quy mô
và cơ cấu tổ chức của ngân hàng thường xuyên có sự thay đổi để phù hợp
với mục tiêu phát triển của ngân hàng cũng như của địa phương.
Ngân hàng công thương Hà Tây có trụ sở chính đặt tại 269-Quang
Trung-thành phố Hà Đơng, bao gồm 8 phòng ban, 1 phòng giao dịch trực
thuộc ban giám đốc và 1 điểm giao dịch thuộc phòng kế tốn giao dịch,

tổng số cán bộ cơng nhân viên của tồn chi nhánh là 80 người trong đó
85% có trình độ đại học và trên đại học.
• Cơ cấu bộ máy tổ chức

SVTH: Dương thị huyền

Lớp: TCDN – 46QN


Trường đại học Kinh tế quốc dân

24

chuyên đề tốt nghiệp

BAN GIÁM ĐỐC

Phịng
kế tốn
giao
dịch

Phịng
tài trợ
thuong
mại

Điểm
giao
dịch số

12

Phịng
khách
hàng
doanh
nghiệp

Phịng
khách
hàng cá
nhân

Phịng
thơng
tin điên
tốn

Phịng
tiền tệ
kho quỹ

Phịng
tổng
họp tiếp
thị

Điểm
giao
dịch số

1

( Sơ đồ bộ máy tổ chúc của ngân hàng cơng thương Hà Tây)
• Chức năng nhiệm vụ
- Thực hiện nhiệm vụ kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ tín dụng và
các dịch vụ ngân hàng khác đối với toàn bộ các thành phần kinh
tế.
- Huy động vốn ngắn hạn, trung và dài hạn của các tổ chức cá
nhân, thực hiện cho vay, đầu tư bảo lãnh, thanh tốn, tìa trọ
thương mại và các dịch vụ ngân hàng khác.
- NHCT Hà tây chịu sự quản lý của NHCT VN, Ngân hàng nhà
nước, các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc chính phủ và
UBND các cấp theo chức năng quyền hạn theo qui định của pháp
luật.
2.1.3. Tình hình hoạt động kinh doanh của NHCT Hà Tây giai
đoạn (2005 – 2007)

SVTH: Dương thị huyền

Lớp: TCDN – 46QN

Phịng
tổ chức
hành
chính


Trường đại học Kinh tế quốc dân

25


chuyên đề tốt nghiệp

Nhờ sụ chỉ đạo của NHCT Việt nam, sự tin tưởng của khách hàng và
tinh thần trách nhiệm của cán bộ nhân viên chi nhánh nên dù cịn nhiều khó
khăn nhưng chi nhánh vẫn giữ được sự tăng trưởng ổn định qua các năm,
tạo được lòng tin của khách hàng đối với ngân hàng. Cụ thể, hoạt động kinh
doanh có nhiều chuyển biến tốt ở các nghiệp vụ huy động vốn, tài trợ
thuơng mại, thanh toán, dịch vụ chuyển tiền và công tác đầu tư cho vay thể
hiện qua bảng số liệu sau:
Bảng 2.1: kết quả hoạt động kinh doanh của NHCT Hà Tây giai đoạn
2005 – 2007

Đơn vị: triệu đồng
năm 2005

Chỉ tiêu

giá trị

tỷ trọng
(%)

năm 2006

giá trị

năm 2007
t


tỷ trọng
(%)

giá trị

ỷ trọng
(%)
1

I. Huy động vốn

775.397

1. Huy động ngắn hạn

265.88
8

2. Huy động trung và dài
hạn

144.07
7

100.0

652.745

34.3


350.48
2

18.6

149.66
1

100.0

777.924

00.0
7

53.7

555.600

1.4
2

22.9

158.065

0.3
0

3.Phát hành KP,TP,CCTG


12.092

4. Vay NHTW, TCTD
khác

353.34
0

1.6

32.602

45.6

120.00
0

5.0

4.259

.5
7

18.4

60.000

.7

1

II. Vốn và quỹ

-

48

100.0

163

00.0
1

III. Sử dụng vốn

773.785

100.0

690.387

100.0

761.722

00.0
0


1. dụ trữ và thanh toán
Tiền mặt, ngân phiếu
thanh toán

49.827

6.4

13.404

1.9

5.757

26.423

9.942

5.757

Tiền gửi NHNN

22.280

3.462

.8

0
6


2. Cho vay nền kinh tế

647.962

SVTH: Dương thị huyền

83.7

578.718

83.8

522.564

8.6

Lớp: TCDN – 46QN


×