Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

thực trạng về vai trò của nhà nước đối với cnh-hđh trong thời gian qua và một số giải pháp nhằm tăng cường vai trò của nhà nước đối với cnh-hđh ở nước ta

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (133.96 KB, 31 trang )

Lời mở đầu
1.Tính cấp thiết của đề tài :
Quá trình CNH-HĐH ở bất cứ quốc gia nào ,trong bất kì thời đại
lịch sử nào cũng cần có sự chỉ đạo ,chi phối của những lực l ợng
nhất định. Loài ngời đã từng chứng kiến nhiều hình thức tác
động ,điều tiết của các lực lợng khác nhau đối với các quá trình
CNH-HĐH ở những quốc gia khác nhau ,trong những thời kì lịch
sử khác nhau .
Đối với nớc Việt Nam ta, quá trình CNH-HĐH đợc khởi đầu từ
năm 1960, trên cơ sở thực hiện nghị quyết Đại hội lần thứ III của
đảng. Đờng lối CNH XHXN là một bộ phận chủ chốt trong đờng lối
cách mạng VIệt Nam do đảng vạch ra nhằm xây dựng CNXH ở
miền Bắc, giải phóng miền Nam , thống nhất đất n ớc. Từ năm
1975, đất nớc thống nhất ,tình hình trong và ngoài nớc thay đổi
nhiều, đảng ta đã bổ xung, điều chỉnh đờng lối CNH-HĐH bằng
các nghị quyết Đại hội lần IV và V. Nhng do sự duy trì cơ chế
quản lý kinh tế để CNH-HĐH vẫn trong những điều kiện và dới sự
tác động của cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp . Do
vậy vẫn còn có nhiều hạn chế trong quá trình CNH-HĐH .Từ đầu
năm 1980 những hạn chế đó đã bộc lộ những yếu kém , cản trớ
quá trình phát triển đất nớc . Đại hội VI đã nhận định , việc duy trì
quá lâu cơ chế này là một trong những nguyên nhân gây nên những
khó khăn gay gắt về kinh tế xã hội ở nớc ta trong những năm đó
.Nhận thức rõ những hạn chế ,tiêu cực của cơ chế cũ và những yêu
cầu cấp bách của đất nớc ,Đảng ta đã có nhiều tìm tòi ,thể nghiệm
để đổi mới toàn diện đất nớc . Nghị quyết Đại hội VI đã mở ra một
thời kì đổi mới về mọi mặt đời sống xã hội ,trong đó có đổi mới
cơ chế kinh tế. Các nghị quyết hội nghị Trung ơng lần thứ ba và
lần thứ sáu (khoá VI) đã xác định những nội dung chủ yếu của cơ
1
chế mới ,đánh dấu những bớc tiến rất cơ bản trong việc đổi mới cơ


chế kinh tế .Tuy nhiên phải đến đại hội VII ,đảng ta mới xác định
rõ cơ chế đó là cơ chế thị trờng có sự quản lý của nhà nớc bằng
pháp luật , kế hoạch, chính sách và các công cụ khác. Thực tế
những năm sau Hội nghị trung ơng lần thứ sáu cơ chế mới đã bắt
đầu hình thành và phát huy tác dụng điều tiết các quá trình kinh tế
một cách có hiệu quả hơn.
Tóm lại, việc nâng cao vai trò quản lý của nhà nớc có ý nghĩa
quyết định thành công của sự nghiệp CNH-HĐH đất nớc.Bởi vì ,sự
quản lý của nhà nớc trong những năm tới không chỉ định hớng và
thúc đẩy quá trình CNH-HĐH mà còn là một bộ phận cấu thành cơ
chế vận hành nền kinh tế nớc ta trong cả TKQĐ lên CNXH. Kinh
nghiệm của những nớc NIC cho thấy , trong những giai đoạn đầu
của quá trình CNH-HĐH cơ chế thị trờng cha đồng bộ và hoạt động
còn yếu nên nhà nớc phải tích cực thực hiện chức năng quản lý-
xây dựng kinh tế , can thiệp sâu vào các quá trình kinh tế , còn
khi công nghiệp đã phát triển ,kinh tế tăng trởng nhanh và ổn
định , thị trờng đợc mở rộng và hoạt động tốt thì nhà nớc giảm bớt
những chức năng quản lý xây dựng kinh tế , không cac thiệp
trực tiếp vào quản lý kinh doanh nữa , mà chuyển về chuyên lo
điều tiết vĩ mô nhằm đảm bảo sự phát triển cân đối, bền vững của
toàn xã hội cũng nh của các cộng đồng đân c khác.
2.Đối tợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Do thời gian có hạn và nội dung của đề tài chỉ đợc phép viết
trong một số trang có hạn vì vậy bài này cha thể nói hết đợctất
vấn đề mà chỉ nêu ra một số vấn đề trong vai trò của nhà nớc đối
với CNH-HĐH và phơng hớng giải quyết cùng một ít dẫn chứng cụ
thể . Đề tài chỉ xoay quoanh thực trạng CNh_HĐH của nớc ta trong
2
thời gian gần đây và một số qui đinh , chính sách cũng nh công cụ
của nhà nớc Việt nam nhằm thực hiện CNh-HĐH.

3.Bố cục đề tài
Chơng 1:Lí luận chung về vai trò của nhà nớc của nhà nớc đối với
CNH-HĐH
Chơng 2:Thực trạng về vai trò của nhà nớc đối với CNH-HĐH
trong thời gian qua và một số giải pháp nhằm tăng cờng vai trò của
nhà nớc đối với CNH-HĐH ở nớc ta

3
Nội dung
Chơng 1:Lí luận chung về vai trò của
nhà nớc Đối với CNH-HĐH
1.1 Tính tất yếu khách quan về vai trò của nhà n ớc đối với
CNH-HĐH
1.1.1 Nội dung CNH-HĐH ở nớc ta hiện nay:
Trớc đây chúng ta cho rằng, công nghiệp hoá là quá trình trang bị
kỹ thuật hiện đại cho nền kinh tế quốc dân, thay thế lao động thủ
công bằng lao động cơ khí hoá, biến một nớc kém phát triển thành
một nớc có cơ cấu công nông nghiệp hiện đại, khoa học kỹ thuật
tiên tiến.
Theo quan niệm của Liên Hợp Quốc, công nghiệp hoá là một quá
trình phát triển kinh tế trong đó một bộ phận quốc gia ngày càng
lớn đợc huy động để xây dựng cơ cấu kinh tế nhiều ngành với công
nghệ hiện đại để chế tạo ra t liệu sản xuất, hàng tiêu dùng, có khả
năng bảo đảm nhịp độ tăng trởng cao trong toàn bộ nền kinh tế và
bảo đảm sự tiến bộ kinh tế và xã hội.
Kết hợp quan niệm truyền thống với quan niệm hiện đại và vận
dụng vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, Hội nghị lần thứ VII ban
chấp hành TW Đảng khoá VII đã đa ra quan niệm mới về công
nghiệp hoá, hiện đại hoá và đây cũng chính là quan niệm đợc sử
dụng một cách phổ biến ở nớc ta trong giai đoạn hiện nay. Theo t

tởng này, Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình chuyển đổi
căn bản toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và
quản lý kinh tế-xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang
sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, ph-
ơng tiện và phơng pháp tiên tiến hiện đại, dựa trên sự phát triển
4
của công nghệ và tiến bộ khoa học- công nghệ tạo ra năng suất lao
động xã hội cao.
Thực chất của công nghiệp hóa là chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế
quốc dân gắn liền với đổi mới công nghệ. Còn hiện đại hoá là quá
trình cải biến một xã hội cổ truyền thành một xã hội hiện đại có
trình độ văn minh cao hơn, có nền kinh tế phát triển, thể hiện tập
trung ở nhịp độ tăng tổng sản phẩm chung tính theo đầu ng ời. Nh
vậy hiện đại hoá bao gồm cả các mặt kinh tế, chính trị, xã hội, văn
hoá. Công nghiệp hoá là quá trình trang bị và trang bị lại công
nghệ hiện đại cho tất cả các ngành kinh tế quốc dân, trớc hết là các
ngành chiếm vị trí trọng yếu. Đồng thời đây cũng là quá trình xây
dựng xã hội văn minh công nghiệp và cải biến các ngành kinh tế,
các hoạt động theo phong cách của nền công nghiệp lớn hiện đại.
Quá trình ấy phải có tác động làm cho nhịp độ tăng trởng kinh tế-
xã hội nhanh và ổn định. Vì vậy công nghiệp hoá phải gắn với hiện
đại hoá. Xét trên góc độ kinh tế- kỹ thuật, hiện đại hoá là cái đích
cần vơn tới trong quá trình công nghiệp hoá.
Quá trình công nghiệp hoá là quá trình bao trùm tất cả các ngành,
các lĩnh vực hoạt động của một nớc. Đặc điểm của quá trình ấy là
sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế quốc dân và cơ cấu các ngành kinh
tế. Và sự chuyển dịch này đợc thúc đẩy bằng công nghệ hiện đại.
Về tổng thể, cơ cấu kinh tế của mỗi nớc đợc cấu thành bởi ba loại
ngành tổng hợp có quan hệ ràng buộc nhau. Đó là nông nghiệp,
công nghiệp và dịch vụ. Trong quá trình công nghiệp hoá chúng ta

thấy rõ sự chuyển dịch cơ cấu theo hớng nâng cao tỷ trọng của khu
vực công nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ trọng khu vực nông nghiệp
Công nghiệp hoá vừa là quá trình kinh tế- kỹ thuật vừa là quá
trình kinh tế- xã hội. Quá trình ấy sẽ thủ tiêu tình trạng lạc hậu về
kỹ thuật, thấp kém về kinh tế, đồng thời cũng thủ tiêu tình trạng
5
lạc hậu về xã hội, nâng cao mức sống của dân c, đa xã hội đến
trình độ văn minh công nghiệp. Quá trình kinh tế- xã hội và quá
trình kinh tế- kỹ thuật có quan hệ ràng buộc, tác động qua lại lẫn
nhau.
1.1.2 Tính tất yếu khách quan về vai trò của nhà n ớc đối
với CNH-HĐH
Quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội(CNXH) đợc thực hiện tuỳ theo
điều kiện hoàn cảnh riêng biệt của từng nớc .Đối với những nớc mà
điểm xuất phát là nền kinh tế chủ yếu là sản xuất nhỏ tự cung tự
cấp ,lại bị tàn phá qua nhiều cuộc chiến tranh nh Việt Nam thì con
đờng đi lên CNXH bỏ qua giai đoạn phát triển chế độ T bản(TB) là
con đờng đầy những gian nan vất vả . Vì thực tế, chúng ta cha trải
qua cuộc cách mạng kĩ thật nh đã diễn ra trong thế kỷ XVIII , cuộc
cách mạng thực hiện bứơc chuyển từ xản xuất thủ công sang sản
xuất bằng cơ giới, xác lập sự xã hội hoá , chuyên môn hoá trong
sản xuất , tạo ra môi trờng tôi luyện ngời lao động có kĩ thuật cao
để đa xã hội cổ truyền sang xã hội hiện đại vớilực lợng sản xuất
đang ở trình độ thấp,công cụ thô sơ , phơng thức hợp tác giản đơn,
phân công lao động chậm phát triển , vẫn còn quy tụ chủ yếu trong
lĩnh vực nông nghiệp , sản xuất hàng hoá cha phát triển để thực
hiện sự mở rộng giao lu kinh tế , do đó vẩn còn cơ sở bảo tồn cho
một nền kinh tế hiện vạt mang tính tự cung tự cấp. Vai trò của nhà
nớc trong lĩnh vực này là phải xây dựng cơ sở vật chất- kỹ thuật
cho chủ nghĩa xã hội . Đây là một quy luật kinh tế mang tính phổ

biến, xuất phát từ yêu cầu của quy luật quan hệ sản xuất phải phù
hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lợng sản xuất. Quá
độ tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chủ nghĩa t bản nh nớc
ta, sự nghiệp xây dựng cơ sở vật chất- kỹ thuật cho chủ nghĩa xã
hội đợc thực hiện bằng con đờng công nghiệp hoá.
6
Phát triển không đồng đều đã trở thành tính qui luật của sự phát
triển .Do đó , trong tiến trình thực hiện CNH-HĐH ở nớc ta không
nhất thiết phải thực hiện tính tuần tự trong phát triển cơ cấu kinh
tế .Cần phải biết tận dụng thời cơ và chớp lấy thời cơ cho từng lĩnh
vực .Phải biết chấp nhận sự phát triển không đồng bộ trong sản
xuất .Từ sự phát triển không đồng bộ ,nhà nớc tiến hành điều chỉnh
,kết hợp giữa cái truyền thống với cái hiện đại ,tạo ra sự độc đáo
trong sự phát triển .Cho nên , cùng với việc thực hiện tiêu chuẩn
hoá cần co vai trò của nhà nớc trong sự chỉ đạo vùng tập trung sản
xuất trọng điểm để đạt đợc những yêu cầu cao về tiêu chuẩn ,đảm
bảo sản xuất xuất khẩu .Giám sát nghiêm ngặt việc thực hiện tiêu
chuẩn hoá trong những nghành chủ lực để rút ngắn khoảng cách lạc
hậu so với thế giới.
Ngày nay, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đang tác động
một cách mạnh mẽ trên phạm vi toàn thế giới làm biến đổi một
cách sâu sắc cơ cấu lực lợng sản xuất và đặc biệt là cơ cấu kinh tế:
tỷ trọng của các ngành sản xuất vật chất trong cơ cấu tổng sản
phẩm quốc dân ngày càng giảm, tỷ trọng các ngành dịch vụ và phi
sản xuất vật chất khác ngày càng tăng nhanh hơn. Năng suất lao
động tăng nhanh nhng đi liền với đó là tính vô chính phủ trong
phát triển kinh tế của chủ nghĩa t bản cũng bộc lộ ngày càng gay
gắt. Điều đó nói lên rằng: những điều kiện vật chất mà chủ nghĩa t
bản đã tạo ra là to lớn nhng vẫn cha hội tụ đủ những yếu tố cần
thiết cho một cơ sở vật chất- kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội.

Do đó, một cơ sở vật chất- kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội đòi hỏi
phải hội tụ đủ yếu tố hiện đại của cách mạng khoa học và công
nghệ, yếu tố cơ cấu của một lực lợng sản xuất ở trình độ cao và
yếu tố kế hoạch để khắc phục cho tính vô chính phủ của nền kinh
tế t bản chủ nghĩa. Vì vậy, cơ sở vật chất- kỹ thuật của chủ nghĩa
7
xã hội sẽ là nền sản xuất lớn hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý, có
trình độ xã hội hoá cao, dựa trên trình độ khoa học công nghệ hiện
đại, đợc hình thành một cách có kế hoạch và thống trị trong toàn
bộ nền kinh tế quốc dân.
Một nớc phát triển về kinh tế vẫn có thể là một nớc kém phát triển
về tinh thần, về trí tuệ và về xúc cảm nh nhiều trờng hợp ở phơng
Tây cho thấy. Nhng không thể chối cãi đó là một nấc thang tất yếu
trên con đờng phát triển kinh tế và không chỉ kinh tế của các dân
tộc. Công nghiệp hoá tạo ra nền kinh tế hiện đại với những u thế
nổi bật: năng suất lao động cao, cơ cấu sản phẩm đa dạng, công ăn
việc làm phong phú, thu nhập quốc dân chung và tính theo đầu ng -
ời cao hơn nhiều so với một nền kinh tế ch a công nghiệp hoá. Sự
thật chính là ở những nớc công nghiệp mới(NIC), là những nớc
đã thành công ở những mức độ khác nhau về công nghiệp hoá, và
vị trí của chúng trong nền kinh tế thế giới đã đợc khẳng định vững
chắc.Vì vây để tránh mắc phai những sai lầm nh một số nớc phơng
Tây đI trớc đã mắc thì vai trò của nhà nớc trongCNH-HĐH là tất
yếu để chung ta co sự hoà nhập nhng không bị hoà tan,không bị
mất đI bản sắc dân tộc Việt Nam đã có từ ngàn xa .
Trong bối cảnh thực hiện CNH-HĐH theo cơ chế thị trờng , vai rò
của nhà nớc hết sức quan trọng trong việc xây dựng những phơng
án hợp lý về việc sử dụng các nguồn lực lao động kết hợp với
nguồn lực tự nhiên .Chiến lợc CNH trong từng giai đoạn phải sử
dụng sự kết hợp những nguồn lực này trong sự phân vùng kinh tế

,với những chính sách bảo hộ có hiệu lực về mặt pháp lý đối với tài
nguyên.Cơ cấu công-nông-lâm nghiệp phải đợc thực hiện theo
nhiều cấp độ mới tạo ra sự kết hợp thống nhất cân đối hài hoà giữa
hiệu quả kinh tế chính trị với hiệu quả sinh thái,xã hội
8
Kinh nghiệm của các nớc công nghiệp mới châu á ( cũng nh của
Nhật Bản trớc đây), cho thấy: dù có phát triển với tốc độ nhanh
đến mức nào đi nữa, thì các nớc đó vẫn phải đi từ trình độ này sang
trình độ khác, không có chuyện đốt cháy giai đoạn. ở những nớc
này, quá trình phát triển từ trình độ kinh tế nông nghiệp sang trình
độ kinh tế công nghiệp và đặt chân lên trình độ kinh tế hậu công
nghiệp là mất 20- 30 năm. Con đờng phát triển nh vậy ở Tây Âu
phải mất 200 năm và ở Nhật Bản cũng phải mất khoảng 100 năm.
Nh vậy rõ ràng rằng: công nghiệp hoá đối với các nớc đang phát
triển, trong đó có Việt Nam, vẫn là một tất yếu lịch sử. Vấn đề đặt
ra lúc này không phải ở chỗ có cần công nghiệp hoá hay không.
Vấn đề là công nghiệp hoá trong hoàn cảnh thế giới hiện nay, khi
nền văn minh công nghiệp dần dần nhờng chỗ cho nền văn minh
hậu công nghiệp, đòi hỏi những nội dung và những bớc đi thích
hợp.
1.2Vai trò của nhà nớc đối với CNH-HĐH
Quản lý Nhà nớc trong quá trình công nghiệp hoá mang tính hệ
thống, cái này là điều kiện của cái kia và ngợc lại. Các chính sách
kinh tế - xã hội phải là công cụ quan trọng để Nhà n ớc điều tiết và
chỉ huy nền kinh tế nớc ta. Tất cả các chính sách đều phải nhằm
thực hiện những mục tiêu quan trọng của sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá.
Trong quá trình đổi mới , Đảng ta luôn xác định nhiệm vụ trung
tâm là phát triển kinh tế,nhiệm vụ then chốt là xây dựng đảng . Đó
là quan điểm nhất quán của Đảng và đã đợc thể hiện trong văn kiện

của các kì đại hội . Báo cáo chính trị tại đại hội IX đã dành riêng
một phần để nói về Phát triển kinh tế xã hội bằng con đờng
CNH-HĐH:
9
Đẩy mạnh CNH-HĐH , xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ ,đa n-
ớc ta trở thành một nớc cộng nghịêp có thể nói đây là t tởng chiến
lợc hết sức quan trọng ,là mục tiêu cơ bản của sự nghiệp xây dựng
và phát triển đất nớc trong giai đoạn hiện nay ,bởi vì muốn tiến lên
CNXH từ một nớc nông nghiệp không kinh qua chế độ t bản chủ
nghĩa , chúng ta phải tiến hành CNH để xây dựng cơ sở vật chất kĩ
thuật của CNXH .Nhng CNH ở nớc ta lại đợc tiến hành trong bối
cảnh thế giới đã có nhiều thay đổi,đặc biệt là sự phát triển rất
nhanh về cả qui mô và chất lợng của lực lợng sản xuất trên nền
tảng của một cuộc cách mạng mới về khoa học và công nghệ . Do
đó con đờng CNH-HĐH của nớc ta đòi hỏi chúng ta phải lựa chọn
những mô hình và bớc đi thật thích hợp, phát huy cao nhất những
lợi thế của đất nớc, trớc hết là nguồn lực con ngời , phát triển
mạnh giáo dục và đào tạo , khoa học công nghệ , tận dụng mọi khả
năng tranh thủ đi tắt đón đầu để sớm đạt trình độ tiên tiến,hiện đại
ở những nghành , những khâu , những lĩnh vực có điều kiện , rút
ngắn thời gian CNH, từng bớc phát triển kinh tế , thu hẹp khoảng
cách với sự phát triển chung của thế giới.
Ưu tiên phát triển lực lợng sản xuất , đồng thời xây dựng quan hệ
sản xuất phù hợp theo địng hớng XHCN Đại hội VI , Đảng ta đã
rút ra bài học quan trọng là lực lợng sản xuất bị kìm hãm không
chỉ trong trờng hợp quan hệ sản xuất lạc hậu , mà cả khi sản xuất
phát triển không đồng bộ . Do đó , u tiên phát triển lực lợng sản
xuất là sự lựa chọn đúng quy luật . Muốn vậy , điều hết sức quan
trọng là phải tìm cách khơi dậy mọi tiềm lực để thúc đẩy tăng tr-
ởng kinh tế nhanh, nhng đồng thời phải từng bớc và kịp thời điều

chỉnh , cải biến các yếu tố của quan hệ sản xuất cho phù hợp . ở
đây cần lu ý :Một mặt , tiêu chuẩn căn bản để xem xét một hình
thức cụ thể nào đó của quan hệ sản xuât có phù hợp với tính chất
10
và trình độ của lực lợng sản xuất hay không là việc nó tác động
đến đâu trong việc thúc đẩy lực lợng sản xuất phát triển . Mặt khác
, trong nền kinh tế thị trờng ở nớc ta , việc xây dựng và hoàn thiện
quan hệ sản xuất phải đảm bảo đợc định hớng XHCN, nghĩa là ,
cùng với việc thúc đẩy lực lợng sản xuất phát triển , nó cũng phải
góp phần đắc lực vào việc cải thiện đời sống nhân dân, thực hiện
công bằng xã hội , tạo cơ hội đồng đều cho mọi ng ời lao động và
các tầng lớp dân c , các cộng đồng dân tộc trong việc thụ hởng các
thành quả của sự phát triển , cũng nh tham gia đóng góp vào công
cuộc phát triển của đất nớc.
phát huy cao độ nội lực , đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài
và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh có hiệu
quả và bền vững Quá trình khu vực hoá toàn cầu hoá đang làm
cho các nớc , nhất là các nớc chậm phát triển và đang phát triển
đứng trớc nhiều thời cơ mới đi đôi với nhiều thách thức mới , mà
cách ứng sử hợp lý nhất là không tự cô lập mình và đứng ngoài quá
trình ấy. Thực tế cho thấy , nớc nào có chiến lợc kinh tế đối ngoại
thích hợp , sẽ vừa tranh thủ đợc ngoại lực vừa phát huy đợc nội lực
để phát triển nhanh và bền vững.Ngay từ những năm đầu của chính
quyền cách mạng ,mặc dù lúc đó có viện trợ và vay vốn bên ngoài
chủ yếu từ các nớc trong XHCN , Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã căn
dặn :sự giúp đỡ từ bên ngoài chỉ nh thêm vốn cho ta .ta phải khéo
dùng cái vốn ấy để bồi bổ lực lợng của ta , phát triển khả năng của
ta . Song nhân dân và cán bộ ta tuyệt đối không vì bạn ta giúp
nhiều mà đâm ra ỷ lại. Hiểu một cách thấu đáo là có phát huy cao
độ nội lực mới sử dụng hiệu quả ngoại lực , kết hợp nội lực với

ngoại lực thành nguồn lực tổng hợp để phát triển đất nớc nhanh và
bền vững
11
Tăng trởng kinh tế đi liền với phát triển văn hoá , từng bớc cải
thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân đân , thực hiện tiến
bộ và công bằng xã hội bảo vệ và cải thiện môi trờng Chúng ta đã
lựa chọn mô hình phát triển nền kinh tế thị trờng định hớng
XHCN , gắn liền tăng trởng kinh tế với phát triển văn hoá , giữ gìn
và phát huy bản sắc dân tộc , thực hiện ngay trong từng bớc sự tiến
bộ và công bằng xã hội , khuyến khích làm giầu hợp pháp đi đôi
với giảm nghèo , từng bớc cải thiện đời sống vật chất tinh thần của
nhân đân , chăm lo đúng mức việc bảo vệ và cải thiện môi trờng tự
nhiên , cân bằng sinh thái .Tăng trởng kinh tế phải đi liền với thực
hiện tiến bộ và công bằng xã hội , kinh tế tăng trởng đến đâu mức
sống của ngời lao động đợc tăng đến đó , ngời lao động phấn khởi ,
nhiệt tình đẩy mạnh sản xuất kinh doanh hơn nửa tạo ra thêm nhiều
của cải vật chất cho xã hội , bảo đảm nền kinh tế phát triển bền
vững trên cả ba mặt :kinh tế , xã hội , môi trờng.
Kết hợp phát triển kinh tế , xã hội với tăng cờng quốc phòng an
ninh .Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế xã hội và tăng c -
ờng quốc phòng an ninh là một chủ chơng lớn,nhất quán và xuyên
suốt trong mọi hoạt động kinh tế xã hội . Phải có tiềm lực kinh tế
mới tạo đợc nguồn lực và cơ sở vật chất kĩ thuật cho việc tăng
cờng quốc phòng an ninh ; đồng thời quốc phòng an ninh mạnh sẽ
tạo ra môi trờng ổn định cho phát triển kinh tế nhanh và bền vững.
Trên thực tế, tất cả những nớc công nghiệp mới ở châu á đều
thành công trớc hết là ở khâu hoạch định chiến lợc. Công việc này
đòi hỏi một sự tập trung trí tuệ lớn của nhiều chuyên gia thuộc các
lĩnh vực khác nhau, đặc biệt của những công trình sự kinh tế có
trình độ cao. Nh vậy, ở những mức độ quan trọng, một Nhà nớc

hùng mạnh, tập trung là hết sức cần thiết cho công nghiệp hoá,
nhất là trong giai đoạn đầu của nó. Điều đó có thể hiểu là một ng ời
12
thuyền trởng tài giỏi, có trách nhiệm tập trung, không lơ đễnh
trong quá trình điều khiển con tàu của mình , đồng thời có một lực
lợng những thuỷ thủ giỏi rất thông minh, nhanh nhẹn thì chắc chắn
sẽ đến đích an toàn và nhanh hơn những con tàu khác. Vì khi đó
mọi yếu tố nguy hiểm cho con tàu đều đợc quan sát và dự phòng kỹ
càng, bên cạnh đó cũng có thể tận dụng những điều kiện thuận lợi
giúp con tàu kết thúc lộ trình một cách bình an.
Trong hoàn cảnh thế giới hiện nay, yếu tố thời gian có ý nghĩa
quyết định. Vậy nên sự tập trung trí tuệ đợc thực hiện càng sớm,
thì thành công càng đợc đảm bảo. Cha bao giờ tốc độ lại đợc coi
trọng nh hiện nay: thế giới sẽ đợc chia thành những nớc nhanh
hơn và những nớc chậm hơn. Mỗi đơn vị thời gian đợc cứu thoát
khỏi sự chậm trễ có giá trị hơn một đơn vị thời gian trớc đây. Do
đó những con tàu công nghiệp hoá này cần phải tận dụng triệt để
thời cơ nếu có và không ngừng nỗ lực làm việc để đạt đợc mục đích
của mình nhanh nhất, tránh bị tụt xa so với những con tàu đã đi tr -
ớc
Từ những lý luận trên, ta có thể thấy đ ợc vai trò của Nhà nớc là
rất quan trọng và quyết định đến thành bại của quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá của mỗi nớc.
Các bài học của các nớc đi trớc cho thấy: quá trình công nghiệp
hoá ở các nớc về khách quan gắn liền với quá trình xây dựng xã
hội công dân và Nhà nớc pháp quyền ở đó. Cũng tức là gắn liền với
quá trình dân chủ hoá từng bớc từ trên xuống dới và từ dới lên ở
đó. Đó chính là kinh nghiệm của các nớc Đông á, kể từ Nhật Bản
trở đi: họ đều tiến hành công nghiệp hoá thành công là do đáp ứng
đợc những nhu cầu ngày càng tăng của ng ời dân, khơi đợc tính chủ

động của mỗi thành viên xã hội với t cách công dân của họ. Qua đó
ta thấy đợc sự hình thành của xã hội công dân và Nhà n ớc pháp
13
quyền, cơ sở của chế độ dân chủ, là điều kiện kiên quyết để các n -
ớc này tiến hành công nghiệp hoá thành công.
Trong quản nhà nớc , sản xuất phải gắn liền với thực hành tiết
kiệm , chống tham ô lãng phí , quan liêu . Sản xuất phải có kế
hoạch , có phân công để làm ra nhiều sản phẩm tốt .Nhng làm ra
sản phẩm mà xa sỉ, hoang phí bừa bãi thì nh nớc rót vào tùng thủng
đáy . Vì vậy sản xất phải đi đôi với tiết kiệm , nh hai chân của côn
ngời . Chủ Tịch Hồ CHí Minh nhắc lại lời của Stalin về bọn tham ô
nhnhững con lợn sục vào vờn rau của nhà nớcvà ngoạm một cách
trơ trẽn.Vai trò của nhà nớc là phải thấy đợc điều đó . Phát biểu
trong cuộc họp cuối năm 1966 của hội đồng chính phủ, chủ tich Hồ
Chí Minh chỉ rõ: một việc nữa rất quan trọng mà làm ch a tốt là
công tác lu thông phân phối . Có khi vật t hàng hoá không thiếu ,
mà phân phối không đúng , thì gây ra căng thẳng không cần thiết .
Trong công tác lu thông phân phối , có hai quan điểm quan trọng
phải luôn nhớ:
Không sợ thiếu chỉ sợ không công bằng
Không sợ nghèo chỉ sợ lòng dân không yên
Rõ ràng là vai trò quản lý của nhà nớc - đặc biệt là kinh tế tài
chính là rất lớn . Hồ Chủ tịch nhắc lại lời Lênin :kinh tế và tài
chính phải do nhà nớc thiết thực quản lý , giám đốc thống kê và
điều chỉnh , cần qui định cách phân phối sức lao động cho đúng
đắn , quí trọng sức dân , tuyệt đồi không lãng phí sức dân , cái gì
cũng phải tiết kiệm.
ở nớc ta, quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất n ớc không
tách rời sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà n ớc. Trong
điều kiện Đảng cầm quyền, dới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nớc

phải làm cho giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, tầng lớp trí
thức và nhân dân lao động nhận thức một cách đầy đủ sự cần thiết
14
khách quan phải tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh
tế. Đồng thời cũng chỉ có Đảng mới có đủ năng lực pháp lý cũng
nh đủ t cách trong sạch để có đợc sự ủng hộ, sự tin tởng của nhân
dân để tiến hành chỉ cho toàn dân nhận biết đ ợc những thách thức
gay gắt của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá để thấy quyết
tâm chiến lợc của Đảng, của toàn dân ta. Đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành phần
kinh tế nhằm khai thác sức mạnh tổng hợp các nguồn lực của các
miền, các vùng, các địa phơng và của mọi tầng lớp dân c. Đó chính
là sức mạnh, là ý chí, là nguyện vọng của toàn Đảng và toàn dân
cho sự nghiệp tiến tới một bớc công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền
kinh tế.
1.3 Kinh nghiệm của một số nớc về vai trò của nhà nớc đối
với CNH-HĐH
Khác với các nớc CNH cao ở phơng Tây , các nớc trong khu vực
châu á- TháI Bình Dơng thờng xuyên nhấn mạnh vào hoạt động sản
xuất , chế tạo hơn là vào nghiên cứu cơ bản và triển khai thực
nghiệm . Vì vậy các nớc CNH châu á có những hạn chế nhất định
về năng lực nghiên cứu và phát triển. Tuy nhiên , trong qua trình
liên doanh , cũng nh với những nỗ lực đào tạo nghiên cứu khoa học
, kỹ s và công nhân lành nghề , nhân lực các nớc này đã tăng lên cả
về số lợng và chất lợng .
Một số nớc châu á đã quan tâm nhiều đến việc xây dựng các
chính sách và biện pháp phát triển nguồn nhân lực , đặc biệt là
khuyến khích kiều dân ở nớc ngoài tham gia xây dựng vào nền
kinh tế trong nớc
Tại Singapore, do mức tiền lơng trong nớc khá cao (chỉ đứng sau

Nhật Bản ở châu á) nên hiện tợng di chuyển nhân lực ra ngoài biên
giới là rất ít , trong khi quá trình ngợc lại rất mạnh vì lơng cao và
15
môi trờng lao động thuận lợi , nhng quan trọng hơn cả là do chính
sách khuyến khích của nhà nớc .Cục khoa học công nghệ quốc
gia cùng với các cơ quan trung ơng khác đã có chính sách khuyến
khích các tài năng nghiên cứu và phát triển , ngời nớc ngoài đến
làm việc và và sinh sống ở Singapore .Những ng ời này mang theo
những kinh nghiệm từ nớc ngoài tham gia tích cực vào hoạt động
nghiên cứu và đào tạo các tài năng bản xứ.
Tại Trung Quốc , để khuyến khích luồng trí tuệ và tài chính của
cộng đồng ngời Hoa từ nớc ngoài , ngoài những chính sách lớn ,
Nhà nớc đã quy định nhiều điều cụ thể , chẳng hạn:Hoa kiều ở nớc
ngoài khi về nớc không phải xin thị thực nhập xuất cảnh . Chính
phủ chủ trơng khuyến khích ngời ra đi hợp pháp , hoan nghênh
ngời trở về, đi và về tự do.Đã thực hiện chế độ một giá dich vụ
cho hoa kiều nh ngời trong nớc tham quan , giải trí có thể nói
,Trung Quốc đã thực hiện khá thành công chính sách thu phục nhân
tâm trớc , khai thác sử dụng sau.
Trong trờng hợp Đài Loan, t tởng chỉ đạo xuyên suốt trong các
chủ trơng, chính sách là chính phủ chủ động đứng ra chăm lo bồi
dỡng , củng cố tiềm lực cộng đồng ,kiều dân và sau đó khai thác
những thế mạnh của họ phục vụ cho công cuộc phát triển đất n ớc .
Đài Loan đã bỏ ra công sức và tiền của rất nhiều cho việc tìm kiếm
các nhà khoa học giỏi , tiếp xúc ,vận động và kéo tay họ về.
chính phủ Đài Loan xác định mục tiêu đầu tiên là phát triển các
nghành công nghệ mới thông qua tập trung nghiên cứu triển khai
và có trơng trình chuyển giao công nghệ tới các thành phần kinh tế
t nhân .Mục tiêu thứ hai là xác định và thành lập các nghành công
nghiệp chiến lợc đợc đánh giá là sẽ mang lại khả năng cạnh tranh

cho Đài Loan trên trờng quốc tế.
16
ấn Độ có khoảng trên một triệu ngời làm công tác khoa học ở nớc
ngoài . Riêng số nhà khoa học phuc vụ cho công nghệ cao là 25000
ngời . Chính phủ chủ trơng vận động kéo một số ấn kiều là những
nhà đầu t lớn, nhà khoa học đầu ngành nổi tiếng về đầu t và xây
dựng các nghành khoa học mũi nhọn . Cố tổng thống Nêru đã mời
nhà khoa học nguyên tử Bhabha(ở Mĩ ) về xây dựng và và phát
triển trung tâm nghiên cứu năng lợng nguyên tử Kỹ nghệ hàng
không , vận tải biển , hoá dầu, phần mềm vi tính đều do các nhà
khoa học ấn kiều về nớc xây dựng .
17
Chơng 2:thực trạng về vai trò của nhà
nớc đối với cnh-hđh trong thời gian qua
và một số giảI pháp nhằm tăng cờng vai
trò của nhà nớc đối với cnh-hđh ở nớc ta
trong thời gian tới
2.1 Thực trạng về vai trò của nhà nớc đối với CNH-HĐH
2.1.1 Nhà nớc thực hiện các các chính sách về kinh tế và xã
hội đối với CNH-HĐH:
Một trong những nguồn nhân lực quan trọng nhất của đất nớc ta
hiện nay là đội ngũ trí thức . Theo thống kê năm 1995 của bộ khoa
học công nghệ và môi trờng cho thấy , so với một số nớc có thu
nhập thấp ở mức ngang bằng thì lực lợng lao động có trình độ
chuyên môn , nghiệp vụ đợc đào tạo ở nớc ta là tơng đối lớn. Lực l-
ợng này bao gồm khoảng 9300 tiến sĩ và phó tiến sĩ , 930000 ngời
có trình độ đại hoc và cao đẳng , trên 3,5 triệu cán bộ kĩ thuật và
công nhân kĩ thuật .Đội ngũ trí thức Việt Nam đã có những cống
hiến to lớn trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ
,góp phần tích cực trong công cuộc xây dựng đất nớc ngày nay .

Đội ngũ cán bộ khoa học mang bản sắc dân tộc :thông minh ,
khiêm tốn , hiếu học khả năng tiếp thu và ứng dụng công nghệ mới
nhanh. Điều này đợc các chuyên gia nớc ngoài đánh giá rất cao.
Nhiều công trình kĩ thuật hiện đại , phức tạp của thế giới nh trong
các lĩnh vực điện tử , viễn thông dầu khí hoặc lắp đặt những công
trình công nghiệp lớn(thuỷ điện , nhiệt điện , xi măng )cán bộ
khoa học công nghệ cũng nh công nhân nớc ta đã tiếp thu và vận
hành một cách nhanh tróng , có hiệu quả , thậm chí còn cải tiến
,nâng ccao.Theo đánh giá mới đay nhất , 1/3 giá trị gia tăng GDP
18
hàng năm của nền kinh tế nớc ta là do hoạt đọng của khoa học và
công nghệ mang lại . Đúng nh Đại hội lần thứ VIII đã đánh giá
hoạt động khoa học và công nghệ gắn bó hơn với nhu cầu phát
triển kinh tế xã hội , thích nghi dần với kinh tế thị trờng.
Bớc đầu tạo ra cơ sở vật chất - kỹ thuật trong các ngành kinh tế
quốc dân, nhất là trong công nghiệp. Vốn đầu t vào công nghiệp
luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số vốn đầu t cho khu vực sản
xuất vật chất nói riêng và cho nền kinh tế quốc dân nói chung, vì
vậy tỷ trọng công nghiệp trong thu nhập quốc dân đợc nâng lên:
18,2% (1960); 25,3% (1976); 28,1% (1986); 23,0% (1990); 27,9%
(1992). Một số ngành, một số công trình, một số sản phẩm có tác
dụng quan trọng đến phát triển chung của nền kinh tế quốc dân nh
điện, khai thác dầu mỏ xi măng, luyện kim đã đợc chú trọng đầu t
và năng lực sản xuất tăng nhanh qua các năm: Năm 1976 trong cơ
cấu giá thị tổng sản lợng công nghiệp ngành điện lực chỉ chiếm
3,66%; cơ khí 9,65%; hoá chất phân bón, cao su:8,26% thì năm
1990 tỷ trọng tơng ứng của các ngành đó là: 5,1%; 15,9%; 9,4%.
Thúc đẩy đợc quá trình thay đổi và phát triển cơ cấu kinh tế từ
giản đơn, lạc hậu, trì trệ kém hiệu quả dần dần tiến tới một cơ cấu
có nhiều ngành, nhiều thành phần. Lạm phát từ mức 3 con số: 1986

là 587,2%; 1987 là 416,7%; 1988 là 410,9% giảm xuống còn 2 con
số: 1989 là 30%; 1990 là 52,8%. Khuyến khích phát triển các
thành phần kinh tế và đa dạng hoá các loại hình tổ chức kinh
doanh: công nghiệp quốc doanh năm 1976 chiếm 68,6% giá trị
tổng sản lợng công nghiệp cả nớc thì năm 1989 chiếm 57,0%, còn
công nghiệp ngoài quốc doanh chiếm 31,4% (1976); 43% (1989).
Phát triển nhanh các ngành có lợi thế so sánh, các ngành có tác
động tích cực đối với sự phát triển chung của nền kinh tế quốc dân:
ngành dầu khí có sự phát triển vợt bậc; ngành than bớc vào thị tr-
19
ờng thế giới với khối lợng xuất khẩu vợt 1,6 triệu tấn; ngành sản
xuất điện phát triển mạnh; ngành dệt và may phát triển khá phục
vụ nhu cầu trong nớc và xuất khẩu; công nghiệp chế biến lơng
thực, thực phẩm đã có bớc tiến mới góp phần đa sản lợng gạo xuất
khẩu đạt 2 triệu tấn.
Thế nhng thực chất đội ngũ cán bộ trí thức Việt nam , đặc biệt cán
bộ trí thực bậc cao đang là vấn đề cần quan tâm.
+Thứ nhất , sự già hoá của đội ngũ trí thức. Trong các viện và
trung tâm khoa học, tuổi bình quân tiến sĩ là 52,8;phó tiến sĩ là
48,1;giáo s 59,5;cấp viện trởng là 55, cấp viện phó là 50. nh vậy
đến năm 200 , hơn 80%số ngời có học hàm ,học vị sẽ đến tuổi về
hu. Từ đó gây nên tình trạng hẫng hụt cán bộ khoa học kế cận .Với
tình trạng này, từ sau năm 200 sự thiếu hụt của nguồn lực cao cấp
là một thực trạng đáng báo động.
+Thứ hai ,việc đầu t cho khoa học và công nghệ cũng nh giáo dục
đào tạo cha đủ để phát triển nguồn nhân lực .Chúng ta muốn nhanh
tróng trở thành một nớc công nghệp , muốn hôi nhập với thế giới
phát triển , giáo dục đào tạo nguồn nhân lực , nhân tài phải luôn đ-
ợc coi là quốc sách hàng đầu . Đảng và chính phủ ta đã có những
cố gắng lớn tăng nguồn đầu t tài chính cho giáo dục , đào tạo .Tỉ

trọng ngân sách nhà nớc chi cho GD -ĐT tăng hàng năm và tăng
nhanh trong những năm gần đây , từ 5,83% năm 1986 với mức chi
120 tỉ đồng , đến năm 1990 tăng lên 8,9%với mức chi là 9186 tỉ, và
năm 1996 là 70000 tỉ . Tuy vậy tỉ lệ này còn thấp so với các n ớc
trên thế giới và trong khu vực .
+Thứ ba,cơ cấu nguồn nhân lực cuă nớc ta cha hợp lí 1 đại
hoc/1,6 trung học chuyên nghiêp,/3 công nhân(ở các nớc trong khu
vực tỉ lệ này là 1/4/10)tỉ lệ lao đọng đã qua đào tạo ở nớc ta mới
chỉ đạt 10%so với tổng số lao động là quá thấp.
20
+Thứ t, hiện nay hiện tợng chảy máu chất xám đã và đang xảy ra
ngay trong đội ngũ cán bộ trí thức. Do nhiều nguyên nhân khác
nhau, một bộ phận cán bộ khoa học và công nghệ không còn hào
hứng với công việc của mình , xin đợc chuyển sang những ngành
không phải đợc đào tạo, phần lớn là những ngời trẻ khoẻ(dới 45
tuổi)và có năng lực
Trong những năm đầu của quá trình đổi mới công nghiệp hoá đã
mang sắc thái mới, đã có sự điều chỉnh mục tiêu, nội dung và b ớc
đầu đồng bộ hoá, cụ thể hoá bằng cơ chế và chính sách. Do vậy
công nghiệp hoá đã đợc tiến hành phù hợp hơn với hoàn cảnh quốc
tế và điều kiện, khả năng trong nớc, các tiềm năng, nguồn lực của
đất nớc bớc đầu đợc khơi dậy, kinh tế phát triển thực chất hơn.
2.1.2 Nhà nớc đa ra những công cụ của mình để CNH-HĐH
theo đúng định hớng XHCN
CNH-HĐH nền kinh tế là một xu hớng phát triển tất yếu .Kinh
nghiệm và thực tiễn của những nớc có nền kinh tế phát triển đã chỉ
ra rằng ,quá trình CNH-HĐH nền kinh tế đòi hỏi phải có những
tiền đề và điều kiện nhất định về vốn ,khoa học-công nghệ, con ng-
ời và sự quản lý của nhà nớc . Do những đặc điểm và điều kiện của
nền kinh tế Việt Nam , quá trrình CNH_HĐH gắn liền với chuyển

dịch cơ cấu kinh tế theo hớng ngày càng hợp lý hơn. Chiến lợc đó
đối với Việt Nam hiện nay là tập trung nỗ lực vào phát triển những
ngành cần ít vốn đầu t , thu hút đợc nhiều lao động , có khả năng
xâm nhập vào thị trờng khu vực và quốc tế .Muốn vậy nhà nớc phải
đề ra một số chính sách kinh tế vĩ mô nhằm phát triển nền kinh tế
theo hớng CNH-HĐH:
-Chính sách thị trờng và cơ chế thị trờng : Từng bớc đổi mới hệ
thống tín dụng ngân hàng , đa dạng hoá các hình thức huy động
tiền nhàn dỗi trong xã hội với lãI suất linh hoạt theo nguyên tắc
21
thơng mại.Xúc tiến thành lập thị trờng chứng khoán ở Việt Nam ,
trớc hêt là ở các thành phố lớn Hà Nội ,thành phố Hồ Chí
Minh.Khai thác tối đa các tiềm lực phát triển kinh tế của đất nớc ,
có sự hỗ trợ thoả đáng về mọi mặt để các nhà sản xuất trong n ớc
đủ sức cạnh tranh trên thị trờng khu vực và quốc tế.Mở rộng thị tr-
ờng xuất khẩu , khai thác lợi thế so sánh, khuyến khích các doanh
nghiệp liên kết trong sản xuất và xuất khẩu.Chính phủ cần chủ
động và sẵn sàng can thiệp vào thị trơng xuất khẩu bằng các công
cụ kinh tế , quyền cấp giấy phép nhằm tăng trởng xuất khẩu , nâng
cao hiệu quả kinh tế trong nớc.Thực hiện đồng bộ chính sách
khuyến khích các nhà kinh doanh trong nớc bỏ vốn đầu t phát triển
sản xuất tham gia xuất nhập khẩu .
-Đổi mới chính sách tài chính tiền tệ :Tăng cờng, củng cố tài
chính quốc gia thông qua chính sách thuế và thu chi ngân sách hợp
lý.Chính sách thuế của nhà nớc ta cha có sự phân biệt rõ ràng đối
với sản xuất cho xuất khẩu và sản xuất cho tiêu dùng trong nớc .
Vì vậy , việc xây dựng biểu thuế u tiên cho sản xuất xuất khẩu là
một việc làm hết sức cần thiết có ý nghĩa quan trọng hiện nay. Đối
với việc nhập khẩu , cần có sự phân biệt giữa nhập phuc vụ sản
xuất và phục vụ tiêu dùng nội địa.Nhà nớc đang từng bớc thay thế

chế độ phân phối cô-ta thành chế độ thuế quan để điều tiết cơ cấu
xuất nhập khẩuvà hạn chế những tiêu cực trong việc cấp cô-ta
trong xuất nhập khẩu;Tăng cờng tài chính doanh nghiệp theo hớng
khuyến khích và nâng cao khả năng tự tích luỹ của các đơn vị cơ
sở ,định hớng bằng những chính sách kinh tế cụ thể , có khuyến
khích , có hạn chế rõ ràng , hợp lý trong sở dụng các nguồn tài
chính của doanh nghiệp;Mở rộng các hình thức huy động vốn xã
hội và vốn nơc ngoài vào phát triển kinh tế .Nhà nớc phải có cơ
chế và chính sách hợp lý nhằm động viên mọi nguồn lực vào phát
22
triển kinh tế . trớc mắt , cần tập trung phát triển các cơ sở kinh tế
theo hình thức đa sở hữu, đảm bảo về tính pháp lý đối với vốn và
tá sản của công dân.
- Chính sách kinh tế đối ngoại:Trong bối cảnh kinh tế quốc tế
ngày nay, thơng mại quốc tế đợc xem là một cứu cánh cho các n-
ớc đi sau, chậm phát triển. Một trong những định hớng đúng đắn
đối với những nớc này là thúc đẩy chiến lợc xuất nhập khẩu phù
hợp với điều kiện cụ thể của mình. Chiến lợc xuất nhập khẩu của
mỗi nớc đợc phản ánh trong cơ cấu xuất nhập khẩu cụ thể mà mỗi
nớc xác định.
Đối với nớc ta, định hớng xuất nhập khẩu phải chú ý một số vấn đề
sau: Giảm tỷ trọng xuất khẩu sản phẩm thô, cha qua chế biến, tăng
dần các sản phẩm đã qua chế biến; Nâng tỷ trọng nhập khẩu thiết
bị, công nghệ nhằm nâng cao trình độ kỹ thuật và công nghệ của
nền kinh tế hiện đại hoá; Tăng cờng kiểm soát xuất - nhập khẩu để
một mặt bảo hộ sản xuất trong nớc, mặt khác tăng nguồn thu cho
ngân sách Nhà nớc.
-Chính sách giáo dục và đào tạo:Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá nền kinh tế đất nớc đòi hỏi phải có một lực lợng lao động
mạnh cả về số lợng cũng nh chất lợng. Để tạo ra lực lợng lao động

có chất lợng mới, Nhà nớc cần phải có chiến lợc toàn diện trong
sự nghiệp giáo dục và đào tạo. Chiến lợc đó phải đợc thực hiện
thông qua các chính sách và giải pháp cụ thể của Nhà nớc.
Trong hoàn cảnh hiện nay, trớc mắt cần phải làm tốt một số việc
sau đây: Phải có chính sách quốc gia trong việc u tiên đầu t phát
triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo; Tập trung mọi nỗ lực của Nhà
nớc vào việc đào tạo nhân tài cho đất nớc; Tăng cờng đầu t, nâng
cấp các cơ sở đào tạo bồi dỡng hiện có của đất nớc; Ưu tiên,
23
khuyến khích những ngời làm việc trong các cơ quan nghiên cứu
đào tạo.
2.1.3 Những thuận lợi và khó khăn của nhà nớc đối với
CNH-HĐH:
Các mô hình công nghiệp hóa đã hình thành trong lịch sử tr ớc hết
tuỳ thuộc vào những điều kiện quốc tế cụ thể của từng thời kỳ lịch
sử nhất định. Đồng thời các mô hình này cũng tuỳ thuộc vào những
điều kiện kinh tế, xã hội, tự nhiên, lịch sử cụ thể sẽ tạo ra một mô
hình công nghiệp hoá tơng ứng với nó. Lịch sử nhân loại cho đến
nay đã chứng kiến những mô hình công nghiệp hoá chủ yếu sau
đây:
- Mô hình công nghiệp hoá cổ điển của nớc Anh và Châu Âu.
- Mô hình công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu trớc những năm
1970.
- Mô hình công nghiệp hóa hớng vào xuất khẩu.
- Mô hình công nghiệp hóa theo hớng hội nhập quốc tế.
Vấn đề của nớc ta là chọn lựa cho đúng mô hình CNH-HĐH ,và
sau đó việc Việt Nam thực hiện các hành động tham gia vào các tổ
chức quốc tế đã đa đến quyết định chọn một mô hình công nghiệp
hoá đúng đắn , đó là mô hình công nghiệp hoá theo hớng hội nhập
quốc tế. Đó là bởi vì:

Xu hớng toàn cầu hoá sẽ là xu hớng phát triển có ảnh hởng nhiều
mặt tới sự phát triển của thế giới trong các thập kỷ tới, dù ngời ta
muốn hay không muốn, dù ngời ta phê phán các mặt hoạt động tiêu
cực của nó. Một nền kinh tế toàn cầu, một thị trờng toàn cầu không
biên giới đang xuất hiện với những hình ảnh phôi thai của nó là
Liên minh kinh tế châu Âu (EU), khu vực mậu dịch tự do ASEAN
(AFTA)v.v
24
Tuy nhiên quá trình công nghiệp hoá Xã hội chủ nghĩa ở nớc ta
trong thời gian qua còn nhiều tồn tại, nhợc điểm chủ yếu là:
Thứ nhất là quá trình công nghiệp hoá diễn ra quá chậm.
Thứ hai là phân công lao động xã hội phát triển chậm chạp. Cơ
cấu kinh tế thiếu năng động, hiệu quả thấp, chứa đựng nhiều bất
hợp lý, nhiều mặt mất cân đối nghiêm trọng. Cha kết hợp tốt cơ
cấu ngành với cơ cấu thành phần và cơ cấu lãnh thổ trong một
trạng thái đồng bộ năng động có hiệu quả để thực hiện tốt nhất
mục tiêu chung của phát triển kinh tế - xã hội.
Thứ ba là trình độ kỹ thuật công nghệ thấp kém, mất cân đối, đổi
mới chậm.
Thứ t là sự nghiệp công nghiệp hoá phải đơng đầu với nhiều khó
khăn, mâu thuẫn do sai lầm trớc đây để lại và do thách thức mới đ a
tới. Đó là: Tỷ lệ thất nghiệp còn cao, đời sống thấp, tỷ lệ tích luỹ
và đầu t thấp, sản xuất, kinh doanh đang gặp khó khăn về vốn và
thị trờng
Thứ năm là chúng ta khó lòng có thể chen chân đợc vào thị tr-
ờng của các nớc phát triển , công nghệ tiên tiên đã bị những nớc
tiên tiến chiếm hữu .Vì vậy cần phải có những chính sách đúng đắn
của nhà nớc để chúng ta có thể thu hút đợc những nhà khoa học ,
những công nghệ tiên tiến chảy vào nớc ta.
2.2 Một số giải pháp nhằm tăng cờng vai trò của nhà nớc đối

với CNH-HĐH ở nớc ta trong thời gian tới:
Xuất phát từ những yêu cầu của quản li nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần định hớng XHCN, căn cứ vào định hớng xây dựng
cơ chế quản lý do đại hội VII đề ra và từ những kinh nghiệm quản
lý kinh tế của nhà nhà nớc trong cơ chế cũ , có thể xác định những
giải pháp nhằm nâng cao vai trò quản lý của nhà n ớc đối với quá
trình CNH_HĐH đất nớc với những nội dung chủ yếu sau:
25

×