Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

STT20_Phùng Thị Khánh linh_22000111_LTM2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (548.38 KB, 18 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI
KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

BÀI THI KẾT THÚC HỌC PHÂN
MÔN: LUẬT THƯƠNG MẠI 2

GIẢNG VIÊN: Trần Thị Lệ Hằng

Sinh viên: Phùng Thị Khánh Linh
Mã sinh viên: 220001111
Lớp: Luật D2020A


TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ
NỘI
KHOA: KHXH&NV

TIỂU LUẬN THAY THẾ HỌC
PHẦN
Dùng cho ngành: Luật
Môn: Luật Thương Mại 2

Giảng viên bộ môn: Trần Thị Lệ Hằng

Họ và tên SV: Phùng Thị Khánh
Linh
Lớp: Luật D2020A
Mã sinh viên: 220001111

ĐỀ 5
Bài 1 (3 điểm): Phân tích sự khác biệt giữa hình thức giải quyết tranh chấp bằng


thương lượng và hòa giải. Theo anh (chị) điểm khác biệt nào là cơ bản nhất, tại
sao?
Bài 2 (3 điểm): Bài tập tình huống
Ngày 10/9/2021 chi nhánh cơng ty S tại Hà Nội (cơng ty S có trụ sở chính tại
thành phố Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên) được sự uỷ quyền của công ty đã ký hợp
đồng số 02/HĐ/ TPĐ-SL với cơng ty T (trụ sở chính tại quận Hai Bà Trưng) về
việc bán 500 chiếc tủ lạnh HITACHI model R-15A4BK, sản xuất tại Thái Lan,
đơn giá 3tr/chiếc. Theo hợp đồng bên mua phải thanh toán đầy đủ trong vòng 07
ngày kể từ ngày giao hàng. Ngày 7/11/2021, bên bán đà giao đủ hàng cho bên
mua, nhưng công ty T mới thanh toán 500 triệu. Ngày 25/02/2022 sau nhiều lần
khiếu nại không thành, bên bán quyết định khởi kiện. Hỏi:
Xác định nguyên đơn, bị đơn trong tình huống trên
Tịa án nào có thẩm quyền giải quyết tranh chấp? Vì sao?
u cầu của ngun đơn bao gồm:
Buộc cơng ty T bồi thường các thiệt hại phát sinh do bên bán phải vay vốn ngân
hàng đê nhập hàng, tính theo lãi suất tiền vay ngân hàng là 1% tháng.
Phạt do vi phạm hợp đồng là 10% tồng gtrị hợp đồng là l,5 tỷ x 10% = 150 triệu.
Nhận xét về yêu cầu của nguyên đơn


Bài 3 (4 điểm): Anh (chị) hãy bình luận về Giải quyết tranh chấp trong kinh doanh
thương mại bằng Tòa án. Hạn chế và một số kiến nghị.
Trả lời
Câu 1:
Giải quyết tranh chấp băng Giái quyết tranh chấp bằng hoà
thương lượng
giải
Khái niệm

-Thương lượng là phương thức

giải quyết tranh chấp thông qua
việc các bên tranh chấp cùng
nhau bàn bạc, tự dàn xếp, tháo
gỡ những bất đồng phát sinh để
loại bỏ tranh chấp mà khơng cần
có sự trợ giúp hay phán quyết
của bất kì bên thứ ba nào.

-Hịa giải thương mại là phương
thức giải quyết tranh chấp thương
mại do các bên thỏa thuận và
được hòa giải viên thương mại
làm trung gian hòa giải hỗ trợ giải
quyết tranh chấp theo quy định
pháp luật.

Cách thức - Là sự thoả thuận giữa các bên. - Thơng qua người trung gian là
hồ giải viên
giải quyết
Tính bảo
mật

- Có tính bí mật tuyệt đối, chỉ hai - Có tính bí mật tương đối vì cịn
bên xảy ra tranh chấp biết.
có bên thứ ba là hồ giải viên.
Nhưng trong phương thức này
tính bảo mật vẫn cao hơn so với
bên toà án.

Khả năng

lựa chọn
người phán
quyết

- Do hai bên tự đi đến thuận với - Có khả năng lựa chọn người giải
nhau.
quyết tranh chấp ( gọi là hoà giải
viên).

Đặc điểm

-Thương lượng là sự thỏa thuận -Có sự xuất hiện của người trung
giữa các bên trong tranh chấp.
gian đóng vai hỗ trợ để tìm
phương án giải quyết tranh chấp

Chủ thể

-Thương lượng là sự thỏa thuận -Hòa giải là thỏa thuận giữa các
giữa các bên trong tranh chấp
bên và hòa giải viên trong tranh
chấp


Về ưu điểm

-Đơn giản, nhanh chóng, ít tốn -Có khả năng thành cơng cao hơn
kém, bảo vệ được bí mật kinh
doanh của các bên tranh chấp


Về nhược
điểm

-Khơng có sự ràng buộc, khả -Tốn kém chi phí, bí mật kinh
năng thực thi phụ thuộc vào sự doanh có thể bị ảnh hưởng, khả
tự nguyện của các bên
năng thực thi phụ thuộc vào sự tự
nguyện của các bên

Điểm khác nhau cơ bản giữa hai phương thức này đó chính là vai trị của người
thứ ba.
Ở phương thức hồ giải thì vai trị của người thứ ba (do các bên tranh chấp tự do
lựa chọn) chỉ mang tính hỗ trợ, giúp đỡ các bên thoả thuận với nhau, thuyết phục
các bên tranh chấp tìm kiếm các giải pháp nhằm loại trừ tranh chấp phát sinh. Đặc
biệt là bên thứ ba với tính chất trung gian hồ giải phải có vị trí độc lập đối với
các bên. Điều đó thể hiện rõ bên thứ ba khơng ở vị trí xung đột lợi ích với các bên
hoặc khơng có những lợi ích gắn liền với lợi ích của một trong các bểntong các
vụ việc đang có tranh chấp. Bên thứ ba tham gia làm trung gian hồ giải thường
là những cá nhân, tổ chức có trình độ chun mơn cao và có kinh nghiệm về những
vụ việc có liên quan đến các vụ việc phát sinh. Người thứ ba làm trung gian hồ
giải khơng có quyền quyết định hay áp đặt bất cứ vấn đề gì nhằm ràng buộc các
bên tranh chấp. Quyền quyết định cuối cùng vẫn thuộc về các bên tranh chấp khi
họ thống nhất được ý chí với nhau về việc giải quyết vụ tranh chấp trên cơ sở
hướng dẫn, trợ giúp của người thứ ba.
Câu 2:
- Nguyên đơn trong tình huống trên là: Cơng ty S
- Bị đơn trong tình huống trên là công ty T


2. Tồ án có thẩm quyền giải quyết tranh chấp là Tồ án nơi đặt trụ sở chính của

bị đơn.
- Xét về thẩm quyền giải quyết tranh chấp theo lãnh thổ, điểm a khoản 1 bộ Luật
tố tụng dân sựu quy định như sau: “Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc, nếu bị đơn
là cá nhân hoặc nơi bị đơn có trụ sở, nếu bị đơn là cơ quan, tổ chức có thẩm
quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp về dân sự, hôn nhân và
gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động quy định tại các Điều 26, 28, 30 và
32 của Bộ luật này”.
3. Việc công ty S Buộc công ty T bồi thường các thiệt hại phát sinh do bên bán
phải vay vốn ngân hàng đê nhập hàng, tính theo lãi suất tiền vay ngân hàng là 1%
tháng là hoàn toàn đúng bởi lẽ theo điều 306 bộ Luật Thương Mại năm 2005 quy
định về quyền yêu cầu tiền lãi do chậm thanh toán quy định “Trường hợp bên vi
phạm hợp đồng chậm thanh toán tiền hàng hay chậm thanh toán thù lao dịch vụ
và các chi phí hợp lý khác thì bên bị vi phạm hợp đồng có quyền yêu cầu trả tiền
lãi trên số tiền chậm trả đó theo lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường tại
thời điểm thanh toán tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thỏa
thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác”.
Tuy nhiên việc công ty S phạt công ty T do vi phạm hợp đồng là 10% tồng gía trị
hợp đồng là l,5 tỷ x 10% = 150 triệu là khơng có căn cứ pháp lý. Trong bộ Luật
thương mại 2005 có quy định mức phạt trong trường hợp vi phạm hợp đồng là
khôg quá 8% giá trị hợp đồng trự trường hượp quy định tại điều 266 bộ luật này.
Việc phạt công ty T 10% giá trị hợp đồng là hoàn toàn sai.
Câu 3:
Trong kinh doanh thương mại các chủ thể rất khó có thể để tránh cho việc mâu
thuẫn khơng xảy ra. Đó là những mâu thuẫn về quyền và nghĩa vụ giữa các
bên trong mối quan hệ cụ thể, có thể kể đến như: Mua bán hàng hóa, cung ứng
dịch vụ; cho thuê, cho thuê mua; xây dựng; vận chuyển hàng hóa; mua bán trái
phiếu, cổ phiếu; đầu tư tài chính, ngân hàng. Giải quyết vấn đề này ta có rất nhiều
biện pháp nhưng biện pháp tối cao nhất và mang tính bắt buộc đối với các bên đó
chính là: “ Giải quyết tranh chấp trong kinh doanh thương mại bằng Toà án”.
Tuy nhiên trong biện pháp này vẫn mang một số những hạn chế nhất định, chính



vì vậy trong đề tài đi tìm hiểu này em xin phép được nêu ra những hạn chế và một
số giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện hơn vấn đề này.
1. Khái niệm
Tranh chấp, là hệ quả tất yếu xảy ra trong hoạt động kinh doanh. Vì vậy giải
quyết tranh chấp phát sinh được coi là đòi hỏi tự thân của các quan hệ kinh tế. Ta
có thể hiểu rằng: giải quyết tranh chấp trong kinh doanh chính là việc lựa chọn
các hình thức biện pháp thích hợp để giải toả các mâu thuẫn, bất đồng, xung đột
lợi ích giữa các bên, tạo lập lại sự cân bằng về mặt lợi ích mà các bên có thể chấp
nhận được. Theo nền kinh tế thị trường đang trên đà phát triển mạnh thì việc giải
quyết tranh chấp trong kinh doanh thương mại cần phải đáp ứng được các yêu cầu
sau:
– Nhanh chóng, thuận lợi khơng làm hạn chế, cản trở các hoạt động kinh doanh.
– Khơi phục và duy trì các quan hệ hợp tác, tín nhiệm giữa các bên trong kinh
doanh.
– Giữ bí mật kinh doanh, uy tín của các bên trên thương trường.
– Kinh tế nhất, ít tốn kém nhất
Giải quyết tranh chấp trong kinh doanh thương mại bằng toà án ( một trong
những biện pháp giải quyết tranh chấp trong kinh doanh) là hình thức giải quyết
tranh chấp thông qua hoạt động của cơ quan tài phán Nhà nước, nhân dân quyền
lực nhà nước để đưa ra phán quyết bắt buộc các bên xảy ra tranh chấp có nghĩa
vụ thi hành, kể cả bằng sức mạnh cưỡng chế, hay nói cách khác , các tranh chấp
kinh doanh, thương mại được giao cho Tịa án giải quyết theo trình tự gọi là Tố
tụng Tịa án.
2. Thẩm quyền của tồ án.
Thứ nhất, thẩm quyền theo vụ việc: Khi việc xảy ra tranh chấp không thể giải
quyết được bằng biện pháp hoà giải việc giải quyết tranh chấp bằng toà án là biện
pháp cuối cùng, nó mang tính bắt buộc đối với các chủ thể, tuy nhiên sẽ có nhữnhg
tranh chấp khơng thuộc thẩm quyền xử lí của tồ và tồ khơng xử lí. Chính vì vậy



điều quan trọng nhất đó chính là xác đinh thẩm quyền của toà án trong giải quyết
tranh chấp trong kinh doanh thương mại. Tại điều 30 bộ Luật tố tụng dân sự đã
quy định những tranh chấp mà toà án giải quyết:
“1. Tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa cá nhân,
tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận.
2. Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá nhân, tổ
chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận.
3. Tranh chấp giữa người chưa phải là thành viên cơng ty nhưng có giao dịch về
chuyển nhượng phần vốn góp với cơng ty, thành viên công ty.
4. Tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty; tranh chấp giữa công
ty với người quản lý trong công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc thành viên Hội đồng
quản trị, giám đốc, tổng giám đốc trong công ty cổ phần, giữa các thành viên của
công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp
nhất, chia, tách, bàn giao tài sản của cơng ty, chuyển đổi hình thức tổ chức của
công ty.
5. Các tranh chấp khác về kinh doanh, thương mại, trừ trường hợp thuộc thẩm
quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức khác theo quy định của pháp luật” .
Thứ hai, thẩm quyền theo cấp: Với vụ tranh chấp đó thì tồ án cấp nào sẽ có thẩm
quyền để xử lí, giải quyết. Bởi vì trên thực tế có rất nhiều các tồ án( cấp tối cao,
cấp cao, cấp huyện, cấp tỉnh…..). theo đó ta phải đảm bảo được hai yếu tố đó
chính là: đảm bảo hai cấp xét xử (sơ thẩm và phúc thẩm), cấp trên liền kề trực tiếp
( trừ GDT, TT). Vấn đề này được quy định rõ tại điều 20, 19, 37, 44 bộ Luật tổ
chức TAND năm 2015.
Thứ ba, thẩm quyền của toà án chuyên trách: Tạo toà án nhân dân các cấp, thì sẽ
có những tồ án chun trách, ta sẽ phải xác định tồ án chun trách nào sẽ có
thẩm quyền xử lí.
Thứ tư, thẩm quyền theo lãnh thổ: Có rất nhiều địa phương khác nhau, phạm vi
lãnh thổ sẽ được xác định bằng cách xác định tất cả các thẩm quyền 1, 2, 3 khi đó



ta sẽ có thể tìm ra một cách rạch rịi tồ án ở địa phương nào sẽ có thẩm quyền
giải quyết vụ việc đó.
Và cuối cùng đó chính là thẩm quyền giải quyết theo sự lựa chọn của nguyên đơn.
3. Đặc điểm của giải quyết tranh chấp thương mại bằng toà án
Thứ nhất, giải quyết tranh chấp bằng toà án được tiến hành khi mà việc áp dụng
cơ chế thương lượng, hồ giải khơng có hiệu quả và các bên tranh chấp cũng
không thoả thuận đưa vụ tranh chấp ra giải quyết tại trọng tài.
Ví dụ:Cơng ty A xác nhận, kí hợp đồng với cơng ty B về việc giao bán cho công
ty A 500 bao xi măng xây dựng. Ngày giao hàng được xác định trong hợp đồng
là ngày 21/03/2018 và giao tồn bộ số xi măng bên cơng ty A đã kí trong hợp
đồng là 500 bao. Tuy nhiên đến hạn công ty B mới chỉ giao cho công ty B một nửa
số xi măng ghi trong hượp đồng mua bán là 250 bao. Cơng ty A có báo bên công
ty B giao thiếu và yêu cầu bên công ty B giao đầy đủ vào ngày hôm sau. Nhưng
cơng ty B lấy lí do hàng trong xưởng khơng cịn sẵn đợi nhân cơng hồn thành
cũng phải mất 03 ngày nữa mới xong. Nên có xin cơng ty B gia hạn thêm cho hợp
mình 03 ngày nữa sẽ giao đủ nhưng bên cơng ty A khơng đồng ý vì như thế sẽ lỡ
kế hoạch, chậm tiến độ thi công của mình nên yêu cầu cong ty B bồi thường và
chấm dứt hợp địng với cơng ty B. Nhưng cơng ty B khơng đồng ý. Việc hồ giải
của hai bên công ty không thành và bên phia công ty A không thoả thuận đưa ra
trọng tài và khởi kiện công ty B. Việc giải quyết tranh chấp này sẽ được xử lí tại
tồ án.
Thứ hai, đặc trưng cơ bản của thủ tục giải quyết tranh chấp bằng toà án là thông
qua hoạt động của bộ máy tư pháp và nhân danh quyền lực nhà nước để đưa ra
phán quyết.
Ví dụ: Toà án sẽ áp dụng các quy định của pháp luật, xét về mặt công bằng của
tranh chấp để đưa ra phán quyết cuối cùng của mình và bắt buộc các bên phải có
nghĩa vụ thực hiện.
Thứ ba, phạm vi và thẩm quyền của Toà án trong việc giải quyết tranh chấp trong

kinh doanh được pháp luật các nước quy định khác nhau.


Ở các nước khác nhau, có thể có sự khác nhau trong việc xác định thẩm quyền
giải quyết tranh chấp KDTM. Một số nước (Mỹ, Nhật, Hà lan…) trao thẩm quyền
xét xử mọi tranh chấp, trong đó có các tranh chấp trong thương mại cho Tòa án
thường (Tòa án dân sự). Một số nước khác lại trao thẩm quyền xét xử tranh chấp
thương mại cho toà thương mại – Toà chuyên trách trong cơ quan tư pháp (Đức,
Pháp, Áo, Bỉ…) Các toà thương mại chỉ xét xử sơ thẩm, nếu có kháng án sẽ được
đưa ra xét xử tại tồ thượng thẩm dân sự. Có nước thành lập hệ thống Tòa án độc
lập gọi là Tòa án trọng tài để giải quyết tranh chấp như Cộnh hoà liên bang
Nga.Thẩm quyền của các cơ quan tài phán nhà nước ở các quốc gia là khác nhau
nhưng tập trung vào các lĩnh vực tranh chấp: Tranh chấp hợp đồng thương mại ;
Tranh chấp liên quan đến tổ chức và hoạt động của công ty; Tranh chấp liên quan
đế việc bảo hộ nhãn hiệu thương mại; Tranh chấp thương mại hàng hải; Tranh
chấp phát sinh trong quá trình bảo hộ cạnh tranh và chống cạnh tranh bất hợp
pháp; Tranh chấp liên quan đến hoạt động phát hành và kinh doanh chứng khốn.
4. Trình tự giải quyết tranh chấp thương mại bằng toà án.
Thực chất tranh chấp kinh tế là một dạng tranh chấp dân sự, tuy nó có những đặc
thù và yêu cầu riêng so với những loại tranh chấp khác xong qúa trình cải cách tư
pháp của nhà nước Việt Nam đã đáp ứng được những u cầu đó. Chính vì vậy
trình tụe giải quyết tranh chấp thương mại đã được quy định tại bộ luật tố tụng
dân sự năm 2015.
Trình tự giải quyết tranh chấp kinh tế theo thủ tục Tòa án cụ thể như sau:
4.1. Khởi kiện vụ việc
Thời hiệu khởi kiện áp dụng đối với các tranh chấp thương mại là hai năm, kể từ
thời điểm quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm một hoặc các bên tự mình hoặc
thơng qua người đại diện hợp pháp khởi kiện vụ án tại Tòa án để yêu cầu bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Việc này được tiến hành thông qua bộ hồ sơ
gồm:

+ Đơn khởi kiện.
+ Tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho những u cầu của mình là có căn cứ và
hợp pháp.


Trong hồ sơ khởi kiện theo thủ tục Tòa án khơng có văn bản thoả thuận Tịa án
của các bên. Bởi nguyên tắc thoả thuận này được xác định theo thoả thuận trọng
tài. Nếu các bên có thoả thuận trọng tài thì trọng tài giải quyết tranh chấp kinh tế
của các bên, ngược lại nếu các bên khơng có thoả thuận trọng tài thì thẩm quyền
giải quyết tranh chấp kinh tế thuộc về Tòa án. Tuy nhiên trong các trường hợp
thoả thuận trọng tài vô hiệu; không thể xác định được đối tượng tranh chấp cụ thể
là gì, Hội đồng Trọng tài, Trung tâm Trọng tài nào của Việt Nam có thẩm quyền
giải quyết; khi được nguyên đơn cho biết bằng văn bản hay được Tịa án thơng
báo về việc nguyên đơn đã nộp đơn kiện yêu cầu Tòa án giải quyết vụ tranh chấp
mà bị đơn không phản đối hay bị đơn có phản đối nhưng khơng xuất trình được
tài liệu, chứng cứ để chứng minh là trước đó các bên đã có thoả thuận trọng tài;
có quyết định của Tịa án huỷ quyết định trọng tài.. thì vụ tranh chấp dù các bên
có thoả thuận trọng tài nhưng thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.
Hồ sơ khởi kiện được gửi tới Tòa án nhân dân cấp huyện đối với các tranh chấp
phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa cá nhân, tổ chức có đăng
ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận.
Không phụ thuộc vào giá trị tranh chấp, thời điểm xảy ra tranh chấp mà căn cứ
vào chủ thể và nội dung tranh chấp, những tranh chấp giản đơn, không q phức
tạp thì Tịa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giải quyết. Đối với các tranh
chấp kinh tế khác, các bên tiến hành khởi kiện tại Tòa án kinh tế thuộc Tòa án
nhân dân cấp tỉnh. Xét về chủ thể và nội dung tranh chấp thì Tịa kinh tế thuộc
Tịa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền rộng rãi hơn Tòa án nhân dân cấp huyện
trong việc giải quyết các tranh chấp kinh tế.
Điều này cho thấy, dù được coi là một dạng tranh chấp dân sự nhưng tranh chấp
kinh tế được xác định là loại tranh chấp phức tạp chứ không phải là tranh chấp

đơn giản, phổ thơng. Đặc biệt, tranh chấp kinh tế có yếu tố nước ngoài gồm trường
hợp một hoặc các bên tranh chấp là tổ chức, cá nhân nước ngoài; sự kiện nảy sinh
tranh chấp sảy ra ở nước ngoài và tài sản, hàng hố tranh chấp đang ở nước ngồi
thì khơng kể nội dung tranh chấp là gì vẫn thuộc thẩm quyền giải quyết cùa Tòa
kinh tế thuộc Tòa án nhân dân cấp tỉnh.
Phù hợp thẩm quyền của mình, Tịa án tiến hành thụ lý vụ án đó là Tịa án nơi bị
đơn cư trú, làm việc hoặc có trụ sở. Các bên cũng có thể thoả thuận Tịa án nơi cư
trú, làm việc của nguyên đơn hoặc nơi có trụ sở của nguyên đơn. Trường hợp
tranh chấp về bất động sản thì Tịa án nơi có bất động sản có thẩm quyền giải
quyết.


Cần lưu ý rằng, theo thủ tục trọng tài hay theo thủ tục Tịa án thì thời hiệu khởi
kiện cũng là 2 năm từ thời điểm phát sinh tranh chấp. Tức là q thời hạn hai năm
các bên khơng cịn quyền khởi kiện và trọng tài hoặc Tịa án khơng tiếp nhận để
giải quyết tranh chấp của các bên nữa. Nhưng trong tình huống này các bên vẫn
có thể tiến hành giải quyết tranh chấp của mình bằng thủ tục thương lượng hoặc
hoà giải.
4.2. Thụ lý vụ án
Sau khi nhận đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo, nếu xét thấy vụ án
thuộc thẩm quyền giải quyết của Tịa án thì Thẩm phán phải thơng báo ngay cho
người khởi kiện biết để họ đến Tòa án làm thủ tục nộp tiền tạm ứng án phí trong
trường hợp họ phải nộp tiền tạm ứng án phí. (Điều 195 Bộ luật tố tụng dân sự năm
2015)
Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày thụ lý vụ án, Thẩm phán phải thông
báo bằng văn bản cho nguyên đơn, bị đơn, cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan đến việc giải quyết vụ án, cho Viện kiểm sát cùng cấp về việc
Tòa án đã thụ lý vụ án. (Điều 196 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015)
4.3. Chuẩn bị giải quyết
Sau khi thụ lý vụ án, căn cứ quy định tại Điều 197 và 198 Bộ luật tố tụng dân sự

năm 2015: Chánh án Tịa án phân cơng một Thẩm phán giải quyết vụ án. Thẩm
phán tiến hành chuẩn bị xét xử trong thời hạn 2 tháng, đối với vụ án có tính chất
phức tạp hoặc do trở ngại khách quan thì có thể kéo dài nhưng thời hạn kéo dài
thêm không quá 1 tháng (Điểm b khoản 1 Điều 203 Bộ luật tố tụng dân sự năm
2015).
Dân sự năm 2015 thì các bên tranh chấp có quyền và nghĩa vụ giao nộp chứng cứ
cho Tịa án; nếu khơng nộp hoặc nộp khơng đầy đủ thì phải chịu hậu quả của việc
khơng nộp hoặc nộp khơng đầy đủ đó. Việc đương sự giao nộp chứng cứ cho Tòa
án phải được lập biên bản về việc giao nhận chứng cứ. Nếu giao nộp cho Tòa án
chứng cứ bằng tiếng dân tộc thiểu số, tiếng nước ngồi phải kèm theo bản dịch
sang tiếng Việt, được cơng chứng, chứng thực hợp pháp. Ngồi ra, Thẩm phán có
quyền yêu cầu đương sự nộp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án và thực hiện một hoặc
một số biện pháp để thu thập chứng cứ khi thấy cần thiết. Trong trường hợp đương
sự khơng thể tự mình thu thập được chứng cứ và có u cầu thì Thẩm phán có thể
tiến hành lấy lời khai của đương sự, người làm chứng, trưng cầu giám định, quyết
định định giá tài sản, xem xét, thẩm định tại chỗ, uỷ thác thu thập chứng cứ hoặc


yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp tài liệu đọc được, nghe được, nhìn
được hoặc hiện vật khác liên quan đến việc giải quyết vụ việc dân sự.
Thẩm phán nghiên cứu và đánh giá nội dung tranh chấp kinh tế của các bên để có
căn cứ pháp lý cho các bước giải quyết tiếp theo.
Thứ hai, hòa giải
Theo quy định tại Điều 205 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, cũng như thủ tục
trọng tài, hoà giải là bắt buộc trong thủ tục Tòa án. Thẩm phán tiến hành hòa giải
để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết tranh chấp trừ những tranh
chấp yêu cầu đòi bồi thường gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước và tranh chấp
phát sinh từ giao dịch trái pháp luật, đạo đức xã hội thì khơng được hồ giải.
Tham gia hịa giải, ngồi Thẩm phán cịn có Thư ký Tịa án, các đương sự hoặc
người đại diện hợp pháp của họ và người phiên dịch. Việc hịa giải phải được tiến

hành theo ngun tắc tơn trọng sự tự nguyện thỏa thuận của các đương sự và nội
dung thỏa thuận giữa các đương sự không trái pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội.
Tại phiên hoà giải Thẩm phán phổ biến cho các đương sự biết các quy định của
pháp luật có liên quan đến việc giải quyết vụ án để các bên liên hệ đến quyền,
nghĩa vụ của mình, phân tích hậu quả pháp lý của việc hoà giải thành để họ thoa
thuận với nhau về việc giải quyết vụ án. Các bên tự do, tự nguyện lựa chọn phương
án giải quyết, phương án do thẩm phán đề xuất chỉ có tính tham vấn đối với họ.
Nếu các bên hòa giải được với nhau về việc giải quyết tranh chấp thi Thẩm phán
sẽ ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các bên tranh chấp. Quyết định này
có hiệu lực pháp luật ngay sau khi được ban hành. Neu hịa giải khơng thành,
Thẩm phán ra quyết định mở phiến tòạ xét xử để giải quyết vụ việc.
4.4. Phiên Tòa sơ thẩm
Đây là phiên đầu tiên, Theo quy định tại Chương XIV Bộ luật Tố tụng Dân sự
năm 2015 thì Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm một Thẩm phán và hai Hội thẩm nhân
dân. Trong trường hợp đặc biệt thì Hội đồng xét xử sơ thẩm có thể gồm hai Thẩm
phán và ba Hội thẩm nhân dân. Ngồi ra có sự tham gia của Kiểm sát viên; các
đương sự hoặc người đại diện hợp pháp của họ; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan; người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự; người làm chứng;
người giám định; người phiên dịch. Trong đó ngun đơn phải có mặt tại phiên
Tịa theo giấy triệu tập của Tòa án; nếu vắng mặt lần thứ nhất có lý do chính đáng
thì phải hỗn phiên Tòa. Nếu nguyên đơn đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai
mà vẫn vắng mặt thì bị coi là từ bỏ việc khởi kiện và Tòa án ra quyết định đình


chỉ giải quyết vụ án. Cịn bị đơn phải có mặt tại phiên Tòa theo giấy triệu tập cùa
Tòa án; nếu vắng mặt lần thứ nhất có lý do chính đáng thì phải hỗn phiên Tịa.
Nếu bị đơn đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt thì Tịa án
vẫn tiến hành xét xử vắng mặt họ.(Xem thêm tại Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự
năm 2015)
Phiên Tòa sơ thẩm thực hiện xét xử trực tiếp, bằng lời nói và liên tục qua các giai

đoạn khai mạc phiên Tòa; xét hỏi và tranh luận; nghị án và tuyên án. Kết thúc
phiên tòa sơ thẩm, căn cứ vào kết quả tranh tụng, việc hỏi tại phiên tòa và các
chứng cứ đã được xem xét, kiểm tra tại phiên tòa, nhân danh nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, Tòa án ra bản án, quyết định giải quyết và tun cơng
khai tại phiên tịa. Phù hợp nguyên tắc tự định đoạt, trong suốt quá trình diễn ra
phiên tịa các bên được khuyến khích thỏa thuận để giải quyết vụ án. Nếu thoả
thuận cùa họ là tự nguyện, nội dung giải quyết không trái pháp luật hoặc đạo đức
xã hội thì Hội đồng xét xử ra bản án, quyết định công nhận thoả thuận của các
bên.
4.5. Phiên Tòa phúc thẩm
Bảo đảm nguyyên tắc xét xử hai cấp, nếu không đồng ý với bản án, quyết định sơ
thẩm, trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày tuyên án, những người có quyền
kháng cáo gồm: đương sự, người đại diện cùa đương sự, cơ quan, tổ chức khởi
kiện; người được quyền kháng nghị gồm Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp và
Viện kiểm sát nhân dân cấp ừên thực hiện kháng cáo, kháng nghị để Tòa án cấp
trên trực tiếp xét xử, giải quyết lại bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm
(Xem thêm Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015).
Theo quy định tại Điều 286 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 thi phiên Tòa phúc
thẩm được mở trong thời hạn 3 hoặc 4 tháng kể từ thời điểm Tòa án nhận được
yêu cầu kháng cảo, kháng nghị bản án, quyết định sơ thẩm. Khác với Hội đồng
xét xử sơ thẩm, Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm ba Thẩm phán. Tham gia phiên
Tịa phúc thẩm gồm có người kháng cáo, đương sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức có
liên quan đến việc giải quyết kháng cáo, kháng nghị và người bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của đương sự; Kiếm sát viên Viện kiểm sát cùng cấp trong trường
hợp Viện kiểm sát kháng nghị hoặc đã tham gia phiên Tòa sơ thẩm; những người
tham gia tố tụng khác đo Tòa án triệu tập nếu thấy cần thiết cho việc giải quyết
kháng cáo, kháng nghị.


Tòa án cấp phúc thẩm chỉ xem xét lại phần của bản án sơ thẩm, quyết định của

Tòa án cấp sơ thẩm có kháng cáo, kháng nghị hoặc có liên quan đến việc xem xét
nội dung kháng cáo, kháng nghị (Điều 293 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015).
Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm sẽ ra một trong các quyết định sau đây (Điều 308
Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015:
+ Giữ nguyên bản án sơ thẩm;
+ Sửa bản án sơ thẩm;
+ Hủy bản án sơ thẩm, hủy một phần bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho
Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm;
+ Hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án;
+ Đình chỉ xét xử phúc thẩm;
+ Tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án khi có văn bản của Chánh án Tòa án nhân
dân tối cao kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét sửa đổi, bổ sung
hoặc bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, nghị
quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, văn
bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên cho đến khi cơ quan nhà
nước có thẩm quyền có văn bản trả lời Tịa án kết quả xử lý.
Tương tự như tại phiên Tòa sơ thẩm, để bảo đảm nguyên tắc tự định đoạt, tại phiên
Tòa phúc thẩm, nếu các đương sự thoả thuận được với nhau về việc giải quyết
tranh chấp và thoả thuận của họ là tự nguyện, không trái pháp luật hoặc đạo đức
xã hội thì Hội đồng xét xử phúc thẩm ra bản án, quyết định phúc thẩm sửa bản án,
quyết định sơ thẩm, công nhận sự thoả thuận của các đương sự.
4.6. Giám đốc thẩm, tái thẩm
Theo nguyên tắc xét xử hai cấp, các bên tranh chấp kinh tế chỉ được yêu cầu Tòa
án xét xử sơ thẩm và phúc thẩm. Tuy nhiên, để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp
của các bên tranh chấp, bảo đảm tính cơng bằng, nghiêm minh của pháp luật, tranh
chấp kinh tể có thể được giải quyết theo thủ tục đặc biệt là giám đốc thẩm, tái
thẩm. Nội dung này được quy định tại Chương XX và Chương XXI Bộ luật Tố
tụng dân sự năm 2015 như sau:
Giám đốc thẩm: xét lại bản án, quyết định của Tịa án đã có hiệu lực pháp luật
nhưng bị kháng nghị giám đốc thẩm khi có một trong các căn cứ: (Điều 325 và

điều 326 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015)
+ Kết luận trong bản án, quyết định khơng phù hợp với những tình tiết khách quan
của vụ án gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự;


+ Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng làm cho đương sự không thực hiện
được quyền, nghĩa vụ tố tụng của mình, dẫn đến quyền, lợi ích hợp pháp của họ
không được bảo vệ theo đúng quy định của pháp luật;
+ Có sai lầm trong việc áp dụng pháp luật dẫn đến việc ra bản án, quyết định
không đúng, gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, xâm phạm
đến lợi ích cơng cộng, lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của người
thứ ba.
Tải thẩm: là xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng
nghị vì có tình tiết mới được phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của
bản án, quyết định mà Tịa án, các đương sự khơng biết được khi Tịa án ra bản
án, quyết định đó. (Điều 351 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015)
Điểm khác biệt căn bản giữa phiên Tòa giám đốc thẩm và tái thẩm với phiên Tòa
phúc thẩm là xét lại bản án, quyết định đã có hiệu. Do tính đặc biệt đó, chỉ có
Chánh án Tịa án nhân dân, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có quyền
kháng nghị theo thủ tục tái thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của
Tòa án các cấp, trừ quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao;
Chánh án Tòa án nhân dân, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh có quyền
kháng nghị bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tịa án nhân dân cấp
huyện. Người kháng nghị bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật có quyền
quyết định tạm đình chỉ thi hành bản án, quyết định đó cho đến khi có quyết định
tái thẩm.
5. Ưu điểm của phương thức giải quyết tranh chấp trong kinh doanh bằng
tòa án?
- Thứ nhất, trình tự, thủ tục tố tụng chặt chẽ và độ tin cậy vào hiệu lực của
phán quyết.

- Trình tự, thủ tục tố tụng đã được quy định rất chặt chẽ, cụ thể trong Bộ luật
tố tụng dân sự, trải qua các giai đoạn từ thụ lý cho đến xét xử sơ thẩm. Q
trình đó địi hỏi phải diễn ra theo một trật tự pháp lý và các đương sự có
nghĩa vụ phải thực hiện theo đó. Các phán quyết của Hội đồng xét xử nhân
danh nhà nước, đảm bảo được độ tin cậy, hiệu lực được bảo đảm trong
phạm vi cả nước.


- Thứ hai, có sức mạnh cưỡng chế nên góp phần vào việc nâng cao ý thức
tôn trọng pháp luật cho các chủ thể kinh doanh.
- Sức mạnh cưỡng chế được diễn ra trong suốt quá trình đương sự tham gia
vào vụ án kinh doanh, thương mại, sức mạnh này có được nhờ yếu tố quyền
lực nhà nước mà chỉ có cơ quan nhà nước có thẩm quyền mới có được. Đặc
biệt, sụ cưỡng chế này nhằm đảm bảo cho phán quyết của tòa án được thi
hành trên thực tế, đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp cho bên thắng kiện.
- Ưu điểm nổi bật của phương thức giải quyết tranh chấp bằng Tịa án là tính
quyền lực nhà nước. Tịa án là cơ quan tư pháp có quyền nhân danh ý chí
quyền lực của nhà nước khi xét xử các vụ tranh chấp. Các bản án và quyết
định của Tịa án nhân dân đã có hiệu lực pháp luật phải được các cơ quan
nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, các đơn vị vũ trang nhân dân và
mọi công dân tôn trọng; những người và đơn vị hữu quan phải chấp hành.
Trong trường hợp bản án khơng được tự nguyện thi hành thì sẽ bị cưỡng
chế bởi quyền lực nhà nước.
6. Nhược điểm của phương thức giải quyết tranh chấp thương mại bằng
tồ án.
– Khơng giữ được bí mật kinh doanh. Một trong những nguyên tắc trong xét xử
tại tịa án là xét xử cơng khai, đây là điều e ngại nhất khi các chủ thể kinh doanh
lựa chọn tòa án là chủ thể giải quyết tranh chấp.
– Thủ tục tại toà thiếu linh hoạt. Thủ tục phức tạp, rườm rà cũng là yếu tố tác động
đến việc chủ thể tranh chấp dè chừng trước việc lựa chọn phương thức giải quyết

tranh chấp này, điều này kéo dài thời gian giải quyết tranh chấp, dẫn đến những
thiệt hai về kinh tế trong quá trình họ cứ mãi đeo bám vào vụ kiện. Sự phân chia
trình tự thủ tục xét xử qua nhiều cấp Tòa án phức tạp và kéo dài không đáp ứng
được yêu cầu quan trọng trong việc giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại
là nhanh chóng và kịp thời.


-Việc thụ lý và giải quyết các vụ án kinh doanh thương mạicủa Tòa án cấp sơ
thẩm còn để vụ án kéo dài, vi phạm thời hạn chuẩn bị xét xử nhưng chỉ dừng lại
ở việc kiến nghị, chưa có biện pháp để Tòa án khắc phục triệt để.

7. Kiến nghị một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết tranh
chấp thương mại tại toà án.
- Cần tuyên truyền, giáo dục để nâng cao nhận thức nhân dân về nghĩa vụ tôn
trọng pháp luật, về những phương thức hợp pháp được sử dụng khi phát sinh các
tranh chấp, mâu thuẫn trong kinh doanh thương mại, về sự cần thiết của cuộc đấu
tranh chống hành vi trái pháp luật, thực hiện áp dụng pháp luật đúng đắn để bảo
vệ lợi ích hợp pháp của các bên.
- Nâng cao ý thức pháp luật của các doanh nhân, bởi đó là những chủ thể liên quan
mật thiết đến các vụ việc tranh chấp. Nếu như các chủ thể này coi thường pháp
luật, áp dụng các hành vi vi phạm pháp luật trong giải quyết tranh chấp thì hậu
quả sẽ vơ cùng nặng nề.
- Cần nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan trọng tài trong việc giải
quyết các tranh chấp thương mại. Hoạt động của trọng tài dựa trên sự thỏa thuận
lựa chọn của các bên tranh chấp, dó đó chất lượng hoạt động của cơ quan này
hồn tồn dựa trên sự thiện chí của các bên. Nếu như một trong hai bên khơng
chấp nhận lựa chọn hình thức trọng tài để giải quyết tranh chấp thì tổ chức trọng
tài cũng khơng có điều kiện để phát huy tác dụng. Do đó, để có thể tăng cường
được hiệu quả, hiệu lực của tổ chức trọng tài thì cần đẩy mạnh công tác tuyên
truyền, phổ biến pháp luật đối với các doanh nhân, giúp họ hiểu rõ các thế mạnh,

ưu điểm của trọng tài khi giải quyết các tranh chấp thương mại. Trách nhiệm đó
khơng chỉ thuộc về các trung tâm trọng tài mà còn là nhiệm vụ của các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền để góp phần duy trì mối quan hệ, giữ gìn bí mật kinh
doanh và uy tín, thương hiệu cho các chủ thể liên quan.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. BỘ LUẬT THƯƠNG MẠI 2005, 2020
2. BỘ LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ 2015
3. BỘ LUẬT TỔ CHỨC TỒ ÁN NĂM 2014
4. GIÁO TRÌNH LUẬT HƯƠNG MẠI 2 TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ
NỘI
5. BÀI VIẾT THẨM QUYỀN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP – L;UẬT
DƯƠNG GIA ĐĂNG NGÀY 06/08/2021.



×