Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Xu The 2 - Nhom 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (91.26 KB, 12 trang )

XU THẾ 2
Giáo dục – Sự nghiệp quốc gia hàng đầu trong một xã hội đang thay đổi
nhanh. Chất lượng giáo dục hướng vào “phát triển người”, “phát triển nguồn
nhân lực”, hình thành những năng lực cơ bản mà thời đại mới địi hỏi.
I. Bối cảnh thế giới
1. Tồn cầu hóa
Tồn cầu hóa đang là xu thế lớn tác động một cách trực tiếp sâu rộng tới các lĩnh
vực đời sống xã hội của các quốc gia, dân tộc, đặc biệt là đối với sự phát triển về
kinh tế. Xét về bản chất, tồn cầu hóa là q trình tăng lên mạnh mẽ những mối
liên hệ, sự ảnh hưởng, tác động lẫn nhau, phụ thuộc lẫn nhau của tất cả các khu
vực, các quốc gia, các dân tộc trên toàn thế giới. Xu thế của tồn cầu hóa bắt
nguồn từ sự phát triển của các lực lượng sản xuất từ tính chất xã hội của lực lượng
sản xuất trên phạm vi quốc tế. Trong các xã hội xa xưa, các quốc gia dân tộc tồn
tại tương đối biệt lập, ít có quan hệ với nhau. Nhưng cùng với sự phát triển của lực
lượng sản xuất, sự tăng tiến của sản xuất và trao dổi hàng hóa, sự mở rộng thị
trường, thì các mối quan hệ cũng dần vượt ra khỏi ranh giới quốc gia, hình thành
các mối quan hệ quốc tế và cũng từ đó, q trình quốc tế hóa được bắt đầu.
Việt Nam cũng là một quốc gia đang phát triển và chịu ảnh hưởng sâu sắc của xu
thế tồn cầu hóa. Để có thể hội nhập với các quốc gia trong khu vực và trên thế
giới thì việc đẩy mạnh phát triển nền kinh tế, đặc biệt là một nền kinh tế tri thức
hiện đại với trình độ cao đang là một thách thức đối với Việt Nam hiện nay. Chính
vì thế việc phát triển các nguồn lực để phát triển kinh tế là một nhu cầu tất yếu của
lịch sử, của thời đại. Trong các nguồn lực để phát triển kinh tế thì có lẽ nguồn lực
về con người là quan trọng nhất bởi lẽ đây là nguồn nhân lực có sẵn, dồi dào, và
có khả năng cải biến trực tiếp nền kinh tế. Vì lí do trên, việc đào tạo và phát triển
nhân lực có trình độ cao, tay nghề chuyên môn giỏi đang được Đảng và nhà nước
ta hết sức quan tâm.


2. Cuộc cách mạng khoa học công nghệ
Cách mạng khoa học công nghệ đã và đang diễn ra mạnh mẽ ở các nước phát


triển, tức là các nước đã trải qua thời kì cách mạng cơng nghệ, đã xác lập được nền
sản xuất cơ khí hóa, đã có nền khoa học và cơng nghệ tiên tiến. Tuy nhiên nó
khơng chỉ hạn chế trong ranh giới của các nước phát triển mà ảnh hưởng của nó
đang lan ra tất cả các nước trên thế giới. Có thê nói các mạng khoa học cơng nghệ
là một hiên tượng tồn cầu, hiện tượng quốc tế, sớm hay muộn nó sẽ đến với tất cả
các dân và các quốc gia trên thế giới.
Việt Nam cũng đang chịu ảnh hưởng sâu rộng của cuộc cách mạng khoa học cơng
nghệ hiện nay, tuy nhiên cịn rất nhiều thách thức. Trước hết là cơ sở kĩ thuật của
chính ta cịn đi sau các nước tư bản,chưa có nền sản xuất cơ khí hóa, chưa có khoa
học cơng nghệ tiên tiến để có thể tiếp thu một cách hiệu quả nhất thành tựu của
cuộc cách mạng khoa học cơng nghệ này. Chính vì thế, chúng ta đã đưa ra một giải
pháp là đào tạo con người, phát triển con người, phát triển nguồn nhân lực trình độ
cao, tay nghề chun mơn giỏi để có thể ứng dụng thành tựu của cuộc cách mạng
khoa học công nghệ vào đời sống một cách hiệu quả nhất. Bởi vì lí do trên, việc
đầu tư cho giáo dục hiện đang là một ưu tiên hàng đầu và được quan tâm nhiều
nhất ở nước ta hiện nay.
3. Cơng cuộc cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay
Đảng ta nêu ra quan niệm về cơng nghiệp hóa hiện đại hóa như sau: Cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa là q trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất
kinh doanh, dịch vụ và quản lí kinh tế xã hội, từ sử dụng sức lao động thủ cơng là
chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động với công nghệ, phương tiện,
phương pháp tiên tiến hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ
khoa học công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao.
Nhận thức đúng đắn về vị trí, ý nghĩa, tầm quan trọng của CNH, HĐH trong sự
nghiệp đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước. Nghị quyết của Đảng ta đã đề ra
việc phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước cơng nghiệp, có cơ sở
vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp


với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao,

quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh.
Vậy, để làm được tất cả những cơng việc mà Đảng đã đề ra thì khơng thể khơng có
một đội ngũ tri thức, nhân lực tay nghề cao, có những năng lực phù hợp với những
yêu cầu của nước nhà và của thời đại.Việc đào tạo phát triển nguồn nhân lực là
quy luật tất yếu của lịch sử. Chính vì thế, giáo dục chính là sự nghiệp quốc gia
hàng đầu trong một xã hội đang phát triển nhanh cùng với xu thế tồn cầu hóa,
cách mạng khoa học công nghệ đang bùng nổ như hiện nay.
II. GIÁO DỤC LÀ QUỐC SÁCH HÀNG ĐẦU TRONG MỘT XÃ HỘI
THAY ĐỔI NHANH
1. Vai trị và vị trí của giáo dục
Giáo dục đào tạo đóng vai trị quan trọng là nhân tố chìa khóa, là động lực thúc
đẩy nền kinh tế phát triển. Không chỉ ở Việt Nam mà ở hầu hết các quốc gia khác
trên thế giới, các chính phủ đều coi giáo dục là quốc sách hàng đầu.
- Thứ nhất: Giáo dục đào tạo là điều kiện tiên quyết góp phần phát triển kinh tế,
động lực thúc đẩy sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
- Thứ hai: Giáo dục đào tạo góp phần ổn định chính trị xã hội.
- Thứ ba: Và trên hết giáo dục đào tạo góp phần nâng cao chỉ số phát triển con
người.
Sự nghiệp giáo dục – đào tạo có vị trí quan trọng trong chiến lược con người,
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. “Nguồn tài ngun và sự giàu
có của một quốc gia khơng phải nằm trong lịng đất mà chính là nằm trong bản
thân con người, trí tuệ con người”. Muốn tiến hành cơng nghiệp hoá, hiện đại hoá
thắng lợi phải đẩy mạnh phát triển giáo dục - đào tạo vì giáo dục đào tạo có vai trị
quan trọng trong lĩnh vực sản xuất vật chất xã hội cũng như xây dựng nền văn hoá.
Nghị quyết hội nghị lần thứ II Ban chấp hành Trung ương khoá VIII đã nhấn
mạnh: Thực sự coi giáo dục -đào tạo là quốc sách hàng đầu. Nhận thức sâu sắc
giáo dục - đào tạo cùng với khoa học công nghệ là nhân tố quyết định tăng trưởng



kinh tế và phát triển xã hội. Đầu tư cho giáo dục - đào tạo là đầu tư phát triển.
Giáo dục - đào tạo khơng chỉ có vai trị quan trọng trên lĩnh vực sản xuất vật chất
mà còn là cơ sở để hình thành nền văn hố tinh thần của chủ nghĩa xã hội. Giáo
dục có tác động vơ cùng to lớn trong việc truyền bá hệ tư tưởng chính trị xã hội
chủ nghĩa, xây dựng ý thức pháp quyền và ý thức đạo đức, xây dựng nền văn hố,
văn học nghệ thuật, góp phần cơ bản vào việc hình thành lối sống mới, nhân cách
mới của tồn bộ xã hội. Đảng ta đã chỉ rõ: “Nhiệm vụ và mục tiêu cơ bản của giáo
dục là nhằm xây dựng con người và thế hệ thiết tha, gắn bó với lý tưởng độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng, có ý chí kiên cường, xây dựng
và bảo vệ tổ quốc; thực hiện sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước,
giữ gìn và phát huy các giá trị văn hoá của dân tộc là những người kế thừa xây
dựng chủ nghĩa xã hội ”
Như vậy giáo dục - đào tạo có tác dụng to lớn đến toàn bộ đời sống vật chất và đời
sống tinh thần của xã hội. Phát triển giáo dục - đào tạo là cơ sở để thực hiện chiến
lược phát triển kinh tế-xã hội, chiến lược con người của Đảng và Nhà nước ta.
Luật giáo dục 2005 của nước ta đã khẳng định: “Phát triển giáo dục là quốc sách
hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài” (điều 9).
Tại điều 13 nhấn mạnh: “Đầu tư giáo dục là đầu tư phát triển, Nhà nước ưu tiên
đầu tư cho giáo dục. Khuyến khích bảo hộ các quyền và lợi ích hợp pháp của tổ
chức và cá nhân trong và ngoài nước đầu tư cho giáo dục, trong đó ngân sách Nhà
nước giữ vai trò chủ yếu trong tổng nguồn lực đầu tư cho giáo dục”.
2. Sự cấp thiết của giáo dục trong một xã hội phát triển nhanh
Trong thời đại khoa học công nghệ phát triển như vũ bão hiện nay, hàm lượng trí
tuệ khoa học kết tinh trong sản phẩm hàng hố ngày càng tăng; tài năng trí tuệ,
năng lực và bản lĩnh trong lao động sáng tạo của con người, không phải xuất hiện
một cách ngẫu nhiên, tự phát, mà phải trải qua q trình đào luyện cơng phu có hệ
thống. Thực tiễn cho thấy rằng khơng có quốc gia nào muốn phát triển mà ít đầu tư
cho giáo dục. Cơng cuộc chạy đua phát triển kinh tế của thế giới hiện nay là cuộc
chạy đua về khoa học và công nghệ, chạy đua về phát triển giáo dục - đào tạo.



Theo ước tính: Cứ ba phút thế giới lại có một phát minh khoa học, cho nên
UNESCO khuyến nghị với mọi người về khối lượng tri thức khổng lồ của loài
người cần được chuyển giao cho các thế hệ. Điều đó khẳng định rằng: Quốc gia
nào khơng đầu tư cho giáo dục sẽ có nguy cơ tụt hậu nghiêm trọng trong tương lai.
Việc tiếp tục đẩy mạnh tồn diện cơng cuộc đổi mới, thực hiện cơng nghiệp hố,
hiện đại hố gắn với phát triển kinh tế tri thức, tích cực, chủ động hội nhập quốc tế
sâu rộng hơn để đến năm 2020 nước ta trở thành một nước công nghiệp theo
hướng hiện đại đặt ra cho giáo dục, đào tạo nước nhà những yêu cầu, nhiệm vụ,
thách thức mới. Đào tạo nguồn nhân lực có trình độ cao đáp ứng nhu cầu phát
triển kinh tế tri thức đang là áp lực của ngành giáo dục nói riêng và của tồn Đảng,
tồn dân nói chung. Điều này địi hỏi phải có định hướng phát triển, có tầm nhìn
chiến lược, ổn định lâu dài cùng những phương pháp, hình thức, tổ chức, quản lý
giáo dục và đào tạo cho phù hợp.
3. Những chính sách đầu tư cho giáo dục
Chỉ trong năm năm cuối thế kỉ XX và năm năm đầu thế kỉ XXI, tất cả các tỉnh,
thành phố, vùng miền trên cả nước đã đầu tư mạnh mẽ cho giáo dục. Yên Bái là
một tỉnh miền núi nghèo, có nhiều vùng đặc biệt khó khăn, song đã đầu tư tới
248,4 tỉ VNĐ để xố phịng học tạm, trong đó có tới 54 tỉ VNĐ là ngân sách địa
phương. Tính đến năm 2006 có 89% phịng học được kiên cố hố và từng bước
xây dựng hệ thống trường đạt chuẩn quốc gia, hiện nay có 28 trường đạt chuẩn
quốc gia trên tổng số 568 trường. Đó là một cố gắng lớn. Quan tâm đến chất lượng
đội ngũ, Yên Bái đầu tư kinh phí đào tạo lại và đào tạo nâng chuẩn, ưu tiên bồi
dưỡng đội ngũ cán bộ quản lí và bồi dưỡng học sinh giỏi nên ở tất cả các bậc học,
đội ngũ giáo viên đạt chuẩn đạt từ 93% trở lên, góp phần đáp ứng yêu cầu thay
sách và đổi mới giáo dục. Tỉnh Hà Tĩnh là một miền quê nghèo nhưng có truyền
thống hiếu học, việc đầu tư xây dựng hệ thống trường đạt chuẩn quốc gia được
chú trọng. Huyện miền núi Hương Khê 100% trường đạt chuẩn quốc gia. Huyện
miền núi Vụ Quang được đầu tư xây dựng TTGDTX hiện đại, tạo điều kiện cho



phong trào thi đua “Hai tốt” và xây dựng một xã hội học tập bền vững. Đội ngũ
giáo viên đạt chuẩn và trên chuẩn hơn 98%.
Chi ngân sách nhà nước cho giáo dục đào tạo trên 20% tổng chi ngân sách; việc
huy động các nguồn lực xã hội cho giáo dục, đào tạo, phát triển giáo dục, đào tạo
ở vùng sâu vùng xa, vùng khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số được quan
tâm… Đến năm 2010, tất cả các tỉnh, thành phố đã đạt chuẩn phổ cập giáo dục
trung học cơ sở. Tỷ lệ lao động qua đào tạo tăng, năm 2010 đạt 40% tổng số lao
động đang làm việc” (Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính
trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr 153).
III. CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC HƯỚNG VÀO “PHÁT TRIỂN NGƯỜI”,
“PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC”, HÌNH THÀNH NHỮNG NĂNG
LỰC MÀ THỜI ĐẠI MỚI ĐÒI HỎI
1. Chất lượng của giáo dục hướng vào “phát triển người”
1.1. Định nghĩa: “chất lượng giáo dục”
Cách hiểu phổ biến hiện nay về “chất lượng giáo dục” là sự đáp ứng mục tiêu đề
ra của giáo dục: Chẳng hạn mục tiêu giáo dục đại học tồn diện gồm có: phẩm
chất cơng dân, lý tưởng, kỹ năng sống; tri thức (chuyên môn, xã hội, ngoại ngữ,
tin học...) và khả năng cập nhật thông tin; giao tiếp, hợp tác; năng lực thích ứng
với những thay đổi và khả năng thực hành, tổ chức và thực hiện cơng việc, khả
năng tìm việc làm và tự tạo việc làm có ích cho bản thân và người khác... Hoặc
mục tiêu giáo dục là nhằm đào tạo con người Việt Nam phát triển tồn diện, có
đạo đức, tri thức, sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp; trung thành với lý tưởng độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và
năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc.
1.2. Giáo dục và Phát triển người
Giáo dục đảm nhận việc dạy người với bốn trọng tâm của “Chiến lược con người”
ở thế kỷ XXI: Thứ nhất là: Học tri thức (con người có tri thức chun sâu, có trình
độ học vấn và trình độ văn hố cao, có khả năng cống hiến). Thứ hai là: Học cách



làm việc (biết tạo ra những sản phẩm vật chất và tinh thần có chất lượng cao cho
xã hội, sự năng động sáng tạo trong công việc). Thứ ba là: Học cách tồn tại (để có
khả năng thích nghi với nhịp điệu của xã hội hiện đại trong môi trường sống rộng
mở phức tạp, đa chiều. Nhất là trong xu thế hội nhập hiện nay). Thứ tư là: Học
cách chung sống (có kiến thức về bản sắc riêng của từng dân tộc, am hiểu văn hoá
thế giới, đáp ứng xu thế quốc tế tồn cầu hố. Con người chung sống trong đối
thoại hồ bình).
Chiến lược phát triển giáo dục 2009 – 2020 nhấn mạnh đến đào tạo con người Việt
Nam phát triển toàn diện, hài hoà, nhu cầu phát triển của mỗi cá nhân trong xã hội,
tạo điều kiện cho mọi cá nhân học tập, làm cho việc tới trường trở thành nhu cầu,
niềm vui, hạnh phúc của tuổi trẻ; xem cạnh tranh lành mạnh trong giáo dục là một
trong những động lực của sự phát triển giáo dục; nhấn mạnh tính hiệu quả trong
giáo dục: đảm bảo chất lượng giáo dục tốt nhất trong điều kiện nguồn lực còn hạn
hẹp.
Có thể nói người học là tâm điểm của Chiến lược phát triển giáo dục 2009 – 2020.
Điều này được thể hiện trong quản điểm đầu tiên khẳng định mục tiêu đào tạo của
giáo dục Việt Nam là "đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện...". Sự chú
trọng vào người học còn được thể hiện ở quan điểm thứ ba khi khẳng định rằng
"giáo dục một mặt vừa đáp ứng yêu cầu xã hội nhưng mặt khác vừa thoả mãn nhu
cầu phát triển của mỗi cá nhân người học, mang đến niềm vui học tập cho mỗi
người". Với những quan điểm như vậy, Chiến lược phát triển giáo dục 2009 –
2020 đã đề cập tới nhiều giải pháp hướng vào người học, từ việc xây dựng môi
trường sư phạm thân thiện ở mỗi nhà trường, ở đó người học được cảm thông,
được chia sẻ, được bày tỏ ý kiến riêng của mình và việc tới trường trở thành một
nhu cầu của mỗi người học đến các giải pháp đổi mới chương trình, giáo trình,
phương pháp dạy học nhằm tạo cơ hội cho mỗi người học được học những gì gắn
với chuẩn mực chung nhưng phù hợp với nhu cầu, nguyện vọng và điều kiện học
tập của mình, nhằm phát triển và hoàn thiện tố chất cá nhân. Chiến lược cũng đề

cập đến các giải pháp hỗ trợ những đối tượng học sinh được ưu tiên, thông qua


việc thực hiện các cơ chế học bổng học phí, tín dụng cho học sinh, sinh viên dân
tộc, miền núi, vùng có khó khăn và các học sinh, sinh viên thuộc diện chính sách
xã hội với phương châm khơng để học sinh nào nghèo mà không được học.
1.3. Thực trạng
Hiện nay, cả nước có trên 9.000 trung tâm học tập cộng đồng, gần 700 trung tâm
giáo dục thường xuyên cấp tỉnh và huyện, 1.300 trung tâm tin học, nhiều trường
đại học triển khai các chương trình đào tạo từ xa. Ngồi ra, có nhiều cơ sở đào tạo
ngoại ngữ và bồi dưỡng nâng cao trình độ chun mơn, nghiệp vụ có yếu tố nước
ngồi đang hoạt động tại Việt Nam.
Nhiều trường đại học đã tổ chức dạy học theo các chương trình tiên tiến quốc tế.
Tới tháng 12/2008 có 23 chương trình đào tạo tiên tiến quốc tế đang được thực
hiện ở 17 trường đại học giảng dạy trực tiếp bằng tiếng Anh.
2. Chất lượng giáo dục hướng vào “phát triển nguồn nhân lực”, hình thành
những năng lực cơ bản mà thời đại mới đòi hỏi.
2.1. Khái niệm “nguồn nhân lực”
Nguồn nhân lực là tồn bộ trình độ chun mơn mà con người tích luỹ được, có
khả năng đem lại thu nhập trong tương lai (Beng, Fischer & Dornhusch, 1995)
Nguồn nhân lực là tổng thể các tiềm năng lao động của một nước hay một địa
phương sẵn sàng tham gia một cơng việc lao động nào đó.( GS. Phạm Minh Hạc
(2001)
2.2. Bồi dưỡng nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực chất lượng cao, là những con người được đầu tư phát triển, có kỹ
năng, kiến thức, tay nghề, kinh nghiệm, năng lực sáng tạo, là vũ khí mạnh mẽ nhất
để giành thắng lợi trong cạnh tranh giữa các nền kinh tế, là động lực cho nền kinh
tế bền vững. Năng lực này chỉ có thể có được thơng qua giáo dục – đào tạo và tích
lũy kinh nghiệm trong q trình làm việc. Tuy nhiên, ngay cả việc tích lũy kinh
nghiệm này cũng phải dựa trên một nền tảng là giáo dục- đào tạo nghề nghiệp cơ



bản. Như vậy, có thể thấy, vai trị quyết định của giáo dục- đào tạo nghề nghiệp
đối với việc hình thành và phát triển năng lực thực hiện của con người.
2.2.a. Chất lượng mới của giáo dục đại học
* Nhiệm vụ:
- Đào tạo những người tốt nghiệp có chun mơn trình độ cao, có khả năng thâm
nhập vào tất cả các lĩnh vực hoạt động con người. Người tốt nghiệp đại học phải
có năng lực sau đây:
+ Thường xuyên cập nhật được kiến thức của mình
+ Chiếm lĩnh những trình độ thành thạo chun mơn mới
+ Có khả năng tìm được việc làm, thậm chí tự tạo ra được việc làm trong một thị
trường sức lao động đầy biến động.
-

Cung cấp một “không gian mở” cho đào tạo đại học và học tập suốt đời, với

sự chọn lựa tối ưu và một hệ thống mềm dẻo về chỗ vào và chỗ ra đối với giáo dục
đại học.
-

Thúc đẩy và truyền bá những tri thức thông qua giảng dạy, chuyên môn hóa

và nghiên cứu
-

Giúp hiểu biết giải thích, bảo vệ, tăng cường, thúc đẩy và truyền bá những

văn hóa dân tộc và khu vực, quốc tế và lịch sử.
-


Giúp giữ gìn và thúc đẩy những giá trị xã hội khi xử lí những vấn đề phẩm

chất và đạo đức
-

Đóng góp và sự phát triển và cải tiến giáo dục ở tất cả các trình độ, nhất là

trong việc đào tạo giáo viên.
* Chất lượng giáo dục đại học:
-

Chất lượng của nhân sự: cần có chính sách quản lí thích hợp dựa trê nguyên

tắc “xứng đáng về tài và đức” và đảm bảo việc bồi dưỡng liên tục, cần có sự
khuyến khích làm việc với tính đồng đội liên ngành và xóa bỏ những thói quen
làm việc khoa học một cách rất riêng lẻ.
-

Chất lượng của chương trình: cần xác định mục tiêu đào tạo, gắn kết với

những nhu cầu của thế giới lao động và của cả xã hội; cần có phương pháp sư


phạm làm cho sinh viên chủ động hơn và triển khai tinh thần tạo nghiệp, doanh
nghiệp; tăng cường tính mềm dẻo của những biện pháp đào tạo, khai thác những
công nghệ thơng tin, cần có sự quốc tế hóa và đưa vào mạng những chương trình
giáo dục và đào tạo.
-


Chất lượng của sinh viên; sinh viên là nguyên liệu của giáo dục đại học,

phải quan tâm đặc biệt việc nhập học của họ, gắn với những tiêu chí về sự xứng
đáng tài đức; những chính sách đối với đối tượng thiệt thòi, sự phối hợp với giáo
dục trung học và về sự đảm bảo có một dây chuyền giáo dục thực sự, - thực sự
phát triển những năng lực trí tuệ của sinh viên, tăng cường nội dung liên môn và
liên ngành.
-

Chất lượng cơ sở hạ tầng môi trường bên trong và bên ngoài, bao gồm cả

những cơ sở hạ tầng liên quan đến việc sử dụng và phát triển công nghệ thông tin,
coi nghiên cứu không chỉ là một trong những chức năng chủ yếu của giáo dục đại
học, mà cịn là điều kiện khơng thể thiếu được để làm cho nhà trường có chất
lượng phù hợp với xã hội.
-

Chất lượng của quản lí cơ sở như một chỉnh thể phối hợp và tương tác với

môi trường.
2.2.b. Chất lượng mới của đào tạo nghề
Xã hội thay đổi rất nhanh trong thời đại mới vì vậy rất khó tiên đốn đào tạo nói
chung và đạo tạo nghề nói riêng, kể cả đào tạo ngắn hạn. Vì vậy đào tạo nghề vừa
phải phù hợp với những loại hình việc làm hiện nay đồng thời lại phải thích nghi
với những loại hình việc làm trong tương lai.
Khuynh hướng chung của các nước là từ bỏ những chương trình đào tạo chun
mơn hóa quá mức mà thay vào đó là sự nhóm gộp một số loại hình chương trình
khác nhau.
Chất lượng đào tạo là phải nhấn mạnh vào khả năng thích ứng của sức lao động.
Đó là u cầu đối với cơng nhân lành nghề mọi loại. Có hai giải pháp bổ xung

được áp dụng là:


-

Tăng cường giáo dục phổ thơng, trở thành hình thức chính của đào tạo nghề

bằng cách thêm những thành phần công nghệ giúp cho học sinh làm quen với công
nghệ và có được văn hóa kĩ thuật.
-

Thực hiện giáo dục liên tục thường xuyên suốt đời.

IV. GIẢI PHÁP
1. Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật cho giáo dục
- Hoàn thành việc xây dựng chuẩn quốc gia về cơ sở vật chất kỹ thuật cho tất cả
các loại hình trường nhằm đảm bảo những điều kiện vật chất cơ bản thực hiện việc
đổi mới quá trình dạy học. Trong đó, chú trọng đến chuẩn hóa phịng học, phịng
thí nghiệm, phịng học bộ mơn và trang thiết bị dạy học ở các cấp học, đặc biệt là
đồ chơi an toàn cho trẻ em.
- Quy hoạch lại quỹ đất để xây dựng mới trường học hoặc mở rộng diện tích đất
cho các trường học đạt tiêu chuẩn nhằm thực hiện nhiệm vụ giáo dục, trong đó ưu
tiên đầu tư quỹ đất để xây dựng một số khu đại học tập trung.
- Đẩy mạnh Chương trình kiên cố hố trường, lớp học và nhà công vụ cho giáo
viên, ưu tiên cho giáo dục vùng sâu, vùng cao, vùng khó khăn, bảo đảm đủ phòng
học cho mẫu giáo 5 tuổi, cho giáo dục tiểu học và trung học cơ sở học 2 buổi ngày.
Đến năm 2020 khơng cịn phịng học tạm ở tất cả các cấp học, 100% trường phổ
thông được nối mạng Internet và có thư viện.
- Xây dựng hệ thống thư viện điện tử dùng chung và kết nối giữa các trường đại
học trong phạm vi quốc gia, khu vực và quốc tế. Xây dựng một số phịng thí

nghiệm hiện đại ở các trường đại học trọng điểm.
- Xây dựng các khu ký túc xá cho sinh viên và nhà nội trú cho các trường phổ
thơng có nội trú ở vùng dân tộc và nhà công vụ cho giáo viên và cán bộ quản lý
giáo dục.
2. Gắn đào tạo với nhu cầu xã hội


- Tập trung đầu tư xây dựng một số trung tâm phân tích, dự báo nhu cầu nhân lực
nhằm cung cấp số liệu và cơ sở khoa học cho việc hướng nghiệp, xây dựng
chương trình, lập kế hoạch đào tạo nghề nghiệp.
- Nhằm thực hiện có hiệu quả việc cung cấp nhân lực trực tiếp cho các doanh
nghiệp, tạo điều kiện để các doanh nghiệp tham gia vào quá trình xây dựng và
thực hiện chương trình đào tạo, quy định trách nhiệm và cơ chế phù hợp để mở
rộng các hình thức hợp tác giữa nhà trường và doanh nghiệp trong đào tạo, sử
dụng nhân lực và nghiên cứu chuyển giao cơng nghệ, khuyến khích mở các cơ sở
giáo dục đại học trong các doanh nghiệp lớn.
- Tập trung đầu tư cho các cơ sở nghiên cứu khoa học mũi nhọn. Đến năm 2020,
xây dựng 10 phịng thí nghiệm trọng điểm quốc gia trong hệ thống trường đại học
trọng điểm.
3. Xây dựng các cơ sở giáo dục tiên tiến
- Ở phổ thông, từ năm học 2008-2009 triển khai phong trào thi đua: “Xây dựng
trường học thân thiện, học sinh tích cực” để tạo môi trường giáo dục lành mạnh,
mang niềm vui học tập đến cho mọi trẻ em và lôi cuốn xã hội tham gia vào quá
trình giáo dục.
- Tất cả các tỉnh, thành phố phát triển các trường chuyên là môi trường bồi dưỡng
nhân tài trẻ tuổi cho các địa phương.
- Xây dựng một số cơ sở giáo dục nghề nghiệp có chất lượng cao để đào tạo nhân
lực đạt chuẩn quốc tế cho một số lĩnh vực kinh tế mũi nhọn của đất nước.
- Tập trung đầu tư nhà nước và sử dụng vốn vay ODA để xây dựng một số trường
đại học Việt Nam đạt đẳng cấp quốc tế để đến năm 2020 có ít nhất 5 trường đại

học Việt Nam được xếp hạng trong số 50 đại học hàng đầu của khu vực ASEAN
và 1 trường đại học Việt Nam được xếp hạng trong số 200 đại học hàng đầu thế
giới. Năm 2015 sẽ hoàn thành cơ bản việc xây dựng 4 trường đại học Việt Nam
đạt đẳng cấp quốc tế.



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×