Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MÁC LÊNIN VỀ CON NGƯỜI VÀ BẢN CHẤT CON NGƯỜI QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG TA VỀ PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI TOÀN DIỆN LIÊN HỆ VỚI NHẬN THỨC VÀ THỰC TIỄN CỦA BẢN THÂN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (312.65 KB, 18 trang )

ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH TRÀ VINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH

BÀI TIỂU LUẬN

MÔN: TRIẾT HỌC
TÊN ĐỀ TÀI:

QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN VỀ CON NGƯỜI
VÀ BẢN CHẤT CON NGƯỜI. QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG TA VỀ
PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI TOÀN DIỆN.
LIÊN HỆ VỚI NHẬN THỨC VÀ THỰC TIỄN CỦA BẢN THÂN

Giảng viên hướng dẫn: TS. GVC. Lê Thị Kim Chi
Học viên thực hiện: NGUYỄN PHƯƠNG THẢO
Lớp: CAO HỌC QUẢN LÝ Y TẾ
Mã lớp: CH21QYT1_HCM10_1

TRÀ VINH, NĂM 2021


LỜI CẢM ƠN
Đầu tiên, em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Trường Đại học Trà Vinh đã đưa
môn Triết học vào chương trình giảng dạy cao học. Đặc biệt, em xin gửi lời cảm ơn sâu
sắc đến giảng viên bộ môn - Cô Lê Thị Kim Chi đã dạy dỗ, truyền đạt những kiến thức
quý báu cho em trong suốt thời gian học tập vừa qua. Trong thời gian tham gia lớp học
Triết học của cô, em đã có thêm cho mình nhiều kiến thức bổ ích, tinh thần học tập hiệu
quả,nghiêm túc. Đây chắc chắn sẽ là những kiến thức quý báu, là hành trang để em có thể
vững bước sau này.
Bộ mơn Triết học là giúp em dần trả lời được những câu hỏi trong cuộc sống thông
qua những tư tưởng Triết học của Mác – Lênin. Tuy nhiên, do vốn kiến thức còn nhiều


hạn chế và khả năng tiếp thu thực tế còn nhiều bỡ ngỡ. Mặc dù em đã cố gắng hết sức
nhưng chắc chắn bài tiểu luận khó có thể tránh khỏi những thiếu sót và nhiều chỗ cịn
chưa chính xác, kính mong cơ xem xét và góp ý để bài tiểu luận của em được hồn thiện
hơn.
Cuối cùng em xin kính chúc cô luôn mạnh khoẻ, hạnh phúc và thành công trong sự
nghiệp trồng người.
Em xin chân thành cảm ơn!
Học viên

Nguyễn Phương Thảo


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................................. 1
1.

Tính cấp thiết – Tầm quan trọng ........................................................................... 1

2.

Tên đề tài ............................................................................................................... 1

3.

Nhiệm vụ ............................................................................................................... 1

4.

Nguồn tài liệu ........................................................................................................ 2


CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ CON NGƯỜI VÀ BẢN CHẤT CON NGƯỜI ......... 3
1.1.

Một số quan điểm triết học Phi Mácxít về con người. .......................................... 3

1.1.1.

Quan điểm về con người trong triết học Phương Đông................................. 3

1.1.2.

Quan điểm về con người trong triết học phương Tây ................................... 4

1.2.

Quan điểm của Triết học Mác – Lênin về con người ........................................... 5

1.2.1.

Quan điểm của Triết học Mác – Lênin về bản chất của con người ............... 5

1.2.2.

Quan điểm của triết học Mác-Lênin về giải phóng con người ...................... 6

CHƯƠNG 2: THỰC TIỄN VỀ CON NGƯỜI VÀ BẢN CHẤT CON NGƯỜI. QUAN
ĐIỂM CỦA ĐẢNG TA VỀ PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI TOÀN DIỆN. LIÊN HỆ VỚI
NHẬN THỨC VÀ THỰC TIỄN BẢN THÂN ................................................................... 7
2.1.


Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người ................................................................... 7

2.2.

Quan điểm của Đảng ta về phát triển con người toàn diện ................................... 7

2.2.1.

Đại hội XI của Đảng ...................................................................................... 8

2.2.2.

Đại hội XII của Đảng: Xây dựng, phát triển văn hóa, con người. ................. 8

2.2.3.

Đại hội thứ XIII của Đảng ........................................................................... 10

2.3.

Liên hệ nhận thức và thực tiễn ............................................................................ 13

KẾT LUẬN – KIẾN NGHỊ ............................................................................................... 15
1.

Kết luận ............................................................................................................... 15

2.

Kiến nghị ............................................................................................................. 15



1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết – Tầm quan trọng
Trong mọi thời đại lịch sử, vấn đề con người luôn là vấn đề trung tâm của triết học.
Học thuyết Mác là sự tiếp nối và là bước ngoặt trong nhận thức về phát triển con người,
nó tạo ra tiền đề lý luận để nhân loại bước sang một kỷ nguyên mới. Là người Việt Nam
đầu tiên đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh, hơn ai hết là người ý thức
rõ, nhận thức sâu sắc học thuyết Mác về con người và phát triển con người toàn diện.
Tiếp thu và vận dụng sáng tạo học thuyết đó của chủ nghĩa Mác vào hoàn cảnh lịch sử cụ
thể của Việt Nam, mọi hoạt động của Hồ Chí Minh ln ln “vì lợi ích mười năm trồng
cây, vì lợi ích trăm năm trồng người”. Và việc xây dựng con người Việt Nam mới – con
người phát triển toàn diện đã trở thành tư tưởng quán xuyến, nhất quán trong suốt cuộc
đời hoạt động cách mạng của Người.
Lấy chủ nghĩa Mác, tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề con người và phát triển con
người toàn diện làm nền tảng tư tưởng, làm kim chỉ nam cho đường lối và chiến lược phát
triển con người toàn diện ở Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam đã ban hành và thực hiện
trên thực tế đường lối và nhiều chủ trương, chính sách, giải pháp phát triển con người
Việt Nam toàn diện cả về trí lực lẫn thể lực, cả về khả năng lao động lẫn tính tích cực
chính trị - xã hội, cả về lý tưởng sống, lối sống, năng lực trí tuệ, đạo đức và bản lĩnh văn
hố, nhằm thực hiện thành công chiến lược phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho
công cuộc đổi mới đất nước, đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố và hội nhập quốc
tế. Thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, trong những năm qua, chúng ta đã gặt hái
được nhiều thành tựu to lớn về phát triển con người toàn diện. Con người Việt Nam
không ngừng phát triển cả về thể lực, trí lực và tâm lực, có ý thức và khả năng làm chủ
ngày càng cao.
Song, trong bối cảnh hiện nay, khi nhân loại đã và đang có những bước tiến rất dài
trong chiến lược và thực tiễn phát triển con người. Cùng với đó là sự phát triển như vũ
bão của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, của xu thế hội nhập quốc tế và phát triển

kinh tế tri thức, địi hỏi chúng ta phải có sự phát triển nhanh về chất lượng con người Việt
Nam, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn đang đặt ra.
2. Tên đề tài
Quan điểm của triết học Mác-Lênin về con người và bản chất con người. Quan
điểm của Đảng ta về phát triển con người toàn diện. Liên hệ với nhận thức và thực tiễn
bản thân.
3. Nhiệm vụ
- So sánh một số quan điểm triết học về con người trong lịch sử
- Nêu bật những điểm tích cực của triết học Mác-Lênin khi giải quyết vấn đề con
người, đặc biệt là tính nhân văn sâu sắc.
- Quan điểm về con người theo tư tưởng Hồ Chí Minh
- Quan điểm của Đảng ta về phát triển con người toàn diện.
- Nhận thức và thực tiễn của bản thân về vấn đề phát triển con người toàn diện.


2
4. Nguồn tài liệu
C.Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb, Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994
C.Mác và Ph. Ăngghen: Tồn tập, Nxb, Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995
C.Mác và Ph. Ăngghen: Tồn tập, Nxb, Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996
C.Mác và Ph. Ăngghen: Tồn tập, Nxb, Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000
C.Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb, Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002
Văn kiện Đại hội Đảng XI, XII, XIII.
Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd


3
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ CON NGƯỜI VÀ BẢN CHẤT CON NGƯỜI
1.1.
Một số quan điểm triết học Phi Mácxít về con người.

1.1.1. Quan điểm về con người trong triết học Phương Đơng
Trong q trình phát triển, các quốc gia ở phương Đơng đã hình thành hệ thống các
quan điểm về thế giới tương đối hồn chỉnh, góp phần không nhỏ vào kho tàng tri thức
của nhân loại. Song, với đặc trưng là hướng nội nên những quan điểm về con người, về xã
hội loài người là những vấn đề được đề cập đến nhiều hơn cả.
Quan điểm về con người ở Phương Đơng được hình thành rất sớm và được thể hiện
một cách có hệ thống từ thế kỷ thứ VI tr.CN trong các học thuyết triết học. Nội dung các
quan điểm rất đa dạng, song vấn đề và người phương Đông tập trung đề cập đến là những
vấn đề thuộc nguồn gốc, bản tính con người, đạo làm người và mẫu hình con người lí
tưởng. Trong sự đa dạng của các hệ tư tưởng, trước hết phải nói đến các quan điểm của
Ấn Độ và Trung Quốc mà tiêu biểu là các quan điểm của triết học Phật giáo và Nho giáo.
- Quan điểm về con người trong triết học Phật giáo
Triết học Phật giáo ra đời khi nội dung của kinh Vêđa và Upanisad đang chi phối
mạnh mẽ đời sống tinh thần của người Ấn Độ. Mặc dù chịu ảnh hưởng nhiều tư tưởng của
các kinh này song Phật giáo phủ nhận vai trò của Đấng Sáng tạo (Brahman), phủ nhận cái
Tôi (Atman) của con người.
Trong q trình tồn tại, người nào cũng có trần tục tính và Phật tính. Trần tục tính là
tham, sân, si; là vơ minh, ái dục. Phật tính là tính giác ngộ về cõi niết bàn, về cõi chân
như. Đây là đặc tính khác nhau cơ bản giữa con người và vạn vật. Với quan niệm trên,
Phật giáo thừa nhận bản chất con người vốn tự có cái ác và cái thiện.
Cuộc đời con người do chính bản thân con người quyết định qua quá trình tạo
nghiệp. Tạo nghiệp thiện là từng bước xóa bỏ tham, sân, si; xóa bỏ vơ minh, loại trừ ái
dục để trở thành người trong suốt về tâm linh, không bị tác động bởi các cám dỗ của cuộc
đời và su khi chết thốt khỏi vịng luân hồi, nghiệp báo.
- Quan điểm về con người trong triết học Nho giáo
Triết học Nho giáo chịu ảnh hưởng nhiều tư tưởng Kinh Dịch. Theo tư tưởng này,
lúc âm – dương phân định, thanh khí làm trời, trời là chúa tể vũ trụ; trọng khí làm đất; con
người và vạn vật được tạo thành từ sự hỗn hợp giữa khí thanh và khí trọng trong khoảng
giữa âm – dương nhưng con người nhưng con người bẩm thụ tính trời nên bản tính con
người là thiện. Con người cũng như vạn vật chịu sự chi phối của mệnh trời, nhưng con

người có thể cải thiện nó qua hoạt động tu dưỡng mình trong cuộc sống. Hiểu mệnh trời,
sống theo mệnh trời và tự tu dưỡng mình là đạo làm người.
Quan điểm về đạo làm người được Nho gia thể hiện qua thuyết Chính danh. Theo
thuyết này, tương ứng với từng danh, từng cặp danh là một hệt thống những yêu cầu mà
con người phải thực hiện. Những yêu cầu chung nhất và cũng là nhưng yêu cầu cơ bản
nhất của danh “người” là ngũ thường gồm nhân, lễ, nghĩa, trí, tín; trong đó nhân là gốc và
lễ là phương tiện để thực hiện và thể hiện nhân.
Nhìn chung, quan điểm về con người trong các học thuyết triết học phương Đơng
thể hiện rất phong phú, nhưng đều mang nặng tính duy tâm. Về cơ bản, các học thuyết đã
lấy đạo đức làm nền tảng để giải quyết những vấn đề trong cuộc sống; song nội dung các


4
nguyên tắc, các chuẩn mực đạo đức, quan điểm về bản tính con người, đạo làm người và
hình mẫu con người lại rất đa dạng chứa đựng những tư tưởng giống nhau, khác nhau và
thâm chí đối lập nhau. Tất cả những tư tưởng này đều tồn tại lâu dài trong lịch sử và giữ
vai trò nền tảng mà trên đó các thế hệ sau tiếp tục hồn thiện để thể hiện quan điểm của
mình.
1.1.2. Quan điểm về con người trong triết học phương Tây
Được thể hiện qua thời cổ đại, thời trung cổ, thời Phục hung và cận đại, thời hiện đại
với hai khuynh hướng duy tâm và duy vật.
- Thời cổ đại:
Ở Hy Lạp, các nhà duy vật đầu tiên là các nhà triết học tự nhiên coi con người như
là một bộ phận cấu thành thế giới. Xuất phát từ quan điểm thế giới do một hay một số
chất tạo nên, các nhà duy vật thời kỳ này cũng quan niệm con người được bắt nguồn từ
một hay một số chất (nước – theo Talét; khơng khí – Anaximen; lửa –Hêraclít;…). Theo
Empêđơclơ cho rằng nguồn gốc của thế giới là lửa, khơng khí, đất và nước. Lơ xíp và
Đêmơc rít quan niệm con người là sản phẩm kết hợp của các nguyên tử.
Đối lập với quan điểm của các nhà triết học duy vật, những người theo chủ nghĩa
duy tâm lại truy tìm nguồn gốc và bản chất con người từ những lực lượng siêu nhiên.

Theo Xôc rá, thế giới do thần tạo ra và thần đã an bài cho thế giới. Platơn cho ý niệm có
trước tất cả, là nguồn gốc của tất cả. Con người gồm hai phần độc lập với nhau là thể xác
và linh hồn. Nhận thức của con người là sự hồi tưởng lại những gì mà ý niệm đã có.
- Thời trung cổ: Quan điểm về vai trị tồn năng của Chúa trời giữ vai trò thống trị.
Tiêu biểu là quan điểm của Tơ mát Đa canh. Ơng quan niệm thế giới do chúa trời sáng tạo
ra từ hư vô và con người là hình ảnh của Chúa, được Chúa đặt sống ở trung tâm vũ trụ.
Con người có thể xác và linh hồn bất tử. Con người trong thời này bị tước đoạt hết tính tự
nhiên, năng lực và sức mạnh. Hình ảnh con người trở nên nhỏ bé, yếu đuối,vật vờ, tạm bợ
trong thế giới hữu hình. Hệ tự tưởng thời trung cổ đã bóp chết ý chí muốn khẳng định
mình, tự giải phịng mình.
- Thời Phục hưng và cận đại: Sự phủ nhận quyền lực của Đấng sáng tạo, đề cao sức
mạnh của con người, đề cao vai trị của lí trí, đề cao các giá trị và đề cao tư tưởng vì con
người.
- Thời hiện đại: được thể hiện qua các quan điểm của phân tâm học, chủ nghĩa nhân
vị, chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa phê phán,… Tư tưởng của những học thuyết này tạo
nên trào lưu triết học nhân bản phi lý tính, trong đó chủ nghĩa hiện sinh giữ vai trị trọng
yếu.
Nhìn chung các học thuyết thuộc trào lưu triết học nhân bản phi lí tính cũng như
những học thuyết khác ở Phương Tây hiện đại đều coi những yếu tố về tinh thần như nhu
cầu bản năng, vơ thức, tri thức, tình cảm.. là bản chất con người. Con người thường được
tuyệt đối hóa về mặt cá nhân. Mối quan hệ giữa cá nhân với cá nhân, với cộng đồng, với
xã hội thường được đề cập ở góc độ hồi nghi, bi quan, bế tắc… Tất cả những điều ấy
phản ánh sự khủng hoảng về mặt giá trị của con người trong xã hội Phương Tây hiện đại.


5
1.2. Quan điểm của Triết học Mác – Lênin về con người
1.2.1. Quan điểm của Triết học Mác – Lênin về bản chất của con người
- Con người là thực thể sinh vật - xã hội
Kế thừa các quan điểm lịch sử trong lịch sử triết học, dựa trên những thành tựu của

khoa học tự nhiên, trực tiếp là thuyết tiến hoá và thuyết tế bào, triết học Mác khẳng định
con người vừa là sản phẩm của tự nhiên, vừa là sản phẩm hoạt động của chính bản thân
con người. Con người là thực thể thống nhất giữa các yếu tố sinh vật và các yếu tố xã hội.
Là thực thể sinh vật vì con người dù có phát triển đến đâu cũng là một động vật.
Cũng như những động vật khác, con người là một bộ phận của tự nhiên, “Giới tự nhiên …
là thân thể vô cơ của con người… đời sống thể xác và đời sống tinh thần của con người
gắn liền với giới tự nhiên”, nhưng con người khác động vật vì con người là một thực thể
xã hội
Là thực thể xã hội vì các hoạt động xã hội, trước hết và quan trọng nhất là hoạt động
lao động sản xuất, đã làm cho con người trở thành con người với đúng nghĩa của nó.
“Người là giống vật duy nhất có thể bằng lao động mà thốt khỏi trạng thái thuần t là
lồi vật”.
Theo Mác, xã hội suy cho cùng là sản phẩm của sự tác động qua lại giữa những con
người. Con người tạo ra xã hội, là thành viên của xã hội. Mọi biểu hiện sinh hoạt của con
người là biểu hiện và là khẳng định của xã hội.
Như vậy, con người không phải là một động vật thuần tuý mà là một “động vật xã
hội” – một thực thể sinh vật – xã hội: con người bẩm sinh đã là sinh vật có tính xã hội.
Thực thể sinh vật và thực thể xã hội ở con người khơng tách khỏi nhau, trong đó thực thể
sinh vật là tiền đề mà trên cái tiền đề đó thực thể xã hội tồn tại và phát triển.
- Con người là chủ thể của lịch sử
Con người không chỉ là sản phẩm của lịch sử với tư cách là sản phẩm q trình tiến
hố lâu dài của tự nhiên, mà con người còn là chủ thể của lịch sử.
Lịch sử hiểu theo nghĩa rộng là những quá trình đan xen với nhau, nối tiếp nhau với
tất cả những bảo tồn và biến đổi diễn ra. Lịch sử của con người do chính con người làm
ra, lịch sử chẳng qua chỉ là hoạt động có ý thức của chính bản thân con người. Tiền đề
đầu tiên của lịch sử là sự tồn tại của những cá nhân con người sống, vì vậy, hành động
lịch sử đầu tiên là hành động lao động sản xuất để con người tách khỏi động vật. Con
người làm ra lịch sử, song không phải làm theo ý muốn của mình, trong những điều kiện
mình có quyền lựa chọn mà là trong những điều kiện có sẵn do quá khứ để lại. Với những
điều kiện ấy, mỗi người, mỗi thế hệ một mặt tiếp tục các hoạt động cũ của thế hệ trước

trong những hoàn cảnh mới, một mặt tiếp tục các hoạt động mới của mình để biến đổi
hồn cảnh sống của con người thì “bản thân con người như thế nào thì nó cũng sản xuất ra
xã hội như thế”.
Như vậy, trong q trình phát triển của thế giới nói chung và q trình phát triển của
con người nói riêng, thì từ khi con người ra đời cho đến lúc nào con người cịn tồn tại, con
người vẫn ln vừa là sản phẩm của lịch sử, vừa là chủ thể của lịch sử.
Trong khi khẳng định “Con người là thực thể sinh vật – xã hội” và là chủ thể của
lịch sử, C.Mác đồng thời khẳng định “Bản chất con người không phải là một cái trừu
tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là
tổng hoà những quan hệ xã hội”. Quan điểm C.Mác cho thấy: Bản chất con người hình


6
thành và thể hiện ở những con người hiện thực. Đấy là những con người cụ thể, sống
trong những điều kiện cụ thể mà ở đó những mặt khác nhau tạo nên bản chất của con
người sẽ được bộc lộ ở những mức độ cụ thể. Tất cả các quan hệ xã hội đều góp phần
hình thành nên bản chất của con người. Các quan hệ này không kết hợp với nhau theo
phép tính cộng mà chúng tổng hồ, nghĩa là chúng có vị trí vai trị khác nhau nhưng
khơng tách rời nhau, mà tác động qua lại lẫn nhau, thâm nhập lẫn nhau. Có nhiều cách
tiếp cận để tìm hiểu về tổng hoà những mối quan hệ xã hội:
Nếu xét theo thời gian thì đó là những quan hệ quá khứ, quan hệ hiện tại và quan hệ
tương lai, trong đó suy cho cùng thì những quan hệ hiện tại giữ vai trò quyết định.
Nếu xét theo các loại quan hệ thì đó là những quan hệ vật chất và những quan hệ
tinh thần, trong đó suy cho cùng những quan hệ vật chất giữ vai trò quyết định.
Nếu xét theo tính chất đó là những quan hệ trực tiếp, gián tiếp, tất nhiên, ngẫu nhiên,
ổn định, không ổn định, vv trong đó suy cho cùng những quan hệ trực tiếp, tất nhiên, ổn
định giữ vai trò quyết định.
Nếu cụ thể hố các quan hệ (quan hệ hơn nhân, quan hệ huyết thống, quan hệ kinh
tế, quan hệ chính trị, quan hệ tôn giáo, quan hệ đạo đức, vv) thì con người có bao nhiêu
quan hệ sẽ có bấy nhiêu quan hệ góp phần hình thành nên bản chất con người, trong đó

suy cho cùng thì các quan hệ kinh tế hiện tại, trực tiếp, ổn định giữ vai trị quyết định.
Trong quan hệ kinh tế thì quan hệ sở hữu tư liệu giữ vai trò quan trọng hơn cả.
Khi các quan hệ xã hội thay đổi thì sớm hay muộn, bản chất con người cũng có sự
thay đổi. Như vậy, bản chất con người không phải được sinh ra mà được sinh thành, nó
hình thành và thay đổi theo sự hình thày và thay đổi của các quan hệ xã hội trong đó trước
hết và quan trọng nhất là các quan hệ thuộc lĩnh vực kinh tế.
1.2.2. Quan điểm của triết học Mác-Lênin về giải phóng con người
Cốt lõi của triết học Mác-Lê nin nói chung, của triết học về con người trong triết học
Mác- Lê nin nói riêng là vấn đề giải phòng con người, từ giải phóng những con người cụ
thể tiến đến giải phóng nhân loại.
Triết học Mác-Lê nin xác định “bất kỳ sự giải phóng nào cũng bao hàm ở chỗ là nó
trả thế giới con người, những quan hệ nào của con người về với bản thân con người”, là
giải phóng người lao động thốt khỏi lao động tha hóa. C.Mác đã chỉ rõ những biểu hiện
của lao động bị tha hóa, nguyên nhân dẫn đến sự tha hóa; trên cơ sở đó, C.Mác cũng đã
xác định phương thức và những lực lượng có thể thực hiện sự nghiệp giải phịng con
người thốt khỏi tha hóa để tiến tới một xã hội mà “sự phát triển tự do của mỗi người là
điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”. Theo C.Mác: Lao động bị tha hóa
là lao động làm người lao động đánh mất mình trong “hoạt động người” nhưng lại tìm
thấy mình trong “hoạt động vật”; Lao động bị tha hóa là lao động làm đảo lộn các quan hệ
của người lao động; Lao động bị tha hóa là lao động làm người lao động bị phát triển què
quặt.
Giải phóng con người là xóa bỏ người bóc lột người, xóa bỏ tha hóa để con người
trở về với chính mình, phát triển bản tính chân chính của mình. Song, “con người bẩm
sinh đã là sinh vật có tính xã hội thì do đó con người chỉ có thể phát triển bản tính chân
chính của mình trong xã hội”. Việc giải phóng con người phải thực hiện trong xã hội loài
người. V.I.Lênin nhận định: Điểm chủ yếu trong triết học Mác là ở chỗ nó làm sáng rõ vai
trị lịch sử thế giới của giai cấp vơ sản là người thực hiện sứ mệnh giải phóng con người.


7

CHƯƠNG 2: THỰC TIỄN VỀ CON NGƯỜI VÀ BẢN CHẤT CON NGƯỜI.
QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG TA VỀ PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI TOÀN DIỆN.
LIÊN HỆ VỚI NHẬN THỨC VÀ THỰC TIỄN BẢN THÂN
2.1.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người
Phát triển con người tồn diện là vấn đề có ý nghĩa chiến lược trong tư tưởng Hồ
Chí Minh. Sự hưng hay suy của một dân tộc, một quốc gia không chỉ là dân tộc ấy, quốc
gia ấy đã từng giải quyết nhiệm vụ lịch sử đặt ra cho họ như thế nào mà còn là họ chuẩn
bị cho tương lai ra sao. Nội dung phát triển tồn diện được Hồ Chí Minh đề cập ở những
nội dung cơ bản sau:
Tiêu chuẩn cơ bản hàng đầu của con người toàn diện là đức và tài, trong đó đức là
gốc. Đức và tài cịn được Hồ Chí Minh dùng là hồng và chun. Đức được hiểu là đạo
đức, song “đạo đức đó khơng phải là đạo đức cựu thủ. Nó là đạo đức mới, đạo đức vĩ đại,
nó khơng phải vì danh vọng cá nhân, mà vì lợi ích chung của Đảng, của dân tộc, của lồi
người”. Theo Hồ Chí Minh, những u cầu cơ bản của đức là: trung với nước, hiếu với
dân; yêu thương con người; cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư; có tinh thần quốc tế vơ
sản. Tài được hiểu là năng lực của con người để giải quyết nhiệm vụ được giao. Năng lực
ấy thể hiện tập trung ở trình độ văn hố, khoa học, kỹ thuật, và lý luận.
Nguyên tắc cơ bản để xây dựng con người toàn diện là tu dưỡng, rèn luyện trong
hoạt động thực tiễn, thực hiện đồng bộ quá trình giáo dục và tự giáo dục. Theo Hồ Chí
Minh, giáo dục là cơng việc của tồn xã hội và đối với tồn xã hội. Người đặc biệt nhấn
mạnh đến tầm quan trọng của việc giáo dục giới trẻ. Người cũng cho rằng, tự giáo dục là
quá trình mình giáo dục mình, mình cải tạo mình, mình thực hiện cuộc cách mạng trong
chính bản thân mình.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người toàn diện liên quan đến tất cả các
lĩnh vực của đời sống văn hoá, xã hội, đến mỗi cá nhân và mỗi cộng đồng. Muốn xây
dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có con người mới xã hội chủ nghĩa bao gồm:
- Có tinh thần và năng lực làm chủ;
- Có đạo đức, cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư;
- Có kiến thức khoa học kỹ thuật, nhạy bén với cái mới;

- Có tinh thần sáng tạo, dám nghĩ, dám làm.
2.2.
Quan điểm của Đảng ta về phát triển con người tồn diện
Sự thành cơng của q trình phát triển kinh tế ở nước ta địi hỏi ngồi mơi trường
chính trị ổn định, phải có những nguồn lực cần thiết như: nguồn lực con người, vốn, tài
nguyên thiên nhiên, cơ sở vật chất kỹ thuật, vị trí địa lý… Các nguồn lực này có quan hệ
chặt chẽ với nhau cùng tham gia vào q trình cơng nghiệp hóa hiện đại hóa nhưng với
mức độ khác nhau trong đó nguồn lực con người là yếu tố quyết định.
Ngày nay, đối với những nước lạc hậu đi sau, không thể phát triển nhanh chóng nếu
khơng tiếp thu những tiến bộ khoa học kỹ thuật- công nghệ hiện đạicủa các nước phát
triển. Nhưng không phải cứ nhập công nghệ tiên tiến bằng mọi giá mà khơng cần tính đến
yếu tố con người, cịn nhớ rằng cơng nghệ tiên tiến của nước ngoài khi được tiếp thu sẽ
phát huy tác dụng tốt hay bị lãng phí thậm chí bị phá hoại là hoàn toàn phụ thuộc vào
hành vi của con người khi sử dụng chúng. Đó là một điều rất đáng lưu ý.
Nguồn lực con người có vai trị quyết định cho sự thành cơng của q trình phát
triển kinh tế đất nước. Do vậy, muốn phát triển kinh tế thành cơng thì phải đổi mới cơ bản


8
các chính sách đầu tư cho các ngành khoa học, văn hóa, y tế, giáo dục ở Việt Nam nhằm
phát triển nguồn lực con người. Đây là nhiệm vụ lớn nhất và cũng được coi là khó khăn
nhất trong cơng cuộc đổi mới hiện nay. Chính vì vậy, tại các Đại hội XI, XII, XIII của
Đảng Cộng sản Việt Nam đều tập trung vào các vấn đề phát triển con người. Cụ thể:
2.2.1. Đại hội XI của Đảng
Tập trung mở rộng dân chủ, phát huy tối đa nhân tố con người; coi con người là
chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển.
Đại hội XI của Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục nhất quán coi con người là chủ
thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển. Theo đó, mục tiêu phát triển con
người được cụ thể hóa hơn nữa ở việc chú ý tới quyền con người. Phải đảm bảo quyền
con người, quyền công dân để mọi người được phát triển toàn diện. Nâng cao năng lực và

tạo cơ chế để nhân dân thực hiện đầy đủ quyền làm chủ, nhất là dân chủ trực tiếp để phát
huy mạnh mẽ mọi khả năng sáng tạo và đảm bảo đồng thuận cao trong xã hội, tạo động
lực để phát triển đất nước. Phát huy lợi thế dân số và con người Việt Nam, nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực, trọng dụng nhân tài, chăm lo lợi ích chính đáng và không ngừng
nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của mọi người dân, thực hiện công bằng xã hội.
Cương lĩnh của Đảng Cộng sản Việt Nam năm 2011 một lần nữa chỉ ra 9 giải pháp
để hiện thực hóa quan điểm con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực trong phát triển
kinh tế ở Việt Nam. Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực trong phát triển của xã
hội, cũng có nghĩa là con người là trung tâm của chiến lược phát triển đồng thời là chủ thể
của phát triển. Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, gắn quyền con người với quyền và
lợi ích của dân tộc, đất nước và quyền làm chủ của nhân dân. Kết hợp và phát huy đầy đủ
vai trò của xã hội, gia đình, nhà trường, từng tập thể lao động, các đoàn thể và cộng đồng
dân cư trong việc chăm lo xây dựng con người Việt Nam giàu lịng u nước, có ý thức
làm chủ, trách nhiệm cơng dân, có tri thức, sức khoẻ, lao động giỏi; sống có văn hóa,
nghĩa tình; có tinh thần quốc tế chân chính. Xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc,
thật sự là tế bào lành mạnh của xã hội, là môi trường trực tiếp giáo dục nếp sống và hình
thành nhân cách. Đơn vị sản xuất, cơng tác, học tập, chiến đấu phải là môi trường rèn
luyện tác phong làm việc có kỷ luật, năng suất và hiệu quả cao, bồi đắp tình bạn, tình
đồng chí, đồng đội, hình thành nhân cách con người và nền văn hóa Việt Nam. Như vậy,
trong Cương lĩnh 2011 của Đảng Cộng sản Việt Nam, ngoài việc kế thừa những quan
điểm từ các Cương lĩnh và quan điểm của các Đại hội trước đó, Đại hội XI nhận thức sâu
sắc hơn khi cho rằng con quyền con người trong phát triển kinh tế gắn bó với lợi ích của
đất nước, việc phát triển kinh tế phải trở thành mơi trường để hình thành và bồi đắp các
giá trị con người Việt Nam.
2.2.2. Đại hội XII của Đảng: Xây dựng, phát triển văn hóa, con người.
Sự nghiệp xây dựng, phát triển văn hóa, con người đã được Đảng, Nhà nước quan
tâm trong các chính sách kinh tế - xã hội từ trung ương đến các địa phương. Thực hiện
nhiệm vụ xây dựng con người đáp ứng u cầu của thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
và hội nhập quốc tế có bước chuyển biến quan trọng: Gắn nhiệm vụ xây dựng văn hóa,
con người với nhiệm vụ xây dựng và phát triển đất nước; Gắn xây dựng mơi trường văn

hóa với xây dựng con người. Bước đầu hình thành những giá trị mới về con người với các
phẩm chất về trách nhiệm xã hội, ý thức công dân, dân chủ, chủ động, sáng tạo, khát vọng
vươn lên. Hệ thống thể chế và thiết chế văn hóa từng bước được tăng cường. Nhiều giá trị


9
văn hóa truyền thống của dân tộc và của từng vùng, miền được kế thừa; nhiều di sản văn
hóa được bảo tồn, tơn tạo. Xã hội hóa hoạt động văn hóa ngày càng mở rộng. Văn học,
nghệ thuật có bước phát triển. Truyền thông đại chúng phát triển nhanh cả về loại hình,
quy mơ, lực lượng, phương tiện kỹ thuật và ảnh hưởng xã hội. Đời sống văn hóa của nhân
dân được cải thiện. Phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa" đã khơi
dậy được nhiều giá trị nhân văn trong cộng đồng. Việc xây dựng mơi trường văn hóa đã
được chú trọng hơn. Cơng tác quản lý nhà nước về văn hóa được tăng cường. Giao lưu và
hợp tác quốc tế về văn hóa có nhiều khởi sắc. Chủ trương của Đảng gắn tăng trưởng kinh
tế với phát triển văn hóa, phát triển, xây dựng con người và thực hiện tiến bộ, công bằng
xã hội đã trở thành tư tưởng chỉ đạo cho nhiều chương trình, kế hoạch phát triển. Sự vào
cuộc của cả hệ thống chính trị cùng với sự đầu tư của Nhà nước, sự tham gia của nhân
dân là những nhân tố quyết định tạo ra những chuyển biến của sự nghiệp phát triển văn
hóa, xây dựng con người.
Tuy nhiên, so với những thành quả trên lĩnh vực chính trị, kinh tế, quốc phòng, an
ninh, đối ngoại, thành quả trong lĩnh vực văn hóa chưa tương xứng; chưa đủ tầm mức để
tác động có hiệu quả xây dựng con người và mơi trường văn hóa lành mạnh. Đạo đức, lối
sống có mặt xuống cấp đáng lo ngại. Mơi trường văn hóa cịn tồn tại những biểu hiện
thiếu lành mạnh, ngoại lai, trái với thuần phong mỹ tục; tệ nạn xã hội và một số loại tội
phạm có chiều hướng gia tăng. Một số cơ quan truyền thơng có biểu hiện thương mại hóa,
xa rời tơn chỉ, mục đích, chưa làm tốt chức năng định hướng dư luận và xây dựng con
người. Tình trạng nhập khẩu, quảng bá, tiếp thu dễ dãi, thiếu chọn lọc sản phẩm văn hóa
nước ngồi đã tác động tiêu cực đến đời sống văn hóa của một bộ phận nhân dân, nhất là
lớp trẻ.
Chính vì vậy, Đại hội XII của Đảng giao nhiệm vụ Các cấp, các ngành phải nhận

thức đầy đủ và thực hiện có kết quả mục tiêu: Xây dựng nền văn hóa và con người Việt
Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc,
nhân văn, dân chủ và khoa học.
Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội
sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu
"dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh". Xây dựng con người Việt Nam
phát triển toàn diện phải trở thành một mục tiêu của chiến lược phát triển. Đúc kết và xây
dựng hệ giá trị văn hóa và hệ giá trị chuẩn mực của con người Việt Nam thời kỳ cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế; tạo môi trường và điều kiện để phát triển về
nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng lực sáng tạo, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa
vụ cơng dân, ý thức tn thủ pháp luật. Có giải pháp ngăn chặn và đẩy lùi sự xuống cấp
về đạo đức xã hội, khắc phục những mặt hạn chế của con người Việt Nam.
Xây dựng mơi trường văn hóa, đời sống văn hóa lành mạnh trong hệ thống chính trị,
trong mỗi địa phương, trong từng cộng đồng làng, bản, khu phố, cơ quan, đơn vị, doanh
nghiệp, khu công nghiệp và mỗi gia đình, góp phần giáo dục, rèn luyện con người về
nhân cách, đạo đức, lối sống. Thực hiện chiến lược phát triển gia đình Việt Nam. Phát
huy giá trị truyền thống tốt đẹp, xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, văn minh.
Xây dựng mỗi trường học thật sự là một trung tâm văn hóa giáo dục, rèn luyện con người.
Xây dựng nếp sống văn hóa tiến bộ, văn minh, nhất là trong việc cưới, việc tang, lễ hội.
Nâng cao chất lượng, hiệu quả các cuộc vận động văn hóa, phong trào "Tồn dân đồn kết


10
xây dựng đời sống văn hóa".
Bên cạnh đó, chú trọng cơng tác quản lý các loại hình thơng tin trên Internet để định
hướng tư tưởng và thẩm mỹ cho nhân dân, nhất là cho thanh niên, thiếu niên. Tạo thuận
lợi cho các doanh nghiệp văn hóa, văn nghệ, thể thao, du lịch thu hút các nguồn lực xã hội
để phát triển. Đổi mới, hồn thiện thể chế, tạo mơi trường pháp lý thuận lợi để xây dựng,
phát triển thị trường dịch vụ, sản phẩm văn hóa lành mạnh; đẩy mạnh phát triển cơng
nghiệp văn hóa; tăng cường quảng bá văn hóa Việt Nam. Nâng cao ý thức thực thi các

quy định pháp luật về quyền tác giả và các quyền liên quan trong toàn xã hội.
Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng và nâng cao hiệu lực, hiệu quả
quản lý nhà nước đối với lĩnh vực văn hóa. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng theo
hướng vừa bảo đảm để văn hóa, văn học - nghệ thuật, báo chí phát triển đúng định hướng
chính trị, tư tưởng của Đảng, vừa bảo đảm quyền tự do, dân chủ cá nhân trong sáng tạo
trên cơ sở phát huy trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân với mục đích đúng đắn; khắc
phục tình trạng bng lỏng sự lãnh đạo hoặc mất dân chủ, hạn chế tự do sáng tạo. Xây
dựng chiến lược phát triển đội ngũ cán bộ văn hóa. Coi trọng quy hoạch, đào tạo, bồi
dưỡng, bố trí cán bộ lãnh đạo, quản lý văn hóa, cán bộ làm công tác khoa học, chuyên gia
đầu ngành, cán bộ ở cơ sở. Đẩy mạnh xã hội hóa nhằm huy động các nguồn đầu tư, tài
trợ, hiến tặng cho phát triển văn hóa, xây dựng con người.
2.2.3. Đại hội thứ XIII của Đảng
Trên cơ sở vận dụng, phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin và Tư tưởng Hồ Chí
Minh, Đại hội XIII của Đảng nhất quán tiếp cận vấn đề quyền con người gắn với quyền
dân tộc, khẳng định chủ nghĩa xã hội (CNXH) là chế độ tốt nhất bảo đảm quyền con
người cho nhân dân Việt Nam. Từ đó, Đảng, Nhà nước ln xem xét, giải quyết hài hòa,
đúng đắn mối quan hệ giữa quyền dân tộc - quốc gia với quyền của các cộng đồng dân tộc
thiểu số và các giai tầng xã hội. Quan điểm chỉ đạo của Đại hội XIII là: “Khơi dậy mạnh
mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và
khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”.
Gắn quyền con người với sự phát triển phồn vinh, hạnh phúc của dân tộc
Thể chế Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) không chỉ thể hiện ở mục
tiêu bảo đảm quyền lực của dân, do dân, vì dân, mà cịn phải được thể chế hóa thành
phương tiện, cơng cụ để đạt được mục tiêu đó một cách hiệu lực, hiệu quả trong thực tế.
Văn kiện xác định: “Đề cao vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân trong chiến lược
phát triển đất nước”. Bằng cách tiếp cận dựa trên quyền của người dân như vậy, mới có
thể đưa thực tế triển khai, thực hiện công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế Nhà nước pháp
quyền XHCN và thể chế nền kinh tế thị trường định hướng XHCN nhằm bảo đảm quyền
lực của nhân dân một cách hiệu lực, hiệu quả trong thực tế.
Bởi lẽ, trong điều kiện tồn tại nhiều thành phần, khu vực kinh tế và phân hóa giàu

nghèo, phân hóa xã hội theo cơ chế thị trường hội nhập quốc tế như hiện nay, chủ trương,
chính sách, pháp luật chỉ có thể nhắm được vào một thành phần, khu vực kinh tế hay một
giai tầng xã hội, mà rất khó bao phủ được tồn bộ các thành phần, khu vực kinh tế và các
giai tầng xã hội. Vì thế, mỗi chủ trương, chính sách, pháp luật chỉ có thể được lựa chọn,
xác định chính xác và triển khai, thực hiện một cách hiệu quả trên các tiêu chí của cách
tiếp cận dựa trên quyền con người và là công cụ hay phương tiện nhất thiết cần phải có
trong “nghiên cứu, ban hành Chiến lược xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền


11
XHCN Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045” theo yêu cầu của Đại hội
XIII đã đặt ra.
Chú trọng tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ những quyền mới phát sinh trong bảo đảm
quyền lực của nhân dân, như: quyền an ninh, an tồn thơng tin mạng, quyền mua bán,
kinh doanh trên nền tảng in-tơ-nét, quyền giáo dục, sinh hoạt tơn giáo, văn hóa trực tuyến,
quyền bí mật đời tư, quyền về thân thể, danh dự, nhân phẩm của trẻ em, quyền của những
người lao động di cư,... Đồng thời cũng nắm bắt, điều tiết những thách thức đang đặt ra
ngày càng lớn hơn đối với việc ghi nhận, bảo đảm, bảo vệ các quyền mới nêu trên.
Lấy con người làm trung tâm và phát triển con người toàn diện
Văn kiện khẳng định: Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ cuộc sống,
nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, lấy hạnh phúc, ấm no của nhân
dân làm mục tiêu phấn đấu.
Như vậy, khi triển khai thực hiện Nghị quyết, phải dựa vào dân, lấy dân làm gốc, bồi
dưỡng, phát huy sức dân, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và có cơ chế đột phá để thu
hút, trọng dụng nhân tài, đề cao vai trị chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân trong chiến
lược phát triển đất nước, trong toàn bộ quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đồng thời,
mục tiêu phát triển con người toàn diện đương nhiên phải xuất phát từ con người và “lấy
con người làm trung tâm”. Nhưng nếu không bảo đảm quyền con người, quyền và nghĩa
vụ cơ bản của công dân như đã được thể chế trong Hiến pháp năm 2013, thì con người

khơng thể chủ động, tích cực tham gia vào các công việc nhà nước và xã hội với tư cách
là người là chủ - làm chủ. Do đó, bảo đảm quyền con người phải là khâu kết nối cần thiết,
không thể thiếu giữa khâu lấy con người làm trung tâm và phát triển con người tồn diện.
Tơn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân theo Hiến pháp
năm 2013, gắn quyền với nghĩa vụ, trách nhiệm công dân
Đại hội XIII nhấn mạnh: “Tiếp tục cụ thể hóa, hoàn thiện thể chế thực hành dân
chủ..., bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”. Quyền lực của nhân dân
trong điều kiện thể chế Nhà nước pháp quyền XHCN không chỉ là làm chủ tập thể, mà
trước tiên và cơ bản là làm chủ bản thân. Cho nên, trong phương hướng tiếp tục xây dựng,
hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN, không chỉ chú trọng xây dựng, hoàn thiện thể
chế pháp quyền của Nhà nước, mà đồng thời phải chú ý đúng mức đến việc xây dựng,
hoàn thiện thể chế pháp quyền của con người, của công dân trong tổng thể các quan hệ
nền tảng và có tính bình đẳng với thể chế pháp quyền của Nhà nước.
An ninh con người, an ninh quốc gia gắn với quyền con người
Đại hội XIII của Đảng chủ trương: “Bảo đảm an ninh sinh thái, an ninh môi trường,
an ninh nguồn nước, an ninh lương thực, an ninh năng lượng”. “Thực hiện tốt chính sách
xã hội, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội, an ninh con người, tạo chuyển biến mạnh mẽ
trong quản lý phát triển xã hội, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội; nâng cao chất lượng
cuộc sống và hạnh phúc của nhân dân”; “giữ vững an ninh chính trị, bảo đảm trật tự, an
toàn xã hội, an ninh con người, an ninh kinh tế, an ninh mạng”...Triển khai thực hiện
những chủ trương này chính là thúc đẩy tơn trọng, bảo đảm, bảo vệ an ninh con người gắn
với quyền con người và an ninh quốc gia, trên 7 phương diện: an ninh kinh tế, an ninh
lương thực, an ninh sức khỏe, an ninh môi trường, an ninh cá nhân, an ninh cộng đồng và
an ninh chính trị.


12
Coi trọng công tác bảo hộ công dân và công tác người Việt Nam ở nước ngoài
Đại hội XIII của Đảng chủ trương: “Hỗ trợ để người Việt Nam ở nước ngồi có địa
vị pháp lý vững chắc, phát triển kinh tế và đời sống, hòa nhập xã hội nước sở tại. Nâng

cao hiệu quả công tác bảo hộ công dân, quản lý lao động, du học sinh...” trong quá trình
tiếp tục đẩy mạnh hợp tác quốc tế gắn với nâng cao hiệu lực, hiệu quả hội nhập quốc tế.
Việc tăng cường công tác bảo hộ công dân và công tác người Việt Nam ở nước ngoài là
nhằm bảo hộ quyền, lợi ích hợp pháp của họ, thể hiện trách nhiệm của Nhà nước đối với
cơng dân, góp phần nâng cao vị thế chính trị, uy tín của Nhà nước ta đối với thế giới; từ
đó, khuyến khích, động viên ngày càng nhiều sự đóng góp của kiều bào trong sự nghiệp
xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.
Hoạt động tư pháp phải bảo vệ công lý, quyền con người, quyền công dân
Trong bối cảnh các vụ án thuộc lĩnh vực dân sự, hơn nhân, gia đình, lao động, kinh
doanh, thương mại (gọi chung là vụ việc dân sự) ngày càng tăng về số lượng với tính chất
ngày càng phức tạp, gay gắt thì cần thúc đẩy thực hiện hịa giải, đối thoại tại tòa án theo
Luật Hòa giải, đối thoại tại tòa án. Đồng thời phải xử lý kịp thời, nghiêm minh những tổ
chức, cá nhân lợi dụng dân chủ, gây rối nội bộ, làm mất ổn định chính trị - xã hội hoặc vi
phạm dân chủ, làm phương hại đến quyền làm chủ của nhân dân. Trong việc nghiên cứu,
ban hành Chiến lược tư pháp, cải cách tư pháp gắn với “nghiên cứu, ban hành Chiến lược
xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam đến năm 2030, định
hướng đến năm 2045”, cần phải chú trọng tiếp tục đổi mới tổ chức, nâng cao chất lượng,
hiệu lực, hiệu quả hoạt động và uy tín của tịa án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân, cơ
quan điều tra, cơ quan thi hành án và các cơ quan, tổ chức tham gia vào quá trình tố tụng
tư pháp; giải quyết kịp thời, đúng pháp luật các loại tranh chấp, khiếu kiện theo luật định;
phịng ngừa và đấu tranh có hiệu quả với hoạt động của tội phạm và các hành vi vi phạm
pháp luật.
Đẩy mạnh đối thoại, đấu tranh trên lĩnh vực quyền con người nhằm bảo vệ nền
tảng tư tưởng và chế độ xã hội XHCN
Đại hội Đảng XIII chủ trương: “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng,
kiên quyết và thường xuyên đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch; chủ
động cung cấp thơng tin kịp thời, chính xác, khách quan, đúng định hướng để phịng,
chống “diến biến hịa bình”, thơng tin xấu, độc trên in tơ nét và mạng xã hội.” Cần nhấn
mạnh rằng, trong điều kiện chế độ XHCN với sự cầm quyền của Đảng, mục tiêu và bản
chất của đấu tranh và đối thoại trên lĩnh vực quyền con người, trước tiên và chủ yếu là

nhằm thực hiện, phát huy nền dân chủ XHCN trong nhân dân. Từ đó cảm hóa, cơ lập, làm
thất bại hồn tồn các âm mưu, thủ đoạn, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch,
phản động. Trong đấu tranh cần phải chủ động, tích cực nhận diện, phê phán, phản bác,
bác bỏ, ngăn chặn, xử lý công khai, minh bạch bằng pháp luật nhằm kiên quyết làm thất
bại các âm mưu, thủ đoạn sử dụng dân chủ, nhân quyền như một công cụ chống phá chế
độ chính trị - xã hội ở Việt Nam hiện nay. Trong hội nhập quốc tế, nguyên tắc trong đấu
tranh có đối thoại là để nâng cao sự hiểu biết lẫn nhau, từng bước thu hẹp bất đồng và
những sự hiểu biết khác nhau, nhất là giữa Việt Nam với các đối tác quốc tế trong vấn đề
dân chủ, nhân quyền. Thơng qua đó tích cực chuyển từ tham dự sang chủ động tham gia
đóng góp hoặc tham gia kiến tạo thể chế hợp tác quốc tế trên lĩnh vực quyền con người
vốn có nhiều khác biệt về quan điểm. Qua đó chủ động tạo điều kiện và vị thế ở tầm cao


13
hơn cho Việt Nam trong việc kiên quyết bảo vệ quan điểm, lập trường, lợi ích quốc gia dân tộc và đấu tranh ngăn chặn hiệu quả với các hoạt động lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân
quyền để can thiệp vào công việc nội bộ của nước ta.
2.3.
Liên hệ nhận thức và thực tiễn
Trải qua quá trình hội nhập nền kinh tế nước nhà với nền kinh tế quốc tế, Việt Nam
được đánh giá là một trong những nước có tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh và triển vọng
nhất. Thế nhưng, chỉ tăng trưởng kinh tế nhanh thôi là chưa đủ. Một nền kinh tế phát triển
bền vững địi hỏi phải tăng trưởng kinh tế đi đơi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã
hội. Mà thực hiện các chính sách xã hội chính là đầu tư vào nhân tố con người. Hay nói
cách khác, muốn đất nước có thể phát triển bền vững thì phải tập trung vào phát triển
nhân tố con người.
Nói đến phát triển nhân tố con người là nói đến việc rèn luyện bản chất của nó. Con
người là sản phẩm của lịch sử. Mỗi thời đại lịch sử cụ thể bao giờ cũng đặt ra những
chuẩn mực nhất định cho con người trong xã hội đó. Mà bản chất con người được quy
định bởi môi trường và điều kiện xã hội. Do vậy, bản chất con người trong mối quan hệ
với điều kiện lịch sử xã hội luôn luôn vận động biến đổi, cùng phải thay đổi cho phù hợp.

Vì thế, muốn phát triển bản chất con người theo hướng tích cực thì phải hiểu rõ mơi
trường, điều kiện xã hội ở nơi mình đang sinh sống, ở thời đại mình đang tồn tại u cầu
địi hỏi con người cần những gì.
Thực tiễn cho thấy, việc giải quyết vấn đề phát triển con người Việt Nam những
năm qua được đánh giá có nhiều chuyển biến tích cực và đạt kết quả quan trọng. Hiện
nay, Việt Nam đang trong quá trình đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố theo định
hướng xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh tồn cầu hố và tích cực hội nhập quốc tế. Q
trình này địi hỏi con người Việt Nam cần phải biết xây dựng nhân cách với nội dung tồn
diện, từ đạo đức, trí tuệ, thể chất, tâm hồn và đặc biệt là phải có khả năng chủ động, sáng
tạo, linh hoạt, và năng động. Quá trình hội nhập đưa tới cho Việt Nam cơ hội để tiếp xúc
với những nền kinh tế khác nhau, những cộng đồng, xã hội, văn hóa khác nhau và cả
những con người khác nhau. Điều này đòi hỏi mỗi cá nhân phải có thái độ chủ động và
cầu tiến để học hỏi những cái hay, cái đẹp từ nước bạn, đồng thời phải linh hoạt trong
việc phân loai, chọn lọc và tiếp thu thơng tin. Từ đó, vận dụng óc sáng tạo để chuyển hóa
thành kiến thức mới, áp dụng vào công cuộc xây dựng, đổi mới và phát triển đất nước bền
vững.
Hiểu được tầm quan trọng của việc phát triển nhân tố con người, kế thừa quan điểm
của chủ nghĩa Mác - Lênin trong tiến trình xây dựng xã hội mới, Đảng ta đã khẳng định:
nguồn lực quý báu nhất, có vai trị quyết định nhất là con người Việt Nam; nhân tố con
người chính là nguồn sức mạnh nội sinh của dân tộc Việt Nam. Đối với một nước chủ
động lựa chọn và kiên trì con đường phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa như Việt
Nam, sự phát triển, tăng trưởng kinh tế, xét đến cùng cũng là vì con người, hướng đến con
người. Trong bối cảnh tồn cầu hố và hội nhập quốc tế, Đảng ta xác định một trong
những yếu tố quyết định việc chúng ta có tranh thủ tận dụng thành cơng những thuận lợi,
cơ hội và vượt qua thách thức, khó khăn mà q trình đó đặt ra hay khơng phụ thuộc đáng
kể vào con người. Có thể nói, những chính sách của Đảng và Nhà nước là những bước đi
đúng đắn và mang tính đột phá trong việc khai thác và phát huy nhân tố con người.


14

Con người là một thành viên, là một tế bào của xã hội, của đất nước. Con người sẽ
phát triển tốt khi được ở trong một môi trường điều kiện xã hội tốt, nhưng môi trường
điều kiện xã hội không tự nhiên xuất hiện mà nó là kết quả hoạt động của con người. Vì
thế, muốn được phát triển bản thân một cách toàn diện, con người trước hết cần phải có
trách nhiệm bảo vệ và phát triển xã hội bằng cách:
- Có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội.
- Có ý thức tập thể, đồn kết, phấn đấu vì lợi ích chung, ln biết đặt lợi ích chung
lên trên lợi ích cá nhân.
- Có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần kiệm, trung thực, nhân nghĩa tôn
trọng kỷ cương phép nước, quy ước của cộng đồng; có ý thức bảo vệ và cải thiện mơi
trường sinh thái.
- Lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật, sáng tạo, năng suất lao
động cao vì lợi ích của bản thân, gia đình, tập thể và xã hội.
- Thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết, trình độ chun mơn, trình độ thẩm mỹ
và thể lực.


15
KẾT LUẬN – KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Trong tất cả những nghiên cứu về bản chất con người cho đến thời điểm hiện tại thì
quan điểm triết học Mác-Lênin đã giải quyết vấn đề một cách đúng đắn và đầy đủ nhất
trên quan điểm biên chứng duy vật. Theo ông, con người là thực thể sinh học-xã hội; là
chủ thể và là sản phẩm của lịch sử. Song trong đời sống xã hội, khi xem xét con người
phải đặt nó trong tổng thể các quan hệ xã hội, bởi “Trong tính hiện thực, bản chất con
người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội.”
Quan điểm triết học Mác-Lênin về bản chất con người mang lại ý nghĩa vô cùng to
lớn trên nhiều phương diện. Nghiên cứu về vấn đề này, con người sẽ tiến gần hơn một
bước trong việc khám phá về chính mình, từ đó ứng dụng vào đời sống ở những lĩnh vực

khác nhau như: chính trị, kinh tế, xã hội,… Hiểu rõ hơn về bản chất của bản thân và
những mối quan hệ liên quan, con người sẽ biết tự điều chỉnh hành vi sao cho phù hợp với
những mối quan hệ đó, từ đó có động lực phát triển bản thân nói riêng cũng như cộng
đồng, xã hội nói chung bền vững đi lên.
2. Kiến nghị
Hiện nay, tác động của tồn cầu hóa, hội nhập quốc tế, cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa, kinh tế thị trường và cuộc Cách mạng 4.0 đang tạo cơ hội cho nước ta tiếp thu nhiều
giá trị tiến bộ của nhân loại; kinh tế - xã hội không ngừng phát triển; đời sống vật chất,
tinh thần của nhân dân không ngừng nâng lên. Song bên cạnh đó đã tác động tiêu cực làm
biến đổi chiều sâu tâm thức người Việt. Thực trạng đó đang đặt ra những vấn đề cần giải
quyết đó là: Mối quan hệ giữa mục tiêu định hướng giá trị với thực trạng phát triển hệ giá
trị của con người Việt Nam; mối quan hệ, tác động tích cực, tiêu cực của các nhân tố
khách quan, chủ quan đến sự phát triển hệ giá trị của con người Việt Nam; mối quan hệ
giữa bảo tồn và phát triển hệ giá trị của con người Việt Nam.
Vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh trong phát triển hệ giá trị của con người
Việt Nam, quan điểm cơ bản trong thời gian tới đó là: Phát triển hệ giá trị của con người
Việt Nam trên cơ sở vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh và quán triệt sâu sắc quan
điểm, chủ trương của Đảng về giá trị con người; phát triển hệ giá trị của con người Việt
Nam trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc giá trị của nhân loại; phát triển hệ giá trị tiêu biểu, cốt
lõi của con người Việt Nam phù hợp với điều kiện hiện nay. Các giải pháp chủ yếu nhằm
phát triển hệ giá trị của con người Việt Nam đó là chú trọng giáo dục, đào tạo nguồn nhân
lực.
Nền giáo dục nước ta phải thực sự đổi mới để đảm bảo đào tạo được một thế hệ trẻ
có đủ năng lực làm chủ đất nước. Khơng có nền giáo dục tốt thì khơng tạo dựng được nội
sinh về khoa học – công nghệ để trụ vững trong xu thế hội nhập và tồn cầu hóa hiện nay
nhằm phát triển nhanh đất nước. Nền giáo dục phải thực hiện được ba nhiệm vụ cơ bản
như: nâng cao mặt bằng dân trí, phải theo kịp mức các nước tiên tiến trong khu vực; phải
đào tạo được nguồn nhân lực có chất lượng cao thích nghi với sự đổi mới và phát triển
nhanh, đáp ứng được nhu cầu rút ngắn q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa dựa vào tri
thức; chăm lo bồi dưỡng và phát triển đội ngũ nhân tài.




×