Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

Tiểu luận một số vấn đề lý luận về các tội phạm về tham nhũng theo bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi năm 2017) và thực tiễn áp dụng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (195.73 KB, 10 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

Họ và tên sinh viên: Nguyễn Đức Mạnh
Mã sinh viên: 19061216

Một số vấn đề lý luận về các tội phạm về tham
nhũng theo Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi năm
2017) và thực tiễn áp dụng.
Tiểu luận kết thúc mơn học Luật Hình Sự
Giảng viên: GS. TS. Đỗ Ngọc Quang

Hà Nội 2021

download by :


Bài làm
Nhận thấy đây là 1 đề tài không mới, đã có nhiều bài viết nghiên cứu về vấn đề này.
Tuy nhiên với sự mở rộng của quá trình phát triển, cần phải nhìn nhận thêm và có những
đánh giá khách quan hơn nữa về vấn đề này, nên tôi xin trình bày quan điểm cá nhân
trong bài viết dưới đây, để mọi người tham khảo thêm.
1. Khái quát chung về các tội phạm về tham nhũng theo Bộ luật Hình sự năm 2015
(sửa đổi bổ sung năm 2017):
1.1. Khái niệm tội phạm về tham nhũng:
Tham nhũng là tội danh được quy định trong Bộ luật hình sự, tham nhũng là hành vi
lợi dụng chức vụ, quyền hạn hưởng lợi ích vật chất trái pháp luật, gây thiệt hại cho tài sản
của Nhà nước, tập thể, cá nhân, xâm phạm hoạt động đúng đắn của các cơ quan, tổ chức.
Giống như các tội phạm về chức vụ khác được quy định trong Bộ luật Hình sự năm
2015 (sửa đổi năm 2017) thì tội phạm tham nhũng được hiểu là những hành vi xâm phạm
hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức do người có chức vụ thực hiện trong khi thực


hiện cơng vụ, nhiệm vụ.
Người có chức vụ là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng hoặc do một hình
thức khác, có hưởng lương hoặc khơng hưởng lương; được giao thực hiện một nhiệm vụ
nhất định và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện cơng vụ, nhiệm vụ.
Trong Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi năm 2017), các tội phạm về tham nhũng
được quy định vào một mục riêng với 7 điểu luật. Theo đó, tội tham nhũng bao gồm: Tội
tham ơ tài sẵn; tội nhận hối lộ; tội lạm dụng chức vụ, quyển hạn chiếm đoạt tài sản; tội lợi
dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ; tội lạm quyến trong khi thi hành
công vụ: tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi; tội
giả mạo trong cơng tác. Hình phạt được quy đính cho nhóm tội phạm về tham nhũng rất
nghiêm khắc. Phần lớn các tội phạm của nhóm có mức hình phạt cao nhất là tù chung thân
hoặc tử hình.
1.2. Các yếu tố cấu thành tội phạm tham nhũng:
Một người sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về một tội danh được quy định trong Bộ
luật Hình sự nếu người đó đáp ứng đầy đủ những cấu thành tội phạm của tội đó, bao gồm
các yếu tố về: mặt khách thể của tội phạm, mặt khách quan của tội phạm, mặt chủ quan
của tội phạm và mặt chủ thể của tội phạm.
1.2.1. Về mặt khách thể của tội phạm:

download by :


Tội phạm tham nhũng xâm hại đến hoạt động đúng đắn của cơ quan có thẩm quyền
trong thực hiện nhiệm vụ, thực thi công vụ. Hoạt động xâm hại ấy làm sai đi bản chất
cơng việc mà cơ quan có thẩm quyền và hoạt động ấy đáng nhẽ không được làm.
1.2.2. Về mặt khách quan của tội phạm:
Người phạm tội vào Tội phạm tham nhũng được quy định tại Mục 1, Chương XXIII
Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) là người thực hiện một trong
những hành vi sau đây:
Hành vi tham ô tài sản: người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản mà

mình có trách nhiệm quản lý;
Hành vi nhận hối lộ: người nào có hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn trực tiếp hoặc
qua trung gian nhận hoặc sẽ nhận bất kỳ lợi ích nào cho chính bản thân người đó hoặc cho
người hoặc tổ chức khác để làm hoặc khơng làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của
người đưa hối lộ.
Hành vi lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản.
Hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ: người nào có hành vi
vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác mà lợi dụng chức vụ, quyền hạn làm trái công vụ gây
thiệt hại về tài sản hoặc gây thiệt hại khác đến lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp
pháp của tổ chức, cá nhân.
Hành vi lạm quyền trong thi hành cơng vụ: người nào có hành vi vụ lợi hoặc động cơ
cá nhân khác mà vượt q quyền hạn của mình làm trái cơng vụ gây thiệt hại về tài sản
hoặc gây thiệt hại khác đến lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá
nhân.
Hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi.
Hành vi giả mạo trong cơng tác: có hành vi vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác mà lợi
dụng chức vụ quyền hạn thực hiện một trong các hành vi sửa chữa, làm sai lệch nội dung
giấy tờ, tài liệu; làm, cấp giấy tờ giả; giả mạo chữ ký của người có chức vụ, quyền hạn.
Mục đích của hành vi tham nhũng là vụ lợi. Vụ lợi ở đây được hiểu là lợi ích vật chất
hoặc lợi ích tinh thần mà người có chức vụ, quyền hạn đã đạt được hoặc có thể đạt được
thơng qua hành vi tham nhũng. Như vậy, khi xử lý về hành vi tham nhũng, không bắt buộc
chủ thể tham nhũng phải đạt được lợi ích.
Pháp luật Việt Nam hiện nay quy định việc đánh giá tính chất và mức độ nguy hiểm
của hành vi tham nhũng chủ yếu dựa trên căn cứ xác định những lợi ích vật chất mà kẻ
tham nhũng đạt được để từ đó quyết định mức độ xử lý. Lợi ích vật chất hiện nay trong cơ
chế thị trường thể hiện ở rất nhiều dạng khác nhau, nếu chỉ căn cứ vào những tài sản

download by :



phát hiện hoặc thu hồi được để đánh giá lợi ích mà kẻ tham nhũng đạt được thì sẽ là khơng
đầy đủ.
Thêm nữa, các lợi ích vật chất và tinh thần đan xen rất khó phân biệt. Chẳng hạn, việc
dùng tài sản của Nhà nước để khuyếch trương thanh thế, gây dựng uy tín hay các mối quan
hệ để thu lợi bất chính. Trong trường hợp này, mục đích của hành vi vừa là lợi ích vật chất,
vừa là lợi ích tinh thần...
1.2.3. Về mặt chủ quan của tội phạm:
Chủ thể thực hiện tội phạm tham nhũng với lỗi cố ý. Trong trường hợp chủ thể thực
hiện hành vi không cố ý thì hành vi đó khơng là hành vi tham nhũng.
1.2.4. Về mặt chủ thể của tội phạm:
Chủ thể của tội này là chủ thể đặc biệt của Bộ luật Hình sự. Ngồi quy định về việc
người đó phải đủ 18 tuổi trở lên, có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự thì họ cịn phải là
người nắm giữ một chức vụ, quyền hạn nhất định và họ lợi dụng chức vụ, quyền hạn được
giao.
Người nắm giữ chức vụ, quyền hạn ấy không chỉ là người nắm giữ một chức vụ,
quyền hạn trong các cơ quan nhà nước mà còn bao gồm người nắm giữ chức vụ quyền hạn
trong các doanh nghiệp, tổ chức ngoài nhà nước.
“Lợi dụng chức vụ, quyền hạn” để vụ lợi là đặc trưng của tội phạm liên quan đến tham
nhũng. Khi thực hiện hành vi tham nhũng, người tham nhũng phải sử dụng “chức vụ,
quyền hạn của mình” như một phương tiện để mang lại lợi ích cho mình, cho gia đình
mình hoặc cho người khác. Đây là yếu tố cơ bản để xác định hành vi tham nhũng. Một
người có chức vụ, quyền hạn nhưng không lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó thì khơng thể
có hành vi tham nhũng. Tuy nhiên, khơng phải mọi hành vi của người có chức vụ, quyền
hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó đều được coi là hành vi tham nhũng. Ở đây có sự
giao thoa giữa hành vi này với các hành vi tội phạm khác, do vậy cần lưu ý khi phân biệt
hành vi tham nhũng với các hành vi vi phạm pháp luật khác.
2. Một số vấn đề lý luận về các tội phạm về tham nhũng theo Bộ luật Hình sự năm
2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017):
Qua phân tích các cấu thành tội phạm về tham nhũng cho thấy trong các yếu tố cấu
thành của từng tội danh quy định từ Điều 353-359 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ

sung năm 2017) có vùng chồng lấn rất lớn, về mặt lý luận việc làm rõ ranh giới của từng
tội danh là vấn đề rất cần thiết để tạo cơ sở cho thực tiễn áp dụng pháp luật được thống
nhất.
2.1. Định tội danh đối với hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản:

download by :


Từ cấu trúc các tội phạm quy định tại Mục 1 Chương tội phạm về chức vụ có thể xác
định có 02 tội danh được xem là có tính chất chiếm đoạt, đó là Tội tham ơ tài sản và Tội
lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản quy định tại Điều 353, 355 Bộ luật Hình
sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017). Khi thực tế xảy ra vụ việc lợi dụng chức vụ,
quyền hạn nhằm hoặc đã chiếm đoạt tài sản, thì có thể khẳng định hành vi sẽ phạm vào
một trong hai tội phạm này. Vấn đề tiếp theo trong quá trình định tội là phải làm rõ những
đặc điểm giống và khác nhau của hai tội phạm trên.
Về khách thể bị tội phạm trực tiếp xâm hại là sự hoạt động đúng đắn của các cơ quan,
tổ chức và quan hệ sở hữu. Nhưng đối với Tội tham ơ tài sản, thì tài sản bị xâm hại thuộc
quyền sở hữu của cơ quan, tổ chức mà người phạm tội có trách nhiệm quản lý; đối với Tội
lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản, thì tài sản bị xâm hại có thể thuộc quyền
sở hữu của cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân và người phạm tội khơng có trách nhiệm quản lý
đối với tài sản trên.
Về chủ thể, mặt chủ quan của hai loại tội phạm quy định tại Điều 353 và 355 đều là
chủ thể đặc biệt, người phạm tội phải có chức vụ, quyền hạn thì mới có điều kiện chiếm
đoạt tài sản và phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp, có mục đích chiếm đoạt.
Đối với mặt khách quan, sự khác biệt của hai tội phạm này thể hiện ở phương pháp,
thủ đoạn và đối tượng mà hành vi phạm tội hướng đến.
Đối với Tội tham ô tài sản: Người phạm tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn được giao
như là một phương tiện để thực hiện một cách sai trái với quy định của pháp luật về chế độ
quản lý tài chính, tài sản mà mình phụ trách nhằm mục đích chiếm đoạt tài chính, tài sản
của cơ quan, tổ chức cho bản thân mình; hành vi chiếm đoạt tài sản có thể thực hiện một

cách cơng khai, có thể bí mật, q trình thực hiện tội phạm, chủ thể có thể sử dụng thủ
đoạn gian dối hoặc không. Thông thường là để che giấu hành vi chiếm đoạt người phạm
tội thường có hành vi sửa chữa sổ sách, chứng từ, lập chứng từ giả; cố ý nâng cao hoặc hạ
thấp một cách sai trái giá trị các quyết định, hợp đồng đầu tư, mua bán tài sản; lập khống
các hợp đồng, chứng từ liên quan đến thu chi tài chính, mua bán tải sản; tiêu huỷ hoá đơn,
chứng từ liên đến việc thu chi tài chính; hoặc tạo ra vụ cháy, vụ mất trộm tiền; các thủ
đoạn phạm tội có thể được thực hiện trước, trong hoặc sau khi chủ thể chiếm đoạt được tài
sản.
Đối với Tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản: Hành vi lạm dụng chức
vụ, quyền hạn biểu hiện thông qua việc người phạm tội đã thực hiện những hành động
vượt quá quyền hạn của mình, thực hiện những hành vi mà pháp luật cấm đoán; hoặc thực
hiện không đầy trách nhiệm để tạo điều kiện thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản; thủ
đoạn mà người phạm tội sử dụng chiếm đoạt tài sản rất đa dạng, có thể là thủ đoạn uy hiếp
về tinh thần người quản lý tài sản, có thể là thủ đoạn gian dối hoặc lợi dụng sự tin tưởng
của người đang quản lý tài sản để chiếm đoạt. Các thủ đoạn trên sở dĩ tạo ra được

download by :


điều kiện thuận lợi cho việc chiếm đoạt tài sản là nhờ người phạm tội có chức vụ, quyền
hạn, nếu khơng có điều kiện tiền đề thì rất khó thực hiện hành vi thứ hai trên thực tế; sự
lạm dụng chức vụ, quyền hạn phải xảy ra trước hành vi chiếm đoạt và tùy từng lĩnh vực,
vị trí cơng tác khác nhau và trường hợp cụ thể để xác định chủ thể đã có hành vi vượt quá
giới hạn thẩm quyền theo luật định nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản, đã chiếm đoạt hay
nhằm mục đích khác.
2.2. Định tội danh đối với hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn để nhận lợi ích vật
chất hoặc lợi ích phi vật chất:
Bộ luật hình sự quy định về Tội nhận hối lộ tại Điều 354 như sau: “Người nào lợi
dụng chức vụ, quyền hạn trực tiếp hoặc qua trung gian nhận hoặc sẽ nhận bất kỳ lợi ích
nào sau đây cho chính bản thân người đó hoặc cho người hoặc tổ chức khác để làm hoặc

khơng làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ…” và quy định về
Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi tại Điều
358 là: “Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn trực tiếp hoặc qua trung gian đòi, nhận
hoặc sẽ nhận bất kỳ lợi ích nào sau đây dưới mọi hình thức để dùng ảnh hưởng của mình
thúc đẩy người có chức vụ, quyền hạn làm hoặc khơng làm một việc thuộc trách nhiệm
hoặc liên quan trực tiếp đến công việc của họ hoặc làm một việc không được phép làm…”
cho thấy, khi chủ thể lợi dụng chức vụ, quyền hạn trực tiếp hoặc qua trung gian nhận hoặc
sẽ nhận bất kỳ lợi ích nào (vật chất hoặc phi vật chất) thì hành vi đó sẽ phạm vào một
trong hai tội phạm này. Tuy nhiên để việc định tội được chính xác thì cần phân tích làm rõ
dấu hiệu đặc trưng của hai loại tội phạm quy định tại Điều 354 và 358 Bộ luật Hình sự
năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).
Về khách thể bị hành vi phạm tội trực tiếp xâm hại là sự hoạt động đúng đắn của các
cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị, xã hội và xâm phạm đến lợi ích hợp pháp của cơ
quan, tổ chức và cá nhân. Đối với Tội nhận hối lộ thì hành vi cịn xâm hại đến hoạt động
đúng đắn theo quy định của các doanh nghiệp, tổ chức ngồi Nhà nước. Như vậy, khi
người cơng tác trong các doanh nghiệp, tổ chức ngoài Nhà nước mà lợi dụng chức vụ,
quyền hạn trực tiếp hoặc qua trung gian nhận hoặc sẽ nhận bất kỳ lợi ích nào để làm hoặc
khơng làm một việc có lợi cho người đưa lợi ích, thì hành vi ấy có dấu hiệu của Tội nhận
hối lộ.
Về mặt khách quan của tội phạm: Hành vi nhận (hoặc sẽ nhận) lợi ích vật chất từ
2.000.000 đồng trở lên hoặc lợi ích phi vật chất theo quy định của Điều 354 Bộ luật Hình
sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) của người phạm tội là nhằm thực hiện hoạt động
cơng vụ có lợi cho người đưa hối lộ; còn hành vi khách quan mơ tả trong Điều 358 là nhận
lợi ích rồi sau đó tác động đến người có chức vụ, quyền hạn khác để người này giải quyết
cơng vụ có lợi cho bên cung cấp lợi ích vật chất hoặc lợi ích phi vật chất đó.

download by :


Hành vi tiếp theo sau khi nhận lợi ích là người phạm tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn

gây ảnh hưởng với người có trách nhiệm thực thi cơng vụ, như vậy chủ thể phải có chức
vụ, quyền hạn “đủ mạnh”, có thể gây ảnh hưởng đối với người đang thực thi công vụ
nhằm làm cho công vụ được thực hiện theo ý chí của người phạm tội; khi chức vụ, quyền
hạn của người phạm tội không ngang hàng với người đang thực thi cơng vụ, vị trí cũng
khơng tương xứng thì việc người phạm tội nhận tiền, lợi ích từ người khác rồi dùng quan
hệ quen biết, đồng nghiệp để gây ảnh hưởng làm cho người thực thi công vụ giải quyết
cơng việc theo ý chí của họ, thì cần xem hành vi gây ảnh hưởng trong trường hợp này
phạm vào tội danh khác. Đối với Tội nhận hối lộ, hành vi tiếp theo sau khi nhận hoặc thỏa
thuận sẽ nhận lợi ích thì người phạm tội sự dụng việc được pháp luật hoặc được phân công
thực thi nhiệm để làm hoặc khơng làm đúng chức trách từ đó mang lại lợi ích cho người
đưa hối lộ. Như vậy, điểm khác biệt cơ bản ở mặt khách quan của hai loại tội phạm trên là
một bên thì sau khi nhận lợi ích sẽ tác động vào hoạt động của người có trách nhiệm khác,
một bên thì trực tiếp thực hiện công việc theo thẩm quyền nhằm làm lợi cho người cung
cấp lợi ích cho người phạm tội.
Chủ thể của hai loại tội phạm đều là chủ thể đặc biệt, người phạm tội phải có chức vụ,
quyền hạn theo quy định của pháp luật thì mới có điều kiện để thực hiện tội phạm. Tuy
nhiên, chủ thể của tội phạm quy định tại Điều 354 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ
sung năm 2017) có thể là cán bộ, cơng chức hoặc là người có chức vụ, quyền hạn trong
các doanh nghiệp, tổ chức ngồi Nhà nước; cịn chủ thể của tội phạm quy định tại Điều
358 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) chỉ có thể là cán bộ, cơng
chức.
2.3. Định tội danh đối với hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn làm trái cơng vụ vì
động cơ vụ lợi hoặc động cơ cá nhân:
Trong 07 tội phạm về tham nhũng được quy tại Mục 1 Chương XXIII Bộ luật Hình sự
năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017), dấu hiệu khác biệt của Tội tham ô tài sản (Điều
353) và Tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản (Điều 355) là tội phạm có
tính chất chiếm đoạt; Tội nhận hối lộ (Điều 354), Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh
hưởng đối với người khác để trục lợi (Điều 358) là hai tội phạm có quy định hành vi lợi
ích vật chất hoặc lợi ích phi vật chất. Như vậy, lợi dụng chức vụ, quyền hạn để thực hiện
việc làm không đúng với chức trách, nhiệm vụ được giao theo quy định của pháp luật vì

động cơ vụ hoặc cá nhân, thì hành vi đó sẽ phạm vào một trong các tội quy định tại Điều
356, 357 và 359 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).
Để tạo cơ sở lý luận cho việc định tội danh đúng đối với các tội phạm về tham nhũng
này, nhận thấy cần so sánh làm nổi bậc nét đặc trưng của từng tội phạm.
Về dấu hiệu khách thể, chủ thể và mặt chủ quan của 3 loại tội phạm như đã nêu về cơ
bản là như nhau: Khách thể, các hành vi phạm tội mô tả trong các cấu thành tội phạm đều

download by :


xâm phạm đến hoạt động đúng đắn của cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, chính trị, xã
hội mà kinh phí, tài chính đảm bảo cho hoạt động có nguồn gốc từ ngân sách Nhà nước;
Chủ thể của tội phạm là chủ thể đặc biệt, người phạm tội phải có chức vụ, quyền hạn theo
quy định của pháp luật thì mới có điều kiện để thực hiện tội phạm một cách thuận lợi; mặt
chủ quan của tội phạm, lỗi cố ý trực tiếp, động cơ phạm tội là động cơ vụ lợi hoặc động cơ
cá nhân. Chủ thể nhận thức được hành vi của mình là trái luật, nhưng vì nhằm thu lợi bất
chính hoặc vì nhằm thỏa mãn những vấn đề cá nhân mà chủ thể bất chấp pháp luật.
Những nội dung khác nhau về mặt khách quan của các tội quy định tại Điều 356, 357
và 359 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) như sau:
Hành vi khách được mô tả trong cấu thành tội phạm là hành vi lợi dụng chức vụ,
quyền hạn trong khi thi hành công vụ (Điều 356 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ
sung năm 2017)) là trường hợp người phạm tội sử dụng quyền hạn được giao như là một
phương tiện để thực hiện tội phạm. Hành vi làm trái công vụ như không làm hoặc làm
không đúng không đầy đủ nhiệm vụ được giao. Một đặc trưng của tội phạm này là hoàn
cảnh thực hiện hành vi vượt quá thẩm quyền, khi đó theo luật định thì khơng làm phát sinh
cơng vụ nhưng chủ thể vẫn sử dụng quyền hạn của mình để tạo ra hoạt động trái luật; hoặc
có điều kiện pháp lý làm phát sinh hoạt động công vụ, nhưng chủ thể lại thực hiện một
hoạt động hồn tồn khơng thuộc phạm vi công vụ.
Tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ (Điều 357), dấu hiệu để phân biệt tội phạm
này với tội phạm quy định tại Điều 356 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm

2017) là hoàn cảnh phạm tội. Theo quy định của pháp luật thì chủ thể có trách nhiệm phải
thực hiện cơng vụ một cách đúng đắn, và thực hiện đã phát sinh những điều kiện cho việc
thực hiện công vụ, nhưng chủ thể đã thực hiện những việc làm vượt quá giới hạn quyền
năng cho phép, nên đã gây thiệt hại về tài sản hoặc gây thiệt hại khác đến lợi ích của Nhà
nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
Đối với Tội giả mạo trong công tác thì hành vi phạm tội thể hiện qua việc chủ thể lợi
dụng chức vụ, quyền hạn thực hiện một trong các hành vi gồm, sửa chữa, làm sai lệch nội
dung giấy tờ, tài liệu; làm, cấp giấy tờ giả; giả mạo chữ ký của người có chức vụ, quyền
hạn. Một dấu hiệu rất quan trọng là người phạm tội có nhiệm vụ liên quan đến việc làm,
ban hành các loại bằng cấp, giấy tờ, tài liệu của cơ quan tổ chức hoặc họ là người có trách
nhiệm tham gia thực hiện các chỉ đạo, quyết định bằng văn bản của cấp trên sau đó, người
phạm tội lợi dụng q trình tham gia thực thi công vụ đã sửa chữa, làm sai lệch hoặc làm
giả hoặc giả chữ ký của người có thẩm quyền để đưa các loại bằng cấp, giấy tờ, tài liệu
vào thực tế, từ đó tác động và gây ra thiệt cho các quan hệ xã hội mà pháp luật hình sự bảo
vệ.

download by :


3. Những vấn đề thực tiễn áp dụng về các tội phạm về tham nhũng theo Bộ luật hình
sự năm 2015 (sửa đổi năm 2017):
Thời gian qua, cơng tác phịng, chống tham nhũng đã có bước tiến mạnh, đạt nhiều kết
quả rất quan trọng, toàn diện, rõ rệt, để lại dấu ấn tốt, tạo hiệu ứng tích cực, lan tỏa mạnh
mẽ trong toàn xã hội. Tuy nhiên, tham nhũng trên một số lĩnh vực vẫn còn nghiêm trọng,
phức tạp, gây bức xúc trong xã hội.
Thứ nhất, các vụ việc, vụ án tham nhũng, kinh tế nghiêm trọng, phức tạp được phát
hiện, xử lý thời gian qua chủ yếu xảy ra từ các nhiệm kỳ trước. Do đất nước trong quá
trình phát triển, hội nhập quốc tế sâu rộng, đòi hỏi đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng, nhưng
nhận thức ban đầu về kinh tế thị trường và kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
về phát triển bao trùm, bền vững trong một bộ phận cán bộ, công chức cịn hạn chế; cơ

chế, chính sách chưa hồn thiện, tạo khoảng trống, bất cập giữa yêu cầu phát triển với
khuôn khổ pháp lý và năng lực quản lý, điều hành. Trong q trình chuyển đổi cơ chế
quản lý cịn thiếu khuôn khổ pháp lý ràng buộc và chưa quan tâm đúng mức đến công tác
kiểm tra, giám sát, quản lý, chưa chú ý đánh giá rõ đâu là năng động, sáng tạo, đâu là làm
liều, làm ẩu để trục lợi, vì lợi ích nhóm; thiếu sự kiểm tra, phát hiện, cảnh báo kịp thời,
kiên quyết của các cơ quan chức.
Thứ hai, cơng tác kiểm sốt quyền lực của người có chức vụ, quyền hạn hiệu quả chưa
cao; tự kiểm tra, phát hiện tham nhũng trong nội bộ vẫn là khâu yếu; ý thức tu dưỡng, rèn
luyện, giữ gìn phẩm chất đạo đức và vai trò nêu gương của người đứng đầu cấp ủy, tổ chức
đảng, cơ quan, đơn vị còn có những hạn chế, có nơi, có lúc cịn bị xem nhẹ; một bộ phận
cán bộ, cơng chức suy thối phẩm chất đạo đức, trình độ, năng lực chưa đáp ứng yêu cầu.
Thứ ba, các vụ án tham nhũng, kinh tế xảy ra trong thời gian qua rất phức tạp, rất
nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng, gây thiệt hại rất lớn; hành vi phạm tội có sự đan
xen, gắn kết giữa hành vi vi phạm trật tự quản lý kinh tế, chức vụ và hành vi tham nhũng;
đối tượng phạm tội là người có chức vụ, quyền hạn, có cả cán bộ cấp cao, cả cán bộ trong
lực lượng chống tham nhũng, có kiến thức và kinh nghiệm, dùng mọi thủ đoạn đối phó, né
tránh, che giấu sai phạm, tiêu hủy chứng cứ, tẩu tán tài sản do phạm tội mà có, gây khó
khăn cho các cơ quan tiến hành tố tụng trong điều tra, xử lý; nhưng cũng có nhiều đối
tượng là cán bộ, cơng chức, người lao động phụ thuộc, chịu sự lãnh đạo, chỉ đạo của đối
tượng phạm tội là người đứng đầu cơ quan, tổ chức, bị ràng buộc bằng cơ chế hành chính,
mệnh lệnh, chưa nhận thức rõ hành vi phạm tội.
Thứ tư, việc xử lý nghiêm khắc nhiều cán bộ, đảng viên sai phạm thời gian qua, đã có
ý kiến lo ngại rằng, việc xử lý nghiêm khắc như vậy sẽ làm giảm sự đổi mới, sáng tạo, làm
“chùn bước” những người dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, làm “chậm” sự

download by :


phát triển; một số cán bộ, công chức và cán bơ ~ lãnh đạo, quản lý có biểu hiện thiếu quyết
liệt, không dám làm, né tránh, đùn đẩy, sợ sai, dẫn đến trì trệ.

4. Kết luận:
Tóm lại đề tài: “Một số vấn đề lý luận về các tội phạm về tham nhũng theo Bộ luật
hình sự năm 2015 (sửa đổi năm 2017) và thực tiễn áp dụng” là một đề tài có tính thiết yếu,
cấp bách với Bộ luật hình sự nói riêng và nền pháp luật Việt Nam nói chung.
Phòng, chống tham nhũng là cuộc đấu tranh ngay trong chính bản thân mỗi con người,
trong mỗi cơ quan, tổ chức, đơn vị, địa phương; liên quan đến lợi ích, tiền tài, chức vụ,
danh vọng, uy tín của tổ chức, cá nhân; do đó, là c ~c đấu tranh rấtkhó khăn, phức tạp,
lâu dài, luôn bị các thế lực thù địch và phần tử xấu lợi dụng để chống phá, gây mất ổn định
chính trị.
Phịng, chống tham nhũng là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên; phải được tiến hành
ở tất cả các cấp, các ngành, các lĩnh vực, thực hiện đồng bộ các biện pháp; có trọng tâm,
trọng điểm, khơng có vùng cấm, khơng có ngoại lệ. Người đứng đầu phải gương mẫu,
quyết liệt và chịu trách nhiệm về những yếu kém, sai phạm về tham nhũng trong tổ chức,
cơ quan, đơn vị, địa phương mình. Phải kiên quyết xử lý nghiêm các hành vi né tránh,
dung túng, bao che tham nhũng; nhưng phải đánh giá đúng, bảo vệ những cơ quan, tổ
chức, đơn vị, người đứng đầu chủ động, tích cực phát hiện, ngăn chặn, xử lý tham nhũng.
Chú trọng nâng cao phẩm chất, năng lực của đội ngũ cán bộ làm cơng tác phịng
chống tham nhũng; nhất là đội ngũ cán bộ kiểm tra, nội chính đảng, thanh tra, kiểm tốn,
điều tra, viện kiểm sát, tịa án, thi hành án trực tiếp làm công tác phát hiện, điều tra, xử lý
các vụ việc, vụ án tham nhũng. Kiểm sốt quyền lực và thực hành liêm chính đối với các
cơ quan nói trên.
Nguồn tham khảo:
/> /> /> /> />
download by :



×