Tải bản đầy đủ (.doc) (56 trang)

giải pháp nhằm giải quyết những bất cập góp phần vào sự phát triển bền vững của các kcn và cải thiện đời sống cho công nhân kcn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (308.66 KB, 56 trang )

CÁC CHỮ VIẾT TẮT
KCN Khu công nghiệp
TP Thành phố
DN Doanh nghiệp
KD Kinh doanh
CNH-HĐH Công nghiệp hoá-Hiện đại hoá
BQL Ban quản lý
DANH MỤC ĐỒ THỊ, BIỂU ĐỒ
Đồ thị 1: Diện tích nhà ở trung bình cho một công nhân…….… ……………….21
Biểu đồ 1: Phân bố các KCN theo vùng năm 2006…………………………… 16
Biểu đồ 2: Tỷ lệ công nhân ở nhà do doanh nghiệp xây dựng năm 2006……… 18
Biểu đồ 3: Tỷ lệ công nhân ở nhà do dân xây dựng năm 2006………………… 19
Biểu đồ 4: Tỷ lệ công nhân ở nhà do công ty KD nhà và các tổ chức xây …….…20
Biểu đồ 5: Tỷ lệ công nhân sử dụng các nguồn nước khác nhau năm 2006…… 22
Biểu đồ 6: Tỷ lệ công nhân sử dụng điện tại các tỉnh, thành phố năm 2006…… 22
Biểu đồ 7: Diện tích nhà ở cho một công nhân tại các tỉnh, thành phố……….… 24
Biểu đồ 8: Điều kiện điện, nước và xử lý nước thải của nhà ở cho công nhân… 24
Biểu đồ 9: Giá tiền thuê nhà trung bình tại một số tỉnh, thành phố…………….…27
Biểu đồ 10: Tỷ lệ phân bố nhà ở cho công nhân trong và ngoài KCN……………28
Biểu đồ 11: Tỷ lệ công nhân có tham gia các hoạt động văn hoá……………… 32
2
MỤC LỤC
Trang
LỜI NÓI ĐẦU
Nhà ở cho công nhân trong các KCN là một nhân tố quan trọng thúc đẩy
phát triển sản xuất của các doanh nghiệp, đem lại lợi ích trước mắt cho địa
phương và lợi ích lâu dài cho đất nước.
1. TÍNH CẤP THIẾT.
Trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước có sự chuyển dịch
kinh tế sang các lĩnh vực công nghiệp, dich vụ dẫn đến sự xuất hiện hàng loạt của
các khu công nghiệp, khu đô thị ở nhiều địa phương trên cả nước. Sự dư thừa lao


động trong nông nghiệp, chênh lệch thu nhập lớn giữa thành thị và nông thôn là
hai trong rất nhiều nguyên nhân dẫn đến những dòng người di cư ồ ạt đến làm
việc tại các khu công nghiệp. Những đối tượng này cần được đảm bảo về đời
sống vật chất, tinh thần để có thể làm việc hiệu quả, nâng cao tay nghề trình độ,
dần dần đáp ứng được những yêu cầu về tác phong công nghiệp trong xu hướng
hội nhập ngày nay.
Nhà ở cho công nhân ngoại tỉnh làm việc trong các KCN có ảnh hưởng rất
lớn đến chính bản thân người lao động, kết quả phát triển sản xuất của các doanh
nghiệp sản xuất cũng như lợi ích của địa phương trước mắt và lâu dài, mục tiêu
công nghiệp hoá - hiện đại hoá của đất nước. Tuy nhiên, hiện nay các cơ quan
quản lý nhà nước, đặc biệt ở địa phương có các KCN sản xuất; các doanh nghiệp
sản xuất; các tổ chức và doanh nghiệp có liên quan vẫn chưa nhận thức đầy đủ,
3
thực hiện tốt vai trò của mình và chưa có những quan tâm kịp thời, đúng mức đến
vấn đề bức xúc này.
Thực tế, hàng trăm nghìn người trong số họ đang gặp phải những khó khăn
về nhà ở, một trong những nhu cầu thiết yếu của con người. Theo các số liệu báo
cáo điều tra, chỉ có 2% công nhân các KCN được ở trong các ngôi nhà do các
doanh nghiệp xây dựng. Nhà do các công ty kinh doanh nhà ở và các tổ chức
khác có đóng góp một phần rất nhỏ, khoảng 3-4% nhu cầu ở của người lao động.
Số còn lại phải đi ở nhờ, ở thuê, trong đó phần lớn là ở trọ trong các khu nhà do
tư nhân tự xây dựng lên cho thuê. Những khu nhà này được xây dựng lên rất tạm
bợ, phân bố không theo trật tự, không đáp ứng được những yêu cầu cơ bản nhất
về điện, nước, môi trường, điều kiện sinh hoạt văn hoá tinh thần…Bên cạnh đó,
giá nhà cho thuê rất cao, chiếm 10-15% thu nhập của người lao động ngoại tỉnh.
Chính vì vậy, nhìn nhận thực trạng, những tồn tại xung quanh và giải quyết
nhà ở cho các đối tượng này là một vấn đề rất lớn và cấp thiết cần được đánh giá
một cách đúng mức, đầy đủ và từ đó đề ra các chính sách đồng bộ cùng với sự
tham gia của nhiều cơ quan, tổ chức để giải quyết.
2. ĐỐI TƯỢNG, MỤC TIÊU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.

Đối tượng nghiên cứu
Nhà ở cho công nhân khu công nghiệp là một trong những bộ phận quan
trọng của vấn đề nhà ở cho những người thu nhập thấp. Nhà ở là một bộ phận to
lớn trong những tài sản của quốc gia, hơn nữa nó còn là một nhu cầu thiết yếu
của mỗi cá nhân. Nhà ở có một vai trò rất lớn, ảnh hưởng đến toàn bộ đời sống
của cá nhân, gia đình và xã hội. Tuy nhiên, phạm vi nghiên cứu của đề tài này tập
trung vào nhà ở cho một bộ phận của giai cấp công nhân, công nhân khu công
nghiệp. Trong đó chủ yếu tập trung chủ yếu vào các vấn đề cơ bản của nhà ở cho
công nhân khu công nghiệp, thực trạng vẫn đề này ở nước ta hiện nay và giải
pháp khắc phục những tồn tại, phương hướng trong thời gian tới.
4
Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu về nhà ở cho công nhân các KCN tập trung vào giải quyết các
mục tiêu cơ bản sau đây:
- Hệ thống và khái quát hoá những vấn đề lý luận, cơ sở khoa học về nhà ở
cho công nhân KCN.
- Phân tích thực trạng để làm sáng tỏ những vấn đề bất cập, nguyên nhân
gây ra những bất cập của nhà ở cho công nhân KCN.
- Đề xuất giải pháp nhằm giải quyết những bất cập góp phần vào sự phát
triển bền vững của các KCN và cải thiện đời sống cho công nhân KCN.
Phương pháp nghiên cứu
Đề tài này sử dụng kết hợp nhiều phương pháp đặc biệt là phương pháp khảo
cứu tài liệu để kế thừa, khai thác các thông tin tư liệu sẵn có, tổng hợp rút ra
những kết luận nghiên cứu mới. Bên cạnh đó, sử dụng duy vật biện chứng làm
nền tảng nghiên cứu, kết hợp chặt chẽ phương pháp phân tích, tổng hợp và xem
xét cụ thể thực trạng nhà ở cho công nhân khu công nghiệp ở nước ta. Ngoài ra,
kết hợp nghiên cứu kinh nghiệm của các quốc gia khác trong việc giải quyết vấn
đề nhà ở cho những người thu nhập thấp, đặc biệt công nhân khu công nghiệp.
Từ đó, đề xuất giải pháp chung và riêng để giải quyết vấn đề hiện tại và trong
thời gian tới.

3. ĐÓNG GÓP VỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN.
Nghiên cứu làm sáng tỏ vai trò quan trọng của nhà ở đối với công nhân
KCN; phân tích rõ những nhân tố ảnh hưởng trực tiếp, gián tiếp gồm sự phát triển
kinh tế, chính sách của nhà nước, quy hoạch, quá trình đô thị hoá và vấn đề dân số.
Nhấn mạnh vai trò quản lý của nhà nước có ý nghĩa trong việc đẩy mạnh hơn nữa
sự quan tâm của các cơ quan quản lý nhà nước trong việc giải quyết vấn đề nhà ở
cho công nhân . Đồng thời, nghiên cứu thực tế việc giải quyết vấn đề nhà ở cho
5
công nhân của các nước trên thế giới để rút ra một số bài học kinh nghiệm phù hợp
với điều kiện nước ta.
Đề tài đi sâu vào phân tích, so sánh, đánh giá thực trạng nhà ở cho công
nhân ngoại tỉnh tại các KCN, chỉ ra những bất cập đang đặt ra đối với vấn đề lo
“an cư” cho công nhân và những nguyên nhân chủ yếu, có đóng góp trong việc
đưa ra những giải pháp phù hợp trong giai đoạn trước mắt và lâu dài để giải quyết
vấn đề này.
Đề tài đã đề xuất một số nhóm giải pháp về quy hoạch, kiến trúc, tăng khả
năng thanh toán của công nhân, một số chính sách khác nhưng trong đó đặc biệt
nhấn mạnh nhóm giải pháp về giảm giá nhà ở cho công nhân thuê hoặc mua.
Đề tài có tác dụng làm tài liệu tham khảo về nội dung và phương pháp
nghiên cứu cho các sinh viên, đặc biệt những sinh viên tham gia nghiên cứu khoa
học và quan tâm nghiên cứu vấn đề này.
4. KẾT CẤU.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, nội dung đề tài được trình bày ở 3 chương
sau:
Chương I: Một số vấn đề cơ bản về nhà ở cho công nhân khu công nghiệp.
Chương II: Thực trạng nhà ở cho công nhân khu công nghiệp ở Việt Nam.
Chương III: Giải pháp giải quyết vấn đề nhà ở cho công nhân khu công
nghiệp ở Việt Nam.
6
CHƯƠNG I

MỘT SỐ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ
NHÀ Ở CHO CÔNG NHÂN KHU CÔNG NGHIỆP
1. Vai trò của nhà ở đối với công nhân các KCN.
1.1. Vai trò của nhà ở nói chung.
Nhà ở là tài sản có giá trị đặc biệt đối với đời sống con người. Ph.Angghen
đã nhấn mạnh: “Con người trước hết cần phải ăn, uống, chỗ ở và mặc đã rồi mới
có thể làm chính trị, khoa học, nghệ thuật, tôn giáo…”
1

Nhà ở có một tầm quan trọng đặc biệt đối với mỗi cá nhân, gia đình.
Do đặc điểm địa hình của nước ta là đồng bằng dẫn đến dân cư sinh sống
bằng nghề nông, chủ yếu là trồng trọt. Nghề trồng trọt bắt buộc người dân phải
sống định cư, chăm bón cho cây lớn lên, ra hoa kết trái rồi thu hoạch. Do lối sống
trồng trọt như vậy nên họ phải làm nhà, phải ổn định cuộc sống đảm bảo cho sản
xuất. Dần dần, dẫn đến sự hình thành và phát triển của cộng đồng với quy mô nhỏ
và tổ chức đơn giản là làng, xã, thôn, xóm. Tất cả các hình thức cộng đồng trên
đều gắn liền với sự phát triển của nhà ở. Ngoài ra, nhà ở không chỉ là nơi để con
người định cư để trồng trọt, sản xuất, ngôi nhà – là cái tổ ấm để giúp con người
đối phó với nóng lạnh, nắng mưa … – là một trong những yếu tố quan trọng nhất
để đảm bảo có một cuộc sống định cư ổn định cả về mặt vật chất và tinh thần.
Nhà ở là một trong những tiêu chuẩn làm thước đo phản ánh trình độ
phát triển kinh tế xã hội của mỗi nước, mức sống của dân cư mỗi dân tộc.
Thực tế, khi nhìn vào các ngôi nhà có thể nhận biết được phần nào những
phong tục, tập quán, lối sống, văn hoá của người đang sống trong ngôi nhà đó và
cộng đồng xung quanh. Một mô hình nhà phổ biến ở Việt Nam từ thời Đông Sơn
đó là nhà sàn. Những vùng nào là miền sông nước hay ngập lụt như tỉnh Đồng
Tháp hay là miền núi như các tỉnh miền núi phía Bắc, nhà sàn là rất thích hợp. Một
1
Trang web: www.tapchicongsan.org.vn
7

điển hình khác của ngôi nhà Việt Nam là tuân theo nguyên tắc coi trọng số lẻ.
Bước vào cổng là cổng tam quan, bước lên bậc là bậc tam cấp.
Nhà ở còn thể hiện mức sống của dân cư mỗi vùng, mỗi quốc gia. So sánh
bề ngoài của những ngôi nhà và những tiện nghi bên trong của chúng sẽ phản ánh
phần nào mức sống của người dân những khu vực khác nhau. Những ngôi nhà ở
nông thôn mặc dù đã khang trang hơn trước, từ quạt nan đã thay bằng quạt điện
nhưng vẫn còn rất nghèo nàn so với những toà nhà nơi đô thị. Ở đô thị, những khu
chung cư hay nhà chia lô đang trở thành một kiểu cách mới, được ưa chuộng khi
nhu cầu về nhà ở ngày càng tăng cao nhưng diện tích đất thì lại có hạn.
Nhà ở còn được coi là một trong những tiêu chuẩn để thể hiện trình độ phát
triển về mặt khoa học kỹ thuật. Những nước phát triển với trình độ khoa học kỹ
thuật tiên tiến, họ áp dụng vào xây dựng nhà ở dân dụng từ việc thiết kế, xây dựng
cho đến các tiện nghi lắp đặt trong nhà. Những ngôi nhà hiện nay, có thể mang
phong cách hiện đại hoặc truyền thống đều phô bày sự sáng tạo và sự tiện lợi nhất.
Vì vậy, nhà ở là một lĩnh vực hết sức quan trọng và cũng rất phức tạp. Nó
có liên quan đến nhiều lĩnh vực như kiến trúc – quy hoạch, vệ sinh môi trường,
dân số, y tế, văn hoá, giáo dục.
1.2 . Vai trò của nhà ở đối với công nhân KCN.
Nhà ở cho công nhân trong các KCN là một nhân tố quan trọng thúc đẩy
phát triển sản xuất của các doanh nghiệp, đem lại lợi ích trước mắt cho địa phương
và lợi ích lâu dài cho đất nước. Vai trò của nhà ở được thể hiện cụ thể như sau:
Nhà ở có vai trò quan trọng đặc biệt đối với công nhân các KCN.
Xây dựng và phát triển các KCN luôn có nhu cầu sử dụng lực lượng lao
động rất lớn. Lực lượng lao động tại các địa phương có các KCN thường chỉ đáp
ứng được trên 1/3 nhu cầu, còn lại là lao động từ những vùng, địa phương khác
đến. Một số lượng lao động lớn từ ngoại tỉnh đến các vùng này làm việc tập trung
tại các KCN trong điều kiện là tách biệt với gia đình của họ.
8
Nhà ở đối với người công nhân lao động ở các tất cả các ngành nghề, lĩnh
vực khác nhau có vai trò rất quan trọng như để thúc đẩy sức lao động, nâng cao

hiệu quả sản xuất. Nhưng, do phần lớn những công nhân trong các KCN, họ sống
xa gia đình nên ngoài những vai trò trên, nhà ở đặc biệt quan trọng hơn trong việc
đảm bảo một cuộc sống cân bằng, ổn định khi sống trong gia đình quen thuộc.
Hướng phát triển các KCN ở nước ta là phát triển KCN áp dụng công nghệ
sử dụng nhiều lao động, sản xuất các mặt hàng cho xuất khẩu mà Việt Nam có ưu
thế (lắp ráp điện tử, may mặc, giày da…). Kết hợp hướng phát triển các KCN đó
với những đặc điểm riêng của nó dẫn đến các KCN thu hút công nhân lao động với
quy mô rất lớn và ngày càng tăng nhanh. Việc đáp ứng nhu cầu về nhà ở cho một
lượng lớn lao động là một vấn đề khó khăn.
Tạo động lực để thúc đẩy sức lao động của người công nhân KCN.
Động lực về vật chất. Trước hết, nhà ở là nơi giúp công nhân tái sản xuất
một phần sức lao động của mình. Phải có nhà thì công nhân mới có thể nghỉ ngơi
với môi trường thoải mái trong lành hơn sau khi làm việc trong công xưởng với
các thiết bị, máy móc, các chất độc hại. Vì do đặc thù nghề nghiệp nên phần lớn
công nhân phải làm việc theo ca kíp, để đảm bảo hiệu suất tối đa của máy móc,
thiết bị, cũng như yêu cầu đòi hỏi của các chủ hợp đồng.
Động lực về tinh thần. Ngoài việc đem lại những đảm bảo đời sống vật chất
cho công nhân thì nhà ở còn giúp đem lại những lợi ích lớn về mặt tinh thần. Đó là
giúp cho công nhân giảm nỗi lo về an ninh trật tự khi sống trong những khu nhà ở
dành cho công nhân được quản lý chặt chẽ. Ngoài ra, tại nơi ở có các điều kiện
tiếp xúc với phương tiện nghe, nhìn, sách, báo và các khu giải trí vui chơi công
cộng làm phong phú đời sống tinh thần của công nhân.
Vì vậy, nhà ở là một nhân tố quan trọng trong thúc đẩy sức lao động của
công nhân. Cần được các doanh nghiệp quan tâm.

9
Nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của các KCN.
Công nhân sẽ yên tâm sản xuất lao động. Khi “an cư” thì công nhân không
những sẽ yên tâm sản xuất, mà có điều kiện để được đào tạo tốt góp phần nâng cao
chất lượng lao động. Một khi công nhân không phải lo lắng về nơi ăn chốn ở của

mình thì họ có thể dành thêm thời gian cho việc học tập thêm kinh nghiệm, tham
gia vào các khoá đào tạo, nâng cao tay nghề do doanh nghiệp hay các đơn vị khác
tổ chức. Vì vậy, tạo cho người lao động một chỗ ở tốt, một cuộc sống ổn định, sẽ
góp phần thúc đẩy quá trình phát triển mạnh mẽ, lâu dài của doanh nghiệp.
Công nhân sẽ gắn bó với doanh nghiệp. Đó cũng chính là một trong những
nguyện vọng của công nhân vì họ muốn có một công việc, một cuộc sống ổn định.
Doanh nghiệp sẽ có một đội ngũ công nhân lành nghề, có kinh nghiệm thay vì tốn
thời gian và kinh phí đào tạo lại khi phải luân chuyển công nhân. Nếu doanh
nghiệp không quan tâm đúng mức đến nhà ở cho công nhân, thì với sự cạnh tranh
khắc nghiệt của cơ chế thị trường, nhất là khi hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu,
họ sẽ mất đội ngũ công nhân có tay nghề giỏi của mình, một khi các doanh nghiệp
khác quan tâm tới đời sống của người lao động tốt hơn.
2. Những yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu nhà ở cho công nhân KCN.
2.1. Sự phát triển kinh tế.
Phát triển kinh tế là sự kết hợp chặt chẽ quá trình hoàn thiện của hai vấn đề
về kinh tế và xã hội ở mỗi quốc gia. Các nội dung của phát triển kinh tế đều có
những ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến các vấn đề về nhà ở xã hội, trong đó
có nhà ở cho công nhân các KCN.
Trước hết, nói đến sự phát triển kinh tế thì phải xét đến một yếu tố cơ bản
đó là tăng trưởng kinh tế. Hàng năm, tăng trưởng kinh tế được thống kê và thể
hiện qua sự gia tăng tổng mức thu nhập của nền kinh tế và mức gia tăng thu nhập
bình quân trên một đầu người. Thu nhập tăng lên, ảnh hưởng đến tiêu dùng do có
sự gia tăng nhu cầu về nâng cao mức sống vật chất. Khi nhu cầu về tiêu dùng cho
10
những vật phẩm thiết yếu đã được đảm bảo thì một phần thu nhập sẽ được dùng để
giải quyết nhu cầu nhà ở. Do vậy, khi thu nhập tăng lên, nhu cầu về nhà ở của cả
mọi người dân cũng như của tầng lớp công nhân lao động các KCN đều tăng.
Thứ hai là, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Về cơ cấu ngành kinh tế, tỷ trọng
của công nghiệp ngày càng tăng lên và chiếm vai trò quan trọng trong cơ cấu
GDP. Công nghiệp tăng trưởng kéo theo sự xuất hiện hàng loạt các KCN dẫn đến

sự gia tăng về lực lượng công nhân và tất yếu nhu cầu về nhà ở cho lực lượng lao
động này cũng gia tăng. Về cơ cấu vùng kinh tế, sự phát triển kinh tế được thể hiện
ở cơ cấu vùng theo góc độ thành thị và nông thôn. Một xu hướng ở các nước đang
phát triển là luôn có một dòng dân di cư từ nông thôn ra thành thị. Sự gia tăng dân
số do dòng dân di cư này đồng nghĩa với sự gia tăng về nơi ăn chốn ở cho họ.
2.2. Những chính sách của chính phủ.
Các chính sách của Chính phủ là một nhân tố rất nhạy cảm, ảnh hưởng đến
nhu cầu về nhà ở của công nhân các KCN. Các chính sách khuyến khích phát triển
theo ngành, lãnh thổ kéo theo sự xuất hiện thêm nhiều KCN mới và sự tăng quy
mô các KCN trước. Tăng quy mô sản xuất đồng nghĩa với việc gia tăng nhu cầu
lao động. Ngược lại, những vùng, khu vực chưa được sự quan tâm nhiều của nhà
nước trong việc khuyến khích đầu tư thì sản xuất kém phát triển, dân số có thể di
chuyển sang các vùng khác với nhu cầu lao động cao như các KCN. Bên cạnh đó,
những chính sách về nhà ở xã hội, nhà ở cho những người có thu nhập thấp…
cũng làm ảnh hưởng đến nhu cầu về nhà ở cho đối tượng công nhân các KCN.
2.3. Quy hoạch phát triển và quá trình đô thị hoá.
Chính sách về quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất
Các chính sách về quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất, thực chất là việc xác
định mục đích sử dụng đất của từng vùng cụ thể. Một ví dụ điển hình về việc thay
đổi mục đích sử dụng đất như việc chuyển mục đích sử dụng đất của một khu vực
11
đang sản xuất nông nghiệp, nay lại quy hoạch thành KCN làm tăng nhu cầu về lao
động ở đây và dẫn đến nhu cầu về nhà ở cho công nhân cũng tăng theo.
Quá trình đô thị hoá
Đô thị hoá là một quá trình tất yếu của mọi quốc gia trong phát triển kinh tế.
Một đặc trưng của quá trình đô thị hoá, đó là dân số tập trung ngày càng đông về
các khu vực có các hoạt động sản xuất kinh doanh về các lĩnh vực như công
nghiệp, thương mại, dịch vụ. Do đó dẫn đến sự xuất hiện của những luồng dân di
cư từ nông thôn ra đô thị. Đó là một nhân tố có ảnh hưởng đến nhu cầu về nhà ở
cho những người công nhân lao động tại các KCN.

2.4. Yếu tố dân số.
Dân số là nhân tố có ảnh hưởng đến mọi mặt nhu cầu của xã hội về việc
làm, về ăn, ở, mặc, học hành, giải trí… theo đó làm ảnh hưởng đến nhu cầu về nhà
ở, gồm có nhà ở cho công nhân KCN.
Quy mô dân số lớn: Trước hết, đặc điểm của dân số nước ta là quy mô dân
số lớn và vẫn đang gia tăng mạnh. Hai đặc điểm này bên cạnh việc tạo ra thị
trường lớn, nguồn lao động dồi dào, giá rẻ, có sức hấp dẫn đầu tư…Với quy mô
dân số lớn thì các KCN không những giải quyết được vấn đề thiếu lao động mà
còn có thể mở rộng quy mô sản xuất với lượng lao động lớn hơn.
Tăng dân số cơ học: Một đặc điểm khác về dân số nước ta là sự phân bố
không đồng đều và thực trạng này tàng ẩn một tiềm năng di cư lớn. Hướng di cư
trong nhiều năm trở lại đây là từ nông thôn ra thành thị, đặc biệt tập trung ở các
khu công nghiệp do có sức hút lớn về lao động. Vì vậy, làm tăng thêm các nhu cầu
về nơi ăn chốn ở để đảm bảo sinh sống và lao động sản xuất.
Dân số ở nông thôn vẫn còn chiếm một tỷ lệ lớn so với tỷ lệ này của các
nước trên thể giới. Trong đó tỷ lệ dân số khu vực đô thị và xung quanh các khu đô
thị còn thấp, đặc biệt là các khu vực có các KCN. Vì vậy, nhu cầu về lao động ở
các KCN là rất lớn thì sẽ kéo theo những luồng dân di cư đến các khu vực này. Sự
12
tăng dân số cơ học này một phần là do khu vực mà các KCN hoạt động và sản
xuất không đáp ứng đủ lượng lao động cần thiết. Một lực lượng lao động từ những
vùng khác đến đồng nghĩa với sự gia tăng nhu cầu về nơi ăn chốn ở cho họ.
3. Những yêu cầu về nhà ở cho công nhân KCN.
Sự quan tâm về nhà ở cho công nhân không chỉ tập trung vào việc đáp ứng
đủ số lượng mà còn phải đảm bảo về mặt chất lượng, yêu cầu là rất cần thiết. Yêu
cầu về nhà ở cho công nhân dựa trên một số yếu tố sau:
3.1. Đặc điểm và nguyện vọng của người công nhân các KCN.
- Cơ cấu lao động
Để xây dựng được các loại nhà ở phù hợp với nhu cầu của công nhân lao
động, ta cần phải căn cứ vào số lượng, độ tuổi, giới tính lao động tại các KCN.

Hiện nay, công nhân tại KCN trên cả nước, tập trung vào 3 vùng: Vùng kinh tế
trọng điểm miền Bắc, miền Trung, miền Nam. Đến tháng 4/2006, cả nước đã có
135 KCN và thu hút khoảng 1.5 triệu lao động.
Theo số liệu thống kê, lao động có độ tuổi 18-35 chiếm 90%, còn lại từ 36-
50 tuổi. Số công nhân các KCN đang trong độ tuổi lao động đạt 100%, tương ứng
với nhu cầu nhà ở là rất cao. Một đặc điểm của lao động là nữ (chiếm 73%), đặc
biệt là chưa xây dựng gia đình, nên họ rất muốn nếu có điều kiện thì sẽ tạo lập và
xây dựng một tổ ấm trong tương lại.
Vì vậy, những đặc điểm về nhà ở cho công nhân KCN phải phù hợp với
những đặc điểm và tỷ lệ trên để có được không gian nhà ở hiện tại và hướng cho
sự phát triển trong tương lại.
- Đặc thù nghề nghiệp.
Công việc của công nhân các KCN có những đặc thù riêng, khác với lao
động trong các ngành nghề khác. Vì vậy, xây dựng nhà ở cho công nhân chúng ta
phải thấy rõ được những nét riêng biệt đó để đảm bảo những khu nhà ở được xây
dựng lên sẽ thỏa mãn được nhu cầu nghỉ ngơi, sinh hoạt của họ.
13
Trong các KCN, một thực tế là đại đa số công nhân đi làm theo ca. Một
ngày có 3 ca làm việc và ít nhất một công nhân phải làm việc từ 2 đến 3 ca
đêm/tuần tuỳ theo những yêu cầu về sản xuất của doanh nghiệp trong từng đợt,
từng quý. Với những bắt buộc về lao động như vậy, người công nhân trong các
KCN vừa bị ảnh hưởng đến sức khoẻ vừa ảnh hưởng an toàn tính mạng.
Ngoài ra, cần phải đảm bảo việc đi làm vào ban đêm không ảnh hưởng đến
các thành viên trong phòng ở tập thể và các phòng bên cạnh, tạo sự yên tĩnh cần
thiết trong khu nhà ở. Ngoài không gian ở, việc đi lại từ khu nhà ở đến nơi làm
việc vào buổi tối của công nhân cũng cần được tính đến.
- Cấu trúc gia đình.
Không gian nhà ở cần phải đảm bảo những yêu cầu của các gia đình có cấu
trúc khác nhau. Thành viên chủ yếu của các gia đình là công nhân lao động. Họ có
trình độ học vấn không chênh lệch nhiều; với số lượng thành viên trong gia đình

qua các giai đoạn cũng giống nhau. Vậy, đối tượng phục vụ nhà ở có nhiều điểm
chung sẽ thuận lợi cho việc thiết kế nhà ở công nhân các KCN.
Hầu hết trong các KCN tập trung, người lao động có tuổi đời còn trẻ (từ 18-
25 tuổi chiếm 85.7% còn 14.3% là đã lập gia đình). Vì vậy, gia đình của công
nhân các KCN được chia làm 2 loại: Gia đình nhỏ (từ 1 đến 2 người), gia đình
trung bình (từ 3 đến 4 người). Về nhân khẩu trong gia đình công nhân cũng chia
thành 2 loại theo từng giai đoạn: Giai đoạn đầu sống độc thân (1 đến 2 người/ gia
đình), giai đoạn sau có gia đình với một hoặc 2 con (3 đến 4 người/ gia đình).
Đặc điểm về cẩu trúc gia đình như trên, cần phải thiết kế các loại nhà ở khác
nhau sao cho phù hợp với cấu trúc của các gia đình trong hiện tại và tương lai.
- Thu nhập và khả năng thanh toán.
Mức lương tối thiểu cho người lao động, ví dụ trong các KCN chậm điều
chỉnh. Trong 6 năm qua, với tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 7–8 %/năm, mức
14
sống chung của toàn xã hội đã được nâng lên đáng kể, nhưng công nhân KCN vẫn
phải mưu sinh đầy gian nan vì mức lương tối thiểu vẫn bền bỉ “dậm chân tại chỗ”.
Mức thu nhập và khả năng thanh toán của công nhân có ảnh hưởng lớn đến
việc tính toán thiết kế xây dựng nhà ở cho họ. Nhóm công nhân có thu nhập trung
bình từ 1-1.5 triệu đồng chiếm 20-25% tổng số lao động ở các KCN, mức thu nhập
này thường là công nhân có tay nghề. Nhóm công nhân có thu nhập thấp từ 400-
600 nghìn đồng chiếm tới 75-80%, rơi vào nhóm lao động phổ thông thuần tuý.
Với mức thu nhập thấp như nêu trên, trước mắt, sử dụng diện tích tối thiểu
cho các phòng cần thiết cho nhu cầu thiết yếu, sau đó có biện pháp để mở rộng
diện tích khi nhu cầu gia đình cao hơn. Đối với các đối tượng lao động độc thân,
nên thiết kế các khu nhà ở tập thể để giảm bớt tiền thuê nhà.
- Lối sống
Đại đa số lao động tại các KCN tập trung đều đến từ các vùng nông thôn
trên cả nước. Do vậy, họ đều có chung đặc trưng của các làng quê Việt Nam đó là
tính cộng đồng làng Việt. Họ sống coi trọng lễ nghĩa, luôn đề cao đạo dức và nhân
cách của con người Việt Nam. Ngoài ra, còn có tâm lý thích sinh hoạt cùng bạn

bè, đồng hương. Nhưng do đến từ các vùng nông thôn khác nhau, xuất thân từ
nhiều vùng quê khác nhau nên họ có những phong tục, tập quán riêng biệt.
Qua những nhận xét trên, ta có thể tìm kiếm thiết kế những không gian ở
phù hợp với công nhân ở KCN, sao cho công năng và không gian ở thể hiện được
lối sống mang những sắc thái văn hoá truyền thống.
- Nguyện vọng.
Theo một số điều tra xã hội học, khi được hỏi nguyện vọng về nhà ở thì
100% công nhân ngoại tỉnh đều rất muốn được thuê nhà với giá rẻ gần KCN để
tiết kiệm thời gian đi lại và ổn định đời sống. Về hình thức xây dựng nhà ở, phần
lớn đều muốn được thuê nhà ở do Nhà nước hoặc các doanh nghiệp đầu tư kinh
doanh với giá phù hợp với khả năng thanh toán của họ. Về kiểu nhà ở, 80% công
15
nhân mong muốn được ở trong chung cư nhiều tầng với giá thuê hợp lý, được
sống an toàn trong môi trường tập thể. Về thiết kế, yêu cầu được đưa ra là phải có
khả năng chịu lực, phòng cháy chữa cháy, và có chỗ nấu ăn tập thể để không phải
ăn ngoài trong điều kiện tiền lương ít ỏi.
3.2. Đặc điểm về phân bố.
Khi được hỏi về điều kiện đi lại của công nhân: số người muốn sử dụng xe
đạp và đi bộ chiếm 39%; xe buýt công cộng chiếm 19%; xe nhà máy đưa đón
chiếm 32%. Như vậy, nguyện vọng của phần lớn công nhân là khu nhà ở được xây
dựng gần khu công nghiệp để tiết kiệm thời gian và chi phí.
Theo tiêu chuẩn xây dựng của Việt Nam - Bộ Xây Dựng, tại TCVN
4616:1988, phần bố trí khu, cụm công nghiệp theo yêu cầu quy hoạch đã chỉ rõ:
“… Khi bố trí khu, cụm công nghiệp trong thành phố hoặc ở trên khu đất ngoại vi
thành phố, nên tổ hợp thành cụm công nghiệp – dân cư. Khu công nghiệp – dân cư
là một tổ hợp không gian đặc biệt, bao gồm các xí nghiệp công nghiệp có yêu cầu
bảo vệ vệ sinh từ cấp III đến cấp V, hoặc các xí nghiệp công nghiệp thủ công có
khả năng tổ hợp với khu nhà ở thành một cơ cấu quy hoạch thống nhất. …”.
Các KCN ở vùng ven hoặc cách xa thành phố, tuỳ theo nhu cầu để hình
thành lên cụm công nghiệp – dân cư. Khu dân cư này phải được đảm bảo đủ chức

năng như một đô thị loại nhỏ và trở thành đô thị vệ tinh của thành phố.
Địa điểm xây dựng, phân bố quy mô KCN - dân cư phải đảm bảo những
nguyên tắc cơ bản như: Tạo kết cấu hạ tầng cơ sở tốt như hệ thống giao thông vận
tải; hệ thống thông tin liên lạc, cung ứng điện, nước, hệ thống thoát nước; bảo vệ
môi trường sinh thái…
4. Vai trò của nhà nước với nhà ở cho công nhân KCN.
Trong mục tiêu phát triển nhà ở của nước ta thì một phần quan trọng là phải
ưu tiên, đảm bảo phát triển nhà ở xã hội, đặc biệt là nhà ở cho công nhân các KCN
trong điều kiện hiện nay.
16
Vai trò của Nhà nước đối với nhà ở cho công nhân KCN được thể hiện chủ
yếu như sau:
- Quy hoạch xây dựng và quy hoạch sử dụng đất là một nhiệm vụ của nhà
nước, nhằm thống nhất việc quản lý đất đai cho các mục đích khác nhau và các
công trình xây dựng theo quy hoạch và pháp luật. Thông qua công tác quy hoạch,
nhà nước thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế, văn hoá xã hội… ngăn chặn những
tiêu cực trong việc sử dụng đất đai và xây dựng hình thành các công trình, nhà ở
xã hội, đặc biệt là nhà ở cho công nhân KCN.
- Nhà nước ban hành và tổ chức thực hiện pháp luật nhà ở, tạo môi trường
pháp lý cho sự phát triển và khắc phục các hạn chế của quá trình phát triển nhà ở
cho công nhân KCN. Qua hệ thống pháp luật, quy định các yêu cầu phát triển, tiêu
chuẩn thiết kế, yêu cầu đối với chủ đầu tư dự án phát triển, xây dựng và quản lý
vận hành quỹ nhà ở…
- Nhà nước khuyến khích các tổ chức, các chủ thể kinh tế, các cá nhân sử
dụng đầy đủ, hợp lý đất đai nhằm nâng cao khả năng sinh lợi của đất đai, xây dựng
và phát triển nhà ở hợp lý. Dựa trên những chính sách chung về nhà ở, nhà nước
còn ban hành những chính sách liên quan đến nhà ở cho công nhân các KCN, đó là
các chính sách về phát triển KCN.
- Nhà nước phải thực hiện vai trò kiểm tra, giám sát, quản lý việc sử dụng
nhà ở công nhân KCN. Nhà nước phải giám sát việc sử dụng nhà dành cho công

nhân có thực sự được đưa vào sử dụng đúng mục đích hay không…
- Nhà nước phải đóng vai trò trực tiếp trong việc xây dựng và phát triển nhà
ở cho công nhân các KCN. Để đáp ứng được nơi ăn chốn ở cho người lao động,
trên thực tế số doanh nghiệp có đủ tiềm lực, năng lực để đầu tư nhà ở cho công
nhân mới đến được trên đầu ngón tay. Vì vậy, sự tham gia của nhà nước kết hợp
với các doanh nghiệp là hết sức quan trọng trong việc phát triển nhà ở xã hội, đặc
biệt là nhà ở cho công nhân KCN.
17
5. Kinh nghiệm trên thế giới về giải quyết vấn đề nhà ở cho công nhân.
5.1. Kinh nghiệm của Hà Lan.
- Ở Hà Lan, Luật Xây dựng nhà ở năm 1901 quy định nhà ở cho người
nghèo, người có thu nhập thấp, công nhân là trách nhiệm của Chính phủ, thông
qua việc xây dựng nhà ở xã hội. Luật khẳng định quyền can thiệp của Chính phủ
vào lĩnh vực xây dựng nhà ở, xác định trách nhiệm và nghĩa vụ của tất cả các cơ
quan tham gia trong quá trình xây dựng nhà ở. Vì vậy, số lượng nhà ở xã hội, đặc
biệt là nhà ở cho người lao động do các công ty nhà nước xây dựng luôn cao hơn
so với các công ty còn lại. Từ năm 1947 đến năm 1992, quỹ nhà ở xã hội của Hà
Lan tăng thêm 4 triệu nhà và về cơ bản đã thanh toán xong nạn thiếu nhà ở xã hội.
- Gần đây, Hà Lan đã chuyển đổi phương sách quản lý nhà ở cho người có
thu nhập thấp, công nhân. Nhà nước không bao cấp hay hoàn toàn kiểm soát thị
trường như trước, mà để hoạt động trong sự quản lý và điều tiết của nhà nước.
Luật nhà ở sửa đổi tập trung vào những điểm như: ưu tiên hơn nữa việc thoả mãn
nhà ở cho người có thu nhập thấp; Đảm bảo sự tham gia bình đẳng của các nhà
đầu tư trong việc tham gia vào xây dựng quỹ nhà ở xã hội.
Tóm lại, theo kinh nghiệm của Hà Lan để đáp ứng được nhu cầu về nhà ở xã
hội nói chung, nhà ở cho công nhân nói riêng phải tăng cường sự đóng góp của
toàn dân và của các tập đoàn, doanh nghiệp tư nhân. Vì thế, Hà Lan là một trong
những nước đi đầu trong giải quyết vấn đề nhà ở cho công nhân lao động.
5.2. Kinh nghiệm của Trung Quốc.
* Chính sách cải cách và thương mại hoá nhà ở, trong đó có nhà ở cho

người lao động ngoại tỉnh.
Chính phủ đã cung cấp một lượng vốn lớn cho việc phát triển nhà ở, từ năm
1949. Nhà nước chịu trách nhiệm cấp nhà ở, đặc biệt là đối với cán bộ công chức
được tuyển dụng trực tiếp. Dân cư và lao động ngoại tỉnh hầu hết đều dựa vào nhà
nước để được bao cấp về nhà ở, khiến cho việc phân phối không công bằng và
18
tham nhũng trở thành phổ biến. Hậu quả dẫn đến công tác quản lý kém hiệu quả,
nảy sinh những tiêu cực ( không đáp ứng được nhu cầu chính đáng, chất lượng nhà
ở kém, tốc độ xuống cấp nhanh ).
Trung Quốc cũng đã từng bước tiến hành thương mại hoá toàn bộ quá trình
xây dựng, phân phối và sử dụng nhà ở. Chính quyền địa phương được trao quyền
chủ động phát triển “ nhà rẻ tiền “để phân phối không mất tiền cho người dân và
chủ động việc đánh thuế. Từ năm 1993, luật lệ trung ương yêu cầu các công ty
phát triển bất động sản phải có ít nhất 20% tỷ lệ “nhà rẻ tiền” trong kế hoạch phát
triển hàng năm dành cho người thu nhập thấp, dưới hình thức thuê hoặc bán.
* Chính sách quản lý nhà ở khác.
Nhà nước thiết lập các quy định quản lý nhà cho thuê với giá thấp, thí điểm
rút kinh nghiệm, sau đó áp dụng cho toàn quốc. Đảm bảo thực hiện công khai và
tính minh bạch trong phân phối nhà ở cho các đối tượng là lao động ngoại tỉnh có
thu nhập thấp với sự kiểm soát của nhà nước cùng với sự thực hiện chiến lược bao
cấp tiền thuê nhà một cách linh hoạt và ít tốn kém hơn so với chiến lược xây dựng
trực tiếp các nhà cho thuê với giá thấp. Tổ chức hợp tác giữa các công ty nhà đất
theo hướng Nhà nước và tư nhân cùng làm.
Bên cạnh đó, Nhà nước đồng thời đi vào thực hiện thí điểm một số mô hình
nhà ở hợp tác xã để bán và cho thuê với mức giá phù hợp với thu nhập của người
lao động có thu nhập thấp. Các mô hình được xây dựng lên nhằm đáp ưng nhu cầu
về ở lâu dài của công nhân, người lao động, được nhân rộng tại các địa phương có
những nguồn lực và điều kiện tương đồng.
5.3. Một số bài học rút ra đối với Việt Nam.
Sau khi nghiên cứu về vấn đề giải quyết nhà ở cho công nhân lao động của

một số nước, trong đó giới thiệu về việc giải quyết nhà ở tầng lớp lao động với thu
nhập thấp của Hà Lan và Trung Quốc, chúng tôi có một vài kết luân như sau:
19
Về nhận thức, do nhà ở cho công nhân các KCN cũng là một bộ phận để
hình thành và phát triển nhà ở xã hội nên cần có sự quan tâm, phối hợp của các
doanh nghiệp tư nhân và cơ quan, doanh nghiệp nhà nước. Tuy nhiên, bên cạnh đó
vẫn cần thực hiện tốt công tác kiểm tra, giám sát quá trình xây dựng và sử dụng
nhà ở của các doanh nghiệp.
Về cơ chế chính sách, phát triển nhà ở cho công nhân KCN phải xem xét,
cân nhắc mọi điều kiện cho từng thời kỳ nhất định, có chính sách cụ thể mang tính
ưu tiên cho mỗi giai đoạn, tránh dàn trải. Trong đó đặc biệt quan tâm đến chính
sách tài chính và chính sách liên quan đến xây dựng.
Về mô hình nhà ở, khi thiết kế quy hoạch chi tiết một khu nhà ở cho công
nhân KCN cần xác định phát triển theo nhiều mô hình đa dạng và nên phát triển
đồng bộ các mô hình. Dựa vào đặc điểm, hoàn cảnh của mỗi địa phương và KCN
nằm trong địa phương đó để phát triển mô hình nhà ở cho công nhân KCN một
cách hợp lý.
20
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG NHÀ Ở CHO CÔNG NHÂN CÁC KCN Ở NƯỚC TA
1. Tình hình phát triển các KCN.
Thời gian qua, các KCN có đóng góp vào thúc đẩy chuyển cơ cấu kinh tế,
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Bên cạnh những tác động về mặt kinh tế, sự hình
thành và phát triển các KCN ảnh hưởng không nhỏ đến xã hội khi số lượng KCN
đi vào hoạt động tăng nhanh, sự phân bố các KCN không đồng đều trên cả nước.
Về thu hút đầu tư:
Tính đến tháng 6 năm 2005, các KCN trên phạm vi cả nước đã thu hút được
trên 4400 dự án đầu tư, gồm 2200 dự án có vốn đầu tư nước ngoài với tổng vốn
đăng ký là 17,5 tỷ USD và 2214 dự án đầu tư trong nước với tổng vốn đăng ký
gần 100 ngàn tỷ đồng. Với tốc độ thu hút đầu tư như trên thì dẫn đến một điều tất

yếu, đó là số lượng các KCN được hình thành và đi vào hoạt động sẽ ngày càng
tăng.
Về số lượng các KCN
Tính đến giữa năm 2006 cả nước đã có 135 KCN với tổng diện tích gần
20.233 ha, trong đó diện tích đất cho thuê đạt 13.800 ha. Trong 135 KCN hiện có,
phần lớn tập trung tại các vùng kinh tế trọng điểm và được thể hiện ở bảng sau:
Biểu đồ 1: Phân bố các KCN theo vùng năm 2006
Vùng phân bố Số lượng Tỷ lệ (%)
Đông Nam Bộ 64 47.41
Đồng bằng sông Hồng 29 21.48
Duyên hải miền trung 22 16.29
Trung du, miền núi Bắc Bộ,
Tây Nguyên và ĐB sông Cửu Long
20 14.82
Nguồn: www.khucongnghiep.com.vn
Qua bảng số liệu trên ta thấy các KCN phân bố không đồng đều theo lãnh
thổ chủ yếu tập trung tại 2 vùng đó là Đông Nam Bộ, Đồng bằng sông Hồng.
21
Trong đó, Đông Nam Bộ có số lượng tập trung các KCN với số lượng gần bằng
một nửa của cả nước và gấp 3 lần so với Trung du, miền núi Bắc Bộ, Tây Nguyên.
Một trong những đặc điểm của KCN là đòi hỏi nhiều lao động, và nếu chỉ
sử dụng nguồn lao động tại chỗ thì sẽ không đáp ứng đủ nhu cầu lao động. Vì vậy,
hầu hết các KCN đều có nhu cầu thu hút lao động từ các địa phương khác đến.
Do sự phân bố không đồng đều và đặc điểm sử dụng lao động của các KCN
đã tạo ra một làn sóng di cư từ các vùng nông thôn có điều kiện kinh tế xã hội khó
khăn, các vùng tập trung ít KCN ra các vùng tập trung đông KCN. Điều này đã
ảnh hưởng đến đặc điểm của lực lượng lao động làm việc trong các KCN, chủ yếu
là lao động ngoại tỉnh hoặc lao động từ các vùng nông thôn. Do đó, nhu cầu nhà ở
của công nhân làm việc trong các KCN là rất lớn. Tuy nhiên, hiện nay hầu hết các
KCN đều chưa đáp ứng được đầy đủ nhu cầu đó của công nhân khiến cho vấn đề

nhà ở công nhân tại các KCN đang trở thành vấn đề bức xúc trong xã hội hiện nay.
2. Thực trạng của nhà ở công nhân các KCN ở nước ta.
2.1. Thực trạng của nhà ở công nhân các KCN trong những năm qua.
Các KCN ở nước ta sau 16 năm xây dựng và phát triển đã có những đóng
góp to lớn cho nền kinh tế nước ta. Đồng hành với sự phát triển đó cũng còn nhiều
vấn đề về xã hội đang đặt ra, điển hình đó là nhà ở cho công nhân lao động. Chúng
ta cần nghiên cứu thực trạng vấn đề này để rút ra những bất cập cần giải quyết.
2.1.1. Về số lượng của các loại nhà.
Số lượng nhà ở phụ thuộc vào số lượng công nhân làm việc trong các KCN.
Nhưng hiện nay, khi tốc độ thu hút lao động của các KCN không ngừng tăng lên
thì việc xây dựng và phát triển nhà ở cho công nhân vẫn không theo kịp được tốc
độ phát triển đó.
Nhà ở do doanh nghiệp xây dựng
Hiện nay, nhu cầu của công nhân về nhà ở do doanh nghiệp xây dựng là rất
lớn, nhưng số lượng các doanh nghiệp tiến hành xây khu lưu trú cho công nhân
22
còn ít, “chỉ đếm được trên đầu ngón tay”. Điển hình, tình hình xây dựng nhà ở
công nhân ở các tỉnh Bình Dương, tỉnh Đồng Nai, TP Hồ Chí Minh.
Biểu đồ 2: Tỷ lệ công nhân ở nhà do doanh nghiệp sản xuất xây dựng
tại các tỉnh, thành phố năm 2006.
Tỉnh, thành phố Tổng số công nhân
Số công nhân ở
nhà do DN xây
Tỷ lệ (%)
Tỉnh Bình Dương 277.020 41.553 15
Tỉnh Đồng Nai 105.280 6.843 6.5
TP Hồ Chí Minh 154.000 6.160 4
Tỉnh Cần Thơ 18.750 375 2
TP Đà nẵng 45.000 900 2
TP Hà Nội 210.00 0 0

Nguồn: www.nld.com.vn
Trong bốn tỉnh thành phố trên, Bình Dương là tỉnh có tỷ lệ công nhân được ở
trong khu lưu xá lớn nhất, 15% lao động (đáp ứng khoảng gần 41.553 số lao động
ngoại tỉnh). Theo sau là tỉnh Đồng Nai với tỷ lệ chưa bằng một nửa của tỉnh Bình
Dương. Tỉnh Cần Thơ, TP Đà Nẵng chỉ mới đáp ứng được 2% nhu cầu của công
nhân. Nơi có tỷ lệ thấp nhất là TP Hà Nội, chưa có một khu ở tập trung nào dành
riêng cho công nhân do doanh nghiệp các KCN xây dựng.
Nhà ở do doanh nghiệp các KCN xây dựng trong thời gian qua chiếm một
số lượng rất nhỏ so với nhu cầu “an cư” của lao động ngoại tỉnh. Theo con số do
các nhà thống kê đưa ra, tỷ lệ trung bình trên cả nước mới đạt được 2% - giải
quyết phần rất nhỏ những bức xức về chỗ ở của công nhân các KCN. Thực tế là do
số doanh nghiệp có đủ “tiềm lực” và năng lực để đầu tư nhà ở công nhân mới đếm
được “trên đầu ngón tay”.
Tại Hà Nội, xét về thời gian thì các KCN phát triển sau các KCN Bình
Dương nên vấn đề chăm lo, giải quyết chỗ ở cho người lao động cũng ít được chú
trọng hơn. Mặt khác, giá đất ở Hà Nội khá đắt đỏ ảnh hưởng không nhỏ đến kinh
23
phí giải phóng mặt bằng. Bên cạnh đó, lại thiếu các cơ chế về nguồn vốn để tạo
điều kiện cho các doanh nghiệp được vay vốn với lãi suất ưu đãi. Điều này đã làm
giảm tính khả thi của các dự án xây dựng nhà ở, từ đó cũng hạn chế các doanh
nghiệp tham gia vào xây dựng nhà ở cho công nhân.
Nhà ở do tư nhân xây dựng và cho thuê.
Tỷ lệ công nhân được ở trong các ngôi nhà dạng ký túc xá, khu lưu trú do
doanh nghiệp xây dựng nói chung còn thấp. Vậy một câu hỏi được đặt ra “số lao
động còn lại họ sẽ ở đâu?”. Trong điều kiện những chính sách về nhà ở cho công
nhân chưa được thực hiện một cách thật tốt, thì giải pháp trước mắt cho những
công nhân ngoại tỉnh là tự tìm chỗ ở cho chính bản thân họ. Nhận thức được nhu
cầu đó, một số hộ dân đã xây dựng nhà ở cho công nhân thuê, và hình thức nhà
này đang phát triển nhanh chóng với một số lượng lớn trên pham vi cả nước, đặc
biệt là ở các tỉnh thành phố sau: TP Hà Nội, TP Đà Nẵng, tỉnh Cần Thơ.

Biểu đồ 3: Tỷ lệ công nhân ở nhà do dân xây
tại các tỉnh, thành phố năm 2006
Tỉnh, thành phố Số công nhân Tỷ lệ (%)
TP Hà Nội 203.700 97
TP Đà Nẵng 42.750 95
TP Cần Thơ 17.625 94
Tỉnh Đồng Nai 86.329 82
TP Hồ Chí Minh 93.016 60.4
Tỉnh Bình Dương 167.043 60.3
Nguồn: www.moc.gov.vn
Qua bảng số liệu trên, ta thấy TP Hà Nội là nơi đáp ứng lượng nhà ở do tư
nhân xây dựng cho thuê nhiều nhất bởi vì trong quá trình giải quyết nhà ở cho
công nhân thì hình thức nhà ở do doanh nghiệp xây dựng chưa được chú trọng
phát triển nên đã tạo điều kiện cho loại nhà này hình thành và phát triển ồ ạt.
Ngược lại, là tỉnh Bình Dương và TP Hồ Chí Minh với tỷ lệ chỉ bằng 2/3 của
24
nhóm 3 tỉnh, thành Hà Nội, Đà Nẵng, Cần Thơ. Đây là những nơi có tỷ lệ công
nhân sống trong các khu nhà trọ lớn nhất.
Tóm lại, dù tồn tại và phát triển ở bất cứ tỉnh nào thì nhà ở do tư nhân xây
dựng vẫn là loại nhà đáp ứng được phần lớn nhu cầu trước mắt của người lao
động, đó là có chỗ ở. Việc không đáp ứng đầy đủ cho công nhân về nhà ở do
doanh nghiệp xây dựng nên dẫn đến tình trạng phát triển ồ ạt của loại nhà này.
Nhà ở do công ty kinh doanh nhà và các tổ chức khác xây dựng
Biểu đồ 4: Tỷ lệ công nhân ở nhà do công ty kinh doanh và
các tổ chức xây dựng năm 2006
Tỉnh, thành phố Số công nhân Tỷ lệ (%)
TP Hồ Chí Minh
54.978 35.7
Tỉnh Bình Dương
66.484 24

Tỉnh Đồng Nai
11.580 11
TP Cần Thơ
750 4
TP Hà Nội
6.300 3
TP Đà Nẵng
1.350 3
Nguồn: www.khucongnghiep.com.vn
TP Hồ Chí Minh và tỉnh Bình Dương đi đầu đối với tỷ lệ loại nhà do các đơn
vị, tổ chức khác cùng xây dựng đáp ứng nhu cầu nhà ở cho công nhân. Tỷ lệ này
trung bình trên cả nước được phản ánh trong tỷ lệ của Cần Thơ, Hà Nội, Đà Nẵng
chỉ khoảng 3-4%.
Tóm lại, trong thời gian qua số các doanh nghiệp tham gia kinh doanh nhà ở
cho công nhân còn ít, mà nguyên nhân chủ yếu là do đặc điểm của việc đầu tư nhà
ở cho công nhân: vốn đầu tư nhiều, tỷ suất lợi nhuận thu được thấp, thời gian hoàn
vốn chậm. Ngoài ra, với các doanh nghiệp có những tiềm lực trong việc xây dựng
nhà ở cho công nhân, nhưng do thiếu sự quan tâm, hỗ trợ của phía địa phương để
giá nhà cho thuê giảm xuống.
Nhà ở do công nhân tự xây dựng.
25

×