Tải bản đầy đủ (.docx) (6 trang)

QUY tắc AN TOÀN PHÒNG THÍ NGHIỆM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (93.69 KB, 6 trang )

QUY TẮC AN TỒN PHỊNG THÍ NGHIỆM
Bảo hiểm trong phịng thí nghiệm hố học
Việc bảo đảm an tồn trong khi làm thí nghiệm là một cơng tác cơ bản, rất quan
trọng của mọi người vào làm việc ở trong phòng thí nghiệm hố học.
Những quy tắc cơ bản để đảm bảo an tồn khi làm thí nghiệm và một số phương
pháp cấp cứu đầu tiên trình bày dưới đây cũng có thể giúp chúng ta tham khảo trong
việc phịng và chống chất độc hố học, chống ơ nhiễm mơi trường.
1. Quy tắc về kĩ thuật bảo hiểm khi làm thí nghiệm
a. Thí nghiệm với chất độc
Trong phịng thí nghiệm hố học có nhiều chất độc như thuỷ ngân (gây rối loạn
thần kinh, làm rụng răng,…), hợp chất của asen, photpho trắng (làm mục xương hàm,
làm bỏng,…), hợp chất xianua, khí cacbon oxit (thở khơng khí chứa 1% về thể tích khí
cacbon oxit có thể làm người ta bị chết), khí hiđro sunfua (người ngửi phải khơng khí có
chứa 1,2mg/l trong 10 phút cũng có thể chết), khí nitơ peoxit, khí sunfurơ, amoniac, clo,
brom phá huỷ nặng cơ quan hô hấp; brom lỏng gây bỏng da, rượu metylic, phenol, axit
foocmic (gây bỏng da),… Uống phải một lượng rượu metylic, khoảng 10ml, có thể gây
mù mắt; benzen, xăng cũng là những chất độc. Do đó phải thận trọng khi sử dụng các
chất này và phải theo đúng các quy tắc sau đây:
– Nên làm thí nghiệm với các chất khí độc ở trong tủ hốt hoặc ở nơi thống gió và
mở rộng cửa phịng. Chỉ nên lấy lượng hố chất tối thiểu để làm được nhanh và giảm
bớt khí độc bay ra.
– Không được nếm và hút các chất độc bằng miệng. Phải có khẩu trang và phải
thận trọng khi ngửi các chất. Khơng hít mạnh hoặc kề mũi vào gần bình hoá chất mà chỉ
dùng bàn tay phẩy nhẹ hơi hoá chất vào mũi.
– Đựng thuỷ ngân trong các lọ dày, nút kín và nên có một lớp nước mỏng ở trên.
Khi rót và đổ thuỷ ngân, phải có chậu to hứng ở dưới và thu hồi lại ngay các hạt nhỏ rơi
vãi (dùng đũa thuỷ tinh gạt các hạt thuỷ ngân vào các mảnh giấy cứng). Nếu có nhiều
hạt nhỏ rơi xuống khe bàn thì cần phải rắc một ít bột lưu huỳnh vào đó. Khơng được lấy
thuỷ ngân bằng tay.
– Phải hạn chế, tránh thở phải hơi brom, khí clo và khí nitơ peoxit; khơng để luồng
hơi brom, khí clo, nitơ peoxit vào mắt hoặc brom lỏng dây ra tay.


b. Thí nghiệm với các chất dễ ăn da và làm bỏng
Có nhiều chất dễ ăn da và làm bỏng như axit đặc, kiềm đặc, kim loại kiềm,
photpho trắng, brom, phenol,…
Khi sử dụng các chất trên phải giữ gìn khơng để dây ra tay, người và quần áo, đặc
biệt là mắt.
Nên dùng kính che mắt khi cần phải quan sát thật gần.
Khơng đựng axit đặc vào các bình q to; khi rót, khi đổ khơng nên nâng bình q
cao so với mặt bàn.
Khi pha loãng axit sunfuric cần phải đổ axit vào nước mà khơng được làm ngược
lại, phải rót chậm từng lượng nhỏ và khuấy đều.
Khi đun nóng dung dịch các chất dễ ăn da, làm bỏng phải tuyệt đối tn theo quy
tắc đun nóng hố chất trong ống nghiệm (hướng miệng ống nghiệm về phía khơng có
người).
c. Thí nghiệm với các chất dễ bắt lửa
Các chất dễ cháy như rượu cồn, dầu hoả, xăng, ete, benzen, axeton,… rất dễ gây
ra các tai nạn cháy nên phải cẩn thận khi làm thí nghiệm với các chất đó.
– Nên dùng những lượng nhỏ các chất dễ bắt lửa, không để những bình lớn đựng
các chất đó ra bàn thí nghiệm. Phải để xa lửa khi rót các dung dịch dễ cháy. Khơng để
gần lửa và khơng đựng các chất đó trong bình có thành lọ mỏng hay rạn nứt và khơng
có nút kín.


thuỷ.

– Khi phải đun nóng các chất dễ cháy, khơng được đun trực tiếp mà phải đun cách

– Khi sử dụng đèn cồn, không nên để bầu đựng cồn gần cạn (vì khi cồn chỉ cịn 1/4
của bầu thì có thể nổ gây ra tai nạn). Khi rót thêm cồn vào đèn phải tắt đèn trước và
dùng phễu. Không châm lửa đèn cồn bằng cách chúc ngọn đèn nọ vào ngọn đèn kia mà
phải dùng đóm.

d. Thí nghiệm với các chất dễ nổ
Các chất dễ nổ ở phịng thí nghiệm thường là các muối clorat, nitrat. Khi làm thí nghiệm
với các chất đó, cần thực hiện những yêu cầu sau đây:
– Tránh đập và va chạm vào các chất dễ nổ. Không để các chất dễ nổ gần lửa.
– Khi pha trộn các hỗn hợp nổ cần hết sức thận trọng, dùng đúng liều lượng đã
quy định. Không tự động thí nghiệm một cách liều lĩnh nếu chưa nắm vững kĩ thuật và
thiếu phương tiện bảo hiểm. Chẳng hạn đập hỗn hợp nổ kali clorat và lưu huỳnh, đốt
hỗn
hợp
nổ
của
etilen
hoặc
axetilen
với oxi,…
– Tuyệt đối khơng cho học sinh làm những thí nghiệm quá nguy hiểm như đập hỗn
hợp kali clorat và photpho khi thiếu những điều kiện bảo đảm thật đầy đủ.
– Trước khi đốt cháy một chất khí nào, hiđro chẳng hạn, phải thử thật kĩ xem chất
đó đã nguyên chất chưa, vì các khí cháy được, khi trộn lẫn với khơng khí, thường tạo
thành hỗn hợp nổ.
– Khơng được vứt natri, kali với lượng lớn vào chậu nước, vào bể rửa, vì dễ gây tai
nạn nổ.
2. Cách cứu chữa khi gặp tai nạn và những phương pháp cấp cứu đầu tiên
a. Khi bị thương
Khi bị đứt tay chảy máu nhẹ (rớm máu hoặc chảy máu chậm), dùng bông thấm
máu rồi dùng bơng bơi thuốc sát trùng (cồn 90°, thuốc tím lỗng, cồn iot, thuốc đỏ,…).
Có thể dùng dung dịch sắt (III) clorua để cầm máu. Sau đó băng lại.
Nếu vết thương làm rách động mạch, máu bị phun ra mạnh, phải gọi ngay cán bộ
y tế đến làm ga rô. Trong khi chờ đợi, dùng dây cao su hay khăn mặt nhỏ buộc chặt
ngay phía trên vết thương. Cần giữ vết thương khỏi bị nhiễm trùng bằng cách đắp bông

sạch lên vết thương rồi băng kín.
b. Khi bị bỏng
Nếu bị bỏng bởi vật nóng cần đắp ngay bơng có tẩm dung dịch 1% thuốc tím vào
vết bỏng, nếu bỏng nặng thì dùng dung dịch thuốc tím đặc hơn. Sau đó bơi vadơlin lên
và băng vết bỏng lại. Có axit picric hoặc tananh 3% bôi lên vết bỏng càng tốt. Nếu có
những vết phồng trên vết bỏng thì khơng được làm vỡ vết phồng đó.
Nếu bị bỏng vì axit đặc, nhất là axit sunfuric đặc, thì phải dội nước rửa ngay nhiều
lần, nếu có vịi nước thì cho chảy mạnh vào vết bỏng 3 – 5 phút, sau đó rửa bằng dung
dịch 10% natri hiđrocacbonat, khơng được rửa bằng xà phịng.
Bị bỏng vì kiềm đặc thì lúc đầu chữa như bị bỏng axit, sau đó rửa bằng dung dịch
lỗng axit axetic 5% hay giấm.
Nếu bị axit bắn vào mắt, phải nhanh chóng dùng bình cầu tia phun mạnh vào mắt,
rồi rửa lại bằng dung dịch 3% NaHCO 3. Nếu là kiềm thì rửa bằng dung dịch 2% axit
boric.
Khi bị bỏng vì photpho thì phải nhúng ngay vết thương vào dung dịch thuốc tím
hay dung dịch 10% bạc nitơrat, hoặc dung dịch 5% đồng sunfat. Sau đó đến trạm y tế
để lấy hết photpho cịn lẫn trong vết bỏng. Tuyệt đối khơng bơi vadơlin hay thuốc mỡ
lên vết bỏng vì photpho hồ tan trong các chất này.


Nếu bị bỏng vì brom lỏng thì phải giội nước rửa ngay, rồi rửa lại vết bỏng bằng
dung dịch amoniac sau đó rửa bằng dung dịch 5% natri thiosunfat Na 2S2O3, rồi bôi
vadơlin, băng lại và đến trạm y tế để cứu chữa tiếp tục.
c. Khi bị ngộ độc
– Ăn hoặc uống phải chất độc: Nếu ăn phải asen và hợp chất của asen, phải làm
cho bệnh nhân nôn ra (chẳng hạn bằng cách móc tay vào tiểu thiệt). Cho uống than
hoạt tính hoặc cứ 10 phút thì cho uống một thìa con dung dịch sắt (II) sunfat (1 phần
FeSO4 và 3 phần nước). Tốt hơn thì dùng hỗn hợp dung dịch sắt sunfat nói trên với
huyền phù của magie oxit pha trong nước (20g MgO trong 300ml nước). Sau đó cấp tốc
đưa bệnh nhân vào bệnh viện để rửa ruột.

Nếu ăn phải hợp chất của thuỷ ngân, cần làm cho bệnh nhân nơn ra, cho uống sữa
có pha lịng trắng trứng, sau đó cho bệnh nhân uống thêm than hoạt tính.
Nếu bị ngộ độc vì photpho trắng, cho uống thuốc nơn (dung dịch lỗng đồng
sunfat: 0,5g đồng sunfat trong 1 – 1,5 lít nước). Cho uống nước đá. Khơng được uống
sữa và lịng trắng trứng hoặc dầu mỡ vì các chất này hồ tan photpho.
Nếu bị ngộ độc vì axit xianhiđric và muối xianua (có trong lá cây trúc đào và một
số củ sắn làm người ta bị say) thì làm cho bệnh nhân nơn ra, uống dung dịch 1% natri
thiosunfat Na2S2O3 hoặc dung dịch thuốc tím rất lỗng 0,025% đã được kiềm hố bằng
natri hiđrocacbonat, làm hơ hấp nhân tạo, dùng nước lạnh xoa gáy. Cho uống dung dịch
đặc glucozơ hoặc đường.
– Hít phải chất độc nhiều: Khi bị ngộ độc vì các chất khí độc, cần đình chỉ thí
nghiệm, mở ngay cửa và cửa sổ, đưa ngay bệnh nhân ra ngồi chỗ thống gió, đưa các
bình có chứa hoặc sinh ra khí độc vào tủ hốt hoặc đưa ra ngồi phịng. Cần cởi thắt
lưng, xoa mặt và đầu người bị ngộ độc bằng nước lã, cho ngửi dung dịch amoniac.
Nếu bị ngộ độc vì clo, brom: cần đưa bệnh nhân ra chỗ thoáng, cho thở bằng oxi
nguyên chất. Nếu cần thiết thì làm hơ hấp nhân tạo.
Nếu bị ngộ độc vì hiđro sunfua: cần cho bệnh nhân thở ở chỗ thống, nếu cần thì
cho thở bằng oxi.
Nếu bị ngộ độc amoniac: Khi hít phải quá nhiều amoniac, cần cho bệnh nhân hít
hơi nước nóng. Sau đó cho uống nước chanh hay giấm.
d. Tủ thuốc cấp cứu của phịng thí nghiệm
Để cấp cứu khi bị thương hay bị hỏng, phịng thí nghiệm cần có tủ thuốc đựng sẵn
một số thuốc thông dụng sau đây:
1) Cồn iot 5%
2) Dung dịch 3% natri bicacbonat (natri hidro cacbonat, NaHCO3)
3) Dung dịch 5% amoniac (5% NH3)
4) Dung dịch 2% axit boric (2% H3BO3)
5) Dung dịch lỗng (2 – 3%) thuốc tím (đựng trong lọ màu nâu)
6) Dung dịch sắt (III) clorua đặc
7) Dung dịch 3% axit axetic

8) Dung dịch 5% đồng sunfat
9) Các loại bông băng, gạc đã được tẩy trùng.


QUY TẮC AN TỒN PHỊNG THÍ NGHIỆM
1. Quy tắc an tồn khi làm việc trong phịng thí nghiệm
Tất cả các thí nghiệm có sử dụng chất độc dễ bay hơi, có mùi khó chịu, các khí độc
hoặc các axit đặc phải được tiến hành trong tủ hốt hoặc nơi thoáng gió. Cần tìm hiểu về
các hố chất dùng trong PTN để biết các đặc tính như: tính độc, khả năng cháy, nổ,... để
tránh xảy ra những sai sót khi tiến hành thí nghiệm, dẫn đến những hậu quả đáng tiếc.
a. Làm việc với các chất độc:
- Trong PTN Hoá học có nhiều loại hố chất thường gặp nhưng lại có độc tính cao
như: HCN, NaCN/KCN, Me2SO4, Hg, HgCl2, CO, Cl2, Br2, NO, NO2, H2S, NO2,... hay các
loại chất dùng trong mảng Tổng hợp Hữu cơ như: CH3OH, pyriđin C5H5N, THF, benzen,
toluen, acrylonitrin, anilin, HCHO, CH2Cl2... Tất cả các chất không biết rõ ràng đều được
coi là chất độc. Khi làm việc với các hoá chất này cần chú ý kiểm tra chất lượng dụng cụ
chứa đựng và dụng cụ tiến hành thí nghiệm. Đặc biệt tuân thủ chặt chẽ các điều kiện
đã nêu trong giáo trình, tài liệu đã được chuẩn bị trước.
- Khơng trực tiếp đưa hố chất lên mũi và ngửi mà phải để cách xa và dùng tay
phất nhẹ cho chúng lên mùi.
- Sau khi làm việc phải rửa mặt, tay và các dụng cụ (nên dùng xà phịng).
- Cất giữ, bảo quản hố chất cẩn thận.
b. Làm việc với các chất dễ cháy:
- Các chất thuộc nhóm chất dễ cháy, dễ bay hơi bốc lửa là Et2O, Me2CO, ROH,
dầu hoả, xăng, CS2, benzen,... Khi làm việc với chúng cần chú ý là chỉ được phép đun
nóng hay chưng cất chúng trên nồi cách thuỷ hoặc cách khơng khí trên bếp điện kín.
- Khi làm thí nghiệm cần dùng lượng nhỏ, pha chế dung dịch phải để xa ngọn lửa
…. khi đun nóng chúng thì khơng được đun trực tiếp mà phải đun cách thủy.
- Không dùng bình quá lớn để đựng các loại này và phải để chúng ở xa nguồn lửa
(như đèn cồn, bếp điện …)

- Khi sử dụng đèn cồn phải theo đúng những nguyên tắc đã quy định.
- Không để gần nguồn nhiệt, cầu dao điện,...
- Khi tiến hành kết tinh từ các dung mơi dễ cháy thì cần thực hiện trong dụng cụ
riêng, có lắp sinh hàn hồi lưu.
c. Làm việc với các chất dễ nổ:
Khi làm việc với các chất như H2, kiềm (kim loại & dung dịch), NaNH2/KNH2, axit
đặc, các chất hữu cơ dễ nổ (đặc biệt là các polynitro)... cũng như khi làm việc dưới áp
suất thấp hay áp suất cao cần phải đeo kính bảo vệ (làm bằng thuỷ tinh hữu cơ) để che
chở cho mắt và các bộ phận quan trọng trên gương mặt.
Các chất gây nổ thường có trong phịng thí nghiệm như: các muối ni trat, muối
clorat v.v…. Các chất này cần để xa nguồn lửa, khi pha trộn chúng cần thận trọng, theo
đúng tỷ lệ về khối lượng quy định. Khi làm thí nghiệm phải có phương tiện bảo hiểm,
khơng cho hoc sinh làm thí nghiệm nổ mà độ an tồn chưa cao. Khi đốt các chất khí
như: H2, C2H2, CH4 v.v… phải thử độ nguyên chất của chúng tránh để lẫn oxi không khí
tạo ra hỗn hợp nổ nguy hiểm. Khơng được cho natri lượng lớn vào nước vì sẽ gây tai nạn
do nổ cháy.


Cách thử: Thu khí H2 qua H2O vào những ống nghiệm cỡ nhỏ. Dùng ngón tay bịt
miệng ống chứa H2 và đưa miệng ống vào gần ngọn lửa đèn cồn. Mở ngón tay ra, hỗn
hợp khí H2 và O2 (trong khơng khí) sẽ cháy với tiếng nổ khá to. Tiếp tục lấy và đốt cho
đến khi khơng cịn tiếng nổ nữa là H2 đã tinh khiết.
Không được cúi đầu về phía các chất lỏng đang đun sơi hoặc chất rắn đang đun
nóng chảy để tránh bị hố chất bắn vào mặt (có nhiều trường hợp khơng lưu ý vấn đề
này). Khi đun nóng các dung dịch trong ống nghiệm phải dùng cặp và luôn chú ý quay
miệng ống nghiệm về phía khơng có người, đặc biệt là khi đun nóng axit đặc hoặc kiềm
đặc. Phải biết chỗ để và sử dụng thành thạo các dụng cụ cứu hoả, các bình chữa cháy
và hộp thuôc cứu thương để khi sự cố xảy ra có thể xử lí nhanh chóng và hiệu quả.
d. Thí nghiệm với chất ăn da, gây bỏng
Kiềm đặc, axit đặc, kim loại kiềm, phenol v.v.. Khi làm thí nghiệm phải thận trọng

tránh để chất này dính vào tay, quần áo, đặc biệt là mắt (nên dùng kính bảo hộ).
Khi pha loãng axit H2SO4 đặc phải rất thận trọng: đổ từ từ axit đặc vào nước,
khuấy đều và cấm làm ngược lại.
Khi đun nóng dung dịch các chất loại này phải tuân theo quy tắc đun nóng hóa
chất trong ống nghiệm.
2. Cách sơ cứu chấn thương và ngộ độc trong PTN:
Vấn đề này sẽ chỉ được nói chung chung bởi có nhiều trường hợp tai nạn PTN và
mỗi trường hợp có 1 cách xử lí khác nhau
a. Tủ thuốc sơ cứu trong phịng thí nghiệm hóa học
Tủ thuốc sơ cứu PTN hóa học nên để ở vị trí thích hợp nhất và do cán bộ thí
nghiệm trực tiếp quản lý.
Tủ thuốc gồm:
- Dụng cụ: bông y tế, gạc, băng, panh gắp, kéo, bộ xy lanh – kim tiêm.
- Thuốc.
+ Thuốc cầm máu: dung dịch cồn iot 5%
+ Thuốc sát trùng: dung dịch thuốc tím (KMnO4 5%), cồn 400
+ Thuốc chữa bỏng: dung dịch natri hiđrocacbonat (NaHCO 3) 5%, dung dịch
amoniac (NH4OH) 2%, dung dịch đồng sunfat (CuSO 4) 2%, dung dịch axit axetic
(CH3COOH) 2%.
+ Thuốc trợ lực vitamin B1, C, K, đường glucozơ hoặc đường saccrozơ…
b. Một số thao tác sơ cứu trong phịng thí nghiệm
- Trường hợp bị bỏng:
+ Khi bị axit đặc (H2SO4, HNO3, HCl, HOAc,...) hoặc brom, phenol bắn hoặc
rơi vào da thì phải rửa ngay bằng vịi nước mạnh trong vài phút, sau đó dùng bông tẩm
NaHCO3 2% hoặc dung dịch tanin trong cồn đắp lên chỗ bỏng và băng lại.
+ Khi bị bỏng do vật nóng, thuỷ tinh, mảnh sứ... thì phải gắp các mảnh chất
rắn đó ra và dùng bơng tẩm KMnO4 3% hoặc dung dịch tanin trong cồn đắp lên vết
bỏng, sau đó băng lại bằng thuốc có tẩm thuốc mỡ chứa bỏng.
+ Khi bị hố chất bắn vào mắt thì phải rửa bằng nước nhiều lần để sơ cứu và
đem đến bệnh viện gấp.

+ Vết bỏng do dung môi dễ cháy như benzen, axeton (C 6H6,
CH3COCH3 v.v….). Dùng khăn vải, khăn tẩm nước chụp lên chỗ cháy trên người nạn
nhân, sau đó dùng cát hoặc bao tải ướt dập đám cháy. Không dùng nước để rửa vết
bỏng mà dùng gạc tẩm dung dịch thuốc tím (KMnO 4 1%) hoặc axit picric H 3BO3 2% đặt
nhẹ lên vết thương bỏng.


+ Vết bỏng do kiềm đặc: Xút ăn da, potat ăn da (NaOH, KOH). Dùng nước
sạch để rửa vết thương nhiều lần, sau đó rửa bằng dung dịch axit axetic 5%. Nếu kiềm
bắn vào mắt thì phải rửa bằng nước sạch nhiều lần sau dung dịch axit boric (H 3BO3 2%)
+ Vết bỏng do axit đặc như axit sunfuric, nitric (H2SO4, HNO3…) Trước tiên
rửa bằng nước sạch nhiều lần, sau dùng dung dịch amoniac 5% hoặc dung dịch
NaHCO3 10%, loại bỏ các phương tiện dính axit trên vùng bị bỏng (khơng nên dùng xà
phịng để rửa vết thương). Nếu axit rơi vào mắt thì nhanh chóng rửa kỹ nhiều lần bằng
nước sạch, nước cất, nước đun sôi để nguội sau dùng dung dịch natri hydro cacbonat
(NaHCO3) 3%.
+ Vết bỏng do phốt pho (P) Trước tiên rửa vết bỏng bằng dung dịch đồng
sunphat (CuSO4) 2%. Không dùng thuốc mỡ hoặc vazơlin… Tiếp theo dùng gạt tẩm dung
dịch đồng sunphat 2% hoặc dung dịch thuốc tím (KMnO 4) 3% đặt lên vết thương. Vết
bỏng loại này lâu khỏi hơn với vết bỏng khác, cần tránh gây nhiễm trùng.
- Trường hợp bị ngộ độc:
+ Ngộ độc do uống nhầm axit. Trước tiên cho nạn nhân uống nước đá, vỏ
trứng nghiền nhỏ (1/2 thìa con trong cốc nước) và cho uống bột magie oxit (MgO) trộn
với nước cho uống nước (29 gam trong 300 ml nước) và uống từ từ. Không dùng thuốc
tẩy
+ Ngộ độc do hút phải kiềm (amoniac, xút ăn da…) sơ cứu nạn nhân bằng
cách uống giấm loãng (axit axetic 2%) hoặc nước chanh. Không được uống thuốc tẩy.
+ Ngộ đốc do ăn phải hợp chất của thuỷ ngân, trước hết cần cho nạn nhân
nơn ra rồi cho uống sữa có pha lịng trắng trứng. Sau đó cho nạn nhân uống than hoạt
tính.

+ Ngộ độc do phốt pho trắng, trước hết cần làm cho nạn nhân nôn ra, rồi
uống dung dịch đổng sunphat (CuSO4) 0,5 gam trong một lít nước và cho uống nước đá.
Khơng được uống sữa, lịng trắng trứng, dầu mỡ vì các chất này hồ tan photpho.
+ Ngộ độc vì hỗn hợp chì, cho nạn nhân uống natri sunphat (Na2SO4) 10%
hoặc magie sun phat (MgSO4) 10% trong nước ấm vì các chất này sẽ tạo thành kết tủa
với chì. Sau đó uống sữa lịng trắng trứng và uống than hoạt tính.
+ Ngộ độc do hít phải khí độc như khí clo, brom..(Cl 2, Br2 ) cần đưa nạn nhân
ra chỗ thống, nới dây thắt lưng, cho thở khơng khí có một lượng nhỏ amniắc hoặc có
thể dùng hỗn hợp cồn 900C với amoniac.
+ Ngộ độc do hít phải khí hiđro sunfua, các bon oxit… (H 2S, CO), Cần đưa
nạn nhân nằm ở chỗ thoáng, cho thở bằng oxi nguyên chất, làm hô hấp nhân tạo nếu
cần thiết.
+ Ngộ độc do hít phải quá nhiều amoniac, cần cho nạn nhân hít hơi nước
nóng, sau đó cho uống nước chanh hoặc giấm loãng.



×