Tải bản đầy đủ (.doc) (105 trang)

hoàn thiện lập và phân tích báo cáo tài chính tại công ty cổ phần cầu 3 thăng long

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (591.04 KB, 105 trang )

Luận văn tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thanh Quý
LỜI MỞ ĐẦU
Việt Nam ra nhập WTO, đây vừa là thời cơ vừa là thách thức đối với nền kinh
tế nước ta. Đây là thời cơ giúp chúng ta hội nhập với các nước tiên tiến trong khu
vực và thế giới. Điều đó đặt ra một cấp bách là chúng ta phải hoàn thiện và đổi mới
hệ thống các công cụ quản lý kinh tế mà trong đó kế toán là bộ phận cấu thành quan
trọng.
Trong những năm gần đây cùng với sự phát triển chung của nền kinh tế, các
chính sách mở cửa thu hút đầu tư của nước ngoài để thực hiện sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, các doanh nghiệp xây lắp đang có sự chuyển
biến, đổi mới phương thức sản xuất kinh doanh, phương thức quản lý không ngừng
phát triển và khẳng định vai trò, vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Cùng
với nó là hình thức đấu giá trực tiếp làm cho doanh nghiệp xây lắp càng có sự cạnh
tranh giữa các công ty trong nước và công ty nước ngoài. Do vậy đối tượng sử dụng
thông tin kế toán không chỉ bó hẹp trong phạm vi những người quản lý doanh
nghiệp (Ban giám đốc) và những nhà quản lý nhà nước (cơ quan thuế ) với mục
đích quản lý, kiểm tra, kiểm soát đơn vị mà đối tượng sử dụng thông tin kế toán
doanh nghiệp rộng rãi hơn, gồm các đối tượng bên ngoài đơn vị như: các nhà đầu
tư, các chủ nợ hiện tại và tương lai… Tuy nhiên mỗi đối tượng sử dụng thông tin kế
toán với mục đích khác nhau.
Đứng trước thực tế đó, em chọn đề tài “Hoàn thiện lập và phân tích báo cáo
tài chính tại Công ty cổ phần Cầu 3 Thăng Long” để viết luận văn tốt nghiệp.
Trong phạm vi luận văn này ngoài lời mở đầu và kết luận gồm có 03 chương:
- Chương I: Cơ sở lý luận về lập hệ thống Báo cáo tài chính và phân tích
báo cáo tài chính doanh nghiệp
- Chương II: Thực trạng lập và phân tích báo cáo tài chính tại Công ty cổ
phần Cầu 3 Thăng Long.
- Chương III: Hoàn thiện lập và phân tích báo cáo tài chính tại Công ty cổ
phần Cầu 3 Thăng Long.
SVTH: Phạm Thị Liên Lớp: Kế Toán 45B
Luận văn tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thanh Quý


Em xin chân thành cảm ơn TS. Nguyễn Thanh Quý, Ban giám đốc cùng tập
thể cán bộ trong phòng Tài chính- Kế toán công ty đã giúp đỡ em rất nhiều trong
quá trình thực tập và viết luận văn
Mặc dù bản thân có nhiều cố gắng song trong thời gian có hạn cũng như nhận
thức và trình độ còn hạn chế nên chắc không thể tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy
em rất mong những ý kiến đóng góp của Cô giáo cũng như tập thể Công ty để em
có điều kiện bổ sung, nâng cao kiến thức của mình, phục vụ tốt hơn việc tìm hiểu ,
nghiên cứu chuyên môn của mình sau này.
Em xin trân trọng cảm ơn !
SVTH: Phạm Thị Liên Lớp: Kế Toán 45B
Luận văn tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thanh Quý
NỘI DUNG
Chương I
CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ LẬP HỆ THỐNG BÁO CÁO TÀI
CHÍNH VÀ PHÂN TÍCH BÁO CÁO TÀI CHÍNH DOANH
NGHIỆP
I.1.Báo cáo tài chính
Trong sự phát triển cũng như cạnh tranh gay gắt giữa các tổ chức kinh tế như
hiện nay để đạt được lợi nhuận cũng như chỗ đứng trên thương trường thì doanh
nghiệp hiểu rẳng để đạt được kết quả cao nhất thì thì phải thực hiện quản lý quá
trình sản xuất. Với mức độ cạnh tranh càng lớn thì càng cần thiết phải tăng cường
quản lý sản xuất. Hạch toán kế toán ra đời và phát triển nhằm đáp ứng nhu cầu
khách quan đó của các doanh nghiệp cũng như của toàn xã hội. Do đó kế toán là bộ
phận tất yếu và là công cụ tạo ra hiệu quả của hoạt động kinh doanh của một doanh
nghiệp, bởi vì nó có khả năng phản ánh toàn diện, trung thực khách quan về tình
hình tài chính, quá trình diễn biến và kết quả của hoạt động kinh doanh, và các
luồng tiền hoặc phát hiện ra những tồn tại cũng như cung cấp các căn cứ cho việc
quản lý và điều hành hoạt động kinh doanh một cách có hiệu quả. Kế toán thực hiện
được chức năng này bằng cách thu thập, xử lý và cung cấp một hệ thống thông tin
về thu nhập, chi tiêu, tài sản, công nợ, vốn chủ sở hữu, kết quả kinh doanh và các

luồng tiền của doanh nghiệp. Đó cũng là các thông tin kinh tế cần thiết cho các
doanh nhân trong việc ra quyết định kinh tế và cho yêu cầu của cơ quan thuế để xác
định nghĩa vụ nộp thuế của doanh nghiệp. Như vậy, thông tin kế toán là nguồn
thông tin không thể thiếu được không chỉ cho chính sự quản lý của doanh nghiệp
mà còn cho cả những người sử dụng khác ngoài doanh nghiệp.
Để cung cấp hệ thống thông tin kinh tế - tài chính này nhằm phục vụ cho việc
quản lý hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, và nhu cầu sử dụng thông tin của
những người bên ngoài doanh nghiệp như: các nhà đầu tư, ngân hàng, các tổ chức
tín dụng khác …kế toán sử dụng một hệ thống công cụ để thực hiện việc thu thập,
xử lý và cung cấp thông tin kế toán đó là: Chứng từ kế toán, Tài khoản kế toán, Sổ
SVTH: Phạm Thị Liên Lớp: Kế Toán 45B
Luận văn tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thanh Quý
kế toán và Báo cáo tài chính. Tuy nhiên chứng từ kế toán hoặc tài khoản kế toán
không phải là hình thức phù hợp nhất để truyền đạt thông tin kế toán. Công cụ cơ
bản để công bố thông tin kế toán là báo cáo tài chính.
Kế hoạch phát triển kinh doanh và xã hội của doanh nghiệp được lập cho từng
kỳ nhất định (tháng, quý, năm), cho nên cần phải tổng hợp định kỳ các bút toán trên
các tài khoản cung cấp thông tin cho việc kiểm tra thực hiện kế hoạch của từng kỳ
tương ứng. Điều đó đòi hỏi cần thiết phải phân tích định kỳ thực trạng vốn kinh
doanh và sự biến đổi của nó dẫn đến sự thay đổi trong cơ cấu của vốn kinh doanh
bởi sự ảnh hưởng của các nghiệp vụ kinh tế, xác định kết quả kinh doanh mà doanh
nghiệp đạt được, và cả việc thực hiện kế hoạch tích lũy như thế nào. Điều này đạt
được bằng cách định kỳ lập các Báo cáo tài chính công bố các thông tin về quá trình
thực hiện các kế hoạch kinh doanh thông qua công cụ quan trọng nhất là Bảng cân
đối kế toán. Báo cáo này phản ánh tổng vốn kinh doanh của doanh nghiệp theo hình
thái cụ thể và nguồn hình thành chúng. Các báo cáo khác còn lại phản ảnh các khía
cạnh liên quan của hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong từng kỳ được báo
cáo.
Báo cáo tài chính là những báo cáo tổng hợp nhất về tình hình tài sản, vốn
chủ sở hữu và công nợ cũng như tình hình tài chính, kết quả kinh doanh trong kỳ

của doanh nghiệp trong kỳ của doanh nghiệp. Nó là phương tiện trình bày khả
năng sinh lợi và thực trạng tài chính cho những người quan tâm, chủ yếu là các
thành viên ngoài doanh nghiệp, qua một hệ thống chỉ tiêu có mối quan hệ chặt chẽ
với nhau do Nhà Nước quy định và mang tính pháp lệnh.
Báo cáo tài chính là sản phẩm quan trọng nhất của quy trình kế toán. Khi Báo
cáo tài chính được lập, dựa vào các số liệu kế toán được phản ánh trong sổ sách kế
toán, nó thể hiện sự kết thúc một chu ký kinh doanh của kế toán tài chính, đối với
Báo cáo tài chính năm thì đó là quá trình kết thúc năm tài chính của kế toán tài
chính.
Như vậy, Báo cáo tài chính được hình thành từ nhu cầu cung cấp thông tin
tổng quát, hữu ích về thực trạng của doanh nghiệp. Báo cáo tài chính là phương tiện
nối doanh nghiệp với các đối tượng quan tâm. Với ý nghĩa hết sức to lớn như vậy,
SVTH: Phạm Thị Liên Lớp: Kế Toán 45B
Luận văn tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thanh Quý
việc lập và trình bày Báo cáo tài chính là công việc không thể thiếu trong mỗi chu
kỳ hoạt động của doanh nghiệp.
I.1.1. Hệ thống Báo cáo tài chính Việt Nam qua một số giai đoạn.
Giai đoạn 1: Giai đoạn quản lý kinh tế theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung
quan liêu bao cấp ( trước năm 1986)
Trong giai đoạn này, công tác kế toán được đề ra để tiến hành quản lý các hoạt
động thu – chi ngân sách, phục vụ cho nhu cầu quản lý, kiểm soát việc chấp hành
kế hoạch, bảo vệ tài sản XHCN. Vì vậy thông tin trên Báo cáo tài chính lúc này thể
hiện các chỉ tiêu thực hiện thu – chi, để tổ chức sản xuất theo kế hoạch đề ra trong
giới hạn ngân sách Nhà Nước phân bố. Điểm đánh dấu sự ra đời và phát triển của
hệ thống Báo cáo kế toán doanh nghiệp trong giai đoạn này là Chế độ Báo cáo kế
toán áp dụng cho các Xí nghiệp Công nghiệp ban hành theo quyết định số 223 – CP
ngày 01/12/1970 cuả Hội Đồng Chính Phủ. Theo quyết định này, hệ thống Báo cáo
kế toán định kỳ bao gồm 13 báo biểu, lập và nộp định kỳ theo tháng, quý, 6 tháng
đầu năm, năm.
Các số liệu thể hiện trên báo cáo được các cơ quan chức năng của Nhà nước

hệ thống và sử dụng để nghiên cứu, đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch, kiểm tra
việc tuân thủ các quy định, điều hành tài nguyên giữa các Xí nghiệp trong toàn bộ
nền kinh tế quốc dân và là cơ sở để đề ra kế hoạch sản xuất kinh doanh của các Xí
nghiệp trong thời gian tới.
Hệ thống Báo cáo kế toán trong giai đoạn này đã đáp ứng tốt yêu cầu quản lý
tập trung và phục vụ tốt cho công tác kiểm soát,chỉ đạo của cơ quan chức năng Nhà
Nước.
Tuy nhiên, hệ thống Báo cáo kế toán như trên ngày càng bộc lộ nhiều nhược
điểm. Số lượng bảng biểu là quá nhiều, cùng với các chỉ tiêu kinh tế đòi hỏi cả
người lập và người đọc báo cáo phải có trình độ nhất định trong khi đó công tác đào
tạo cán bộ kế toán chưa thực sự tương xứng với yêu cầu trên. Hơn nữa, kỳ lập báo
cáo lại ngắn và liên tục. Với đội ngũ cán bộ ít, trình độ có hạn, các báo cáo được lập
trong điều kiện này chỉ mang tính đối phó, thiếu tính chính xác, không đảm bảo độ
trung thực mà thông tin cần có. Do đó, ta thấy công tác lập báo cáo trong giai đoạn
SVTH: Phạm Thị Liên Lớp: Kế Toán 45B
Luận văn tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thanh Quý
này là không khoa học.
Giai đoạn 2: Giai đoạn đổi mới cơ chế quản lý kinh tế (từ năm 1986 đến nay)
Trong những năm đầu đổi mới, từ 1986 – 1990, nền kinh tế nước ta gặp vô
vàn khó khăn. Để phù hợp với sự vận động khách quan của nền kinh tế, Nhà Nước
ta đã thực hiện chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế : từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung
sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà Nước theo định hướng XHCN. Nhằm
đáp ứng yêu cầu đổi mới công tác kế hoạch hóa và công tác quản lý kinh tế - tài
chính của Nhà Nước trong giai đoạn này, chế độ báo cáo thống kê kế toán định kỳ
đã được ban hành theo quyết định số 13 – TCTK/PPCĐ ngày 13/01/1986 của Tổng
cục trưởng Tổng cục thống kê. Đối với lĩnh vực kế toán, có 9 biểu, các đơn vị phải
lập và gửi báo cáo định kỳ quý, 6 tháng, năm.
Tuy số lượng báo cáo đã giảm và cũng không yêu cầu bắt buộc phải lập báo
cáo theo tháng, song 9 bảng biểu vẫn là tương đối lớn, số lượng chỉ tiêu vẫn nhiều,
rườm rà không cần thiết cho hoạt động quản lý và quan trọng hơn cả là vẫn được

thực hiện tập trung, mang nặng tính hình thức, chưa thực sự hữu ích cho bản thân
đơn vị, thông tin kế toán chủ yếu vẫn được dùng cho việc kiểm soát, chỉ đạo của
cấp trên và các cơ quan chức năng của Nhà Nước.
Từ năm 1990 – 1995, giai đoạn này sự cần thiết phải thay đổi cơ chế quản lý
mới được nhận thức đấy đủ, những chủ trương phát triển kinh tế - xã hội, đổi mới
cơ chế quản lý kinh tế theo hướng hạch toán và kinh doanh XHCN được cụ thể hóa,
đưa vào cuộc sống. Trong giai đoạn này, chế độ báo cáo kế toán định kỳ áp dụng
cho các doanh nghiệp quốc doanh được thực hiện theo quyết định số 224 –
TC/CĐKT ngày 18/04/1990 do Bộ trưởng Bộ Tài chính ban hành. Theo chế độ này,
hệ thống báo cáo kế toán chỉ còn 4 báo cáo định kỳ.
•Bảng tổng kết tài sản ( lập theo quý, năm)
•Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh (lập theo năm)
•Chi phí sản xuất theo yếu tố (lập theo năm)
•Bản giải trình kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh (lập theo năm)
Các doanh nghiệp quốc doanh phải nộp các báo cáo cho cơ quan Tài chính, cơ
quan chủ quản, cơ quan Thống kê và cơ quan Ngân Hàng liên quan. Thời gian lập
SVTH: Phạm Thị Liên Lớp: Kế Toán 45B
Luận văn tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thanh Quý
và nộp các báo cáo cũng đã “thoáng” hơn, các chỉ tiêu trong từng báo cáo đã phần
nào được đơn giản hóa, phục vụ thiết thực hơn cho việc quản trị doanh nghiệp.
Tuy nhiên, thông tin trên các Báo cáo kế toán trong thời gian này chưa thực sự
phù hợp với thông lệ quốc tế vì chúng ta chưa đi sâu vào nghiên cứu vấn đề hòa hợp
quốc tế.
Từ năm 1995 đến nay, giai đoạn này được đánh dấu bởi những bước chuyển
đổi kinh tế mạnh mẽ sang nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN dưới sự
chỉ đạo của Nhà Nước. Xu thế toàn cầu hóa mạnh mẽ đặt đất nước ta vào thế phải
không ngừng thay đổi các chính sách kinh tế để hội nhập với quốc tế. Đứng trước
xu thế đó, hệ thống kế toán nói chung và hệ thống Báo cáo kế toán phải từng bước
thay đổi cho phù hợp với tình hình phát triển chung của đất nước và phải được thay
đổi đồng bộ, triệt để cả nội dung lẫn hình thức để phục vụ tốt như cầu quản lý trong

nền kinh tế thị trường, phù hợp với các nguyên tắc, chuẩn mực thông lệ quốc tế.
Trong giai đoạn này, hệ thống Báo cáo kế toán được sửa đổi, bổ xung nhiều
lần, song nhìn chung hệ thống Báo cáo kế toán được quy định thống nhất và ngày
càng phù hợp với thông lệ quốc tế với 4 biểu mẫu kế toán phải lập là:
• Bảng cân đối kế toán
• Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh
• Báo cáo lưu chuyển tiền tệ
• Bản thuyết minh báo cáo tài chính
Riêng Báo cáo lưu chuyển tiền tệ, từ năm 2003 mới bắt buộc phải lập, nộp
Ngoài ra tùy thuộc vào yêu cầu thông tin kế toán của bản thân doanh nghiệp
mà có thể lập thêm một số báo cáo nội bộ khác.
Theo quyết định số 1141 TC/QĐ/CĐKT ngày 1/11/1995 của Bộ trưởng Bộ
Tài chính về việc ban hành Chế độ Kế toán doanh nghiệp, hệ thống chỉ tiêu trong
Báo cáo tài chính là tương đối phù hợp với mục tiêu cung cấp thông tin cho các đối
tượng trong giai đoạn này, một phần đã phù hợp với thông lệ quốc tế nên có tác
dụng lớn trong việc cung cấp thông tin hữu ích. Song đây là giai đoạn nền kinh tế
nước ta chuyển biến mạnh mẽ, các nghiệp vụ kinh tế tất yếu gia tăng ngày càng đa
dạng. Các chỉ tiêu trên Báo cáo tài chính không đáp ứng kịp những thay đổi đó là
SVTH: Phạm Thị Liên Lớp: Kế Toán 45B
Luận văn tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thanh Quý
một điều dễ hiểu.
Xuất phát từ yêu cầu đổi mới, cải tiến hệ thống báo cáo, từ năm 2000, chế độ
báo cáo tài chính của doanh nghiệp phải tuân thủ theo quyết định số
167/2000/QĐ/BTC ngày 25/10/2000 do Bộ Tài Chính ban hành về chế độ báo cáo
tài chính doanh nghiệp. Theo quyết định này, hệ thống Báo cáo tài chính chỉ thay
đổi bổ xung, hệ thống hóa lại một số chỉ tiêu theo sự thay đổi của một số văn bản có
liên quan từ năm 1995 đến năm 2000, còn hình thức và nền tảng vẫn theo mẫu của
quyết định 1141/TC/QĐ/CĐKT.
Từ năm 2000, để cập nhật hơn nữa những yêu cầu của nền kinh tế đang đổi
mới, phát triển, Bộ Tài chính vẫn không ngừng nghiên cứu cải tiến, nâng cao vai trò

cung cấp thông tin cho các Báo cáo tài chính. 26 Chuẩn mực kế toán được ban
hành, cùng với các thông tư hướng dẫn kèm theo, đặc biệt là chuẩn mực số 24 –
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ, ban hành theo quyết định 165/2002/QĐ – BTC ngày
21/12/2002, được hướng dẫn cụ thể theo thông tư số 105/2003/TT – BTC ngày
4/11/2003 và Chuẩn mực số 21 – Trình bày báo cáo tài chính ban hành theo quyết
định số 234/2003/QĐ – BTC ngày 30/12/2003 được hướng dẫn cụ thể theo thông tư
số 23/2005/TT – BTC ngày 30/03/2005 của Bộ trưởng Bộ tài chính.
Ngày 20/03/2006, Bộ tài chính ban hành Chế độ kế toán doanh nghiệp tại
quyết định số 15/2006/QĐ – BTC thay thế quyết định số 1141 TC/QĐ/CĐKT áp
dụng cho các doanh nghiệp thuộc mọi lĩnh vực, mọi thành phần kinh tế trong cả
nước từ năm tài chính 2006. Quyết định này được xây dựng trên cơ sở hệ thống hóa
những thay đổi nằm rải rác ở nhiều văn bản liên quan, ban hành vào nhiều thời điểm
khác nhau từ năm 1995 trở lại đây, dựa trên nguyên tắc cập nhật những yêu cầu mới
nhất xủa nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, được xây dựng trên phương châm “dễ
làm, dễ hiểu, minh bạch, công khai, dễ kiểm tra, dễ kiểm soát”
So với giai đoạn trước đây, hệ thống Báo cáo tài chính hiện nay là một đột phá
căn bản, nó không chỉ khắc phục được những nhược điểm của hệ thống báo cáo
trước đây mà còn được xây dựng trên cơ sở các nguyên tắc và chuẩn mực kế toán
quốc tế phục vụ thiết thực hơn cho các cơ quan quản lý nhà nứoc và nhiều đối
tượng khác. Nó phản ánh đầy đủ hơn các sự kiện kinh tế tài chính phát sinh trong
SVTH: Phạm Thị Liên Lớp: Kế Toán 45B
Luận văn tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thanh Quý
quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nên tạo được niềm tin từ phía
người sử dụng và thực sự phát huy vai trò quan trọng trong công tác quản lý tài
chính kế toán.
Nền kinh tế còn nhiều biến đổi , trong tương lai, hệ thống báo cáo tài chính
cũng như hệ thống kế toán sữ còn phải thay đổi để phù hợp hơn, đáp ứng nhu cầu
của các đối tượng quan tâm trong và ngoài doanh nghiệp.
I.1.2. Nội dung cơ bản của các Báo cáo tài chính hiện hành.
Hệ thống Báo cáo tài chính hiện hành thực hiện theo Chế độ kế toán doanh

nghiệp ban hành tại quyết định số 15/2006/QĐ – BTC ngày 20/03/2006 của Bộ
trưởng Bộ Tài chính áp dụng cho tất cả các doanh nghiệp thuộc mọi lĩnh vực, mọi
thành phần kinh tế trong cả nước từ năm tài chính 2006, bao gồm các Báo cáo tài
chính năm và Báo cáo tài chính giữa niên độ.
Hệ thống Báo cáo năm gồm 4 biểu mẫu báo cáo:
• Bảng cân đối kế toán, mẫu số B01 – DN
• Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, mẫu số B02 – DN
• Báo cáo lưu chuyển tiền tệ, mẫu số B03 – DN
• Bản thuyết minh báo cáo tài chính, mẫu số B09 – DN
Trong quá trình kinh doanh nếu thấy cần thiết, các doanh nghiệp có thể bổ
xung hoặc sửa đổi hoặc chi tiết các chỉ tiêu cho phù hợp với đặc điểm hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhưng phải được Bộ Tài chính chấp thuận bằng
văn bản.
Ngoài ra, để phục vụ yêu cầu quản lý kinh tế - tài chính, yêu cầu chỉ đạo, điều
hành, các doanh nghiệp có thể quy định thêm các báo cáo chi tiết khác.
Đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ vẫn tuân thủ các quy định chung còn
những quy định, hướng dẫn cụ thể được trình bày tại Chế độ kế toán doanh nghiệp
vừa và nhỏ.
 Bảng cân đối kế toán
Bảng cân đối kế toán là một Báo cáo tài chính phản ánh tổng quát tình hình tài
sản của doanh nghiệp theo giá trị tài sản và nguồn hình thành tài sản tại một thời
SVTH: Phạm Thị Liên Lớp: Kế Toán 45B
Luận văn tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thanh Quý
điểm nhất định. Theo qui định, thời điểm này là ngày cuối cùng của kỳ báo cáo. Số
liệu trên bảng cân đối kế toán cho biết toàn bộ tài sản hiện có của doanh nghiệp theo
cơ cấu tài sản và nguồn hình thành tài sản đó.
Bảng cân đối kế toán được kết cấu dưới dạng bảng cân đối số dư các TK và
sắp xếp trật tự các chỉ tiêu theo yêu cầu quản lý. Bảng cân đối kế toán được chia
thành 2 phần: Tài sản và Nguồn vốn, có thể kết cấu theo kiểu 2 bên (Tài sản bên
trái, Nguồn vốn bên phải) hoặc kết cấu 1 bên ( Tài sản phía trên, Nguồn vốn phía

dưới).
Phần Tài sản: phản ánh toàn bộ giá trị tài sản hiện có, đang thuộc quyền quản lý
và sử dụng của doanh nghiệp tính đến thời điểm lập báo cáo, đang tồn tại dưới tất cả
các hình thái và trong tất cả các giai đoạn,các khâu của quá trình sản xuất kinh doanh.
Tài sản là toàn bộ tiềm lực kinh tế của đơn vị, là tất cả những gì phục vụ cho hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có thể mang lại lợi nhuận trong tương lai và
phải thỏa mãn điều kiện sau:
 Thuộc quyền sở hữu hay sử dụng lâu dài của doanh nghiệp
 Có giá trị thực sự đối với doanh nghiệp
 Có gía phí xác định
Xét theo thời gian luân chuyển của Tài sản, toàn bộ tài sản của doanh nghiệp
được chia thành 2 loại: Tài sản ngắn hạn và Tài sản dài hạn, được trình bày thành 2
phần trong phần Tài sản trên Bảng cân đối kế toán.
Tài sản ngắn hạn là những tài sản được dự tính để bán hoặc sử dụng trong
khuôn khổ của kỳ kinh doanh bình thường của doanh nghiệp; hoặc được nắm giữ
chủ yếu cho mục đích thương mại hoặc cho mục đích ngắn hạn và dự kiến thu hồi
hoặc thanh toán trong vòng 12 tháng kể từ ngày kết thúc niên độ.
Tất cả các tài sản khác ngoài Tài sản ngắn hạn được xếp vào loại Tài sản dài
hạn.
Phần Nguồn vốn: phản ánh nguồn hình thành các loại tài sản của doanh
nghiệp đến cuối kỳ báo cáo. Các chỉ tiêu nguồn vốn thể hiện trách nhiệm pháp lý
của doanh nghiệp về số tài sản đang quản lý và sử dụng đối với Nhà Nước, cấp trên,
các nhà đầu tư, các cổ đông, ngân hàng, các tổ chức tín dụng, khách hàng, các đơn
SVTH: Phạm Thị Liên Lớp: Kế Toán 45B
Luận văn tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thanh Quý
vị kinh tế khác, công nhân viên…
Nguồn vốn được chia thành 2 loại:
Nợ phải trả: là tài sản, tiền vốn của đơn vị, đối tượng khác mà doanh nghiệp đi
vay hoặc chiếm dụng nên doanh nghiệp phải có trách nhiệm thanh toán. Nếu khoản
nợ này được dự kiến thanh toán trong một chu kỳ kinh doanh bình thường của

doanh nghiệp hoặc được thanh toán trong vòng 12 tháng kể từ ngày kết thúc kỳ kế
toán năm thì khoản nợ này thuộc Nợ ngắn hạn. Tất cả các khoản nợ phải trả khác
ngoài Nợ ngắn hạn được xếp vào Nợ dài hạn.
Vốn chủ sở hữu: Là nguồn vốn do các chủ doanh nghiệp, các nhà đầu tư đóng
góp ban đầu hoặc được bổ xung từ quá trình kinh doanh, doanh nghiệp không phải
cam kết thanh toán. Nó thể hiện tính độc lập, tự chủ về việc sử dụng các loại nguồn
vốn của doanh nghiệp.
Ngoài các chỉ tiêu trong phần chính, Bảng cân đối kế toán còn phản ánh các
chỉ tiêu ngoài bảng như: Tài sản thuê ngoài, Ngoại tệ các loại…Đây là những chỉ
tiêu phản ánh những tài sản tạm thời để ở doanh nghiệp nhưng không thuộc quyền
sở hữu của doanh nghiệp hoặc một số chỉ tiêu kinh tế đã được phản ánh ở các TK
trong Bảng cân đối kế toán nhưng cần theo dõi đề phục vụ yêu cầu quản lý.
Các chỉ tiêu cụ thể cũng như hình thức trình bày các thông tin trên Bảng cân
đối kế toán hiẹn hành thực hiện theo quy định tại chế độ kế toán doanh nghiệp ban
hành theo quyết định số 15/2006/QĐ – BTC ngày 20/03/2006 của Bộ trưởng Bộ Tài
chính (Phụ lục 1.1. Bảng cân đối kế toán)
 Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh
Là Báo cáo tài chính tổng hợp, phản ánh tổng quát tình hình và kết quả kinh
doanh trong một kỳ kế toán của doanh nghiệp, chi tiết theo hoạt động kinh doanh
(hoạt động bán hàng và cung cấp dịch vụ và hoạt động tài chính, hoạt động khác).
Kết cấu của Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh được thực hiện theo quy
định tại chế độ kế toán doanh nghiệp ban hành theo quyết định số 15/2006/ QĐ –
BTC ngày 20/03/2006 của Bộ trưởng Bộ Tài chính (Phụ lục 1.2. Báo cáo kết quả
hoạt động kinh doanh). Trong đó các chỉ tiêu chính được khái quát như sau:
SVTH: Phạm Thị Liên Lớp: Kế Toán 45B
Luận văn tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thanh Quý
Doanh thu: là sự gia tăng về lợi ích kinh tế trong kỳ kế toán dưới hình thức
các khoản tiền thu vào hoặc gia tăng tài sản hoặc giảm bớt công nợ dẫn đến việc gia
tăng vốn cổ phần mà không phải do các cổ đông đóng góp.
Chi phí: là sự giảm bớt lợi ích kinh tế trong kỳ kế toán dưới hình thức các

khoản tiền chi ra, khấu trừ tài sản hoặc phát sinh các công nợ dẫn đến việc làm giảm
vốn cổ phần mà không phải là do phân phối cho những người tham gia góp vốn.
Lợi nhuận: là phần thu nhập còn lại sau khi trang trải các khoản chi phí tương
ứng theo nguyên tắc phù hợp với doanh thu. Lợi nhuận là chỉ tiêu thường được sử
dụng làm thước đo đánh giá tình hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Trong Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, doanh thu và chi phí được trình
bày theo 3 hoạt động kinh doanh (hoạt động bán hàng và cung cấp dịch vụ, hoạt
động tài chính và hoạt động khác)
Doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ:

là giá trị sản phẩm hàng hóa,
lao vụ, dịch vụ mà doanh nghiệp đã bán ra, cung cấp cho khách hàng trong kỳ
báo cáo. Doanh thu bán hàng có thể thu được tiền hoặc chưa thu ngay sau khi
doanh nghiệp cung cấp sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ cho khách hàng.
Chi phí sản xuất kinh doanh: Bao gồm Giá vốn hàng bán, chi phí bán hàng,
chi phí quản lý doanh nghiệp. Đó là biểu hiện bằng tiền của các hao phí về lao động
sống và lao động vật hóa mà doanh nghiệp sử dụng trong kỳ hoạt động sản xuất
kinh doanh.
Doanh thu hoạt động tài chính: là các khoản thu do những hoạt động đầu tư
tài chính, kinh doanh về vốn đưa lại.
Chi phí hoạt động tài chính: là những chi phí liên quan đến các hoạt động về
vốn đầu tư tài chính phát sinh trong kỳ báo cáo của doanh nghiệp.
Thu nhập khác: Là những khoản thu từ các hoạt động xảy ra không thường
xuyên, ngoài các hoạt động tạo ra doanh thu chính, như: thu về thanh lý, nhượng
bán tài sản cố định, thu tiền phạt, tiền bồi thường, thu được các khoản nợ khó đòi đã
xóa sổ tính vào chi phí kỳ trước…
Chi phí khác: là các khoản chi do các nghiệp vụ không thường xuyên, riêng
biệt với các hoạt động thông thường của doanh nghiệp như: chi về thanh lý, nhượng
SVTH: Phạm Thị Liên Lớp: Kế Toán 45B
Luận văn tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thanh Quý

bán tài sản cố định, chi tiền phạt…
 Báo cáo lưu chuyển tiền tệ:
Luồng tiền theo chuẩn mực số 24 là luồng vào và luồng ra của tiền và tương
đương tiền, không bao gồm chuyển dịch nội bộ giữa các khoản tiền và tương đương
tiền trong doanh nghiệp. Trong đó:
- Tiền bao gồm tiền tại quỹ, tiền đang chuyển và các khoản tiền gửi không kỳ
hạn.
- Tương đương tiền: là các khoản đầu tư ngắn hạn (không quả 3 tháng), có khả
năng chuyển đổi dế dàng thành một lượng tiền xác định và không có nhiều rủi ro
trong chuyển đổi thành tiền.
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ là Báo cáo tài chính tổng hợp phản ánh việc hình
thành và sử dụng lượng tiền phát sinh trong kỳ báo cáo của doanh nghiệp. Nó cung
cấp thông tin về các luồng tiền vào chủ yếu (từ hoạt động kinh doanh, bán tài sản,
vay, nợ phải trả, đầu tư của chủ sở hữu,…) và luồng tiền ra chủ yếu (quá trình hoạt
động kinh doanh, mở rộng hoạt động, thanh toán công nợ hay phân chia cho các chủ
sở hữu,…)trong một kỳ nhất định. Các thông tin này phục vụ cho việc giải thích,
đánh giá các hoạt động đầu tư và huy động vốn quan trọng của một doanh nghiệp.
Nội dung của Báo cáo lưu chuyển tiền tệ là trình bày các khoản thu chi của
doanh nghiệp trong kỳ báo cáo trên cả 3 hoạt động: kinh doanh, đầu tư và tài chính
theo cách thức phù hợp với đặc điểm kinh doanh của doanh nghiệp. Việc phân loại
như vậy giúp cho người đọc báo cáo có thể đánh giá được sự ảnh hưởng của mỗi
hoạt động tới tình hình tài chính, tới lượng tiền và các khoản tương đương tiền tạo
ra trong kỳ kinh doanh và cũng có thể dùng để đánh giá các mối quan hệ giữa các
hoạt động nêu trên. Nội dung chính của các luồng tiền thuộc 3 hoạt động trên như
sau:
Lưu chuyển tiền từ hoạt động kinh doanh:
Lưu chuyển tiền từ hoạt động kinh doanh phản toàn bộ các dòng tiền thu vào
và chi ra liên quan trực tỉếp đến hoạt động kinh doanh chủ yếu của doanh
nghiệp( hoạt động mang lại khả năng sinh lời cơ bản của doanh nghiệp) và các hoạt
động khác không phải là hoạt động đầu tư hay tài chính.

SVTH: Phạm Thị Liên Lớp: Kế Toán 45B
Luận văn tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thanh Quý
Nội dung của luồng lưu chuyển tiền từ hoạt động kinh doanh thường bao gồm:
tiền thu từ bán hàng và cung cấp dịch vụ, tiền thu từ các khoản phải thu, tiền thu
bản quyền, phí, hoa hồng các khoản phải thu khác trừ những khoản thu được xác
định là luồng tiền từ hoạt động đầu tư tài chính …luồng tiền trả cho nhà cung cấp,
tiền chi trả cho người lao động, trả lãi tiền vay, tiền mua bảo hiểm tiền phạt… Đặc
biệt các luồng tiền liên quan đến mua, bán chứng khoán cũng được xếp vào luồng
tiền từ hoạt động kinh doanh nếu nó có mục đích thương mại.
Lưu chuyển tiền từ hoạt động đầu tư:
Lưu chuyển tiền từ hoạt động đầu tư phản ánh toàn bộ dòng tiền thu vào và chi
ra liên quan trực tiếp đến hoạt động đầu tư của doanh nghiệp, bao gồm luồng tiền có
liên quan đến việc mua, bán, thanh lý tài sản cố định và tài sản dài hạn khác, xây
dựng cơ bản mua và bán chứng khoán góp vốn liên doanh, cho vay các đối tượng
khác cùng quá trình thu nợ vay,… và các khoản đầu tư khác không thuộc các khoản
tương đưong tiền.
Trình bày tách biệt các luồng tiền từ hoạt động đầu tư có ý nghĩa trong việc
thể hiện phạm vi mà các khoản chi phí đã được thực hiện cho các nguồn dự định sẽ
tạo ra lợi nhuận và các luồng tiền trong tương lai.
Lưu chuyển tiền từ hoạt động tài chính:
Lưu chuyển tiền từ hoạt động tài chính phản ánh luồng tiền có liên quan đến
việc thay đổi về qui mô và kết cấu của vốn chủ sở hữu và vồn vay của doanh nghiệp
như nhận góp vốn, phát hành cổ phiếu trái phiếu của doanh nghiệp … Ngoài ra,
hoạt động này còn bao gồm cả việc doanh nghiệp đi vay vồn và hoàn trả nợ vay, đi
thuê tài chính, chi trả cổ tức, lợi nhuận đã trả cho chủ sở hữu.
Việc tách biệt luồng tiền phát sinh từ hoạt động tài chính cũng có ý nghĩa và
nội dung rất quan trọng bởi vì chúng rất hữu dụng trong việc dự toán các khoản tiền
từ những nhà cung cấp vốn cho doanh nghiệp trong tương lai.
Mẫu Báo cáo lưu chuyển tiền tệ được ban hành theo Chế độ kế toán doanh
nghiệp tại quyết định số 15/2006/QĐ – BTC ngày 20/03/2006 của Bộ trưởng Bộ Tài

chính (Phụ lục 1.3. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ). Tùy theo phương pháp sử dụng để
lập Báo cáo này ( phương pháp trực tiếp hay gián tiếp) mà các chỉ tiêu trình bày,
SVTH: Phạm Thị Liên Lớp: Kế Toán 45B
Luận văn tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thanh Quý
tính toán trong mục Lưu chuyển tiền từ hoạt động kinh doanh có khác nhau, còn các
chỉ tiêu về Lưu chuyển tiền từ hoạt động đầu tư và Lưu chuyển tiền từ hoạt động tài
chính đều tương tự như nhau ở cả hai phương pháp.
Từ những nội dung trong báo cáo lưu chuyển tiền tệ, người sử dụng không
những đánh giá được những thay đổi trong tài sản thuần, trong cơ cấu tài chính,
đánh giá được khả năng chuyển đổi của tài sản thành tiền, khả năng thanh toán, khả
năng tạo ra các luồng tiền trong hoạt động của doanh nghiệp mà nó còn là cơ sở để
đánh giá khái quát tình hình hoạt động của doanh nghiệp mà nó còn là cơ sở đánh
giá khái quát tình hình hoạt động của doanh nghiệp và khả năng của doanh nghiệp
so với doanh nghiệp khác vì nó loại trừ được ảnh hưởng của việc sử dụng các
phương pháp kế toán khác nhau cho cùng một giao dịch và hiện tượng kinh tế.
 Bản thuyết minh báo cáo tài chính
Bản thuyết minh báo cáo tài chính là một bộ phận hợp thành hệ thống Báo cáo
tài chính của doanh nghiệp, nhằm mục đích giải trình, bổ xung thuyết minh những
thông tin số liệu đã được trình bày trong Bảng cân đối kế toán, Báo cáo kết quả hoạt
động kinh doanh, Báo cáo lưu chuyển tiền tệ và các thông tin cần thiết khác theo
yêu cầu của các Chuẩn mực kế toán cụ thể. Doanh nghiệp cũng có thể trình bày
những thông tin khác nếu cần thiết cho việc trình bày trung thực, hợp lý báo cáo tài
chính.
Trên bản thuyết minh báo cáo tài chính phải có đấy đủ các nội dung chính sau:
- Những thông tin về cơ sở dùng để lập Báo cáo tài chính và các chính sách kế
toán cụ thể được lựa chọn, áp dụng đối với các giao dịch và các sự kiện kinh tế quan
trọng cùng sự giải thích về sự thay đổi chính sách kế toán áp dụng trong kỳ (nếu có)
- Trình bày các thông tin theo quy định của các Chuẩn mực kế toán mà chưa
được trình bày trong báo cáo tài chính khác
- Cung cấp các thông tin bổ xung chưa được trình bày trong các báo cáo tài

chính khác nhưng lại cần thiết chơ việc trình bày trung thực và hợp lý.
Việc lựa chọn số liệu và thông tin càn phải trình bày trong bảng thuyết minh
báo cáo tài chính được thực hiện theo nguyên tắc trọng yếu quy định tại chuẩn mực
số 21 – Trình bày Báo cáo tài chính.
SVTH: Phạm Thị Liên Lớp: Kế Toán 45B
Luận văn tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thanh Quý
Thông tin trình bày trên Bản thuyết minh báo cáo tài chính được trình bày theo
thứ tự được quy định tại Chế độ kế toán doanh nghiệp ban hành theo quyết định số
15/2006/QĐ – BTC ngày 20/03/2006 của Bộ trưởng Bộ Tài chính và cần được duy
trì nhất quán nhằm giúp cho người sử dụng hiểu được Báo cáo tài chính của doanh
nghiệp và có thể so sánh báo cáo tài chính của doanh nghiệp khác(Phụ lục 1.4. Bản
thuyết minh Báo cáo tài chính).
I.2. Lập báo cáo tài chính
I.2.1.Thủ tục và nguyên tắc lập Báo cáo tài chính
Các Báo cáo tài chính được lập nhằm mục tiêu cung cấp thông tin tài chính
hữu ích cho các đối tượng quan tâm đến tình hình kinh tế, tài chính của một doanh
nghiệp để ra các quyết định kinh tế. Tuy nhiên không phải mọi đối tượng đều am
hiểu qui trình ghi nhận dữ liệu và xử lý thông tin của kế toán. Vì vậy, để đảm bảo
tính hữu ích và dễ hiểu của thông tin kế toán trên Báo cáo tài chính, Nhà nước đã
đưa ra những thủ tục và nguyên tắc nhất định cần phải tuân thủ trong việc lập và
trình bày Báo cáo tài chính.
Các yêu cầu lập và trình bày Báo cáo tài chính.
Theo chuẩn mực kế toán Việt Nam số 21 – Trình bày Báo cáo tài chính, việc
lập và trình bày Báo cáo tài chính phải tuân thủ yêu cầu trình bày một cách trung
thực và hợp lý tình hình tài chính, tình hình và kết quả kinh doanh và các luồng tiền
của doanh nghiệp. Để đảm bảo yêu cầu này, các Báo cáo tài chính phải được lập và
trình bày trên cơ sở tuân thủ các Chuẩn mực kế toán và quy định khác có liên quan
hiện hành. Cụ thể khi lập và trình bày Báo cáo tài chính doanh nghiệp cần đáp ứng
các yêu cầu:
- Trung thực, hợp lý

- Lựa chọn áp dụng các chính sách kế toàn phù hợp với qui định của từng
Chuẩn mực kế toán. Trường hợp chưa có quy định ở Chuẩn mực cũng như chế độ
kế toán hiện hành thì doanh nghiệp phải căn cứ vào chuẩn mực chung để xây dựng
phương pháp kế toán hợp lý nhằm đảm bảo Báo cáo tài chính cung cấp thông tin
thích hợp với nhu cầu ra các quyết định kinh tế của người sử dụng và cung cấp các
SVTH: Phạm Thị Liên Lớp: Kế Toán 45B
Luận văn tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thanh Quý
thông tin đáng tin cậy, khi:
 Trình bày trung thực, hợp lý tình hình tài chính, tình hình và kết quả kinh
doanh của doanh nghiệp
 Phản ánh đúng bản chất kinh tế của các giao dịch và sự kiện không chỉ đơn
thuần là phản ánh hình thức hợp pháp của chúng.
 Trình bày khách quan, không thiên vị
 Tuân thủ nguyên tắc thận trọng
 Trình bày đầy đủ trên mọi khía cạnh trọng yếu
Ngoài ra, các Báo cáo tài chính phải cung cấp các thông tin bổ xung khi những
qui định trong Chuẩn mực kế toán không đủ để giúp cho người sử dụng hiểu được
tác động của những giao dịch hoặc những sự kiện cụ thể đến tình hình tài chính,
tình hình và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Nguyên tắc lập và trình bày Báo cáo tài chính
Theo chuẩn mực số 21 – Trình bày Báo cáo tài chính, khi lập và trình bày Báo
cáo tài chính phải đảm bảo nguyên tắc sau:
*) Nguyên tắc hoạt động liên tục
Báo cáo tài chính phải được lập trên cơ sở giả định là doanh nghiệp đang hoạt
động liên tục và sẽ tiếp tục hoạt động kinh doanh bình thường trong tương lai gần,
trừ khi doanh nghiệp có ý định cũng như buộc phải ngừng hoạt động hoặc phải thu
hẹp đáng kể quy mô hoạt động của mình. Khi lập và trình bày Báo cáo tài chính,
Giám đốc( hoặc người đứng đầu doanh nghiệp) cần phải đánh giá về khả năng hoạt
động liên tục của doanh nghiệp bằng cách xem xét đền mọi thông tin có thể dự đoán
được tối thiểu trong vòng 12 tháng tới kể từ ngày kết thúc niên độ kế toán.

Khi đánh giá nếu biết được có những điều không chắc chắn liên quan đến các
sự kiện hoặc các điều kiện có thể gây ra sự nghi ngờ lớn về khả năng hoạt động liên
tục của doanh nghiệp thì những điều đó phải được nêu rõ.
Nếu Báo cáo tài chính không được lập trên cơ sở hoạt động liên tục thì sự
kiện này cần được nêu rõ cùng với cơ sở dùng để lập Báo cáo tài chính và lí do
khiến cho doanh nghiệp không được coi là hoạt động liên tục.
SVTH: Phạm Thị Liên Lớp: Kế Toán 45B
Luận văn tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thanh Quý
*) Nguyên tắc cơ sở dồn tích
Doanh nghiệp phải lập Báo cáo tài chính theo cơ sở kế toán dồn tích, ngoại trừ
các thông tin liên quan đến các luồng tiền.
Theo cơ sở dồn tích, các giao dịch và sự kiện được ghi nhận vào thời điểm
phát sinh, không căn cứ vào thời điểm thực thu, thực chi tiền và được ghi nhận vào
sổ kế toán và Báo cáo tài chính của các kỳ kế toán liên quan. Riêng đối với Báo cáo
kết quả hoạt động kinh doanh, các khoản chi phí được ghi nhận trên báo cáo này
theo nguyên tắc phù hợp giữa doanh thu và chi phí.
*) Nguyên tắc nhất quán
Nguyên tắc này yêu cầu việc trình bày và phân loại các khoản mục trong Báo
cáo tài chính phải nhất quán từ niên độ này sang niên độ khác, trừ khi có sự thay đổi
đáng kể về bản chất các hoạt động của doanh nghiệp hoặc khi xem xét lại việc trình
bày Báo cáo tài chính cho thấy rằng cần phải thay đổi để có thể trình bày một cách
hợp lý hơn các giao dịch và các sự kiện hoặc một Chuẩn mực kế toán khác yêu cầu
có sự thay đổi trong việc trình bày. Khi có sự thay đổi thì doanh nghiệp cần phải
giải trình lý do và ảnh hưởng của sự thay đổi đó trong phần VIII của Bản thuyết
minh báo cáo tài chính.
*) Nguyên tắc trọng yếu và tập hợp
Theo nguyên tắc này, từng khoản mục trọng yếu phải được trình bày riêng biệt
trong Báo cáo tài chính. Các khoản mục không trọng yếu thì không phải trình bày
riêng rẽ mà được tập hợp vào những khoản mục có cùng tính chất hoặc chức năng
trong Báo cáo tài chính hoặc trình bày trong Bản thuyết minh Báo cáo tài chính.

Mọi thông tin được coi là trọng yếu nếu không được trình bày hoặc trình bày thiếu
chính xác thông tin đó có thể làm sai lệch đáng kể Báo cáo tài chính, làm ảnh hưởng
đến quyết định kinh tế của người sử dụng Báo cáo tài chính.
Tuy nhiên có những khoản mục không được coi là trọng yếu để có thể được
trình bày riêng biệt trên Báo cáo tài chính, nhưng lại được coi là trọng yếu để phải
trình bày riêng biệt trong Bản thuyết minh Báo cáo tài chính. Theo nguyên tắc trọng
yếu, doanh nghiệp không nhất thiết phải tuân thủ các qui định về trình bày báo cáo
tài chính của các Chuẩn mực kế toán cụ thể nếu các thông tin đó không có tính
SVTH: Phạm Thị Liên Lớp: Kế Toán 45B
Luận văn tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thanh Quý
trọng yếu.
*) Nguyên tắc bù trừ
Nguyên tắc này đòi hỏi khi ghi nhận các giao dịch kinh tế và các sự kiện để
lập và trình bày Báo cáo tài chính không được phép bù trừ tài sản và nợ phải trả, do
vậy doanh nghiệp phải trình bày riêng biệt tất cả các khoản mục tài sản và công nợ
trên Báo cáo tài chính. Đối với các khoản doanh thu, thu nhập khác và chi phí chỉ
được bù trừ khi được quy định tại một chuẩn mực kế toán khác hoặc các khoản lãi,
lỗ và các chi phí liên quan phát sinh từ các giao dịch và các sự kiện giống nhau hoặc
tương tự và không có tính trọng yếu. Các khoản này cần được tập hợp lại với nhau
phù hợp với quy định của nguyên tắc trọng yếu và tập hợp. Các tài sản và nợ phải
trả, các khoản thu nhập và chi phí có tính trọng yếu phải được báo cáo riêng biệt.
*) Nguyên tắc có thể so sánh
Các thông tin bằng số liệu trong Báo cáo tài chính nhằm để so sánh giữa các
ký kế toán phải được trình bày tương ứng với các thông tin bằng số liệu trong Báo
cáo tài chính của kỳ trước kể cả các thông tin diễn giải bằng lời nếu cần thiết cho
người sử dụng hiểu rõ được Báo cáo tài chính của kỳ hiện tại.
Khi thay đổi cách trình bày hoặc cách phân loại các khoản mục trong Báo cáo
tài chính thì phải phân loại lại các số liệu so sánh nhằm đảm bảo khả năng so sánh
với kỳ hiện tại. Nếu không thể thực hiện được việc phân loại lại các số liệu tương
ứng mang tính so sánh thì doanh nghiệp cần phải nêu rõ lý do và tính chất của

những thay đổi nếu việc phân loại lại các số liệu được thực hiện.
Những qui định chung về Báo cáo tài chính doanh nghiệp
Tất cả doanh nghiệp thuộc các ngành, các thành phân kinh tế đều phải lập và
trình bày báo cáo tài chính theo quy định của Luật kế toán, Chuẩn mực kế toán và
Chế độ kế toán hiện hành cùng các thông tư hướng dẫn đi kèm.
Hệ thống Báo cáo tài chính hiện hành được quy định bao gồm 4 biểu mẫu.
Ngoài ra tùy thuộc vào yêu cầu của mỗi doanh nghiệp mà lượng Báo cáo kế toán có
thể tăng lên.
Báo cáo tài chính của tất cả các loại hình doanh nghiệp phải được lập cho từng
kỳ kế toán năm. Riêng đối với doanh nghiệp Nhà Nước thì phải lập thêm Báo cáo
SVTH: Phạm Thị Liên Lớp: Kế Toán 45B
Luận văn tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thanh Quý
tài chính giữa niên độ vào cuối mỗi quý của năm tài chính (không bao gồm quý IV).
Các doanh nghiệp có thể lập theo kỳ kế toán khác theo yêu cầu của pháp luật, công
ty mẹ hoặc các chủ sỏ hữu. Báo cáo tài chính phải được người lập, kế toán trưởng
và đại diện theo pháp luật của đơn vị ký, đóng dấu của đơn vị. Người ký Báo cáo tài
chính phải chịu trách nhiệm về nội dung của báo cáo. Giám đốc hoặc người đứng
đầu doanh nghiệp chịu trách nhiệm về lập và trình bày Báo cáo tài chính.
Kỳ kế toán là năm dương lịch hoặc ký kế toán năm là 12 tháng tròn sau khi
thông báo cho cơ quan Thuế. Trường hợp đặc biệt, doanh nghiệp được phép thay
đối ngày kết thúc kỳ kế toán năm dẫn đến việc lập Báo cáo tài chính cho một niên
độ kế toán có thể dài hơn hoặc ngắn hơn một năm dương lịch nhưng không được
vượt quá 15 tháng. Khi đó doanh nghiệp phải nêu rõ trong Bản thuyết minh báo cáo
tài chính, phần VIII.Những thông tin khác về:
- Lý do phải thay đổi ngày kết thúc kỳ kế toán năm.
- Các thông tin so sánh kỳ này, kỳ truớc và phải được điều chỉnh cho phù hợp
với kỳ báo cáo của niên độ báo cáo kỳ này.
Thời hạn nộp Báo cáo tài chính được quy định trong điều 31 Luật kế toán và điều
20 nghị định kế toán đối với các loại hình doanh nghiệp, cụ thể như sau:
+) Đối với doanh nghiệp Nhà Nước:

Đơn vị kế toán phải nộp Báo cáo tài chính chậm nhất 30 ngày kể từ ngày kết
thúc kỳ báo cáo (đối với Báo cáo tài chính năm), 20 ngày (đối với Báo cáo quý).
Đối với Tổng công ty Nhà Nước chậm nhất là 90 ngày (Báo cáo tài chính năm) và
45 ngày ( Báo cáo tài chính quý).
Đơn vị kế toán trực thuộc Tổng công ty Nhà nước nộp báo cáo năm, quý cho
Tổng công ty theo thời hạn do Tổng công ty qui định.
+) Đối với các loại hình doanh nghiệp khác
Đơn vị kế toán là doanh nghiệp từ nhân và công ty hợp danh phải nộp Báo cáo tài
chính năm chậm nhất là 30 ngày, kể từ ngày kết thúc kỳ kế toán năm.
Đối với các đơn vị kế toán khác, thời hạn nộp Báo cáo tài chính năm chậm
nhất là 90 ngày.
Đơn vị kế toán trực thuộc nộp Báo cáo tài chính năm cho đơn vị kế toán cấp
SVTH: Phạm Thị Liên Lớp: Kế Toán 45B
Luận văn tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thanh Quý
trên theo thời hạn do đơn vị kế toán cấp trên quy định.
Báo cáo tài chính của đơn vị kế toán phải nộp cho cơ quan thuế, cơ quan thống
kê, cơ quan đăng ký kinh doanh và cơ quan khác theo quy định. Đối với doanh
nghiệp Nhà nước còn phải nộp báo cáo cho cơ quan Tài chính cùng cấp, đơn vị kế
toán trực thuộc còn phải nộp báo cáo cho đơn vị kế toán cấp trên.
Để đảm bảo chất lượng thông tin cung cấp ra ngoài, các Báo cáo tài chính phải
được xác định bởi một bộ phận kiểm toán độc lập. Điều này được quy định rõ trong
điều 34 Luật kế toán như sau:
- Báo cáo tài chính năm của đơn vị kế toán mà pháp luật quy định phải kiểm
toán thì phải được kiểm toán trước khi nộp cho cơ quan Nhà Nước có thẩm quyền
trước khi công khai.
- Đơn vị kế toán khi được kiểm toán thì phải tuân thủ đầy đủ các quy định của
pháp luật về kiểm toán.
- Báo cáo tài chính đã được kiểm toán khi nộp cho cơ quan Nhà Nước có thẩm
quyền thì phải có báo cáo kiểm toán đính kèm.
Báo cáo tài chính phải được lập và gửi kịp thời. Đây là yêu cầu có tính nguyên

tắc, có như vậy các thông tin hữu ích mới được sử dụng tổng hợp, phân tích, đánh gia
kịp thời, quyết định kinh tế được đưa ra đảm bảo tính thời sự; góp phần định hướng
đúng cho doanh nghiệp trong kinh doanh, phát huy và khai thác kịp thời những tiềm
năng, cơ hội trong kinh doanh của doanh nghiệp.
I.2.2. Qui trình lập Báo cáo tài chính theo kỳ kế toán năm
Trong Báo cáo tài chính năm, doanh nghiệp phải trình bày các thông tin chung
như sau:
- Tên địa chỉ của doanh nghiệp báo cáo
- Nêu rõ Báo cáo tài chính này là của riêng doanh nghiệp hay Báo cáo tổng
hợp, hợp nhất của công ty mẹ, tập đoàn.
- Ngày kết thúc kỳ kế toán năm hoặc kỳ báo cáo
- Ngày lập Báo cáo tài chính
- Đơn vị tiền tệ dùng để lập Báo cáo tài chính
SVTH: Phạm Thị Liên Lớp: Kế Toán 45B
Luận văn tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thanh Quý
 Bảng cân đối kế toán
Để lập Bảng cân đối kế toán cần thiết phải sử dụng khá nhiều nguồn tài liệu,
trong đó chủ yếu là các nguồn sau đây:
- Bảng cân đối kế toán cuối kỳ trước (năm trước)
- Sổ cái và sổ chi tiết các TK từ loại 1 đến loại 4 và TK ngòai bảng tương ứng
với các chỉ tiêu được quy định trong Bảng cân đối kế toán của kỳ lập Bảng cân đôi
kế toán.
- Bảng cân đối TK
- Các tài liệu liên quan khác
Để đảm bảo tính kịp thời chính xác của các chỉ tiêu trên Bảng cân đối kế toán
và giúp cho việc lập Báo cáo nhanh chóng, dễ dàng cần thiết phải làm tốt công việc
sau:
- Kiểm kê tài sản trong trường hợp cần thiết và đối chiếu số liệu với các chứng
từ, sổ sách có liên quan. Nếu có chênh lệch phải điều chỉnh cho đúng với kết quả
kiểm kê trước khi lập Báo cáo tài chính.

- Tiến hành kết chuyển cuối kỳ các khoản có liên quan giữa các TK, phù hợp
với qui định và hoàn tất việc ghi sổ kế toán tổng hợp và sổ kế toán chi tiết, kiểm tra
đối chiếu số liệu kế toán giữa các sổ sách có liên quan, bảo đảm khớp đúng ( kiểm
tra trong nội bộ và kiểm tra đối chiếu với các đơn vị có quan hệ kinh tế khác). Nếu
có chênh lệch thì phải tiến hành điều chỉnh trước khi lập báo cáo.
- Khóa sổ kế toán, tính ra số dư cuối kỳ của các Tk tổng hợp, chi tiết tại thời
điểm lập Bảng cân đối kế toán.
- Phân loại và trình bày toàn bộ Tài sản và Nợ phải trả của doanh nghiệp thành
ngắn hạn và dài hạn, tùy theo thời hạn của chu kỳ kinh doanh bình thường của
doanh nghiệp hoặc phải được trình bày theo tính thanh khoản giảm dần nếu không
thể dựa vào chu kỳ kinh doanh để phân chia ngắn hạn và dài hạn.
- Tuyệt đối không được bù trừ các khoản mục Tài sản với Nợ phải trả cũng
như không được bù trừ số dư giữa hai bên Nợ và Có của các TK thanh toán như TK
131,331 mà phải căn cứ vào sổ kế toán chi tiết để ghi vào các chỉ tiêu liên quan trên
báo cáo.
SVTH: Phạm Thị Liên Lớp: Kế Toán 45B
Luận văn tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thanh Quý
- Kiểm tra lại số liệu ghi trên cột “số cuối năm” của Bảng cân đối kế toán ngày
cuối kỳ trước
Khi lập, cột số liệu “số đầu năm” của Bảng cân đối kế toán cuối kỳ này sẽ
được chuyển từ cột “số cuối năm” của Bảng cân đối kế toán cuối kỳ trước.
Cột “số cuối năm” của Bảng cân đối kế toán kỳ này được căn cứ vào số dư của
các TK (cấp 1,2) trên các sổ kế toán có liên quan tại thời điểm lập báo cáo. Những
chỉ tiêu trên Bảng cân đối kế toán có nội dung phù hợp với số dư của các TK thì căn
cứ vào số dư đó để ghi vào các chỉ tiêu tương ứng theo nguyên tắc: số dư Nợ của
các TK ghi vào các chỉ tiêu tương ứng thuộc phần Tài sản, số dư Có được ghi vào
phần tương ứng Nguồn vốn.
Trừ các trường hợp ngoại lệ sau:
- Các TK liên quan đến dự phòng (TK 129,139,159,229) và hao mòn (TK 214)
có số dư Có nhưng vẫn phản ánh bên Tài sản, được ghi âm nhằm phản ánh chính

xác quy mô tài sản hiện có ở doanh nghiệp.
- Bên cạnh đó các TK 412 – Chênh lệch đánh giá lại tài sản, TK 413 – Chênh lệch tỷ
giá hối đoái, TK421- Lợi nhuận chưa phân phối, nếu có số dư Có thì ghi bình thường bên
Nguồn vốn, nếu có số dư Nợ thì phải ghi âm bên Nguồn vốn.
Đối với một số chỉ tiêu mang tính tổng hợp như “Hàng tồn kho”, “Các khoản
phải thu…” do có liên quan đến nhiều TK nên phải tiến hành tổng hợp số liệu từ các
TK liên quan để lấy số liệu phản ánh lên Bảng cân đối kế toán.
Các chỉ tiêu ngoài Bảng cân đối kế toán được ghi nhận trên cơ sở số dư của
các TK liên quan. Đặc điểm của các TK ngoài bảng là ghi đơn, có số dư Nợ nên kế
toán căn cứ trực tiếp vào số dư Nợ cuối kỳ trên sổ Cái của từng TK để ghi vào các
chỉ tiêu tương ứng.
 Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh
Nguồn số liệu chủ yếu dùng lập Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh gồm:
- Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh kỳ trước
- Sổ kế toán chi tiết, tổng hợp trong kỳ của các TK loại 5,6,7,8,9
- Các số liệu khác (Thông báo nộp thuế thu nhập doanh nghiệp, sổ chi tiết TK
3334 – Thuế thu nhập doanh nghiệp)
SVTH: Phạm Thị Liên Lớp: Kế Toán 45B
Luận văn tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thanh Quý
Đối với cột số liệu “Năm trước” tương tự như việc lập Bảng cân đối kế toán,
được lấy từ cột số liệu “Năm nay” tương ứng của Báo cáo kết quả hoạt động kinh
doanh kỳ trước.
Cột số liệu “Năm nay” phản ánh trị số của các chỉ tiêu trong kỳ báo cáo. Việc
lập các chỉ tiêu trên Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh ở cột “Năm nay” cụ thể
như sau:
- Đối với số liệu về doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ, các khoản giảm
trừ và giá vốn hàng bán, Doanh thu hoạt động tài chính, chi phí tài chính, chi phí
bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp, thu nhập khác, chi phí khác được lấy từ sổ
kế toán phản ánh những nội dung trên : các TK doanh thu căn cứ vào số phát sinh
Có, các TK chi phí căn cứ vào số phát sinh Nợ

- Các chỉ tiêu thuế thu nhập doanh nghiệp hiện hành, chi phí thuế thu nhập
doanh nghiệp hoãn lại, căn cứ vào chênh lệch phát sinh bên Nợ, Có của các TK chi
tiết có liên quan để lập Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh.
- Các chỉ tiêu khác như Doanh thu thuần về bán hàng và cung cấp dịch vụ, Lợi
nhuận gộp về bán hàng và cung cấp dịch vụ, Lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh
doanh, Lợi nhuận khác, Tổng lợi nhuận kế toán trước thuế, Lợi nhuận sau thuế thu
nhập doanh nghiệp được tính toán theo hướng dẫn cụ thể trên Báo cáo kết quả kinh
doanh. Trường hợp lỗ thì các chỉ tiêu ghi âm trên báo cáo
- Riêng chỉ tiêu lãi cơ bản trên cổ phiếu được hướng dẫn cách tính toán theo
thông tư hướng dẫn Chuẩn mực kế toán số 30 – Lãi trên cổ phiếu.
 Báo cáo lưu chuyển tiền tệ
Số liệu để lập Báo cáo lưu chuyển tiền tệ bao gồm:
- Bảng cân đối kế toán, Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, Bản thuyết
minh báo cáo tài chính, Báo cáo lưu chuyển tiền tệ kỳ trước
- Các tài liệu kế toán khác như: sổ kế toán tổng hợp, chi tiết các TK
111,112,113 các TK liên quan khác
Để phục vụ cho việc lập Báo cáo lưu chuyển tiền tệ được chính xác, nhanh chóng
kịp thời đòi hỏi việc mở và ghi sổ kế toán phải đảm bảo các yêu cầu sau:
- Phân loại sổ sách chi tiết theo từng hoạt động: các số kế toán chi tiết, các TK phải
SVTH: Phạm Thị Liên Lớp: Kế Toán 45B
Luận văn tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thanh Quý
thu, phải trả, tiền mặt, tiền gửi, tiền đang chuyển phải mở chi tiết cho từng hoạt động mà
doanh nghiệp đang tiến hành (kinh doanh, đầu tư và tài chính)
- Phân loại các khoản đầu tư ngắn hạn theo thời gian thu hồi: Trước khi lập
báo cáo lưu chuyển tiền tệ, kế toán cần phải xác định các khoản đầu tư ngắn hạn có
thời hạn thu hồi hoặc đáo hạn không quá 3 tháng kể từ ngày mua để loại trừ ra khỏi
các khoản mục liên quan đến hoạt động đầu tư ngắn hạn. Đối với các khoản đầu từ
chứng khoán và công cụ nợ không được coi là tương đương tiền, kế toán phải căn
cứ vào mục đích đầu tư để lập bảng chi tiết xác định các khoản mục này phục vụ
cho mục đích thương mại hay phục vụ cho mục đích nắm giữ đầu tư để thu lãi.

Khi lập Báo cáo lưu chuyển tiền tệ cần quán triệt nguyên tắc sau:
- Trình bày luồng tiền vào theo từng hoạt động phù hợp với đặc điểm kinh doanh
của doanh nghiệp bao gồm: hoạt động kinh doanh, đầu tư, tài chính
- Phân biệt luồng tiền phát sinh từ các hoạt động trên cơ sở thuần, bao gồm
một số các luồng tiền phát sinh trong những trường hợp sau:
+ Thu và chi trả tiền hộ khách hàng
+ Thu và chi tiền đối với các khoản có vòng quay nhanh, thời gian đáo hạn
ngắn (mua bán ngoại tệ, các khoản đi vay và cho vay có thời hạn thanh toán không
quá 3 tháng)
- Đối với các giao dịch về đầu tư và tài chính không trực tiếp sử dụng tiền hay
các khoản tương đưong tiền không được trình bày trong Báo cáo lưu chuyển tiền tệ
- Phải quy đổi các giao dịch ngoại tệ ra đồng tiền chính thức sử dụng để ghi sổ kế
toán và lập Báo cáo theo tỷ giá hối đoái tại thời điểm phát sinh giao dịch.
- Doanh nghiệp phải trình bày giá trị và lý do của các khoản tiền và tương
đương tiền có số dư cuối kỳ lớn do doanh nghiệp nắm giữ nhưng không được sử
dụng do có sự hạn chế của pháp luật hoặc các ràng buộc khác mà doanh nghiệp phải
thực hiện.
Khi lập báo cáo lưu chuyển tiền tệ có thể sử dụng hai phương pháp: phương
pháp trực tiếp và phương pháp gián tiếp
Theo phương pháp trực tiếp, các chỉ tiêu trên báo cáo được lập bằng cách xác
định và phân tích trực tiếp các khoản thực thu, thực chi bằng tiền trên các sổ kế toán
SVTH: Phạm Thị Liên Lớp: Kế Toán 45B

×