Tải bản đầy đủ (.doc) (75 trang)

phát triển dịch vụ thẻ tại ngân hàng ngoại thương hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (402.12 KB, 75 trang )

Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
LỜI MỞ ĐẦU
Ngân hàng thương mại là một trung gian tài chính hoạt động chủ yếu
trong nền kinh tế thực hiện chuyển vốn từ người dư thừa vốn sang người thiếu
vốn để thúc đẩy sản xuất phát triển.
Cùng với xu thế của thời đại, hội nhập khu vực và thế giới. Đặc biệt là
khi thực hiện các cam kết của hiệp định thương mại Việt - Mỹ và các cam kết
gia nhập WTO vào năm 2008. Khi đó Việt Nam phải mở cửa và thực hiện tự
do hoá thị trường dịch vụ Ngân hàng cho các Ngân hàng 100% vốn nước
ngoài. Sự hội nhập quốc tế này sẽ làm gia tăng cạnh tranh và tạo ra những
thách thức mới trong thị trường dịch vụ Ngân hàng, nhất là các dịch vụ đa
năng có tính chất công nghệ cao.
Thẻ Ngân hàng là một sản phẩm Ngân hàng hiện đại, tiện ích. Thẻ
Ngân hàng ra đời làm thay đổi cách thức chi tiêu, thanh toán của cộng đồng
xã hội. Với các đặc tính linh hoạt và các tiện ích mà nó mang lại cho các chủ
thẻ liên quan như: thanh toán khi mua hàng hoá dịch vụ, rút tiền mặt, chuyển
tiền, kiểm tra tài khoản, thanh toán tiền điện, tiền nước, cước phí điện thoại…
Thẻ Ngân hàng đã và đang thu hút được sự quan tâm của cả cộng đồng và dự
kiến sẽ tạo ra những khoản lợi nhuận đáng kể cho các Ngân hàng tham gia
thanh toán và phát hành thẻ.
Thẻ Ngân hàng đã và đang được sử dụng phổ biến trên toàn cầu, đặc
biệt là ở các nước phát triển như: Anh, Mỹ…thì thẻ thực sự là “chiếc ví điện
tử” của người dân.
Tuy nhiên ở Việt Nam thì thẻ Ngân hàng mới thực sự phát triển vào
những năm 90 trở lại đây. Khi Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam
(Vietcombank), Ngân hàng đầu tiên ở Việt Nam đưa dịch vụ thẻ vào hoạt
động kinh doanh của mình. Và suốt thời gian từ đó đến nay Vietcombank đã
không ngừng đa dạng hoá dịch vụ thẻ. Tuy nhiên ta vẫn có thể thấy răng
Vietcombank vẫn chưa khai thác hết thế mạnh của mình trên thị trường thẻ.
Và để có thể khai thác hết tiềm năng của mình trên thị trường này thì
Vietcombank cần phải có những giải pháp mang tính thiết thực. Đó cũng là lý


Vò Thuú Linh Líp: TCDN 44D
1
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
do em chọn đề tài “Phát triển dịch vụ thẻ tại Ngân hàng Ngoại thương Hà
Nội” để làm đề tài chuyên đề tốt nghiệp. Trong chuyên đề này là sự giới thiệu
tổng quan về dịch vụ thẻ, tính năng ưu việt của sản phẩm thẻ do Vietcombank
phát hành và một số giải pháp tiếp tục phát triển dịch vụ thẻ trong thời gian
tới.
Chuyên đề gồm 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về dịch vụ thẻ
Chương 2: Thực trạng phát triển dịch vụ thẻ tại Ngân hàng Ngoại
thương Hà Nội
Chương 3: Giải pháp phát triển dịch vụ thẻ tại Ngân hàng Ngoại
thương Hà Nội
Em xin chân thành cảm ơn PGS.TS.Vũ Duy Hào và các anh chị trong
phòng Thanh toán thẻ của Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội đã tận tình quan
tâm giúp đỡ, hướng dẫn em hoàn thành chuyên đề này.
Vò Thuú Linh Líp: TCDN 44D
2
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
Chương 1: TỔNG QUAN VỀ DỊCH VỤ THẺ
1.1. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ DỊCH VỤ THẺ
Thẻ là sản phẩm tương đối mới của Ngân hàng, với một tấm thẻ trong
đó chứa mã số nhận dạng cá nhân bí mật khách hàng thực hiện các giao dịch
tài chính thông qua các tài khoản cá nhân của họ bằng cách sử dụng hệ thông
thu phát ngân tự động tại các máy rut tiền ATM (Automated teller machines)
hoặc tại các đơn vị chấp nhận thẻ.
Các dịch vụ Ngân hàng thông qua thẻ rất đa dạng như: dùng để rút tiền
mặt có định mức trong một ngày, chuyển ngân, gửi tiền mặt hoặc séc vào
Ngân hàng thông qua các phong bì để tại các máy ATM, kiểm tra tài khoản

của mình hoặc yêu cầu cung cấp séc trắng hoặc dùng để mua bán hàng hoá tại
các cửa hàng và siêu thị.
1.1.1 Tình hình chung về thị trường thẻ thế giới
Thẻ thanh toán quốc tế là một trong những phương tiện thanh toán
không dùng tiền mặt được phổ biến trên thế giới từ những năm 70. Lịch sử
thẻ Ngân hàng bắt đầu từ một số nhà kinh doanh muốn mở rộng tín dụng đến
khách hàng của họ, khách hàng được phép ghi nợ vào tài khoản. Rất nhiều
nhà kinh doanh nhỏ muốn áp dụng dịch vụ này nhưng họ không đủ năng lực
để cung cấp tín dụng cho khách hàng và từ đó tạo cơ hội cho các tổ chức Tài
Chính tham gia vào dịch vụ này.
Hình thức thẻ Ngân hàng đầu tiên là Charg - It, một hệ thống tín dụng
được phát triển bởi ông John Biggns vào năm 1946, cho phép khách hàng mua
hàng tại nơi bán lẻ. Các nhà kinh doanh mua hàng tại Ngân hàng Biggins và
Ngân hàng thu tiền thanh toán từ phía khách hàng và trả cho nhà kinh doanh.
Hệ thống này đã chuẩn bị cho thẻ tín dụng đầu tiên vào năm 1951 tại
New Yrok do Ngân hàng Franklin National.
Trên thị trường quốc tế có phát hành và thanh toán nhiều loại thẻ khác
nhau trong đó nổi bật lên 5 loại thẻ chủ yếu là: Dinner club, American
Express (được viết tắt là Amex), thẻ visa, thẻ JCB, thẻ Master Card.
Vò Thuú Linh Líp: TCDN 44D
3
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
Thẻ Dinner Club là loại thẻ du lịch và giải trí do tổ chức thẻ tự phát
hành vào năm 1949 tại Mỹ. Vào năm 1960 nó là thẻ trước tiên có mặt tại
Nhật. Vào năm 1993 Dinner Club có 1,5 triệu thẻ trên toàn thế giới với doanh
số 7,9 tỷ USD.
Thẻ American Express (gọi tắt là Amex). Vào năm 1958 tổ chức thẻ
American Express phát hàng thẻ Green Amex không hạn mức tín dụng, chủ
thẻ được chi tiêu và có trách nhiệm trả một lần vào cuối tháng. Năm 1987
Amex cho ra đời thêm 3 loại thẻ Amex Gold, Amex Platinum và Optima có

hạn mức tín dụng tuần hoàn để cạnh tranh với thẻ Visa và thẻ Master Card.
Cho đến nay có thể nói rằng đây là tổ chức thẻ du lịch và giải trí lớn nhất thế
giới, tổ chức này trực tiếp phát hành và quản lý chủ thẻ.
Thẻ Visa, năm 1960 Ngân hàng Mỹ phát hành thẻ Bank Americard.
Năm 1977 thẻ Bank Americard trở thành thẻ VISA. Tổ chức thẻ Visa quốc tế
cũng chính thức hình thành và phát triển, cho đến nay có thể nói rằng thẻ Visa
là loại thẻ có quy mô phát triển lớn nhất thế giới. Tổ chức thẻ Visa không trực
tiếp phát hành mà chủ yếu giao lại cho các thành viên thực hiện công tác phát
hành thẻ.
Thẻ JCB xuất phát từ Nhật vào những năm 1961 bởi Ngân hàng Sanwa.
Năm 1981 đã bắt đầu phát triển thành tổ chức thẻ quốc tế, với mục tiêu chủ
yếu là hướng vào thị trường giải trí và du lịch.
Thẻ Master Card dựa trên thành quả của thẻ Bank American, một số tổ
chức thẻ khác ở Mỹ bắt đầu tìm cách cạnh tranh, năm 1966, 14 Ngân hàng Mỹ
liên kết với nhau thành lập hiệp hội thẻ liên Ngân hàng gọi tắt là ICA (Intrebank
Card Association). Năm 1967, 4 Ngân hàng ở Califomia chính thức phát hành
thẻ Marter Charge.Năm 1979 Marter Charge đổi tên thành Marter Card và trở
thành tổ chức thanh toán thẻ lớn thứ hai trên thế giới sau Visa.
Năm 2003 là năm có nhiều biến động lớn đối với tình hình hoạt động
thẻ trên thế giới, đặc biệt là thị trường khu vực. Trong năm 2003, hầu hết các
nền kinh tế lớn trên thế giới đều khôi phục chậm từ suy thoái kinh tế. Nền
kinh tế Mỹ vẫn đóng vai trò nhưng mức tăng trưởng GDP thì vẫn có sự sụt
giảm so với năm 2002. Khu vực các nước sử dụng đồng Euro, với cầu nội địa
thấp, chính sách tài khoá thắt chặt và việc đồng Euro giảm giá, đặc biệt là nền
Vò Thuú Linh Líp: TCDN 44D
4
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
kinh tế Đức có những dấu hiệu suy thoái đáng lo ngại. Nền kinh tế thứ 3 thế
giới, Nhật bản cũng không hề khả quan hơn.
Thêm vào đó là những ảnh hưởng của chiến tranh Irac và sự tác động

của dịch viêm đường hô hấp cấp (SARS) đã có những tác động không nhỏ tới
thị trường dịch vụ và du lịch từ đó nó có những tác động đáng kể đến thị
trường thẻ quốc tế.
Trước bối cảnh đó các tổ chức thanh toán thể quốc tế đã đưa ra nhiều
biện pháp, chính sách nhằm thúc đẩy thị trường thẻ phát triển. Đặc biệt là
thực hiện những chính sách nhằm phát triển thị trường thẻ sang khu vực Châu
Á. Nhờ những nổ lực đó mà thị trường thẻ thế giới vẫn có sự tăng trưởng
trong năm 2003.
Vào năm 2003, số lượng thẻ phát hành của các thương hiệu thẻ quốc tế
Visa, Master Card, JCB, American Express, Dinner Club, đều tăng khoảng
10,5% tức tăng gần 2 tỷ thẻ trên toàn cầu. Visa và Master Card vẫn chiếm thị
phần thẻ cao nhất với khoảng 93,9% tổng thị phần thẻ.
Về tốc độ tăng trưởng của số thẻ phát hành, Visa đứng đầu với mức
tăng 12,7%, tiếp theo là JCB với 9,5%, Master Card với 7%, Dinner Club với
8,45% và cuối cùng là American Express với 8,3%.
Về mặt doanh số sử dụng thẻ, trong năm 2003 tổng doanh số sư dụng
thẻ của các tổ chức thanh toán thẻ quốc tế đạt ở mức cao 4.744 tỷ USD trên
toàn thế giới, tăng 8,5% so với năm 2002.
Sang năm 2004, 2005 tình hình phát triển của thị trường thẻ quốc tế
vẫn đi theo xu hướng chung là: dẫn đầu vẫn là Visa, tiếp theo đó là Master
Card, và theo sau vẫn là American Express, JCB, Dinner Club.
Số giao dịch thanh toán hàng hoá dịch vụ tại các đơn vị chấp nhận thẻ
tăng 12,8% trong năm 2004. Với Visa và Master Card chiếm trên 90% tổng
số giao dịch. Thị trường Mỹ vẫn là thị trường phát hành lớn nhất với trên 50%
số giao dịch được thực hiện do các chủ thẻ Mỹ tiến hành.
1.1.2.Tình hình chung về thị trường thẻ Việt Nam
Tại Việt Nam thẻ thanh toán quốc tế đã du nhập vào từ năm 1990 và
lúc đó Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam đã tiên phong tiến hành triển khai
nghiệp vụ thanh toán thẻ quốc tế và thẻ tín dụng.
Vò Thuú Linh Líp: TCDN 44D

5
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
Nhiều năm sau đó thẻ Ngân hàng phát triển chậm và gần như ít ai biết
đến. Năm 1998, sau gần 8 năm có mặt tại Việt Nam nhưng doanh số thanh
toán thẻ Ngân hàng trong nước chỉ đạt khoảng 68.000 triệu đồng, thẻ quốc tế
khoảng 175 triệu USD (nguồn báo cáo hội nghị các Ngân hàng phát hành
thẻ). Số lượng các Ngân hàng phát hành rất ít, chỉ có 2 Ngân hàng là Ngân
hàng Ngoại thương Việt Nam và Ngân hàng Thương mại cổ phần Á Châu, số
lượng thẻ phát hành chủ yếu phục vụ cho khách hàng có nhu cầu học tập công
tác, du học, khám chữa bệnh…ở nước ngoài. Thị trường thẻ trong nước ít ai
quan tâm đến việc dùng thẻ để thanh toán mặc dù nó được chứng minh về
tính ưu việt toàn cầu. Bức xúc trước một thị trường thẻ tiềm năng mà chưa
được khai thác hàng loạt các chương trình hội thảo về thanh toán và phát hành
thẻ được tổ chức trên phạm vi quốc gia. Nhiều công trình nghiên cứu về thẻ
tiếp tục được ra đời.
Và đến năm 2000-2001 thì thị trường thẻ Việt Nam thực sự khởi sắc.
Số lượng Ngân hàng phát hành thẻ liên tục tăng lên. Ngoài Vietcombank và
Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu còn có các Ngân hàng khác như:
Ngân hàng Nông Nghiệp và Phát Triển nông thôn, Ngân hàng Công thương,
Ngân hàng Thương mại Cổ phần Xuất Nhập Khẩu.
Xét về quy mô phát triển của thị trường thẻ, nếu năm 2002 các Ngân
hàng trong cả nước có khoảng 20.000 thẻ thì đến cuối năm 2005 lên đến
85.000 thẻ các loại, chỉ trong vòng 4 năm mà số lượng thẻ phát hành đã tăng
hơn 4 lần và dự tính sẽ còn tăng mạnh trong năm 2006. Trong đó thì thẻ thanh
toán nội địa và thẻ tín dụng là chiếm tỷ trọng lớn.
Trong năm 2003 thị trường thẻ đã chứng kiến bước nhảy vọt của sản
phẩm thẻ nội địa. Nhận thấy được tính chất phù hợp của thẻ nội địa cho thị
trường Việt Nam, các Ngân hàng phát hành đều hết sức quan tâm đến việc
phát triển thẻ. Ngân hàng Thương mại cổ phần Á Châu (ACB) là Ngân hàng
đi tiên phong trong việc phát hành thẻ nội địa vào năm 2001, nhưng tính đến

thời điểm cuối năm 2003 đã có nhiều Ngân hàng đi sau như: Ngân hàng Công
thương Việt Nam (ICB), Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn
(AgriBank)…Tính đến 31/12/2003 Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam vẫn là
Ngân hàng đi đầu về số lượng thẻ phát hành với hơn 160 nghìn thẻ nội địa
Vò Thuú Linh Líp: TCDN 44D
6
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
Connect 24 trong số hơn 240 nghìn thẻ của cả thị trường, chiếm 67% thị
phần, theo sau là các Ngân hàng ACB, ICB, AgriBank…
Trong số thẻ nội địa phát hành, có đến 98% là thẻ ghi nợ và thẻ ATM.
Điều này chứng tỏ sức hấp dẫn và phù hợp của thẻ ghi nợ và thẻ ATM trong
điều kiện thị trường thẻ hiện nay. Đối tượng cán bộ khách hàng chủ yếu là
cán bộ công nhân viên chức, người lao động tại các doanh nghiệp nước ngoài,
các doanh nghiệp liên doanh tại các thành phố lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ
Chí Minh. Có thể thấy rằng con số 240 nghìn thẻ vẫn còn là quá nhỏ so với
thị trường tiềm năng ước tính lên tới hàng chục triệu người lao động làm công
ăn lương và các đối tượng có nhu cầu trên khắp cả nước.
Với số lượng thẻ lưu hành khá lớn, trong năm 2003 doanh số sử dụng
thẻ nội địa cũng khá lớn. Do đại đa số thẻ nội địa là thẻ ghi nợ và thẻ ATM
nên doanh số sử dụng thẻ phụ thuộc rất nhiều và công tác triển khai mạng
lưới ATM của các Ngân hàng. Doanh số sử dụng thẻ Connect 24 của
Vietcombank trong năm 2003 đạt hơn 3000 tỷ VNĐ, ICB đạt 145 tỷ đồng,
ACB đạt 33 tỷ đồng và AgriBank đạt 27 tỷ đồng.
Còn về phát hành thẻ quốc tế thì trong năm 2003 có 4 Ngân hàng chủ
yếu tham gia phát hành là ACB, ANZ, EIB, và Vietcombank. Xét trong năm
2003, tuy ACB có chững lại trong cuộc chạy đua phát hành thẻ nội địa nhưng
về phát hành thẻ quốc tế thì vẫn đứng đầu với 39% thị phần, tương đương
33.000 thẻ. Theo sau là Vietcombank với 27.000 thẻ, ANZ với 21.000 thẻ và
EIB với 300 thẻ.
Sang năm 2004 và 2005 thì số lượng thẻ tăng lên nhanh chóng, có thể

ước tính được rằng mỗi tháng tại Vietcombank trung bình phát hành gần 7000
thẻ, và tại Ngân hàng ACB cũng tương tự. Điều này cũng chứng minh cho vị
trí dẫn đầu của Vietcombank trên thị trường thẻ.
Về công dụng của thẻ cũng được nâng lên rất nhiều, nếu như ban đầu
thẻ chỉ dùng để rút tiền mặt thì cho đến nay thẻ công dụng của thẻ đã được
nâng lên rất nhiều. Ngoài việc dùng để rút tiền mặt tại các máy ATM, thẻ còn
được dùng để thanh toán tiền hàng hoá tại các cơ sở chấp nhận thẻ, các loại
thẻ của Vietcombank và ACB còn được dùng để thanh toán cước điện thoại,
phí bảo hiểm, phí taxi…
Vò Thuú Linh Líp: TCDN 44D
7
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
Các loại thẻ phát hành cũng ngày càng đa dạng. Nếu trước đây thị
trường chỉ quen với các loại thẻ Visa, Master Card của Vietcombank và ACB
phát hành thì đến nay trên thị trường thẻ đã có thêm nhiều loại thẻ mới do các
Ngân hàng khác nhau phát hành.Theo sự phát triển qua các năm thì đầu tiên là
Vietcombank phát hành thẻ Connect 24, sau đó là VCB-Amex dành cho
những người có thu nhập cao (hạn mức tín dụng từ 50 - 250 triệu đồng), chủ
thẻ được hưởng nhiều dịch vụ hỗ trợ như: dịch vụ bảo hiểm, trợ giúp khẩn cấp
du lịch, bảo hiểm mất mát hành lý khi du lịch, được tính điểm thưởng để
hưởng chuyến bay miễn phí. Kế tiếp là thẻ Master Card và Visa của
Eximbank, thẻ tín dụng của HSBC và ACB hợp tác phát hành (có hạn mức tín
dụng từ 50 - 70 triệu đồng). Trong năm 2003 Vietcombank và Ngân hàng
Thương mại cổ phần Kỹ Thương Việt Nam cũng cùng hợp tác phát hành thẻ
ghi nợ F@st Asses-Connect 24. Thẻ này có 3 hạng là hạng chuẩn, hạng vàng
và hạng đặc biệt, trên cơ sở tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng Thương mại cổ
phần Kỹ Thương Việt Nam khách hàng có thể thực hiện các tiện ích về thẻ do
Vietcombank cung cấp. Đồng thời cũng có sự liên kết thanh toán giữa nhiều
Ngân hàng phát hành khác nhau nên ngày càng tạo ra nhiều tiện ích cho người
sử dụng thẻ. Và cho đến năm 2006 thì thị trường thẻ Việt Nam thực sự khởi

sắc và ngày càng phát triển mạnh mẽ hơn.
Sự phát triển mạnh mẽ của thị trường thẻ đã đẩy mạnh việc triển khai
hệ thông giao dịch tự động và trở thành một yêu cầu tất yếu đối với các Ngân
hàng. Nếu trong năm 2002 các Ngân hàng thương mại trong cả nước mới đưa
vào vận hành trên 200 máy ATM, năm 2003 là khoảng hơn 320 máy, năm
2004 hơn 600 máy và năm 2005 là khoảng 850 máy ATM, dự tính đến cuối
năm 2006 thì số lượng máy còn tăng lên rất nhiều có thể là trên 1000 máy
ATM hoặc hơn.
Cùng với sự phát triển của dịch vụ thẻ thì mạng lưới các đơn vị chấp
nhận thẻ cũng không ngừng tăng thêm và ngày càng rộng khắp. Vào cuối năm
2003 trên cả nước có khoảng 9.000 đơn vị chấp nhận thẻ trên cả nước thì cho
đến nay số lượng các đơn vị chấp nhận thẻ đã tăng lên trên 10.000 đơn vị và
từ bây giờ đến cuối năm 2006 sẽ còn tăng thêm rất nhiều.
Vò Thuú Linh Líp: TCDN 44D
8
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
Thành phố Hồ Chí Minh là thị trường thẻ lớn nhất và sôi động nhất
trong toàn quốc. Chỉ riêng trong năm 2004 tổng doanh số thanh toán thẻ quốc
tế của các Ngân hàng thương mại trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh đã đạt
244 triệu USD, doanh số thanh toán thẻ trong nước đạt 3.587 tỷ đồng. Tổng
số tài khoản cá nhân mở và giao dịch với các tổ chức tín dụng trên địa bàn
thành phố đạt: 398.598 tài khoản, tăng 87,5% so với năm 2003; với tổng số
dư trên tài khoản đạt 6.076 tỷ VNĐ, tăng 53% so với năm trước. Chính những
tiện ích của thẻ ATM trong thanh toán và trong các giao dịch khác là yếu tố
quan trong đã và đang thu hút người dân sử dụng.
Do phát triển mạnh dịch vụ thanh toán thẻ và thanh toán không dùng
tiền mặt nên Hệ thống Thanh toán Điện tử liên Ngân hàng cũng được triển
khai rộng rãi. Cho đến nay tổng khối lượng thanh toán không dùng tiền mặt ở
Thành phố Hồ Chí Minh đạt 1.338.112 tỷ đồng, bằng 144,6% so với năm
2003, chiếm 85% tổng lượng thanh toán qua Ngân hàng. Chiếm phần lớn so

với thanh toán bằng uỷ nhiệm chi (chiếm 70%) và thanh toán bằng uỷ nhiệm
thu (chiếm 2,6%). Và có thể thấy rằng xu hướng chung trong các năm tới chủ
yếu là thanh toán qua thẻ Ngân hàng và dùng tài khoản để thanh toán. Hình
thức thanh toán bằng uỷ nhiệm thu và uỷ nhiệm chi được các doanh nghiệp sử
dụng là chủ yếu.
Tính đến nay có khoảng trên 20 Ngân hàng tại Việt Nam thực hiện
nghiệp vụ phát hành và thanh toán thẻ, tổng số khoảng 1,3 triệu tài khoản cá
nhân, với số dư khoảng 12.000 tỷ đồng, trong đó có hơn 50% tài khoản đã sử
dụng thẻ. Tại thành phố Hồ Chí Minh tính đến cuối năm 2004 có tổng số
398.598 tài khoản cá nhân, tăng 53% so với năm 2003, số dư tiền gửi tài
khoản đạt 6.076 tỷ đồng, tăng 87,5% so với năm trước. Tại Hà Nội, cũng tính
đến hết năm 2004 có tổng số 216.473 tài khoản cá nhân với số dư 3.600 tỷ
đồng, tăng khoảng 40% - 50% so với năm trước. Các tỉnh, thành phố khác số
lượng tài khoản cá nhân cũng tăng lên đáng kể, thị trường thẻ ngày càng phát
triển mạnh. Kéo theo sự phát triển đó là sự liên kết, nối mạng sử dụng chung
hệ thống máy ATM giữa các Ngân hàng thương mại Việt Nam. Bằng chứng
là: từ đầu tháng 8/2004, Công ty chuyển mạch tài chính quốc gia (BankNet)
đã khai trương hoạt động với 11 thành viên là các Ngân hàng thương mại.
Vò Thuú Linh Líp: TCDN 44D
9
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
Bên cạnh đó có 4 Ngân hàng khác là Chohung Vina Bank, Ngân hàng thương
mại cổ phần Kỹ Thương, Ngân hàng thương mại cổ phần nhà Hà Nội và Ngân
hàng thương mại cổ phần Quân Đội cũng kết nối mạng hệ thống máy ATM
của mình với Vietcombank. Ngoài ra còn nhiều mạng liên kết khác cũng được
thực hiện.
Cho đến nay thì dịch vụ thẻ ngày càng phát triển tại thị trường Việt
Nam, nó không chỉ được dùng để rút tiền mặt tại các máy ATM mà còn đem lại
nhiều tiện ích khác cho chủ thẻ. Đặc biệt trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam
đang phát triển mạnh với tốc độ cao, khu vực dân số trẻ, số lượng người Việt

Nam đi du học, du lịch, và công tác ở nươc ngoài ngày càng tăng và số lượng
người nươc ngoài đến Việt Nam cũng tăng lên, mở ra một thị trường tiềm năng
cho dịch vụ thẻ. Thúc đẩy thị trương thẻ Việt Nam ngày một phát triển.
1.1.3. Tác dụng của dịch vụ thẻ
Với sự ra đời của sản phẩm thẻ Ngân hàng đã đánh dấu một bước phát
triển mới của công nghệ thẻ Ngân hàng.
Với sản phẩm mới này Ngân hàng có thể cung cấp các dịch vụ của
mình tại nhiều nơi, ra ngoài phạm vi trụ sở các phòng giao dịch của Ngân
hàng, tại mọi thời gian trong ngày và tới mọi đối tượng khách hàng có nhu
cầu. Hoạt động kinh doanh mới này đã mang lại cho Ngân hàng nhiều lợi
nhuận và cũng tác động đến nhiều hoạt động nghiệp vụ khác của Ngân hàng.
Thẻ Ngân hàng ra đời góp pần tích cực vào việc thay đổi thói quen giao
dịch thanh toán của công chúng, tăng tỷ trọng không dùng tiền mặt trong hoạt
động kinh doanh của Ngân hàng. Đây là một giải pháp hữu hiệu để giảm phí
lưu thông toàn xã hội, giảm chi phí vận chuyển, kiểm đếm, bảo quản, in ấn,
đồng thời cung cấp một phương tiện thanh toán ưu việt, thanh toán trực tuyến,
thanh toán qua mạng Internet.
So với các thanh toán không dùng tiền mặt khác (như séc, uỷ nhiệm
thu, uỷ nhiệm chi, thư tín dụng, ngân phiếu thanh toán…) chỉ đáp ứng cho các
đối tượng là tổ chức và doanh nghiệp với quy mô giao dịch lớn, thẻ Ngân
hàng có ưu điểm vượt trội là có khả năng phổ cập tới đông đảo quần chúng
nhân dân, đây là một đối tượng khách hàng lớn và tiềm năng trong điều kiện
kinh tế nước ta hiện nay.
Vò Thuú Linh Líp: TCDN 44D
10
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
Với vai trò chính là một sản phẩm dịch vụ thanh toán, nhưng thẻ Ngân
hàng đặc biệt là thẻ tín dụng hoặc là thẻ rút tiền mặt có chức năng thấu chi
được coi là một sản phẩm tín dụng của Ngân hàng.
Sản phẩm thẻ Ngân hàng mang lại cho nền kinh tế, xã hội những lợi ích

vô cùng to lớn, nó cung cấp một phương tiện thanh toán an toàn, văn minh,
hiện đại, làm giảm lưu lượng tiền mặt trong nền kinh tế.
1.2. HOẠT ĐỘNG THANH TOÁN THẺ TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG
MẠI
1.2.1. Khái niệm thẻ
Thẻ Ngân hàng là công cụ thanh toán đo Ngân hàng phát hành thẻ cấp cho
khách hàng sử dụng theo hợp đồng ký kết giữa khách hàng với Ngân hàng .
Thẻ do Ngân hàng phát hành ra có thể là thẻ nội địa hoặc thẻ quốc tế.

Thẻ nội địa là thẻ do Ngân hàng phát hành thẻ tại Việt Nam phát hành,
được sử dụng và thanh toán tại nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Thẻ quốc tế là thẻ do ngân hàng phát hành thẻ tại Việt Nam phát
hành, được sử dụng và thanh toán trong và ngoài lãnh thổ Việt Nam hoặc thẻ
được phát hành tại nước ngoài nhưng được sử dụng và thanh toán tại nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
1.2.2. Đặc điểm và tính chất của thẻ
Thẻ là một phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt với nhiều đặc
điểm khác biệt hẳn so với các phương tiện thanh toán khác. Trong điều kiện
hiện nay khi mà công nghệ thông tin ngày càng phát triển thì thẻ trở thành
một phương tiện thanh toán với nhiều ưu điểm, đặc tính vượt trội và ngày
càng trở nên thông dụng hơn.

Tính linh hoạt:
Với nhiều loại thẻ đa dạng và phong phú, thẻ thích hợp cho mọi đối
tượng, từ những khách hàng có thu nhập cao (thẻ vàng), đến những khách
hàng có thu nhập thấp (thẻ chuẩn), thẻ có thể dùng để rút tiền mặt hoặc thanh
toán hàng hoá dịch vụ.
Thẻ được coi là ‘chiếc ví điện tử’ của chủ thẻ, giúp chủ thẻ kiểm soát
được hoạt động chi tiêu của mình.

Vò Thuú Linh Líp: TCDN 44D
11
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp

Tính thuận tiện:
Thẻ là phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt, đem lại nhiều lợi
ích cho khách hàng mà không một phương tiện thanh toán nào khác như séc
hay uỷ nhiệm thu, uỷ nhiệm chi có được.
Chỉ với tấm thẻ trong tay khách hàng có thể thanh toán hàng hoá, dịch
vụ tại bất cứ điểm chấp nhận thẻ nào mà không cần phải mang theo tiền mặt.
Ngoài ra chủ thẻ còn được hưởng nhiều tiện ích do Ngân hàng phát hành thẻ
cung cấp.

Tính an toàn và nhanh chóng:
Thẻ được cấu tạo dựa trên công nghệ hết sức tinh vi hiện đại, khó làm
giả, vì vậy thẻ có tính an toàn cao. Khi mất thẻ, chủ thẻ cần nhanh chóng
thông báo kịp thời cho Ngân hàng phát hành để Ngân hàng kịp thời khoá tài
khoản của khách hàng tránh khả năng bị kẻ gian rút trộm tiền.
Thẻ có kích thước gọn nhẹ, dễ mang theo và thuận tiện trong mua sắm
hoặc có thể thanh toán một khối lượng hàng hoá lớn mà không cần lo đến viêc
là có mang thiếu tiền hay không.
1.2.3. Cấu tạo của thẻ
Hầu hết các loại thẻ thanh toán quốc tế làm bằng nhựa ABS hoặc nhựa
plastic. Thẻ có dạng hình chữ nhật được cấu tạo gồm 3 lớp ép với công nghệ
kỹ thuật cao. Kích thước thẻ là 84mm x 54mm, có góc tròn.

Mặt trước của thẻ gồm:
- Biểu tượng của thẻ: Mỗi loại thẻ phát hành ra có một biểu tượng
khác nhau mang tính chất đặc trưng cho tác dụng của thẻ.
Visa: con chim bồ câu trắng đang bay trong không gian 3 chiều

Master Card: có hai hình tròn lồng vào nhau nằm ở góc dưới bên phải.
Một hình mầu da cam, một hình mầu đỏ và dòng chữ Master Card chạy ở
giữa.
JCB: có 3 mầu xanh, đỏ, xanh lá cây, chữ JCB chạy ở giữa.
Amex: có hình đầu người chiến binh.
- Số thẻ là dãy số riêng của thẻ do ngân hàng phát hành lập và được
dập nổi trên thẻ.
Visa: có hai loại số thẻ là 13 số và 16 số.
Vò Thuú Linh Líp: TCDN 44D
12
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
Master Card: số thẻ gồm 16 số.
JCB: số thẻ gồm 16 số
Amex: số thẻ gồm 15 số.
- Họ và tên của chủ thẻ: Tức là họ và tên của người sở hữu thẻ. Ở một
số loại thẻ còn có cả ảnh của chủ thẻ.
- Ngày sử dụng của thẻ: Là thời gian mà thẻ được phép lưu hành.
Thời gian hiệu lực của thẻ được dập nổi trên thẻ. Hết thời gian này chủ thẻ
phải làm lại thẻ.
- Và các ký hiệu khác mang tính chất an toàn của thẻ.

Mặt sau của thẻ:
- Dãi từ tính: có khả năng lưu giữ các thông tin về chủ thẻ, thông tin
về tài khoản, chữ ký của chủ thẻ.
- Ô chữ ký: Là chữ ký của chủ thẻ để cơ sở chấp nhận thanh toán thẻ
đối chiếu khi thanh toán.
1.2.4. Phân loại thẻ
Thẻ được phân loại theo nhiều tiêu thức khác nhau và thường dựa vào
một vài tiêu thức chủ yếu như: dựa vào tổ chức phát hành, dựa vào hạn mức
của thẻ, dựa vào tính chất kỹ thuật, phạm vi thanh toán thẻ.

1.2.4.1. Phân loại theo tính chất của thẻ

Thẻ tín dụng.
Thẻ tín dụng là một công cụ thanh toán không dùng tiền mặt, cho phép
người sử dụng có thể thanh toán trước trả tiền sau. Khoảng thời gian từ khi
thẻ được dùng để thanh toán hàng hoá, dịch vụ tới lúc chủ thẻ trả tiền cho
Ngân hàng phụ thuộc vào từng loại thẻ tín dụng của các tổ chức phát hành
khác nhau. Nếu chủ thẻ thanh toán toàn bộ số dư nợ khi đến hạn thanh toán
chủ thẻ có thể được miễn lãi đối với số dư nợ cuối kỳ. Tuy nhiên, nếu hết thời
hạn thanh toán mà chủ thẻ chưa thanh toán toàn bộ số dư cuối kỳ thì chủ thẻ
sẽ chịu những khoản phí và sẽ phải trả mức lãi phạt. Khi toàn bộ số tiền phát
sinh được hoàn trả cho Ngân hàng thì hạn mức tín dụng của chủ thẻ được
khôi phục. Đây chính là tính chất “tuần hoàn” của thẻ tín dụng.
Các tổ chức tài chính như Ngân hàng hay các công ty tài chính phát
hành thẻ tín dụng cho tất cả các khách hàng dựa trên uy tín và khả năng đảm
Vò Thuú Linh Líp: TCDN 44D
13
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
bảo chi trả của các khách hàng. Khả năng đảm bảo chi trả được xác định dựa
trên sự tổng hợp của nhiều thông tin khác nhau như: thu nhập, tình hình chi
tiêu, mối quan hệ với các tổ chức tài chính, địa vị xã hội…của khách hàng.
Do đó, mỗi khách hàng khác nhau sẽ có một hạn mức tín dụng khác nhau.
Cũng từ việc thẩm định và phân loại khách hàng mà Ngân hàng cũng như các
tổ chức tín dụng có thể phát hành ra nhiều loại thẻ tín dụng khác nhau nhằm
cung cấp cho khách hàng những phương tiện thanh toán tiện lợi nhất.
Khi sử dụng thẻ thay bằng thanh toán bằng tiền mặt chủ thẻ sử dụng thẻ
để thanh toán, chủ thẻ xuất trình thẻ của mình tại các đơn vị chấp nhận thẻ để
thanh toán hàng hoá, dịch vụ.

Thẻ ghi nợ.

Giống như thẻ tín dụng, thẻ ghi nợ là một phương tiện thanh toán
không dùng tiền mặt. Tuy nhiên nói về mức độ có thể thay thế tiền mặt, thẻ
ghi nợ chiếm ưu thế vượt trội hơn so với thẻ tín dụng. Bất cứ khách hàng nào
có tài khoản tại Ngân hàng đều có thể phát hành thẻ ghi nợ, trong trường hợp
chưa có tài khoản, khách hàng muốn phát hành một thẻ ghi nợ thì bản thân thẻ
ghi nợ này sẽ gằn liền với một tài khoản tại Ngân hàng. Thẻ ghi nợ cho phép
khách hàng tiếp cận với số dư trong tài khoản của mình thông qua hệ thông
kết nối trực tuyến để thanh toán hàng hoá, dịch vụ tại các đơn vị chấp nhận
thẻ hoặc thực hiện các giao dịch liên quan tới tài khoản tại máy rút tiền tự
động ATM. Mức chi tiêu của chủ thẻ phụ thuộc vào số dư trên tài khoản.
Ngân hàng đóng vai trò cung cấp dịch vụ cho chủ thẻ và thu phí dịch vụ. Đối
với thẻ ghi nợ, giữa Ngân hàng và khách hàng không diễn ra quá trình cho
vay, không có việc phân loại khách hàng để được hưởng hạn mức tín dụng
nên khách hàng chỉ cần có tài khoản tại Ngân hàng đều có thẻ tiếp cận tới sản
phẩm thẻ ghi nợ của Ngân hàng.

Thẻ ATM.
Thẻ ATM là hình thức phát triển đầu tiên của thẻ ghi nợ, cho phép chủ
thẻ tiếp cận trực tiếp tới tài khoản tại Ngân hàng thông qua các máy rút tiền tự
động ATM. Chủ thẻ có thẻ thực hiện các giao dịch khác nhau tại máy rút tiền
tự động, bao gồm: xem số dư tài khoản, chuyển khoản, rút tiền, xem các
thông tin quảng cáo…Hệ thông ATM hiện đại còn cho phép chủ thẻ gửi tiền
Vò Thuú Linh Líp: TCDN 44D
14
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
vào tài khoản của mình thông qua các máy ATM và tự mình thực hiện các
dịch vụ Ngân hàng khác.
Sự tiện lợi là đặc điểm quan trọng nhất của thẻ ATM. Bằng cách nhập
mã số cá nhân PIN, chủ thẻ có thể tiếp cận với tài khoản cá nhân của mình tại
Ngân hàng ở mọi nơi, mọi lúc 24/24h mỗi ngày và 7 ngày trong tuần. Hệ

thống ATM cung cấp cho khách hàng sử dụng thẻ khả năng giao dịch ngoài
giờ làm việc và ngoài trụ sở Ngân hàng.
Theo thời gian, các tổ chức phát hành thẻ chủ động kết nối các máy
ATM với nhau tạo nên mạng lưới ATM, cho phép khách hàng giao dịch tại
nhiều máy ATM hơn.
1.2.4.2. Phân loại theo công nghệ Ngân hàng

Thẻ từ.
Hầu hết các loại thẻ đang lưu hành hiện nay là thẻ từ. Thẻ từ dùng
trong thanh toán là chiếc thẻ nhựa có một dãi từ ở mặt sau và một phần dành
riêng để chứa chữ ký của chủ thẻ.
Toàn bộ thông tin liên quan đến chủ thẻ đều được mã hoá bằng từ tính.
Thông tin được ghi trên dãi băng từ và có 3 rãnh chứa thông tin, mỗi rãnh có
độ rộng khoảng 1/10 inch.
Rãnh 1 có mật độ dữ liệu 210 bit/inch và có thể lưu tối đa 79 ký tự.
Rãnh 2 có mật độ 75 bit/inch, có thể lưu tối đa 40 ký tự.
Rãnh 3 có mật độ 210 bit/inch, có thể lưu tối đa 107 ký tự.
Thẻ thanh toán bình thường chỉ sử dụng thông tin trên rãnh 1 và 2. Việc
sử dụng rãnh 3 tuỳ thuộc vào các Ngân hàng phát hành thẻ.

Thẻ thông minh.
Là giai đoạn phát triển hiện đại của thẻ Ngân hàng, thể hiện những ứng
dụng hiện đại nhất của công nghệ thông tin vào lĩnh vực thẻ, đó là việc sử
dụng Chíp điện tử. Thông thường một tấm thẻ thông minh được gắn chíp điện
tử thay cho dãi từ tính phía sau thẻ. Cũng có trường hợp thẻ thông minh có
gắn cả chíp điện tử và có cả dải từ tính. Chíp điện tử độc lập với thẻ và được
găn trên bề mặt của thẻ, về bản chất gầm 2 loại: chíp bộ nhớ và chíp xử lý dữ
liệu. Trong đó, chíp bộ nhớ lưu trữ toàn bộ các thông tin cần thiết có thể cung
Vò Thuú Linh Líp: TCDN 44D
15

Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
cấp cho thẻ trong mỗi lần sử dụng; còn chíp xử lý dữ liệu có khả năng bổ
xung, xoá bỏ hoặc điều chỉnh thông tin trong bộ nhớ.
Thẻ thông minh gắn chíp xử lý dữ liệu có khả năng vừa lưu trữ thông
tin về chủ thẻ, điểm thưởng tích luỹ đồng thời lưu giữ số liệu về những lần
giao dịch tại đơn vị chấp nhận thẻ. Tính năng vượt trội này của thẻ thông
minh giúp cắt giảm chi phí xử lý đối với Ngân hàng và các trung gian thanh
toán bởi việc đối chiếu thông tin tài khoản và thông tin chủ thẻ cũng như việc
cập nhật thông tin từ các đơn vị chấp nhận thẻ.
1.2.4.3. Phân loại theo hạn mức tín dụng

Thẻ vàng:
Là loại thẻ phục vụ những khách hàng có thu nhập cao, có uy tín đối
với Ngân hàng và có khả năng tài chính vững mạnh.

Thẻ chuẩn:
Là loại thẻ được sử dụng phổ biến thích hợp với nhiều đối tượng khách
hàng có mức thu nhập trung bình, và phù hợp với những khách hàng có
những mức thu nhập không ổn định.
Thẻ chuẩn có hạn mức tín dụng thấp hơn thẻ vàng rất nhiều.
1.2.4.4. Phân loại theo chủ thể phát hành

Thẻ do Ngân hàng phát hành:
Là loại thẻ giúp cho khách hàng sử dụng linh hoạt tài khoản của mình
tại Ngân hàng, hoặc sử dụng số tiền do Ngân hàng cấp tín dụng, loại thẻ này
được sử dụng khá phổ biến, nó không chỉ được lưu hành trong phạm vi quốc
gia mà còn được phép lưu hành trên toàn thế giới.

Thẻ do tổ chức phi Ngân hàng phát hành:
Là loại thẻ du lịch, giải trí của các tập đoàn kinh doanh lớn như:

Dinners Club, Amex…phát hành và cũng được lưu hành trên toàn cầu.
1.2.4.5. Phân loại theo phạm vi sử dụng của thẻ

Thẻ tín dụng trong nước: Có 2 loại
- Một là thẻ do hệ thống Ngân hàng hoặc tổ chức tài chính trong nước
phát hành, chỉ được dùng trong phạm vi một quốc gia.
- Hai là thẻ thanh toán mang thương hiệu của tổ chức thẻ quốc tế
được phát hành để sử dụng trong nước.
Vò Thuú Linh Líp: TCDN 44D
16
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp

Thẻ quốc tế:
Là loại thẻ không chỉ được sử dụng thanh toán trong phạm vi quốc gia
mà còn có thể thanh toán trên phạm vi quốc tế.
1.2.5. Các chủ thể tham gia quá trình thanh toán thẻ
1.2.5.1. Chủ thẻ
Là người được Ngân hàng phát hành cấp thẻ để sử dụng. Chủ thẻ gồm
có chủ thẻ chính và chủ thẻ phụ.
Chủ thẻ chính là người đứng tên xin cấp thẻ và được Ngân hàng phát
hành cung cấp thẻ để sử dụng.
Chủ thẻ phụ là người được cấp thẻ theo đề nghị của chủ thẻ chính.

Quyền hạn của chủ thẻ:
Chủ thẻ có thể sử dụng thẻ để thanh toán hàng hoá, dịch vụ mà không
bị phân biệt giá so với thanh toán bằng tiền mặt và không phải trả thêm tiền
hoặc phụ phí cho đơn vị chấp nhận thẻ.
Sử dụng thẻ để rút tiền mặt tại các máy ATM, trong trường hợp có
những sai sót hoặc thắc mắc chủ thẻ có thể phản ánh, khiếu nại lên Ngân hàng
phát hành thẻ.


Trách nhiệm của chủ thẻ:
Khi đã sở hữu một tài khoản thẻ, chủ thẻ phải có trách nhiệm:
- Cung cấp đầy đủ và thông tin chính xác, cần thiết theo yêu cầu của
Ngân hàng phát hành thẻ khi xin phát hành thẻ và trong quá trình sử dụng thẻ.
- Thanh toán đầy đủ, đúng hạn cho Ngân hàng phát hành các khoản
vay, lãi và phí phát sinh từ việc sử dụng thẻ theo quy định của Ngân hàng
phát hành; Thanh toán cho Ngân hàng phát hành toàn bộ số tiền mà Ngân
hàng phát hành cho vay trên tài khoản thẻ theo đúng thoả thuận tại hợp đồng
sử dụng thẻ.
- Khi hết thời hạn sử dụng thẻ mà chủ thẻ không muốn tiếp tục sử
dụng thẻ thì chủ thẻ phải hoàn lại thẻ cho Ngân hàng phát hành.
- Chủ thẻ chính và chủ thẻ phụ cùng chịu trách nhiệm chung và mỗi
người chịu trách nhiệm cá nhân trong việc thực hiện các điều khoản và điều
kiện trong hợp đồng sử dụng thẻ.
Vò Thuú Linh Líp: TCDN 44D
17
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
1.2.5.2. Ngân hàng phát hành thẻ
Là Ngân hàng do Ngân hàng nhà nước cho phép thực hiện nghiệp vụ
phát hành thẻ, cấp thẻ cho các chủ thẻ là cá nhân sử dụng, chịu trách nhiệm
cung cấp và thanh toán các dịch vụ liên quan đến thẻ đó.

Một Ngân hàng được phép phát hành thẻ khi có đủ các điều kiện:
+ Với thẻ nội địa: Ngân hàng đó phải
- Có năng lực tài chính và không vi phạm pháp luật
- Đảm bảo hệ thống trang thiết bị đầy đủ phù hợp với tiêu chuẩn và
đảm bảo an toàn cho hoạt động phát hành, thanh toán thẻ. Có đội ngũ cán bộ
đủ năng lực chuyên môn để vận hành và quản lý hệ thống này theo thông lệ
quốc tế.

- Chứng minh được sự cần thiết, hiệu quả kinh doanh và tính khả thi
khi đầu tư vào hệ thông thanh toán và phát hành thẻ.
- Báo cáo và cung cấp đẩy đủ các thông tin và tài liệu có liên quan
theo yêu cầu của Ngân hàng nhà nước khi xét đơn xin phát hành thẻ.
+ Đối với phát hành thẻ quốc tế:
Ngoài những yêu cầu trên thì cần phải có thêm điều kiện là:
Ngân hàng xin phát hành thẻ phải được nhà nước cấp giấy phép hoạt
động ngoại hối và cho phép thực hiện nghiệp vụ thanh toán quốc tế, đồng thời
phải là hội viên chính thức của tổ chức thẻ quốc tế.

Quyền của Ngân hàng phát hành:
+ Đối với chủ thẻ:
- Ngân hàng có quyền quy định về loại thẻ và thời hạn của thẻ, quy
định về gia hạn thẻ hay đổi thẻ.
- Yêu cầu chủ thẻ cung cấp đầy đủ thông tin và tài liệu cần thiết để
làm rõ các điều kiện sử dụng thẻ khi khách hàng xin sử dụng thẻ và thanh
toán thẻ.
- Từ chối cấp thẻ khi khách hàng không cung cấp đầy đủ các điều
kiện về sử dụng thẻ, quyêt định thu hồi thẻ trong quá trình sử dụng nếu khách
hàng có vi phạm nghiêm trọng.
- Tăng hoặc giảm hạn mức tín dụng đối với chủ thẻ, quy định mức lãi cho
vay đối với chủ thẻ phù hợp với quy định hiện hành của Ngân hàng nhà nước.
Vò Thuú Linh Líp: TCDN 44D
18
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
- Thu thập thông tin về chủ thẻ từ các tổ chức khác.
+ Đối với Ngân hàng thanh toán và các đơn vị chấp nhận thẻ:
- Yêu cầu Ngân hàng thanh toán và các đơn vị chấp nhận thẻ đảm bảo
an toàn trong thanh toán và không chịu những thiệt hại do việc không tuân thủ
những quy định này gây ra.

- Yêu cầu Ngân hàng thanh toán và các đơn vị chấp nhận thẻ cung
cấp các thông tin liên quan đến giao dịch của chủ thẻ.
- Yêu cầu Ngân hàng thanh toán thẻ và các đơn vị chấp nhận thẻ hoàn
lại tiền trong trường hợp không thực hiện được hợp đồng.
- Và các quyền khác trong hợp đồng thanh toán.

Trách nhiệm của Ngân hàng phát hành:
- Tuân thủ các quy định về phát hành thẻ của Ngân hàng nhà nước và
của các tổ chức thẻ.
- Đăng ký mẩu thẻ và nhãn hiệu thương mại in trên thẻ trên Ngân
hàng nhà nước.
- Giải quyết hoặc trả lời khiếu nại của chủ thẻ về phát hành và thanh
toán thẻ.
- Thanh toán kịp thời cho Ngân hàng thanh toán thẻ và các đơn vị
chấp nhận thẻ đối với các giao dịch được thực hiện đúng hợp đồng.
- Hướng dẫn Ngân hàng thanh toán thẻ thực hiện quy trình, nghiệp vụ
và bảo mật liên quan đến các giao dịch của chủ thẻ.
- Và các trách nhiệm khác trong hợp đồng thanh toán thẻ.
1.2.5.3. Ngân hàng thanh toán thẻ
Là Ngân hàng được Ngân hàng phát hành uỷ quyền thực hiện các
nghiệp vụ thanh toán thẻ theo hợp đồng hoặc là thành viên chính thức hoặc
thành viên liên kết của một tổ chức thẻ quốc tế, thực hiện nhiệm vụ thanh toán
thẻ theo thoả ước ký kết với tổ chức thẻ quốc tế đó. Ngân hàng thanh toán thẻ
ký hợp đồng trực tiếp với các đơn vị chấp nhận và xử lý các giao dịch thẻ tại
đơn vị chấp nhận thẻ, cung cấp các dịch vụ hổ trợ, hướng đẫn cho các đơn vị
chấp nhận thẻ.
Trong hợp đồng chấp nhận thẻ ký kết với các đơn vị cung ứng hàng
hoá dịch vụ, Ngân hàng thanh toán thẻ cam kết:
Vò Thuú Linh Líp: TCDN 44D
19

Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
- Chấp nhận các đơn vị này vào hệ thông thanh toán thẻ của Ngân
hàng.
- Cung cấp các thiết bị đọc thẻ tự động cho các đơn vị này kèm theo
hướng dẫn sử dụng hoặc chương trình đào tạo nhân viên về cách thức vận
hành cùng với dịch vụ bảo trì, bảo dưỡng hoạt động trong suôt thời gian hoạt
động.
- Quản lý các giao dịch có sử dụng thẻ tại những đơn vị này.
Thông thường Ngân hàng thanh toán thu từ các đơn vị chấp nhận thanh
toán thẻ của họ một mức phí chiết khấu cho việc sử dụng thẻ giao dịch tại
đây. Mức phí cao hay thấp phụ thuộc vào từng Ngân hàng và mối quan hệ với
các đơn vị chấp nhận thẻ.
Trên thực tế rất nhiều Ngân hàng vừa là Ngân hàng phát hành thẻ, vừa
là Ngân hàng thanh toán thẻ.

Quyền của Ngân hàng thanh toán thẻ:
- Yêu cầu Ngân hàng thanh toán thẻ thanh toán đầy đủ kịp thời đối
với các giao dịch thẻ được thực hiện theo đúng hợp đồng.
- Yêu cầu đơn vị chấp nhận thẻ hoàn trả tiền đối với các giao dịch
thực hiện không đúng hợp đồng thanh toán thẻ.
- Yêu cầu đơn vị chấp nhận thẻ cung cấp các thông tin cần thiết về
các giao dịch thẻ của chủ thẻ tại đơn vị chấp nhận thẻ.
- Và các quyền khác theo như hợp đồng thanh toán thẻ.

Trách nhiệm của Ngân hàng thanh toán thẻ:
- Hướng đẫn các biện pháp quy trình nghiệp vụ, bảo mật trong quá
trình thanh toán thẻ. Ngân hàng thanh toán thẻ phải chịu các thiệt hại do
không thực hiện đúng quy trình thanh toán thẻ gây ra.
- Thông báo lại yêu cầu của Ngân hàng phát hành cho các đơn vị chấp
nhận thẻ.

- Thực hiện các yêu cầu của Ngân hàng phát hành đối với các giao
dịch của chủ thẻ tại các đơn vị chấp nhận thẻ.
1.2.5.4. Đơn vị chấp nhận thẻ
Là tổ chức hoặc cá nhân chấp nhận thanh toán hàng hoá, dịch vụ bằng
thẻ theo hợp đồng ký kết với Ngân hàng thanh toán hoặc Ngân hàng phát
Vò Thuú Linh Líp: TCDN 44D
20
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
hành thẻ. Các ngành kinh doanh của các đơn vị chấp nhận thẻ trải rộng từ cửa
hiệu bán lẻ, nhà hàng ăn uống, khách sạn, sân bay… Tại nhiều nước trên thế
giới, khi thẻ Ngân hàng trở thành một phương tiện thanh toán thông dụng,
chúng ra có thể thấy những biểu trưng của thẻ xuất hiện tại các cửa hiệu thanh
toán ở Việt Nam, các đơn vị thanh toán thẻ tập trung chủ yếu ở các ngành
hàng, dịch vụ thu hút nhiều khách hàng nước ngoài như những cửa hàng lưu
niệm bán đồ thủ công mỹ nghệ tại các trung tâm thương mại hay nhà hàng,
khách sạn lớn, các đại lý bán vé máy bay…
Để trở thành đơn vị chấp nhận thẻ đối với một loại thẻ của một Ngân
hàng nào đó, nhất thiết đơn vị này phải có tình hình tài chính vững mạnh, có
năng lực kinh doanh. Cũng như Ngân hàng phát hành thẩm định khách hàng
trước khi phát hành thẻ cho họ, các Ngân hàng thanh toán cũng chỉ ký kết hợp
đồng chấp nhận thẻ với các đơn vị kinh doanh có hiệu quả, có khả năng thu
hút được nhiều khách hàng sử dụng thẻ.
Mặc dù phải trả cho Ngân hàng thanh toán một tỷ lệ phí chiết khấu theo
lượng tiền trong mỗi giao dịch, các đơn vị chấp nhận thẻ vẫn có được lợi thế
cạnh tranh bởi việc chấp nhận thanh toán bằng thẻ cho các Ngân hàng sẽ giúp
các đơn vị này thu hút được một lớp khách hàng lớn, có năng thực thanh toán
cao, góp phần tăng hiệu quả kinh doanh.

Quyền của đơn vị chấp nhận thẻ:
Đơn vị chấp nhận thẻ có các quyền:

- Yêu cầu Ngân hàng phát hành và Ngân hàng thanh toán thẻ thực
hiện thanh toán các giao dịch thẻ được thực hiện theo đúng hợp đồng thanh
toán thẻ.
- Kiểm tra tính hiệu lực của thẻ hoặc tiêu chuẩn thẻ theo quy định của
Ngân hàng phát hành hoặc Ngân hàng thanh toán thẻ và từ chối chấp nhận thẻ
khi thẻ không còn hiệu lực hoặc không đủ tiêu chuẩn.
- Thu giữ thẻ khi thấy có sai sót, gian lận.
- Và các quyền khác theo quy định của hợp đồng thanh toán thẻ.

Trách nhiệm của đơn vị chấp nhận thẻ:
- Thực hiện đầy đủ các quy định kỹ thuật nghiệp vụ liên quan đến quá
trình thanh toán thẻ của chủ thẻ được Ngân hàng thanh toán hoặc Ngân hàng
Vò Thuú Linh Líp: TCDN 44D
21
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
phát hành thẻ hướng dẫn. Phải chịu trách nhiệm về những thiệt hại xảy ra do
đơn vị chấp nhận thẻ không thực hiện đúng hướng dẫn của Ngân hàng phát
hành và Ngân hàng thanh toán thẻ.
- Giữ bí mật thông tin liên quan đến chủ thẻ, ngoại trừ các trường hợp
phải cung cấp thông tin theo yêu cầu của Ngân hàng thanh toán hoặc Ngân
hàng phát hành hoặc theo quy định của pháp luật.
- Các nhiệm vụ khác theo quy định trong hợp đồng thanh toán thẻ.
1.2.6. Những tiện ích của việc sử dụng dịch vụ thẻ
Với vai trò chính là một sản phẩm, dịch vụ thanh toán, nhưng thẻ đặc
biệt là thẻ tín dụng đã mang lại nhiều lợi ích cho người sử dụng nó. Ưu điểm
lớn nhất mà sản phẩm thẻ mang lại cho nền kinh tế và cho xã hội là nó cung
cấp một phương tiện thanh toán an toàn, văn minh, hiện đại.
1.2.6.1. Lợi ích đối với người sử dụng thẻ
Với tư cách là một phương tiện thanh toán hàng hoá, dịch vụ, thẻ Ngân
hàng cho phép chủ thẻ mua hàng hoá, dịch vụ tại bất cứ một cơ sở chấp nhận

thẻ nào hay rút tiền mặt tại các quầy thanh toán của Ngân hàng hay tại các
máy rút tiền tự động được trang bị tại khắp mọi nơi.
Ngoài ra, thẻ Ngân hàng (thẻ tín dụng) còn là một dạng cho vay thanh
toán, là dịch vụ mà Ngân hàng cấp ứng tiền trước cho các giao dịch của khách
hàng, cung cấp cho khách hàng một khả năng mở rộng các giao dịch tài chính.
Khi sử dụng thẻ tín dụng để mua hàng hoá, dịch vụ nghĩa là khách hàng đang
sử dụng dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt thông qua Ngân hàng, đồng
thời Ngân hàng cho khách hàng vay trên tài khoản cho vay phát hành thẻ tín
dụng. Số dư phát sinh sẽ được ghi vào bên nợ của tài khoản cho vay, khách
hàng tiến hành thanh toán theo sao kê khi đến hạn thanh toán. Giống như một
tài khoản tín dụng tuần hoàn, chỉ cần chủ thẻ tuân thủ đúng các quy định về
thanh toán và chi tiêu như trong hợp đồng sử dụng thẻ thì chủ thẻ này có
quyền vay Ngân hàng trong phạm vi hạn mức cho phép.
1.2.6.2. Lợi ích đối với Ngân hàng
Dịch vụ thẻ đã mang lại nhiều nguồn lợi cho Ngân hàng, đồng thời nó
cũng đã tác động tới các nghiệp vụ khác của Ngân hàng. Cùng với sự bùng nổ
của thị trường thẻ Ngân hàng, quá trình xã hội hoá các sản phẩm dịch vụ
Vò Thuú Linh Líp: TCDN 44D
22
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
Ngân hàng được diễn ra nhanh chóng. Với việc sở hữu một sản phẩm thẻ
Ngân hàng nhỏ gọn trong ví luôn mang theo người, hình ảnh Ngân hàng đã
trở nên gần gủi hơn với cuộc sống thường nhật hàng ngày của cộng đồng.
Cùng với việc phát triển của hoạt động kinh doanh thẻ, năng lực công nghệ
của Ngân hàng ngày càng được nâng cao, Ngân hàng đầu tư được một cơ sở
công nghệ Ngân hàng hiện đại, kết nối mạng trực tuyến với các tổ chức tài
chính, tiền tệ trong nước và thế giới, mở rộng và nâng cao chất lượng sản
phẩm dịch vụ.
Ngoài những lợi ích vô hình mà sản phẩm thẻ mang lại cho Ngân hàng
như: nâng cao vị thế của Ngân hàng, quảng bá hình ảnh thương hiệu và kéo

khách hàng đến với Ngân hàng, thì đây cũng là phương tiện kinh doanh mang
lại một nguồn thu nhập cho Ngân hàng. Đó là khoản phí thường niên mà chủ
thẻ phải trả theo hợp đồng sử dụng thẻ; phí rút tiền mặt (4% cho Ngân hàng
phát hành và tối thiểu là 50.000 đồng cho một giao dịch); phí giao dịch thanh
toán hàng hoá, dịch vụ bằng thẻ tín dụng tại các cơ sở chấp nhận thẻ (2,5%
giá trị của mỗi giao dịch); một số khoản thu khác như; phí phạt vượt hạn mức
tín dụng, phí tra soát, phí cấp lại thẻ, đổi thẻ…
Trong những năm gần đây, tất cả các khoản thu từ nghiệp vụ kinh
doanh thẻ mạng lại một tỷ suất sinh lời cho Ngân hàng lên tới 20%, cho nên
lĩnh vực kinh doanh thẻ đang thu hút sự quan tâm đặc biệt của các Ngân hàng.
Ngoài ra nghiệp vụ kinh doanh thẻ cũng là một kênh huy động vốn hiệu
quả, làm tăng trưởng lượng nguồn huy động của Ngân hàng. Trong quy trình
thanh toán thẻ tín dụng, các cơ sở chấp nhận thẻ thường mở tài khoản tại
Ngân hàng thanh toán, điều kiện này làm cho số dư tài khoản tiền gửi tăng lên
và làm tăng trưởng ngân quỹ. Mỗi khoản giao dịch sẽ là một khoản vay. Tại
ngày đáo hạn, theo sao kê khi chủ thẻ thanh toán cho Ngân hàng theo sao kê
sẽ làm cho tiền mặt thực tế tại Ngân hàng tăng lên.
1.2.6.3. Lợi ích đối với cơ sở chấp nhận thẻ
Với tư cách là một chủ thẻ quan trọng trong quá trình thanh toán, cơ sở
chấp nhận thẻ cũng thu được nhiều lợi ích từ sản phẩm, dịch vụ này;
- Việc chấp nhận thẻ mang lại cho cơ sở chấp nhận thẻ cơ hội mở
rộng thị trường và doanh số. Thẻ tín dụng là một cách thức mở rộng khả năng
Vò Thuú Linh Líp: TCDN 44D
23
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
tài chính của chủ thẻ, giúp chủ thẻ chi tiêu vượt quá khả năng tài chính của
mình, làm tăng sức mua, kích cầu.
- Cơ sở chấp nhận thẻ được hưởng lợi từ chính sách khách hàng của
Ngân hàng. Ngoài việc cung cấp máy móc thiết bị cần thiểt cho việc thanh
toán, các Ngân hàng còn gắn các ưu đãi về tín dụng, về dịch vụ thanh toán với

‘hợp đồng chập nhận thanh toán thẻ’ như một chích sách khép kín.
- Khi thanh toán bằng thẻ, các cơ sở chấp nhận thẻ có thể tránh được
hiện tượng khách hàng sử dụng tiền giả, đồng thời giảm chi phí giao dịch, và
đẩy nhanh vòng quay vốn.
1.2.6.4. Lợi ích đối với nền kinh tế
Là một phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt, thẻ Ngân hàng
làm giảm lượng tiền mặt giao dịch trong lưu thông. Hầu hết mọi giao dịch thẻ
trong phạm vi quốc gia hay toàn cầu đều được thực hiện và thanh toán trực
tuyến, mọi thông tin về giao dịch thẻ được sử lý thông qua hệ thống máy móc
thuận tiện, hiện đại và thanh toán với tốc độ cực nhanh, góp phần tăng tốc độ
lưu chuyển vốn. Với công nghệ hiện đại, mọi giao dịch đều nằm trong khả
năng của Ngân hàng, tạo nền tảng quản lý vĩ mô cho Ngân hàng nhà nước,
thực hiện chính sách tiên tệ quốc gia. Sự tiện ích của thẻ mang lại cho người
sử dụng, cơ sở chấp nhận thẻ, Ngân hàng khiến cho việc sử dụng thẻ ngày
càng được nhiều người ưa chuộng. Thanh toán thẻ tạo ra một môi trường
thương mại văn minh hiện đại, là yếu tố thu hút khách du lịch và các nhà đầu
tư nước ngoài.
Trong bối cảnh đẩy mạnh phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin,
triển khai dự án hiện đại hoá, hệ thống Ngân hàng Việt Nam đang tích cực
tham gia vào thị trường thẻ. Giành nhiều nguồn lực để đầu tư phát triển lĩnh
vực kinh doanh khá mới mẻ này. Hiện tại đại bộ phận các Ngân hàng thương
mại Việt Nam đã phát triển được một hạ tầng công nghệ kỹ thuật với quy mô
ngày càng lớn với hàng nghìn máy rút tiền tự động ATM và hàng trăm thiết bị
đầu lọc được đặt tại các trung tâm phục vụ nhu cầu người tiêu đùng. Với qui
mô dân số trên 80 triệu, cùng chính sách phát triển khách hàng đặc biệt (chính
sách ‘ba không’, không phí phát hành, không phí thường niên, không phí giao
Vò Thuú Linh Líp: TCDN 44D
24
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
dịch) giành nhiều ưu đãi cho khách hàng, thị trường thẻ Việt Nam đang mở

ra một giai đoạn phát triển sôi động nhất.
1.2.7. Những rủi ro trong quá trình thanh toán thẻ
Hoạt động thanh toán thẻ của Ngân hàng là những hoạt động thể hiện
sự phát triển cao độ của nền kinh tế hội nhập, bên cạnh những tiện ích mà thẻ
mang lại như an toàn, nhanh chóng, thuận tiện trong thanh toán thì nó cũng
mang lại nhiều rủi ro và thiệt hại cho các chủ thể liên quan, gây ra rủi ro thiệt
hại cho Ngân hàng phát hành, Ngân hàng thanh toán thẻ, các đơn vị chấp
nhận thẻ và đặc biệt là chủ thẻ.
Các rủi ro chủ yếu xảy ra trong quá trình thanh toán thẻ như:

Lộ PIN
Gắn liền với mỗi thẻ ATM là một số PIN. Số PIN chính là mã số bí mật
cá nhân. Mã số bí mật cá nhân này được đơn vị phát hành giao cho chủ thẻ
cùng với thẻ ATM. Để đảm bảo an toàn yếu tố cá nhân và bí mật riêng tư của
mình, chủ thẻ có quyền thay đổi số PIN. PIN được sử dụng cùng với thẻ ATM
khi thực hiện giao dịch tại các thiết bị tự động, đặc biệt là tại các máy ATM.
Khi số PIN bị lộ hoặc thẻ bị mất cắp hay thất lạc, chủ thẻ cần báo ngay cho
Ngân hàng phát hành để Ngân hàng phong toả tài khoản thẻ đó, nhưng rủi ro
vẫn có thể xảy ra trong thời gian trước khi thông tin về việc mất cắp thẻ được
cập nhật về trung tâm phát hành thẻ của Ngân hàng.

Ăn cắp thẻ
Để lấy được chiếc thẻ ATM, bọn tội phạm thường sử dụng một thiết bị
được gọi là “bẩy thẻ”. Thiết bị này có hình dạng giống như bộ phận ở bên
ngoài thiết bị đọc thẻ tại các máy ATM. Và được bọn tội phạm gắn bên ngoài
các máy ATM để bẫy thẻ, khi khách hàng đến rút tiền thì thẻ sẽ bị nuốt. Khi
thẻ bị nuốt, bọn tội phạm sẽ tháo bẩy ra để lấy thẻ của khách hàng.

Mất thẻ trong quy trình phát hành
Thẻ do Ngân hàng phát hành gửi bằng đường bưu điện bị đánh cắp trên

đường đi không đến được với chủ thẻ; đặc biệt trong trường hợp thẻ và số
PIN được đựng trong cùng một phong bì, khi đó kẻ gian hoàn toàn làm chủ tài
khoản thẻ ATM đó.
Vò Thuú Linh Líp: TCDN 44D
25

×