Tải bản đầy đủ (.doc) (62 trang)

tăng cường quản lý chi phí nhằm tăng lợi nhuận tại bưu điện tỉnh hải dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (342.56 KB, 62 trang )

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
MỤC LỤC
Lời mở đầu 1
Chương 1. Lý luận cơ bản về chi phí và lợi nhuận của doanh nghiệp 3
Chi phí của doanh nghiệp 3
1.1.1.Khái niệm 3
1.1.2. Phân loại 3
1.2. Lợi nhuận doanh nghiệp 8
1.2.1. Khái niệm 8
1.2.2.Phương pháp xác định lợi nhuận 10
1.2.3. Các chỉ tiêu về lợi nhuận của doanh nghiệp 14
1.2.4. Phân phối lợi nhuận và vai trò của loại nhuận đối với doanh nghiệp
16
1.3.Các nhân tố ảnh hưởng tới lợi nhuận doanh nghiệp 20
1.3.1. Các nhân tố bên ngoài 20
1.3.2. Các nhân tố bên trong của doanh nghiệp 23
Chương 2. Thực trạng chi phí và lợi nhuận của Bưu điện tỉnh Hải Dương
26
2.1.Giới thiệu về bưu điện tỉnh Hải Dương 26
2.1.1.Quá trình hình thành và phát triển 26
2.1.2. Chức năng, nhiệm vụ của Bưu điện tỉnh Hải Dương 29
2.1.3. Đặc điểm hoạt động kinh doanh của bưu điện tỉnh Hải Dương 29
2.2. Thực trạng chi phí và lợi nhuận của bưu điện tỉnh Hải Dương 30
2.2.1. Thực trạng lợi nhuận của bưu điện tỉnh Hải Dương 30
2.2.2. Thực trạng doanh thu của bưu điện tỉnh Hải Dương 34
2.2.3. Thực trạng quản lý chi phí bưu điện tỉnh Hải Dương 41
2.3. Đánh giá tình hình lợi nhuận của bưu điện tỉnh Hải Dương 45
2.3.1. Những kết quả đạt được 45
2.3.2.Hạn chế và nguyên nhân 47
Chương 3. Giải pháp giảm chi phí tăng lợi nhuận tại bưu điện tỉnh Hải Dương
49


3.1. Quan điểm, mục tiêu, chiến lược phát triển ngành Bưu chính-viễn thông
49
3.1.1. Quan điểm 49
3.1.2. Mục tiêu của chiến lược 49
3.1.3. Định hướng phát triển các lĩnh vực 50
3.2.Phương hướng kinh doanh của bưu điện tỉnh Hải Dương trong thời gian
tới 52
3.3.Một số giải pháp giảm chi phí nhằm tăng lợi nhuận của bưu điện tỉnh Hải
Dương 54
3.3.1. Các giải pháp nhằm giảm chi phí 54
Sinh viên: Đào Duy Toàn Lớp:TCDN-44D
1
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
3.3.2. Các giải pháp nhằm tăng doanh thu 58
3.4. Một số kiến nghị 60
3.4.1. Với nhà nước 63
3.4.2. Với Tổng công ty Bưu chính viễn thông 63
Kết luận 65
Sinh viên: Đào Duy Toàn Lớp:TCDN-44D
2
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
LỜI NÓI ĐẦU
Từ năm 1986, Đảng và Nhà nước ta tiến hành công cuộc chuyển đổi
nền kinh tế, từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây thực sự là bước đi quan trọng để tạo điều
kiện cho nền kinh tế sử dụng tốt hơn các nguồn lực của đất nước. Cơ chế thị
trường đòi hỏi vừa phải nâng cao năng suất , vừa tạo điều kiện cho việc nâng
cao năng suất vì sự sống còn của doanh nghiệp và sự phát triển kinh tế xã hội
của đất nước, đầu tư, đổi mới các thiết bị công nghệ, đầu tư vào các ngành
nghề mới Doanh nghiệp dựa trên chiến lược chung của cả nước để xây dựng

chiến lược riêng cho mình, nói đúng hơn là dựa trên tín hiệu của thị trường
mà xây dựng chiến lược theo nguyên tắc : phải bán những thị trường cần chứ
không phải bán những thứ mình có. Trong quá trình cạnh tranh kinh doanh và
khát vọng lợi nhuận đã thực sự trở thành động lực thúc đẩy các doanh nghiệp
tăng cường mục đích cuối cùng là đạt được chỉ tiêu lợi nhuận ngày càng lớn.
Thực tế đã cho thấy sau 20 năm đổi mới, tổng sản phẩm quốc nội liên
tục qua các năm, mọi mặt của đời sống nhân dân được cải thiện đáng kể, quan
hệ thương mại quốc tế ngày càng được mở rộng. Đó là kết quả của sự nỗ lực
không ngừng của cộng đồng các doanh nghiệp trong nước trong việc không
ngừng tìm kiếm và mở rộng thị trường, mở rộng sản xuất kinh doanh.
Xuất phát từ việc nhận thức được vai trò của lợi nhuận và chi phí của
doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường và từ quá trình tìm hiểu những khó
khăn thuận lợi trong việc thực hiện mục tiêu lợi nhuận của Bưu điện tỉnh Hải
Dương, được sự tận tình hướng dẫn của thầy giáo-PGS,TS Vũ Duy Hào và
các bác các chú, anh chị trong bưu điện tỉnh Hải Dương, em đã chọn đề tài:
“Tăng cường quản lý chi phí nhằm tăng lợi nhuận tại Bưu điện tỉnh Hải
Dương”.
Chuyên đề của em được trình bày theo 3 chương:
Chương 1: Lí luận cơ bản về chi phí và lợi nhuận của doanh
nghiệp.
Chương 2: Thực trạng chi phí và lợi nhuận của Bưu điện tỉnh Hải
Dương.
Chương 3:Giải pháp nhằm giảm chi phí và tăng lợi nhuận tại Bưu
điện tỉnh Hải Dương.
Do hạn chế về kiến thức và kinh nghiệm thực tiễn nên chuyên đề của em còn
rất nhiều sai sót. Em rất mong nhận được sự chỉ bảo của thầy cô và những
người quan tâm để chuyên đề của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong Khoa Ngân hàng- Tài chính, đặc
biệt là thầy giáo-PGS,TS Vũ Duy Hào đã nhiệt tình hướng dẫn em trong quá
trình làm chuyên đề. Em cũng xin chân thành cảm ơn Ban giám đốc cùng toàn

thể nhân viên của Bưu điện tỉnh đã tận tình giúp đỡ em trong thời gian em
thực tập tại Bưu điện.
Sinh viên: Đào Duy Toàn Lớp:TCDN-44D
3
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Chương 1:
Lí luận cơ bản về chi phí và lợi nhuận của doanh nghiệp
1.1. Chi phí của doanh nghiệp.
1.1.1. Khái niệm.
Khi doanh nghiệp muốn tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, các
doanh nghiệp luôn luôn phải đầu tư, mua sắm thiết bị, công nghệ, vật tư, thuê
nhân công v.v Tất cả những việc này đều đòi hỏi những khoản chi phí nhất
định.Những doanh nghiệp khác nhau hoạt động ở các ngành khác nhau thì có
số lượng, cơ cấu chi phí không giống nhau. Ngay cả các doanh nghiệp cùng
ngành với nhau thì cũng tuỳ vào chiến lược kinh doanh của mỗi doanh nghiệp
mà cơ cấu chi phí cũng khác nhau.Vậy chi phí là gì ?
“Chi phí của doanh nghiệp là toàn bộ các khoản chi phí của doanh nghiệp cho
hoạt động kinh doanh, cho hoạt động khác và các khoản thuế như: Thuế môn
bài, thuế tài nguyên, thuế nhập khẩu để thực hiện hoạt động của doanh
nghiệp trong thời kì nhất định.
1.1.2 .Phân loại chi phí của doanh nghiệp
Tuỳ theo loại hình kinh doanh của doanh nghiệp mà tỷ trọng các bộ
phận chi phí có thể không giống nhau và cũng tuỳ theo các cách tiếp cận khác
nhau, người ta thể xem xét chi phí dưới các góc độ khác nhau. Về cơ bản, chi
phí của doanh nghiệp được phân loại theo nguồn hình thành bao gồm: Chi phí
sản xuất, chi phí lưu thông sản phẩm, chi phí quản lí doanh nghiệp, chi phí
hoạt động tài chính, chi phí hoạt động bất thường.
Chi phí sản xuất.
Để sản xuất ra các loại sản phẩm nhằm cung cấp hàng hoá trên thị
trường, các doanh nghiệp phải chịu các chi phí như: hao mòn máy móc, lao

động, vật tư .v.v Vậy chúng ta có thể hiểu chi phí sản xuất của một doanh
nghiệp là biểu hiện bằng tiền của tất cả các hao phí về vật chất và về lao động
mà doanh nghiệp phải bỏ ra để sản xuất ra sản phẩm trong một thời kì. Cùng
với sự hoạt động liên tục của doanh nghiệp, các chi phí của doanh nghiệp
cũng mang tính thường xuyên và gắn liền với quá trình tạo ra sản phẩm của
doanh nghiệp. Do đặc điểm này của chi phí sản xuất, hoạt động hạch toán chi
phí sản xuất phải được tiến hành thường xuyên trong các khoảng thời gian
nhất định, không phân biệt sản phẩm đã hoàn thành hay chưa. Để quản lí và
kiểm tra chặt chẽ việc thực hiện các định mức chi phí, tính toán được kết quả
tiết kiệm chi phí ở từng bộ phận sản xuất và toàn doanh nghiệp, kiểm tra và
phân tích quá trình hình thành chi phí ở từng bộ phận sản xuất và toàn doanh
nghiệp, kiểm tra và phân tích quá trình phát sinh chi phí và quá trình hình
thành giá sản phẩm người ta cần phân loại chi phí sản xuất.
- Thứ nhất: Phân loại chi phí sản xuất theo yếu tố, những yếu tố sản xuất có
cùng tính chất thì được đưa vào cùng một loại chi phí, mỗi loại chi phí là một
yếu tố chi phí, nếu theo cách này chi phí sản xuất bao gồm 3 nhóm yếu tố:
Sinh viên: Đào Duy Toàn Lớp:TCDN-44D
4
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
*Chi phí vật tư: Là giá trị của toàn bộ nguyên vật liệu , vật liệu đầu vào mà
đơn vị sử dụng để sản xuất ra sản phẩm mà doanh nghiệp minh kinh doanh.
Doanh nghiệp kiểm soát chi phí vật tư bằng mức tiêu hao vật tư và giá vật tư.
Vật tư có thể là vật tư do doanh nghiệp mua sắm hoặc do doanh nghiệp tự sản
xuất được.
*Chi phí lương công nhân trực tiếp: Là các khoản chi phí liên quan đến
người công nhân trực tiếp tham gia sản xuất ra sản phẩm. Nó bao gồm các
khoản chi phí như :chi phí tiền lương, các khoản phụ cấp có tính chất lương,
tiền ăn giữa ca, chi phí bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn,
chi phí tổ chức Đảng, đoàn thể. Các khoản chi phí tiền lương được quản lí
chặt chẽ theo định mức lao động và đơn giá tiền lương theo qui định hiện

hành của nhà nước. Còn các loại chi phí như: Bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế,
kinh phí công đoàn được tính trên quĩ lương của đơn vị sản xuất kinh doanh.
*Chi phí khấu hao tài sản cố định: Phản ánh tổng số khấu hao TSCĐ phải
trích trong kì của tất cả các tài sản cố định được sử dụng cho hoạt động sản
xuất kinh doanh trong kì.
*Chi phí dịch vụ mua ngoài: Phản ánh toàn bộ chi phí dịch vụ mua ngoài
dùng vào việc sản xuất kinh doanh.
*Chi phí bằng tiền: Phản ánh toàn bộ chi phí khác bằng tiền chưa phản ánh ở
các yếu tố trên dùng vào hoạt động sản xuất kinh doanh trong kì.
Phân loại chi phí sản xuất kinh doanh trong kì theo yếu tố có tác dụng giúp ta
biết được những chi phí đã dùng vào sản xuất và tỷ trọng của từng loại chi phí
đó là bao nhiêu, là cơ sở để phân tích đánh giá tình hình thực hiện chi phí sản
xuất, làm cơ sở cho việc xây dựng kế hoạch cung ứng vật tư, tiền vốn, huy
động sử dụng lao động, xây dựng kế hoạch khấu hao tài sản cố định
- Thứ hai: Phân loại chi phí theo khoản mục tính giá thành. Cách phân loại
này dựa vào công dụng kinh tế và địa điểm phát sinh của chi phí để sắp xếp
chi phí thành những khoản mục nhất định, qua đó phân tích tác động của các
khoản mục chi phí đến giá thành.
Theo qui định hiện hành, khoản mục chi phí thể hiện trong giá thành sản
phẩm bao gồm:
*Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp:Phản ánh toàn bộ chi phí về nguyên, vật
liệu chính, phụ, nhiên liệu tham gia trực tiếp vào sản xuất, chế tạo sản phẩm
hay thực hiện lao vụ, dịch vụ.
*Chi phí nhân công trực tiếp:Gồm tiền lương, phụ cấp lương và các khoản
trích cho các quĩ BHXH,BHYT,KPCĐ theo tỷ lệ với tiền lương phát sinh của
công nhân trực tiếp sản xuất.
*Chi phí sản xuất chung:Là những chi phí phát sinh trong phạm vi phân
xưởng sản xuất(trừ chi phí vật liệu và nhân công trực tiếp).Ví dụ như, chi phí
nhân viên phân xưởng, chi phí NVL, CCDC, khấu hao TSCĐ, chi phí dịch vụ
mua ngoài dùng cho phân xưởng.

Sinh viên: Đào Duy Toàn Lớp:TCDN-44D
5
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Cách phân loại này giúp ta tính và thể hiện được giá thành sản phẩm theo
khoản mục chi phí và phân tích tình hình thực hiện mục tiêu giảm từng mục
chi phí trong giá thành sản phẩm.
- Thứ ba: Phân loại chi phí sản xuất thành chi phí cố định và chi phí biến đổi.
- Thư tư: Phân loại chi phí sản xuất thành chi phí cơ bản và chi phí chung.
Để quản lí tốt chi phí ngoài phân loại chi phí các doanh nghiệp cần phải xem
xét kết cấu chi phí sản xuất để xác định tỷ trọng và xu hướng thay đổi trong
mỗi loại chi phí sản xuất.Kết cấu chi phí sản xuất là tỷ trọng giữa các yếu tố
chi phí trong tổng số chi phí sản xuất. Các doanh nghiệp trong cùng một
doanh nghiệp và giữa các ngành có kết cấu chi phí khác nhau. Có nhiều nhân
tố ảnh hưởng tới kết cấu chi phí sản phẩm của doanh nghiệp, trong đó có
những nhân tố chủ yếu là : đặc điểm sản xuất của từng loại doanh nghiệp, các
giai đoạn sản xuất khác nhau, trình độ kĩ thuật, trang thiết bị, loại hình và qui
mô sản xuất, điều kiện tự nhiên, công tác tổ chức, quản lí
Chi phí lưu thông sản phẩm:
Trong nền kinh tế thị trường việc tổ chức tiêu thụ sản phẩm là hết sức
quan trọng đối với một doanh nghiệp. Dù doanh nghiệp có chất lượng sản
phẩm tốt nhưng hệ thống bán hàng và phân phối sản phẩm của doanh nghiệp
yếu kém thì sản phẩm của doanh nghiệp cũng không thể đến tay người tiêu
dùng được. Khối lượng sản phẩm hàng hoá tiêu thụ ảnh hưởng quyết định tới
qui mô sản xuất kinh doanh của đơn vị. Để thực hiện hoạt động tiêu thụ sản
phẩm, doanh nghiệp phải bỏ ra những khoản chi phí nhất định.Vậy:
“Chi phí lưu thông sản phẩm là toàn bộ các khoản chi phí phát sinh liên
quan đến việc tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ trong kì như chi phí nhân công bán
hàng, chi phí khấu hao tài sản cố định dùng trong bộ phận bán hàng, chi phí
về vật liệu, bao bì, dụng cụ, đồ dùng, các chi phí bảo hành, quảng cáo tiếp
thị ”

Giá thành sản phẩm
Trong quá trình hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp thường xuyên
phải lựa chọn các phương án kinh doanh khác nhau để quyết định sản xuất
sản phẩm này mà không sản xuất sản phẩm kia. Để có những quyết định
đúng, doanh nghiệp cần phải biết những chi phí để hoàn thành và tiêu thụ sản
phẩm. Việc nghiên cứu chi phí sản xuất và tiêu thụ sản phẩm chưa cho biết
lượng chi phí cần thiết để hoàn thành một lượng sản phẩm nhất định. Chính vì
lí do trên, cần phải nghiên cứu giá thành sản phẩm.
Giá thành sản phẩm là biểu hiện bằng tiền toàn bộ chi phí của doanh
nghiệp bỏ ra để hoàn thành việc sản xuất hoặc để sản xuất và tiêu thụ một loại
sản phẩm nhất định.
Chúng ta cần phân biệt giá thành của sản phẩm với chi phí sản xuất.
Giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm vừa có sự giống nhau, vừa có sự
khác nhau. Chi phí sản xuất hợp thành giá thành sản phẩm, nhưng không phải
toàn bộ chi phí sản xuất phát sinh thành sản phẩm phản ánh lượng chi phí để
hoàn thành sản xuất hoặc sản xuất và tiêu thụ 1 đơn vị hay một khối lượng
Sinh viên: Đào Duy Toàn Lớp:TCDN-44D
6
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
sản phẩm nhất định, còn chi phí sản xuất và lưu thông sản phẩm thể hiện chi
phí cho sản phẩm trong một thời kì nhất định, thời kì này thường là một năm.
Trong phạm vi sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, có thể phân biệt giá
thành sản xuất sản phẩm. Giá thành sản xuất sản phẩm (đối với sản phẩm xây
dựng là giá thành thi công) bao gồm toàn bộ chi phí bỏ ra để hoàn thành việc
sản xuất sản phẩm. Giá thành tiêu thụ sản phẩm còn được gọi là giá thành
toàn bộ sản phẩm bao gồm toàn bộ chi phí để hoàn thành cả sản xuất và tiêu
thụ sản phẩm.
Đối với doanh nghiệp sản xuất:
Giá vốn hàng bán=Giá thành sản xuất + Chênh lệch thành phẩm tồn kho
Chênh lệch thành phẩm tồn kho = Thành phẩm tồn đầu kì –thành phẩm tồn

kho cuối kì
Giá thành sản xuất =Chi phí sản xuất + Chênh lệch sản phẩm sản phẩm dở
dang

Chi phí sản phẩm =Chi phí vật tư + Chi phí nhân công trực tiếp +Chi phí sản
xuất chung
Chênh lệch sản phẩm dở dang = Sản phẩm dở dang đầu kì - Sản phẩm dở
dang cuối kì
Đối với doanh nghiệp thương mại:
Giá vốn hàng bán = Giá vốn hàng mua + Chênh lệch hàng hoá tồn kho
Chênh lệch hàng hoá tồn kho = Hàng hoá tồn đầu kì – Hàng hoá tồn cuối kì
Lợi nhuận là khoản chênh lệch giữa doanh thu và chi phí. Vậy doanh
nghiệp muốn tăng lợi nhuân của doanh nghiệp thì việc tìm cách giảm chi phí
là rất quan trọng. Giảm chi phí, hạ giá thành của sản phẩm là điều kiện cơ bản
để doanh nghiệp thực hiện tốt tiêu thụ sản phẩm và thu hồi vốn nhanh.
Hạ giá thành sản phẩm trong kì được xác định cho những sản phẩm so sánh
được thông qua 2 chỉ tiêu: mức giảm giá thành và tỷ lệ hạ giá thành sản phẩm.
Trong các sản phẩm xây dựng cơ bản, người ta chỉ so sánh giá thành thực tế
với giá thành kế hoạch hoặc giá thành dự toán của khối lượng sản phẩm trong
cùng một kì.
Các nhân tố ảnh hưởng tới chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm
doanh nghiệp:
Sự tiến bộ của khoa học- công nghệ.
Tổ chức lao động khoa học và chiến lược sử dụng lao động.
Tổ chức quản lí sản xuất- kinh doanh và quản lí tài chính.
Sinh viên: Đào Duy Toàn Lớp:TCDN-44D
7
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Ý nghĩa của việc nghiên cứu giá thành sản phẩm:
-Giá thành của sản phẩm là thước đo mức chi phí phải tiêu hao phải bù đắp, là

một căn cứ để xác định hiệu quả sản xuất kinh doanh. Để quyết định sản xuất
một loại sản phẩm nào đó , doanh nghiệp phải nắm rõ được nhu cầu thị
trường, giá cả thị trường và điều tất yếu phải biết được chi phí phải bỏ ra để
hoàn thành việc sản xuất sản phẩm đó.Trên cơ sở đó mới xác đinh hiệu quả
sản xuất kinh doanh của loại sản phẩm đó để quyết định lựa chọn và quyết
định khối lượng sản phẩm để đạt được lợi nhuận tối đa. Khi thực hiện xác
định hiệu quả sản xuất kinh doanh thực tế của một loại sản phẩm nhất định
cũng phải xác định chính xác giá thành thực tế của nó.
-Giá thành là một công cụ quan trọng của doanh nghiệp để kiểm soát tình
hình hoạt động sản xuất kinh doanh, xem xét hiệu quả của các biện pháp tổ
chức kĩ thuật. Thông qua tình hình thực hiện kế hoạch giá thành, doanh
nghiệp có thể xem xét tình hình sản xuất và bỏ chi phí vào sản xuất , tác động
và hiệu quả thực hiện các biện pháp tổ chức kĩ thuật sản xuất, phát hiện và tìm
ra nguyên nhân dẫn đến phát sinh chi phí không hợp lí để có biện pháp khắc
phục.
-Giá thành là một căn cứ quan trọng để doanh nghiệp định giá cả đối với từng
loại sản phẩm.
Chi phí quản lí doanh nghiệp
Là toàn bộ các khoản chi phí liên quan đến bộ máy quản lí hành chính và
điều hành hoạt động kinh doanh trong doanh nghiệp như tiền lương và các
khoản phụ cấp trả cho ban giám đốc và nhân viên quản lí ở các phòng ban, chi
phí vật liệu dùng cho văn phòng, khấu hao tài sản cố định dùng chung cho
doanh nghiệp, các khoản thuế , lệ phí, bảo hiểm, chi phí dịch vụ mua ngoài
thuộc văn phòng doanh nghiệp và các chi phí khác chung cho toàn doanh
nghiệp như :lãi vay, phí kiểm toán, tiếp tân, tiếp khách, công tác phí
Chi phí hoạt động tài chính
Chi phí hoạt động tài chính: Là các khoản chi phí và các khoản lỗ có liên
quan đến hoạt động đầu tư tài chính, bao gồm:
+,Chi phí hoạt động liên doanh, liên kết.
+,Chi phí thiệt hại do kinh doanh thua lỗ.

+,Chi phí mua bán chứng khoán.
+,Chi phí của quá trình đầu tư kinh doanh bất động sản, thuê tài sản,.
+,Lãi phải trả về vay vốn đầu tư tài chính.
+,Trích thêm số chênh lệch về dự phòng giảm giá đầu tư tài chính.
Chi phí hoạt động bất thường.
Chi phí hoạt động bất thường bao gồm: Là những khoản chi phí phát sinh
khách quan khi xây dựng kế hoạch tài chính doanh nghiêp chưa tính đến,
chẳng hạn như:
+,Giá trị còn lại của tài sản cố định khi thanh lí, nhượng bán.
+,Chi phí về thanh lí, nhượng bán tài sản cố định.
+,Bị phạt do vi phạm hợp đồng.
Sinh viên: Đào Duy Toàn Lớp:TCDN-44D
8
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
+,Bị phạt truy nộp thuế.
+,Các khoản chi phí kế toán ghi nhầm hay bỏ sót khi vào sổ.
+,Chênh lệch phải thu khó đòi và dự phòng phải thu khó đòi không đủ hoặc
khoản thu khó đòi mất ngay chắc chắn khi chưa lập dự phòng.
1.2.Lợi nhuận của doanh nghiệp.
1.2.1.Khái niệm.
Như đã nói ở trên, các doanh nghiệp luôn luôn theo đuổi mục tiêu lợi nhuận.
Lợi nhuận là động lực thúc đẩy các doanh nghiệp cải tiến công nghệ, nghiên
cứu tổ chức sản xuất Do vậy có thể coi tối đa lợi nhuận là mục tiêu truyền
thống và quan trọng của các doanh nghiệp.Xét dưới góc độ lịch sử, những nhà
kinh tế học trong các phân tích của họ đều lấy lợi nhuận là mục tiêu cuối. Từ
xưa đến nay đã có rất nhiều quan điểm khác nhau về lợi nhuận.
Theo quan điểm của các nhà kinh tế học trước Marx thì cái phần trội lên nằm
trong giá bán so với chi phí sản xuất là lợi nhuận.
Marx cho rằng :giá trị thặng dư hay cái phần trội lên trong toàn bộ giá trị hàng
hoá trong đó lao động thặng dư chính là lao động không được trả công của

công nhân đã được vật hoá thì được gọi là lợi nhuận.
Còn nhà kinh tế học hiện đại P.A.Samuelson và W.D.Nordhaus thì định nghĩa
rằng: “Lợi nhuận là một khoản thu nhập dôi ra bằng tổng số thu về trừ đi tổng
số đã chi” hoặc có thể hiểu cụ thể hơn là : “ lợi nhuận được định nghĩa như
một khoản chênh lệch giữa tổng thu nhập và tổng chi phí của một công ty”
Có nhiều quan điểm về lợi nhuận của nhiều nhà kinh tế nhưng nổi bật là quan
điểm về lợi nhuận của Marx, từ Marx trở đi, các vấn đề kinh tế được nghiên
cứu bài bản hơn. Nhờ nhũng lí luận vô giá về giá trị sức lao động, Marx là
người đầu tiên đã phân tích nguồn gốc của lợi nhuận một cách khoa học, sâu
sắc. Theo ông lợi nhuận là hình thái chuyển hoá của giá trị thặng dư, lợi
nhuận và giá trị thặng dư có sự giống nhau về lượng nhưng khác nhau về
chất:
-Về lượng: nếu giá cả của hàng hoá bằng với giá trị của hàng hoá thì giá trị
thặng dư bằng với lợi nhuận thu được từ hàng hoá đó, còn nếu giữa giá cả và
giá trị không có sự cân bằng thì có thể lợi nhuận sẽ lớn hơn giá trị thặng dư
hoặc là lợi nhuận sẽ nhỏ hơn giá trị thặng dư, tuy nhiên nếu xét trên tổng thể
toàn bộ nền kinh tế thì tổng lợi nhuận luôn bằng tổng giá trị thặng dư.
-Về chất: giá trị thặng dư là nội dung bên trong được tạo ra trong lĩnh vực sản
xuất , là khoản dôi ra ngoài giá trị tư bản khả biến và được tạo ra từ sức lao
động của người công nhân được mua từ tư bản khả biến .Lợi nhuận là biểu
hiện bên ngoài của giá trị thặng dư thông qua trao đổi, phạm trù lợi nhuận đã
xuyên tạc, che đậy được bản chất bóc lột của nhà tư bản đối với người lao
động.
Kế thừa những tinh thành tựu đã đạt được của các nhà kinh tế học cổ điển, kết
hợp với quá trình nghiên cứu sâu sắc nền sản xuất tư bản chủ nghĩa. Karl
Marx đã chỉ rõ nguồn gốc sâu xa của lợi nhuận và quan điểm về lợi nhuận của
ông đã hoàn toàn đúng đắn, điều đó được chứng minh bằng sức tồn tại của nó,
Sinh viên: Đào Duy Toàn Lớp:TCDN-44D
9
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

từ lúc ra đời đến nay. Chính vì thế hiện nay, khi nghiên cứu về lợi nhuận ,
chúng ta đều nghiên cứu dựa trên quan điểm của Marx về lợi nhuận.
Lợi nhuận là kết quả tài chính cuối cùng của các hoạt động sản xuất kinh
doanh, là chỉ tiêu chất lượng đánh giá hiệu quả kinh tế của các doanh nghiệp.
Từ góc độ của nhà quản trị tài chính có thể thấy rằng : Lợi nhuận của doanh
nghiệp là khoản tiền chênh lệch giữa thu nhập và chi phí mà doanh nghiệp bỏ
ra để đạt được thu nhập từ các hoạt động của doanh nghiệp đưa lại.
1.2.2. Phương pháp xác định lợi nhuận.
Hoạt động sản xuất kinh doanh đa dạng và phong phú, chính vì vậy mà lợi
nhuận của doanh nghiệp cũng có thể được hình thành từ nhiều nguồn khác
nhau. Tương ứng với các loại chi phí (như ở trên đã phân loại) chúng ta có lợi
nhuận từ các nguồn sau :
Lợi nhuận có được từ hoạt động sản xuất kinh doanh:
Là khoản chênh lệch giữa doanh thu tiêu thụ sản phẩm và chi phí đã bỏ ra của
khối lượng sản phẩm hàng hoá dịch vụ, lao vụ của các hoạt động sản xuất
kinh doanh chính và phụ của doanh nghiệp.
Lợi nhuận có được từ các hoạt động tài chính :
Là khoản chênh lệch giữa khoản thu và chi có tính chất nghiệp vụ tài chính
trong quá trình doanh nghiệp thực hiện việc kinh doanh .
Lợi nhuận thu từ các hoạt động bất thường của doanh nghiệp:
Là khoản chênh lệch giữa thu nhập và chi phí của các hoạt động khác ngoài
các hoạt động đã nêu ở trên.
Lợi nhuận được tính toán bởi việc sắp xếp của bất kì doanh thu nào được
doanh nghiệp tạo ra( không kể tới có phải khách hàng hay không đã trả tiền
cho doanh thu này) và trừ đi tổng số tiền đã chi tiêu của doanh nghiệp. Một
trong số chi tiêu này là sự khấu hao, nó là phần tổn thất trong giá trị của tài
sản cố định như : xe hơi, máy tính gây ra do các tài sản này được sử dụng
vào việc sản xuất kinh doanh.Hiện nay có 3 cách xác định lợi nhuận như sau :
+Phương pháp trực tiếp
Theo phương pháp này lợi nhuận của doanh nghiệp được xác định trực tiếp từ

hoạt động sản xuất kinh doanh, hoạt động tài chính, hoạt động bất thường.
Lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh:
Đây là bộ phận lợi nhuận chủ yếu của doanh nghiệp thu được từ hoạt động
sản xuất , cung ứng các dịch vụ trong kì. Được xác định theo công thức :
Lợi nhuận hoạt động sản xuất kinh doanh=Doanh thu thuần-Giá vốn hàng
bán-Chi phí bán hàng-Chi phí quản lí doanh nghiệp.
Trong đó:
Lợi nhuận sản xuất kinh doanh là lợi nhuận trước thuế thu nhập doanh nghiệp
Doanh thu thuần=Doanh thu tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá dịch vụ trong kì
-Khoản giảm trừ doanh thu.
Các khoản giảm trừ doanh thu bao gồm:
Chiết khấu hàng bán: là số tiền người bán giảm trừ cho người mua đối với số
tiền phải trả cho người mua thanh toán tiền mua sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ
Sinh viên: Đào Duy Toàn Lớp:TCDN-44D
10
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
của doanh nghiệp trước thời hạn thanh toán và đã được ghi trên hoá đơn bán
hàng hoặc hợp đồng kinh tế.
Giảm giá hàng bán : là số tiền người bán giảm trừ cho người mua trên giá bán
đã thoả thuận do hàng kém chất lượng, không đúng qui cách, thời hạn thanh
toán đã được ghi trên hợp đồng kinh tế hoặc giảm giá cho khách hàng khi họ
mua một khối lượng hàng hoá lớn.
Giá trị hàng bán bị trả lại: là giá trị tính theo giá thanh toán của số sản phẩm
hàng hoá, dịch vụ mà doanh nghiệp đã tiêu thụ bị khách hàng trả lại do vi
phạm hợp đồng kinh tế đã kí kết.
Thuế tiêu thụ đặc biệt: là loại thuế gián thu tính trên một số loại hàng hoá,
dịch vụ đặc biệt mà nhà nước không khuyến khích tiêu dùng.
Thuế nhập khẩu: là thuế gián thu tính trên sản phẩm hàng hoá của các tổ chức
kinh tế trong và ngoài nước xuất khẩu qua biên giới Việt Nam.
Giá vốn hàng bán phản ánh trị giá gốc của sản phẩm hàng hoá, dịch vụ(bao

gồm cả một số loại thuế theo qui định như thuế nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc
biệt) đã được xác định là tiêu thụ. Khi xác định được doanh thu thì đồng thời
giá trị hàng hoá sản phẩm xuất khẩu cũng được phản ánh vào giá vốn để xác
định kết quả. Do vậy việc xác định đúng giá vốn hàng bán có ý nghĩa rất quan
trọng.
Lợi nhuận từ hoạt động tài chính
Hoạt động tài chính là những hoạt động có liên quan tới việc huy động, quản
lí và sử dụng vốn trong kinh doanh
Lợi nhuận từ hoạt động tài chính được xác định như sau:
Lợi nhuận từ hoạt động tài chính=Thu nhập từ hoạt động tài chính-Thuế gián
thu(nếu có)-Chi phí từ hoạt động tài chính
Trong đó:
Thu nhập tài chính gồm:lãi tiền gửi ngân hàng, bán trả góp, lãi kinh doanh
chứng khoán, lãi góp vốn kinh doanh, lãi đầu tư ngắn hạn và dài hạn khác,
chiết khấu thanh toán khi mua hàng được hưởng, thu tiền do cho thuê tài sản
hoặc bán bất động sản , chênh lệch tỷ giá, hoàn nhập khoản dự phòng.
Chi phí hoạt động tài chính gồm : Lỗ do kinh doanh chứng khoán và các hoạt
động đầu tư khác, chi phí do đem góp vốn liên doanh, chi phí liên quan đến
việc cho thuê tài sản, chênh lệch tỷ giá, lập dự phòng giảm giá đầu tư chứng
khoán
Lợi nhuận từ hoạt động bất thường khác(hoạt động khác)
Hoạt động bất thường là những hoạt động diễn ra không thường xuyên mà
doanh nghiệp không dự tính trước được hoặc có dự tính nhưng ít có khả năng
thực hiện như hoạt động thanh lí, nhượng bán tài sản cố định, xử lý nợ khó
đòi
Lợi nhuận từ hoạt động bất thường được xác đinh qua công thức sau:
Lợi nhuận từ hoạt động khác=Thu nhập từ hoạt động khác-Thuế gián thu(nếu
có)-Chi phí hoạt động khác
Trong đó:
Sinh viên: Đào Duy Toàn Lớp:TCDN-44D

11
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Thu nhập từ hoạt động khác là các khoản tiền thu về tiền phạt do khách hàng
vi phạm hợp đồng, tiền thu từ hoạt động thanh lí, nhượng bán từ hoạt động
thanh lý tài sản cố định, thu các khoản nợ khó đòi, thu các khoản miễn thuế,
giảm thuế, tiền thu về giá trị tài sản thu được do vắng chủ , hoàn nhập dự
phòng, giảm giá dự trữ và phải thu nợ khó đòi, trích trước sửa chữa lớn tài sản
cố định, bảo hành sản phẩm nhưng không dùng hết vào cuối năm.
Chi phí của hoạt động khác: là các khoản chi như: chi phạt thuế, tiền phạt do
doanh nghiệp vi phạm hợp đồng, chi phí cho thanh lí, nhượng bán tài sản, giá
trị tài sản bị tổn thất do quĩ dự phòng tài chính không đủ bù đắp chi phí kinh
doanh
Sau khi đã xác đinh được lợi nhuận của tất cả các nguồn hình thành lợi nhuận,
ta tính tổng số lợi nhuận mà doanh nghiệp thu được trong một kì kinh doanh:
Lợi nhuận =Lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh+Lợi nhuận từ hoạt
động đầu tư tài chính+Lợi nhuận từ hoạt động khác
Sau đó chúng ta xác đinh được thuế thu nhập để từ đó có thể xác định được
lợi nhuận ròng của doanh nghiệp trong kì theo công thức:
Lợi nhuận ròng =Lợi nhuận trước thuế TNDN - Thuế TNDN
Lợi nhuận ròng= Lợi nhuận trước thuế TNDN *( 1-Thuế suất thuế TNDN)
*Nhận xét:
Cách xác định lợi nhuận theo phương pháp trực tiếp rất đơn giản, dễ tính toán,
do đó phương pháp này được áp dụng phổ biến và rộng rãi trong các doanh
nghiệp sản xuất ít loại sản phẩm. Còn đối với những doanh nghiệp lớn, có
nhiều loại sản phẩm thì phương pháp này không phù hợp bởi khối lượng công
việc tính toán sẽ rất lớn, tốn nhiều công sức và thời gian.
+Phương pháp gián tiếp.
Ngoài phương pháp xác định lợi nhuận như đã nêu ở trên, chúng ta còn có thể
xác định lợi nhuận bằng cách tính dần lợi nhuận của doanh nghiệp qua các
khâu trung gian. Cách xác định lợi nhuận như vậy người ta gọi là phương

pháp xác định lợi nhuận qua các bước trung gian.
Để xác định được kết quả cuối cùng của hoạt động sản xuất kinh doanh đó là
lợi nhuận ròng của doanh nghiệp, chúng ta lần lượt tính các chỉ tiêu sau:
Doanh thu bán hàng.
Các khoản giảm trừ doanh thu( chiết khấu hàng bán, giảm giá hàng bán, giá
trị hàng bán bị trả lại, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế nhập khẩu)
Doanh thu thuần [ (1)-(2) ]
Giá vốn hàng bán
Lợi nhuận gộp về hoạt động kinh doanh [(3)-(4) ]
Chi phí bán hàng
Chi phí quản lí doanh nghiệp
Lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh. [(5)-(6)-(7)]
Sinh viên: Đào Duy Toàn Lớp:TCDN-44D
12
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Thu nhập hoạt động tài chính.
Chi phí hoạt động tài chính
Lợi nhuận từ hoạt động tài chính[(9)-(10)]
Thu nhập khác
Chi phí khác
Lợi nhuận từ hoạt động khác[(12)-(13)]
Lợi nhuận trước thuế thu nhập doanh nghiệp[(8)+(11)+(14)]
Thuế thu nhập doanh nghiệp[15*thuế suất thuế TNDN]
Lợi nhuận ròng[(15)-(16)]
Nhận xét:
Cách tính này cho phép người quản lí nắm được quá trình hình thành lợi
nhuận và tác động của từng khâu hoạt động đến kết quả hoạt động sản xuất
kinh doanh cuối cùng của doanh nghiệp, đó là lợi nhuận sau thuế thu nhập
doanh nghiệp. Phương pháp này giúp chúng ta có thể lập báo cáo kết quả kinh
doanh của doanh nghiệp thông qua các chỉ tiêu trên, nhờ đó chúng ta có thể dễ

dàng phân tích và so sánh kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp kì
trước với kì này. Mặt khác chúng ta có thể thấy được sự tác động của từng
khâu hoạt động với sự tăng giảm lợi nhuận của doanh nghiệp từ đó giúp
chúng ta tìm ra những giải pháp điều chỉnh thích hợp góp phần nâng cao lợi
nhuận của doanh nghiệp.
1.2.3.Các chỉ tiêu về lợi nhuận của doanh nghiệp
* Mức lợi nhuận tuyệt đối gồm:
Lợi nhuận trước thuế thu nhập doanh nghiệp và lãi vay
Lợi nhuận trước thuế thu nhập doanh nghiệp
Lợi nhuận sau thuế thu nhập doanh nghiệp( hay còn gọi là lợi nhuận ròng)
Việc sử dụng các chỉ tiêu tuyệt đối về lợi nhuận doanh nghiệp chưa cho ta
biết bức tranh toàn cảnh về lợi nhuận của doanh nghiệp. Muốn có cái nhìn
tổng quát về lợi nhuận của doanh nghiệp thì các nhà phân tích tài chính cần
biết thêm các chỉ tiêu tương đối nữa.
*Mức lợi nhuân tương đối
Mức lợi nhuận tương đối, tỷ suất lợi nhuận( còn gọi là mức doanh lợi) phản
ánh kết quả của một loạt chính sách và quyết định của doanh nghiệp. Tỷ suất
lợi nhuận là chỉ tiêu trả lời cho câu hỏi cuối cùng của doanh nghiệp là hoạt
động như thế nào ?là cơ sở đánh giá kết quả hoạt động sản xuất của doanh
nghiệp trong một kì kinh doanh. Tỷ suất lợi nhuận là đáp số sau cùng của hiệu
quả sản xuất kinh doanh và là một bằng chứng quan trọng để các nhà hoạch
định đưa ra các quyết định đầu tư trong tương lai. Có nhiều chỉ tiêu tương đối
đánh giá lợi nhuận như: tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu, tỷ suất lợi nhuận
trên tổng tài sản, tỷ suất lợi nhuận trên vốn kinh doanh, tỷ suất lợi nhuận trên
vốn chủ sở hữu, tỷ suất lợi nhuận trên giá thành.
+ Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu.
Tỷ suất lợi nhuận doanh thu thể hiện trong 100 đồng doanh thu mà doanh
nghiệp thực hiện trong kì có bao nhiêu đồng lợi nhuận.Lợi nhuận có thể là lợi
Sinh viên: Đào Duy Toàn Lớp:TCDN-44D
13

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
nhuận sau thuế hoặc lợi nhuận trước thuế, vì thế tương ứng với nó là hai chỉ
tiêu tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu:
Lợi nhuận trước thuế
TSLN trước thuế trên doanh thu= *100
Doanh thu thuần
.
Lợi nhuận sau thuế
TSLN sau thuế trên doanh thu = *100
doanh thu thuần
Để đánh giá chỉ tiêu này là tốt hay xấu phải đặt nó trong một ngành cụ thể và
so sánh chỉ tiêu này với các năm trước và các doanh nghiệp trong cùng ngành.
Nếu chỉ tiêu này cao hơn chỉ tiêu chung của toàn ngành chứng tỏ doanh
nghiệp hoạt động kinh doanh có hiệu quả hơn các doanh nghiệp khác trong
ngành.
+ Tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản
Chỉ tiêu này được xác định bằng cách lấy lợi nhuận trước thuế và lãi vay chia
cho giá trị tài sản bình quân theo công thức:
Lợi nhuận trước thuế và lãi vay
TSLN trên tài sản = *100
Giá trị tài sản bình quân
Chỉ tiêu này cho biết một đồng giá trị tài sản mà doanh nghiệp huy động vào
việc sản xuất kinh doanh thì tạo ra mấy đồng lợi nhuận trước thuế và lãi vay.
+ Tỷ suất lợi nhuận trên vốn kinh doanh.
Chỉ tiêu này được tính bằng cách chia lợi nhuận cho bình quân tổng số vốn
kinh doanh mà doanh nghiệp huy động được trong kì nghiên cứu. Cũng giống
như chỉ tiêu lợi nhuận trên doanh thu, chỉ tiêu này người ta cũng xét hai
trường hợp là:tỷ suất lợi nhuận trước thuế trên vốn kinh doanh và tỷ suất lợi
nhuận sau thuế trên vốn kinh doanh.
Lợi nhuận trước thuế

TSLN trước thuế trên vốn kinh doanh = *100
Vốn kinh doanh bình quân
Lợi nhuận sau thuế
TSLN sau thuế trên vốn kinh doanh = *100
Vốn kinh doanh bình quân
Chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận vốn kinh doanh phản ánh một đồng vốn kinh doanh
mà doanh nghiệp đưa vào sản xuất kinh doanh trong kì tạo ra mấy đồng lợi
nhuận. Trong hai chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận trước thuế vốn kinh doanh và tỷ
suất lợi nhuận sau thuế vốn kinh doanh thì tỷ suất lợi nhuận sau thuế vốn kinh
doanh được các nhà quản trị tài chính sử dụng nhiều hơn, bởi lẽ nó phản ánh
số lợi nhuận còn lại (sau khi doanh nghiệp trả lãi vay ngân hàng và thực hiện
các nghĩa vụ với nhà nước ) được sinh ra do sử dụng bình quân một đồng vốn
kinh doanh.
Sinh viên: Đào Duy Toàn Lớp:TCDN-44D
14
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
+ Tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu
Mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp là tạo ra lợi nhuận ròng cho những
người sở hữu doanh nghiệp đó.Doanh lợi vốn chủ sở hữu là chỉ tiêu đánh giá
mức độ thực hiện mục tiêu này. Tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu được tính
bằng cách chia lợi nhuận sau thuế cho vốn chủ sở hữu bình quân. Công thức
xác định như sau:
Lợi nhuận sau thuế
TSLN vốn chủ sở hữu = * 100
Vốn chủ sở hữu bình quân
Chỉ tiêu tỉ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu có ý nghĩa là một đồng vốn mà
chủ sở hữu bỏ vào để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh thì mang lại
mấy đồng lợi nhuận sau thuế. Nếu doanh nghiệp có tỉ suất lợi nhuận vốn chủ
sở hữu lớn hơn tỉ suất lợi nhuận sau thuế trên tổng vốn kinh doanh, điều đó
chứng tỏ việc doanh nghiệp sử dụng có hiệu quả các vốn vay.

+ Tỷ suất lợi nhuận trên giá thành của sản phẩm
Là tỉ số giữa lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp và giá thành của sản phẩm
Lợi nhuận tiêu thụ trong kì
TSLN trên giá thành = * 100
Giá thành toàn bộ sản phẩm trong kì
Thông qua chỉ tiêu này, nhà quản trị tài chính sẽ biết rõ hiệu quả của
chi phí bỏ vào sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.
1.2.4.Phân phối lợi nhuận và vai trò của lợi nhuận đối với doanh nghiệp
Phân phối lợi nhuận là công việc khó khăn và phức tạp, nó không đơn thuần
là việc phân chia tiền lãi thu được sau một kì kinh doanh của doanh nghiệp
mà nó là việc dùng tiền để giải quyết hàng loạt mối quan hệ kinh tế phát sinh
đối với doanh nghiệp. Lợi nhuận chia hết cho những chủ sở hữu doanh
nghiêph hay để lại một phần để thực hiện các chiến lược kinh doanh của
doanh nghiệp. Đó là công việc phức tạp đòi hỏi các nhà quản trị tài chính phải
giải quyết. Nếu giải quyết đúng đắn thì nó sẽ là động lực thúc đẩy sự phát
triển của doanh nghiệp, còn nếu không phù hợp nó sẽ là một nguyên nhân kìm
hãm doanh nghiệp phát triển.
Lợi nhuận thực hiện cả năm được phân phối như sau:
Nộp thuế thu nhập doanh nghiệp theo luật định.
Nộp tiền thu về sử dụng vốn ngân sách nhà nước (áp dụng đối với các doanh
nghiệp sử dụng vốn ngân sách nhà nước).
Trả các khoản tiền bị phạt , các khoản chi phí hợp lí, hợp lệ chưa được trừ khi
xây dựng thuế thu nhập phải nộp.
Trả các khoản lỗ không được trừ vào lợi nhuận trước thuế.
Trích lập các quĩ đặc biệt theo tỷ lệ do Nhà nước qui định(đối với doanh
nghiệp kinh doanh trong một số ngành đặc thù mà pháp luật qui định).
Chia lãi cho các đối tác góp vốn theo hợp đồng hợp tác kinh doanh.
Trích lập các quĩ chuyên dùng của doanh nghiệp gồm:
Quĩ đầu tư phát triển: Dùng để đầu tư phát triển kinh doanh.
Sinh viên: Đào Duy Toàn Lớp:TCDN-44D

15
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Quỹ dự phòng tài chính: Dùng để bù đắp những thiệt hại về tài sản mà doanh
nghiệp phải chịu trong quá trình kinh doanh.
Quỹ dự phòng về trợ cấp mất việc làm: Dùng để chi cho việc đào tạo công
nhân do thay đổi công nghệ, đào tạo nghề dự phòng cho lao động nữ, trợ cấp
mất việc làm cho lao động thường xuyên trong doanh nghiệp nay bị mất việc
làm.
Quỹ phúc lợi: Dùng để đầu tư cho các công trình phúc lợi của doanh nghiệp,
làm công tác từ thiện.
Quỹ khen thưởng: Dùng để thưởng cuối năm hoặc thưởng cho cán bộ công
nhân viên trog doanh nghiệp, thưởng đột xuất cho các cá nhân, tập thể trong
doanh nghiệp có sàng kiến mang lại hiệu quả trong kinh doanh
Từ việc sử dụng lợi nhuận của doanh nghiệp ta thấy lợi nhuận không những
duy trì sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp nói riêng mà còn góp phần
vào sự phát triển của nền kinh tế nói chung. Lợi nhuận đáp ứng và kết hợp hài
hoà các lợi ích, lợi ích của người lao động, của doanh nghiệp và của Nhà
nước mà trong đó thu nhập doanh nghiệp chiếm tỷ tr ọng lớn.
Như vậy, lợi nhuận góp phần để Ngân sách Nhà nước thực hiện các vai trò
của mình mà về mặt kinh tế đó là để khắc phục những khuyết tật của nền kinh
tế thị trường, tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho phát triển sản xuất
kinh doanh. Tức là lợi nhuận đã trở thành nguồn tích luỹ cơ bản để mở rộng
tái sản xuất xã hội, là cơ sở để tăng thu nhập quốc dân. Để thấy được điều này
ra hãy xem xét vai trò của lợi nhuận với từng đối tượng.
+Vai trò của lợi nhuận đối với người lao động.
Lợi nhuận cơ bản là nguồn để thể hiện sự quan tâm của mình với người lao
động. Lợi nhuận là nguồn vốn để trích lập các quỹ phúc lợi, khen thưởng, giải
quyết các nhu cầu xã hội của người lao động trong doanh nghiệp. Các quĩ này
phụ thuộc vào hai yếu tố: Số lợi nhuận mà doanh nghiệp có được nhờ hoạt
động kinh doanh của minh, thứ 2 là phụ thuộc vào chính sách của doanh

nghiệp( cách phân phối lợi nhuận). Nếu như chính sách về phân phối lợi
nhuận không thay đổi qua các năm thì nguồn vốn để tạo lập các quĩ( lợi
nhuận) càng lớn thì các quĩ (trong đó có quĩ danh cho người lao động) càng
lớn. Từ đó mà người công nhân được nâng cao trình độ , đời sống tinh thần
cũng như vật chất , tạo điều kiện khuyến khích họ hăng say lao động. Đó là
một trong nhiều nguyên nhân có thể làm cho lợi nhuận của doanh nghiệp tăng
lên. Việc phân phối lợi nhuận như vậy là cơ sở để cho các doanh nghiệp tái
sản xuất mở rộng và ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống của cán bộ công nhân
viên trong doanh nghiệp. Thực tế đã chứng minh rằng các doanh nghiệp có
chế độ đãi ngộ tốt với công nhân viên đã khuyến khích công nhân viên hăng
say lao động, giảm số giờ nghỉ việc, có trách nhiệm với công việc, thúc đẩy
năng suất lao động, cải tiến kĩ thuật, sử dụng tiết kiệm nguyên vật liệu để
giảm giá thành.
+ Tác động của lợi nhuận tới các doanh nghiệp.
Sinh viên: Đào Duy Toàn Lớp:TCDN-44D
16
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Lợi nhuận là mục tiêu cuối cùng của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị
trường, nó là chỉ tiêu tổng hợp đánh giá tình hình hoạt động của doanh nghiệp
trong một kì kinh doanh.Lợi nhuận đối với doanh nghiệp vừa là kết quả của
hoạt động đầu tư, vừa là nguồn để các doanh nghiệp tiếp tục hoạt động đầu tư.
Chính vì thế mà lợi nhuận có vai trò vô cùng quan trọng đối với doanh
nghiệp:
Lợi nhuận là nguồn tích luỹ quan trọng để doanh nghiệp bổ sung vốn kinh
doanh tạo điều kiện mở rộng sản xuất kinh doanh của mình. Bởi vì có lợi
nhuận thì mới có thể trích lợi nhuận lập được các quĩ trong doanh nghiệp
như:Quĩ khuyến khích phát triển sản xuất, quĩ khen thưởng, quĩ phúc lợi Từ
các quĩ này, các doanh nghiệp có thể bổ sung vốn lưu động, vốn cố định khi
điều kiện điều kiện sản xuất kinh doanh đòi hỏi. Và cũng chính từ các quĩ
này, doanh nghiệp có điều kiện không ngừng nâng cao đời sống cán bộ công

nhân viên về mọi mặt, góp phần kích thích người lao động gắn bó với doanh
nghiệp để thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh phát triển.
Lợi nhuận đạt được cao hay thấp sẽ tác động trực tiếp đến khả năng thanh
toán . Có lợi nhuận, doanh nghiệp mới có điều kiện thực hiện tốt các nghĩa vụ
với nhà nước thông qua thuế và các khoản phải nộp khác. Lợi nhuận cũng là
khoản tài chính để các doanh nghiệp trang trải thua lỗ trước kia hay những
khoản bị phạt do vi phạm hợp đồng kinh tế.
Một doanh nghiẹp làm ăn thua lỗ không đủ sức tái sản xuất giản đơn(bù đắp
các chi phí trong quá trình sản xuất) thì tình hình tài chính của doanh nghiệp
sẽ xấu đi và hạn chế khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Ngược lại, doanh
nghiệp làm ăn có lãi, thu được lợi nhuận cao thì không những có khả năng
thanh toán vững chắc mà còn không ngừng nâng cao uy tín của doanh nghiệp
mình trên thị trường, không ngừng đổi mới trang thiết bị.
+ Tác động của lợi nhuận tới nền sản xuất xã hội.
Trong thời kì bao cấp, sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp quốc
doanh dựa vào sự bao cấp về mọi mặt của nhà nước. Vốn đầu tư là do nhà
nước cấp phát toàn bộ, doanh nghiệp không phải lo lắng tìm nguồn vốn, sử
dụng vốn.bởi vì vốn là do nhà nước cấp, doanh nghiệp thua lỗ thì nhà nước bù
lỗ. Chính vì vậy mà các doanh nghiệp nhà nước trong thời kì này có hiệu quả
sản xuất kinh doanh kém, không năng động. Động lực sản xuất kinh doanh,
cải tiến công nghệ bị thui chột. Lợi nhuận không còn là mục tiêu cuối cùng
của doanh nghiệp nữa. Doanh nghiệp không xuất phát từ nhu cầu của thị
trường để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp nhà nước bộc lộ rõ
những điểm yếu của mình. Tuy nhiên , để đưa các doanh nghiệp thích nghi
với cơ chế mới, Nhà nước đã có nhiều chính sách tích cực để đưa các doanh
nghiệp nhà nước vào ổn định và hoạt động có lãi. Các doanh nghiệp khác lại
có thể thể hiện điểm mạnh của mình trong cơ chế mới. Đó là tính năng động,
cơ cấu tổ chức gọn nhẹ, không cồng kềnh như các doanh nghiệp nhà nước.
Sinh viên: Đào Duy Toàn Lớp:TCDN-44D

17
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Lợi nhuận là tiền đề của tái sản xuất mở rộng của xã hội vì lợi nhuận chiếm tỷ
trọng lớn trong tích luỹ xã hội. Trong điều kiện nền kinh tế hàng hoá hiện nay
đòi hỏi các doanh nghiệp phải kinh doanh có lãi, đem lại lợi nhuận ngày càng
cao phục vụ tái sản xuất mở rộng với qui mô lớn và tốc độ nhanh.
Thuế là nguồn thu chủ yếu của Ngân sách nhà nước nhằm thoả mãn nhu cầu
của nền kinh tế quốc dân, là nguồn củng cố và tăng cường tiềm lực quốc
phòng , duy trì bộ máy hành chính, cải thiện phúc lợi xã hội. Cơ bản , các loại
thuế do các doanh nghiệp nộp trong quá trình hoạt động kinh doanh của mình.
Các doanh nghiệp làm ăn có lãi thì khả năng thanh toán của các doanh nghiệp
mới cao, mới có thể thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ với nhà nước. Chính vì
vậy, lợi nhuận cũng có vai trò quan trọng trong việc góp phần phát triển nền
sản xuất xã hội.
1.3.Các nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận của Doanh nghiệp.
Lợi nhuận là kết quả tài chính cuối cùng đánh giá hiệu quả của hoạt động sản
xuất kinh doanh và chịu ảnh hưởng bởi rất nhiều nhân tố chủ quan cũng như
các nhân tố khách quan. Đó là các nhân tố thuộc về thị trường, về chính sách
vĩ mô của Nhà nước và bản thân doanh nghiệp. Khi xem xét các nhân tố ảnh
hưởng tới lợi nhuận của doanh nghiệp có thể chia làm hai nhân tố: nhân tố
bên trong và các nhân tố bên ngoài. Nhân tố bên trong là các nhân tố xuất
phát từ bản thân các quyết định của doanh nghiệp, trong tầm kiểm soát của
doanh nghiệp. Nhân tố bên ngoài là nhân tố khách quan, không chịu kiểm soát
ý thức chủ quan của doanh nghiệp.
1.3.1.Các nhân tố bên ngoài doanh nghiệp.
Quan hệ cung cầu về hàng hoá của doanh nghiệp trên thị trường.
Lợi nhuận của doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh
vực sản xuất kinh doanh chịu ảnh hưởng trực tiếp và tổng hợp của tất cả các
mặt, tất cả các khâu trong quá trình sản xuất kinh doanh như tìm hiểu nhu cầu
cầu của thị trường, nguồn cung cấp nguyên vật liệu đầu vào, công nghệ qui

trình sản xuất, để ra quyết định sản lượng hàng hoá sản xuất. Nhưng trước
hết, lợi nhuận chịu sự tác động trực tiếp của cung cầu về chính hàng hoá của
doanh nghiệp trên thị trường.
Nhu cầu của thị trường về hàng hoá mà doanh nghiệp cung cấp là nhân tố
quyết định đối với doanh nghiệp trong vấn đề ra quyết định lượng sản xuất.
Chỉ nắm bắt được nhu cầu của thị trường, doanh nghiệp sẽ có khả năng để xác
định qui mô sản xuất tối ưu nhằm tối đa lợi nhuận, tối thiểu hoá chi phí hay
tối đa hoá doanh thu Nhu cầu có khả năng thanh toán đối với hàng hoá và
dịch vụ mà doanh nghiệp cung cấp lớn sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho doanh
nghiệp tiến hành trong việc tiến hành tận dụng tối đa công suất của máy móc,
thiết bị. Đồng thời, sản phẩm của doanh nghiệp sẽ tiêu thụ nhanh, mạnh trên
thị trường. Do đó lợi nhuận của doanh nghiệp sẽ tăng nhanh chóng. Ngược
lại, khi nhu cầu hàng hoá, dịch vụ của doanh nghiệp trên thị trường chỉ ở mức
thấp, doanh nghiệp chỉ có thể tiến hành hoạt động sản xuất cầm chừng. Công
nhân chỉ có thể làm việc thay phiên nhau trong khi máy móc hoạt động với
Sinh viên: Đào Duy Toàn Lớp:TCDN-44D
18
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
công suất thấp Điều này sẽ dẫn tới một sự lãng phí, doanh thu thấp và lợi
nhuận không đạt đựơc mức kế hoạch đã đề ra, thậm chí có thể xảy ra tình
trạng thua lỗ kéo dài dẫn đến phá sản.
Sinh viên: Đào Duy Toàn Lớp:TCDN-44D
19
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Tỷ giá hối đoái
Trong xu thế hội nhập như hiện nay, cả thế giới là thị trường rộng lớn cho các
doanh nghiệp có khả năng . Việc trao đổi hàng hoá giữa các quốc gia với nhau
chịu ảnh hưởng rất lớn bới tỷ gía hối đoái, nó ảnh hưởng trực tiếp đến sự tồn
tại và quá trình phát triển của doanh nghiệp. Trực tiếp hay gián tiếp, nó có ảnh
hưởng rất lớn đến tổng doanh thu, tổng chi phí từ đó ảnh hưởng tới tổng lợi

nhuận trước thuế. Việc các ngoại tệ khác lên giá sẽ làm lợi cho các doanh
nghiệp xuất khẩu, hàng hoá xuất khẩu sẽ trở lên tương đối rẻ so với hàng hoá
cùng chủng loại ở nước ngoài. Vì lý do như vậy, người nước ngoài mua nhiều
hàng hoá của nước xuất khẩu hơn. Điều ngược lại xuất hiện nếu các đồng
ngoại tệ giảm gía so với đồng nội tệ. Khi đó, dân cư nước ngoài sẽ mua ít
hàng hoá của nước xuất khẩu hơn. Điều này dẫn đến tổng doanh thu của các
nước xuất khẩu giảm.
Ngoài ra, các doanh nghiệp nhập khẩu cũng bị ảnh hưởng của biến động tỷ
giá trên thị trường ngoại hối, nhất là đối với các doanh nghiệp sử dụng hầu
hết các nguyên liệu nhập khẩu. Khi ngoại tệ lên giá so với đồng nội tệ, giá
nguyên liệu đầu vào sẽ tăng lên tương ứng dẫn đến giá thành của sản phẩm
cũng tăng lên. Kết quả là chi phí sản xuất của doanh nghiệp tăng mạnh trong
khi doanh nghiệp khó có thể tăng giá bán sản phẩm của mình. Lợi nhuận của
doanh nghiệp có thể bị giảm nghiêm trọng. Khi ngoại tệ có xu hướng tăng giá
mạnh, các khoản vay bằng ngoại tệ của doanh nghiệp để mua nguyên vật liệu
và tài sản cố định càng làm cho tình hình tài chính của doanh nghiểp trở nên
tồi tệ.
Môi trường kinh doanh
Bất cứ doanh nghiệp nào cũng hoạt động trong một môi trường kinh doanh
nhất định. Môi trường kinh doanh tác động mạnh mẽ tới mọi hoạt động của
doanh nghiệp và từ đó ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp,
ảnh hưởng đến lợi nhuận thu được
Sự ổn định của nền kinh tế
Không phụ thuộc vào mong muốn chủ quan của doanh nghiệp, sự ổn định của
nền kinh tế phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố: yếu tố bên trong nước, yếu tố bên
ngoài nước. Mặc dù như vậy nhưng sự ổn định của nền kinh tế ảnh hưởng
trực tiếp đến khối lượng sản phẩm tiêu thụ, ảnh hưởng trực tiếp tới doanh thu
của doanh nghiệp, từ đó ảnh hưởng tới lợi nhuận của doanh nghiệp. Bên cạnh
đó, những biến động của nền kinh tế có thể gây ra những rủi ro kinh doanh
ảnh hưởng tới những khoản chi phí vật tư, chi phí trả lãi, tiền thuê nhà xưởng,

máy móc thiết bị từ đó tác động xấu đến lợi nhuận của doanh nghiệp.
Sinh viên: Đào Duy Toàn Lớp:TCDN-44D
20
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Cơ chế chính sách của Nhà nước
Đây là nhân tố bên ngoài có tác động mạnh mẽ đến hoạt động của doanh
nghiệp. Các cơ chế chính sách của Chính phủ ở tầm vĩ mô đều có tác dụng
điều tiết sản xuất, định hướng tiêu dùng, tạo môi trường ổn định cho các
doanh nghiệp hoạt động. Ở tầm vĩ mô, các chính sách này có thể khuyến
khích hay hạn chế hoạt động của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp cần nắm
vững những cơ chế chính sách của nhà nước để điều chỉnh hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp mình. Những cơ chế chính sách có thể là những
lợi thế nhưng cũng rất có thể là những khó khăn cho các doanh nghiệp. Một
số cơ chế chính sách vĩ mô là:
* Chính sách thuế:
Thuế là hình thức nộp bắt buộc theo luật định. Tuỳ theo tính chất ngành ,
nghề sản xuất kinh doanh, một doanh nghiệp khi tiến hành sản xuất kinh
doanh phải nộp nhiều loại thuế khác nhau:thuế xuất nhập khẩu, thuế tài
nguyên, VAT, thuế tiêu thụ đặc biệt Ngoài các khoản thuế doanh nghiệp còn
phải nộp một số các khoản phí hay lệ phí.
Mức thuế suất được nhà nước qui định tuỳ tính chất của từng mặt hàng . Bởi
vậy đòi hỏi các doanh nghiệp theo dõi và giám sát sao cho đúng vì khi có
những thay đổi liên quan đến thuế, phí và lệ phí thì các khoản mục hạch toán
của doanh nghiệp cũng thay đổi và do đó kéo theo sự thay đổi của lợi nhuận.
* Chính sách lãi suất
Thông thường khi các doanh nghiệp bắt đầu tiến hành hoạt động sản xuất
kinh doanh thì ngoài việc sử dụng vốn tự có , các doanh nghiệp còn sử dụng
vốn có được nhờ vào việc vay các tổ chức tín dụng. Trong kì kinh doanh của
doanh nghiệp, các doanh nghiệp này đều phải trả các khoản tiền lãi cho món
vay của mình. Số tiền lãi mà doanh nghiệp phải trả phụ thuộc vào số tiền mà

doanh nghiệp vay, thời gian vay và lãi suất.Lãi suất sẽ phụ thuộc vào mức lãi
suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước qui định. Khi Ngân hàng Nhà nước thay
đổi mức lãi suất cơ bản sẽ tác động trực tiếp đến chi phí trả lãi vay, tác động
đến chi phí .Do vậy mà lãi suất của ngân hàng và các tổ chức tín dụng có ảnh
hưởng lớn đến các quyết định tài chính của doanh nghiệp và từ đó có ảnh
hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp.
*Kiểm soát giá
Giá của một sản phẩm do doanh nghiệp sản xuất ra chịu ảnh hưởng của qui
luật cung cầu trên thị trường, doanh nghiệp căn cứ vào tình hình cung cầu trên
thị trường mà xây dựng giá bán sản phẩm. Nhà nước không quyết định giá
cho sản phẩm mà chỉ tham gia can thiệp khi cần thiết. Tuy nhiên, đối với
những lĩnh vực then chốt, có vai trò quan trọng, có tính chất chiến lược với
nền kinh tế quốc dân như : Viễn thông, điện lực, xăng dầu thì nhà nước sẽ
kiểm soát giá. Nếu doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này thì giá bán sản
phẩm phải nằm trong khung giá do Nhà nước qui định. Trong trường hợp các
nhân tố khác không thay đổi, thay đổi giá bán cũng có ảnh hưởng trực tiếp
đến doanh thu, từ đó ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp.
Sinh viên: Đào Duy Toàn Lớp:TCDN-44D
21
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Đặc điểm kinh tế kĩ thuật của ngành kinh doanh.
Đặc điểm kinh tế kĩ thuật của ngành có ảnh hưởng không nhỏ tới doanh thu
và chi phí , như vậy sẽ ảnh hưởng tới lợi nhuận của doanh nghiệp. Mỗi ngành
kinh doanh mang những đặc thù riêng của ngành mình, đi liền với nó là cơ
cấu chi phí và qui mô chi phí cũng khác nhau giữa các ngành. Ví dụ như các
ngành Viễn thông, Điện lực sản phẩm cung cấp là dịch vụ thì chi phí khấu
hao thường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng chi phí sản xuất do vốn đầu tư công
nghệ và mua sắm tài sản cố định lớn.
1.3.2 Các nhân tố bên trong của doanh nghiệp.
Vốn.

Vốn là các quĩ tiền mà doanh nghiệp sẽ sử dụng vào quá trình hoạt động sản
xuất kinh doanh của mình. Nó có thể được coi là số tiền ứng trước cho một
chu kì sản xuất kinh doanh. Vốn là chỉ tiêu thể hiện khả năng tài chính và qui
mô của doanh nghiệp và có ảnh hưởng tới hoạt động sản xuât kinh doanh của
doanh nghiệp. Nó sẽ là điều kiện để doanh nghiệp mở rộng qui mô, tăng khối
lượng sản phẩm làm ra, từ đó góp phần tăng doanh thu, tăng lợi nhuận của
doanh nghiệp.
Vốn của doanh nghiệp có thể được chia thành vốn chủ sở hữu và vốn đi vay.
Tỷ trọng giữa vốn đi vay và tổng số trong doanh nghiệp gọi là cơ cấu vốn. Cơ
cấu vốn phản ánh trong mỗi đồng vốn mà doanh nghiệp sử dụng có bao nhiêu
đồng vốn đi vay và qua đó thấy được mức độ đóng góp của vốn chủ sở hữu .
Doanh nghiệpcó một cơ cấu vốn như thế nào, điều này cũng ảnh hưởng đến
lợi nhuận của doanh nghiệp. Tỷ trọng vốn đi vay trong tổng vốn lớn sẽ giúp
doanh nghiệp giảm rủi ro trong kinh doanh. Tuy nhiên doanh nghiệp lại phải
bỏ một khoản chi phí để trả lãi. Nếu như doanh nghiệp làm ăn không hiệu quả
trong khi chi phí trả lãi lớn sẽ làm tổng chi phí tăng, từ đó làm giảm lợi nhuận
của doanh nghiệp.
Công nghệ
Việc lựa chọn công nghệ, có hai phương án được đặt ra: thứ nhất là doanh
nghiệp có thể đầu tư công nghệ mới hiện đại với chi phí bỏ ra lớn và đòi hỏi
một số ít lao động có trình độ tay nghề cao, hai là doanh nghiệp lựa chọn công
nghệ sản xuất đã có từ lâu với chi phí bỏ ra để mua máy móc ít hơn nhưng đòi
hỏi số lượng lao động lớn và phải chịu hao mòn vô hình lớn do tiến bộ khoa
học kĩ thuật. Trong trường hợp cầu về sản phẩm của doanh nghiệp thấp thì đối
với phương án thứ nhất, chi phí về công nghệ cho sản xuất sản phẩm cao
trong khi máy móc không tận dụng được hết công suất sẽ tạo ra một áp lực
lớn về chi phí cho doanh nghiệp, rủi ro kinh doanh lớn, do vậy sẽ ảnh hưởng
tới lợi nhuận của doanh nghiệp. Khi sử dụng phương án 2, rủi ro kinh doanh
sẽ nhỏ hơn nếu nhu cầu sản phẩm của doanh nghiệp không cao.Nhưng nếu
nhu cầu của thị trường về sản phẩm của doanh nghiệp cao thì việc sử dụng

công nghệ hiện đại có thể nhanh chóng cung ứng sản phẩm, đảm bảo về số
lượng và chất lượng của sản phẩm từ đó tăng doanh thu của doanh nghiệp.
Sinh viên: Đào Duy Toàn Lớp:TCDN-44D
22
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Lao động
Lao động cũng là một nhân tố quan trọng ảnh hưởng tới hiệu quả sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp. Trình độ kĩ thuật cao, lành nghề, sáng tạo trong
công việc của người lao động sẽ góp phần làm tăng chất lượng của sản phẩm,
giảm chi phí sản xuất, tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp và ngược lại. Chi phí
nhân công chiếm tỷ trọng khá lớn trong tổng chi phí nhất là đối với các ngành
đặc thù như : điện lực, viễn thông Do vậy, chất lượng lao động trong những
ngành này càng đóng vai trò quan trọng trong nâng cao chất lượng sản phẩm,
giảm chi phí sản xuất của doanh nghiệp.
Năng lực quản lí của doanh nghiệp
* Tổ chức sản xuất và tiêu thụ sản phẩm
Tổ chức quản lí và tiêu thụ sản phẩm hàng hoá là quá trình thực hiện sự kết
hợp chặt chẽ các yếu tố vật tư, kĩ thuật để chế tạo ra sản phẩm hàng hoá. Quá
trình này được thực hiện như thế nào sẽ có ảnh hưởng rất lớn đến số lượng
sản phẩm và chất lượng sản phẩm được làm ra và chi phí của doanh nghiệp
phải bỏ ra để sản xuất sản phẩm. Tổ chức và quản lí sản xuất ở trình độ cao có
thể giúp cho doanh nghiêp xác định mức sản xuất tối ưu và phương pháp sản
xuất tốt nhất làm giá thành sản phẩm hạ xuống. Nhờ vào việc bố trí hợp lí các
khâu sản xuất có thể hạn chế sự lãng phí nguyên liệu, giảm thấp tỉ lệ sản
phâm hỏng. Đây chính là cơ sở để tăng lợi nhuận của doanh nghiệp.
Quá trình tiêu thụ sản phẩm hàng hoá dịch vụ cũng ảnh hưởng đến doanh thu
và từ đó có tác động đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Thời điểm tiêu thụ sản
phẩm được xác định là khi khách hàng chấp nhận thanh toán, không phụ
thuộc vào thời điểm trả tiền của khách hàng. Do vậy, tiêu thụ sản phẩm nhanh
sẽ làm tăng lợi nhuận của doanh nghiệp. Tuy nhiên, việc tiêu thụ sản phẩm tốt

lại phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố khác như công tác Marketing, quảng
cáo của doanh nghiệp, uy tín của doanh nghiệp trên thị trường
Tổ chức lao động và sử dụng con người
Đây là nhân tố quan trọng để nâng cao năng suất lao động và hạ giá thành sản
phẩm của doanh nghiệp nhất là đối với doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động
trong sản xuất. Việc tổ chức lao động một cách khoa học sẽ tạo ra sự kết hợp
các yếu tố sản xuất một cách hợp lý, loại trừ được trình trạng lãng phí lao
động, lãng phí giờ máy, có tác dụng lớn thúc đẩy việc nâng cao năng suất lao
động, hạ giá thành sản phẩm dịch vụ, góp phần làm tăng lợi nhuận cho doanh
nghiệp. Nếu đội ngũ lao động của doanh nghiệpcó chất lượng cao cộng với
trình độ tổ chức và sử dụng lao động hợp lý sẽ giúp doanh nghiệp có quy trình
tổ chức sản xuất tiêu thụ hợp lý, tổ chức quản lý tài chính tốt, tìm ra các biện
pháp giảm chi phí đầu vào từ đó góp phần tăng doanh thu, giảm chi phí sản
xuất, tăng lợi nhuận của doanh nghiệp.
Quản lý tài chính
Quản lý tài chính là nhân tố có tác động mạnh mẽ đến việc hạ giá thành sản
phẩm của doanh nghiệp. Vai trò quản trị tài chính ngày càng tăng trong hoạt
động sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp và tác động của nó đến việc
Sinh viên: Đào Duy Toàn Lớp:TCDN-44D
23
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
giảm chi phí, hạ giá thành, tăng lợi nhuận ngày càng mạnh mẽ. Tổ chức sử
dụng vốn hợp lý, đáp ứng đầy đủ kịp thời nhu cầu mua sắm vật tư sẽ tránh
được những tổn thất cho việc sản xuất do việc ngừng sản xuất, do thiếu vật tư,
nguyên liệu. Thông qua việc tổ chức sử dụng vốn kiểm tra được tình hình dự
trữ , tồn kho sản phẩm từ đó phát hiện ngăn chặn kịp thời tình trạng ứ đọng
mất mát, hao hụt vật tư sản phẩm. Việc đẩy mạnh sự chu chuyển vốn có thể
làm giảm nhu cầu vay vốn và sẽ làm bớt chi phí sản xuất, hạ giá thành sản
phẩm góp phần làm tăng lợi nhuận của doanh nghiệp.
Việc xem xét các nhân tố ảnh hưởng tới lợi nhuận là công việc quan trọng.

Việc chia thành các nhân tố bên trong và bên ngoài có thể làm chúng ta có cái
nhìn rõ nét hơn về các yếu tố làm cho lợi nhuận tăng hay giảm. Tuy nhiên, có
thể thấy rằng việc chia như vậy chỉ mang tính chất tương đối. Giữa các nhân
tố đều có mối quan hệ với nhau, nhân tố này ảnh hưởng tới nhân tố kia và
ngược lại. Vì vậy, việc phân tích các nhân tố ảnh hưởng tới lợi nhuận cần
thiết phải có cái nhìn tổng quát xem xét sự ảnh hưởng tổng hợp của các nhân
tố tới lợi nhuận của doanh nghiệp.
Chương 2: Thực trạng chi phí và lợi nhuận của Bưu điện tỉnh Hải Dương
2.1.Giới thiệu về bưu điện tỉnh Hải Dương.
2.1.1.Quá trình hình thành và phát triển.
*Tên doanh nghiệp: Bưu điện tỉnh Hải Dương
*Tên giao dịch quốc tế: Haiduong posts and telecommunications.
(Viết tắt là Haiduong P&T)
*Địa chỉ : Số 1 đại lộ Hồ Chí Minh-Thành phố Hải Dương.
* Bưu điện tỉnh Hải Dương được hình thành với sự ra đời của các ban ngành
khác trong tỉnh nhằm phục vụ yêu cầu nhiệm vụ mới của Cách mạng và đáp
ứng nhu cầu tình cảm của nhân dân trong tỉnh trong những ngày đầu cách
mạng.
Quá trình xây dựng và trưởng thành đến tháng 1/1968 được hợp nhất từ 2 tỉnh
Hải Dương và Hưng Yên thành tỉnh Hải Hưng. Tháng 11/1996, Quốc Hội
khoá IX kì họp thứ X đã quyết định chia Hải Hưng thành 2 tỉnh Hải Dương và
Hưng Yên. Tỉnh Hải Dương được tái lập sau 28 năm sáp nhập với Hưng Yên.
Từ ngày 1/7/1997, Bưu điện tỉnh Hải Dương được chính thức hoạt động.
Bưu điện tỉnh Hải Dương được thành lập ngày 14/6/1997 theo quyết định số
336/QĐ-TCBĐ của Tổng cục trưởng Tổng cục Bưu điện, là doanh nghiệp nhà
nước, đơn vị thành viên của Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt
Nam(VNPT), hoạt động kinh doanh và hoạt động công ích cùng các đơn vị
thành viên khác trong một dây truyền công nghệ Bưu chính- Viễn thông liên
Sinh viên: Đào Duy Toàn Lớp:TCDN-44D
24

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
hoàn, thống nhất cả nước, có mối liên hệ chặt chẽ với nhau về tổ chức mạng
lưới kinh tế, tài chính, phát triển dịch vụ Bưu chính-Viễn thông để thực hiện
những mục tiêu kế hoạch Nhà nước do Tổng công ty giao.
Bưu điện tỉnh Hải Dương có tư cách pháp nhân và là tổ chức kinh tế-đơn vị
thành viện hạch toán phụ thuộc Tổng công ty Bưu chính- Viễn thông Việt
Nam có điều lệ tổ chức và hoạt động, bộ máy quản lý và điều hành, có con
dấu theo mẫu doanh nghiệp nhà nước, được mở tài khoản ngân hàng và kho
bạc Nhà nước. Được Tổng công ty giá quyền quản lý vốn và tài sản tương
ứng với nhiệm vụ kinh doanh và phục vụ của đơn vị. Chịu trách nhiệm về
hoàn thành kế hoạch kinh doanh và phục vụ đã được Tổng công ty giao để
góp phần bảo toàn và phát triển tổng số vốn do Tổng công ty quản lý. Có
quyền tự chủ kinh doanh theo phân cấp của Tổng công ty, chịu sự ràng buộc
về nghĩa vụ và quyền lợi đối với Tổng công ty. Có bảng cân đối tài kế toán,
các quĩ xí nghiệp theo qui định của nhà nước và qui chế tài chính của Tổng
công ty.
Bưu điện tỉnh Hải Dương chịu sự lãnh đạo cuả Tỉnh uỷ, UBND tình Hải
Dương về chấp hành pháp luật, các mặt hoạt động liên quan đến nhiệm vụ
phục vụ nhân dân tỉnh Hải Dương và gắn nhiệm vụ phát triển Bưu chính-
Viễn thông với qui hoạch, kế hoạch của tỉnh.
* Cơ cấu tổ chức của Bưu điện tỉnh Hải Dương.
Là một đơn vị hoạt động kinh doanh có qui mô lớn, để thực hiện chức năng
nhiệm vụ và đáp ứng được yêu cầu sản xuất kinh doanh của đơn vị mình. Bộ
máy quản lý của Bưu điện tỉnh Hải Dương được tổ chức theo mô hình trực
tuyến với 12 Bưu điện huyện , thành phố, 12 đài viễn thông nằm trong 1 công
ty đó là Công ty Điện báo điện thoại, công ty BC-PHBC có cơ cấu và nhiệm
vụ cụ thể.
Bộ máy tổ chức quản lý của Bưu điện tỉnh Hải Dương bao gồm:
-Ban giám đốc: gồm 1 giám đốc và 2 phó giám đốc.
Giám đốc là người đứng đầu, chịu trách nhiệm trước Nhà nước và Tổng công

ty về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh và trực tiếp chỉ đạo mọi hoạt
động của doanh nghiệp.
Bên cạnh giám đốc là 2 phó giám đốc, được giám đốc uỷ quyền phụ trách các
lĩnh vực kinh doanh, kĩ thuật và hành chính.
-Các phòng ban chức năng của Bưu điện gồm 8 phòng ban: phòng tổng hợp,
phòng kế hoạch-kinh doanh tiếp thị, phòng đầu tư xây dựng cơ bản, phòng
Viễn thông tin học, phòng tổ chức cán bộ lao động, phòng nghiêp vụ bưu
chính và viễn thông, phòng kế toán thống kê tài chính và phòng hành chính
quản trị.
Sinh viên: Đào Duy Toàn Lớp:TCDN-44D
25

×