Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

SKKN NG vân MNML

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (755.7 KB, 26 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HĨA

PHỊNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NHƯ THANH

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO
DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO TRẺ TẠI LỚP
MẪU GIÁO 5 - 6 TUỔI KHU ĐỒNG MỌC
TRƯỜNG MẦM NON MẬU LÂM

Người thực hiện: Nguyễn Thị Vân
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường Mầm non Mậu Lâm
Sáng kiến thuộc lĩnh vực: Chun mơn

THANH HĨA, NĂM 2021


Mục lục
1. Mở đầu...............................................................................................................1
1.1. Lí do chọn đề tài.............................................................................................1
1.2. Mục đích nghiên cứu........................................................................................2
1.3. Đối tượng nghiên cứu.....................................................................................2
1.4. Phương pháp nghiên cứu................................................................................2
2. Nội dung sáng kiến............................................................................................3
2.1. Cơ sở lí luận...................................................................................................3
2.2. Thực trạng trước khi áp dụng áp dụng sáng kiến kinh nghiệm......................4
2.3. Các biện pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề:............................................5
2.3.1. Biện pháp gần gũi, nắm bắt tâm lý của trẻ.................................................5
2.3.2. Xây dựng nội dung giáo dục kỹ năng sống cho trẻ ...................................6


2.3.3. Biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mọi lúc mọi nơi.........................7
2.3.4. Biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ thông qua việc tổ chức hội thi
và, giao lưu văn nghệ..........................................................................................12
2.3.5. Biện pháp giáo dục kỹ năng sống thơng qua các tình huống:..................13
2.3.6 Giáo dục kĩ năng sống thơng qua các trị chơi...........................................15
2.3.7. Biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ thông qua việc phối kết hợp với
phụ huynh............................................................................................................16
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm:..........................................................17
3. Kết luận, kiến nghị..........................................................................................19
3.1. Kết luận:.......................................................................................................19
3.2. Kiến nghị:.....................................................................................................19
Tài liệu tham khảo...................................................................................................
DANH MỤC...........................................................................................................


1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài
Xã hội ngày càng phát triển đã và đang làm thay đổi cuộc sống, nhiều vấn
đề phức tạp liên tục nảy sinh. Bên cạnh những tác động tích cực, cịn có những
tác động tiêu cực gây nguy hại cho con người, đặc biệt là trẻ em. Nếu mỗi người
chúng ta trong đó có trẻ em khơng có những kiến thức cần thiết để lựa chọn
những giá trị sống tích cực, khơng có những năng lực để ứng phó vượt qua
những thách thức thì rất dễ gặp những trở ngại, rủi ro trong cuộc sống. Do đó,
việc hình thành kỹ năng sống cho mọi người nói chung và trẻ em nói riêng đang
trở thành nhiệm vụ quan trọng mà chúng ta cần phải đặc biệt quan tâm.
Giáo dục kĩ năng sống nhằm giúp trẻ phát triển hài hịa và tồn diện về
mọi mặt như: thể chất, tình cảm - kỹ năng xã hội, giao tiếp, ngơn ngữ, nhận thức
và sẵn sàng đi học. Nói cụ thể hơn, giáo dục kỹ năng sống giúp cho trẻ được an
tồn, khỏe mạnh, khéo léo, bền bỉ, có khả năng thích ứng được với những thay
đổi của điều kiện sống. Mặt khác, giáo dục kỹ năng sống còn giúp cho trẻ biết

cách kiểm soát cảm xúc, biết thể hiện tình yêu thương, sự sẻ chia, đồng cảm với
những người xung quanh. Không những vậy, giáo dục kĩ năng sống còn giúp
cho trẻ mạnh dạn, tự tin, tự trọng và tơn trọng người khác, có khả năng giao tiếp
tốt, trẻ biết lắng nghe, nói năng lịch sự, hịa nhã và cởi mở. Ngồi ra, giáo dục
kỹ năng sống cịn giúp trẻ ham hiểu biết, sáng tạo, có những kỹ năng thích ứng
với hoạt động học tập ở các lớp lớn hơn như: Sẵn sàng hòa nhập, nỗ lực vượt
qua khó khăn để hồn thành nhiệm vụ, có trách nhiệm với bản thân, với công
việc và với các mối quan hệ xã hội khác. Vì vậy việc hình thành và phát triển kỹ
năng sống cần được giáo dục ngay từ bậc học mầm non.
Việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non ngày càng trở nên cần thiết
nhằm góp phần đào tạo “Con người mới” với đầy đủ các mặt: “Đức, trí, thể, mỹ,
tình cảm kỹ năng xã hội”. Ngạn ngữ có câu: “Gieo hành vi, gặp thói quen - Gieo
thói quen, gặp tính cách”. Giáo dục kỹ năng sống nên bắt đầu từ lứa tuổi mầm
non, bởi vì lứa tuổi này đã hình thành những hành vi cá tính, tính cách, nhân
cách. Trẻ có kiến thức về kỹ năng sống thì trẻ sẽ biết mình phải giao tiếp với ông
bà, bố mẹ như thế nào, biết cách bảo vệ mình trước người lạ ra sao, biết cách
phối hợp với các bạn chơi như thế nào cho đúng…
Là một giáo viên mầm non tôi nhận thấy rằng đối với trẻ 5 - 6 tuổi việc
giáo dục kỹ năng sống cho trẻ là rất cần thiết vì lúc này trẻ đã nhận thức được
thế nào là đúng, thế nào là sai. Điều gì cần làm, và điều gì khơng được làm…
Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ là giúp trẻ biết cách chăm sóc và bảo vệ chính
bản thân mình, tạo sự tự tin cho trẻ, giúp trẻ thích nghi được với mơi trường
xung quanh. Khơng những thế cịn giúp cho trẻ biết cách giao tiếp và ứng xử
trong cuộc sống hàng ngày, trẻ biết cách phối hợp với các bạn chơi trong nhóm...
Thế nhưng trên thực tế việc tìm hiểu thực trạng kỹ năng sống của trẻ mầm non
dường như mới bắt đầu được để ý đến, việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ đạt
mức độ chưa cao. Giáo viên chưa quan tâm đúng mức đến việc rèn luyện


2


kỹ năng sống cho trẻ một cách hữu hiệu, phù hợp. Có thể nói từ “Kỹ năng sống” với
trẻ cịn rất mới mẻ vì vậy một số giáo viên bở ngỡ, nên việc lên nội dung, phương
pháp dạy kỹ năng sống cho trẻ cịn lúng túng mà khơng để ý rằng: trong cuộc sống
hàng ngày ở nhà và ở trường trẻ vẫn được rèn luyện về kỹ năng sống cơ bản.
Một thực tế đang có và tồn tại ở trẻ mầm non, trẻ vẫn cịn thụ động khơng
biết ứng phó kịp thời với những hoàn cảnh nguy cấp, chưa biết cách tự bảo vệ
bản thân trước mọi nguy hiểm... Có nhiều ngun nhân gây ra tình trạng này,
trong đó ngun nhân việc thiếu kỹ năng sống là nguyên nhân sâu xa nhất. Ở lứa
tuổi mầm non, hầu hết các bậc cha mẹ ln có thói quen làm thay cho trẻ vì sợ
con làm hỏng việc. Các cơ giáo lại muốn trẻ có kết quả nhanh nên hay dùng
mệnh lệnh... Khi người lớn yêu cầu, trẻ luôn làm theo nhưng vẫn cảm thấy như
mình bị sai khiến. Chính vì thế rất khó hình thành được những ý thức và kỹ năng
trong đầu trẻ.
Nhận thức được thực trạng, tầm quan trọng và sự cần thiết việc phải dạy
kỹ năng sống cho trẻ mà tôi quyết định chọn đề tài: “Một số biện pháp nâng
cao chất lượng giáo dục kỹ năng sống cho trẻ tại lớp mẫu giáo 5 - 6 tuổi khu
Đồng Mọc - Trường mầm non Mậu Lâm”.
1.2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Nhằm phát huy nâng cao tính tích cực, năng động, sáng tạo, mạnh dạn, tự
tin trong mọi hoạt động và mọi hồn cảnh của trẻ, giúp trẻ có một kỹ năng sống
tốt hơn.
Giúp bản thân có thêm kiến thức về giáo dục kỹ năng sống để phục vụ
cho công tác chăm sóc giáo dục trẻ tốt hơn.
Giúp phụ huynh hiểu được tầm quan trọng của giáo dục kỹ năng sống cho trẻ.
1.3. ĐỐI TƯỢNG

NGHIÊN CỨU

Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là: “Một số biện pháp nâng cao

chất lượng giáo dục kỹ năng sống cho trẻ tại lớp mẫu giáo 5 - 6 tuổi khu
Đồng Mọc trường mầm non Mậu Lâm”.
1.4. PHƯƠNG

PHÁP NGHIÊN CỨU

- Phương pháp nghiên cứu lí luận: Gồm phương pháp phân tích, tổng hợp,
phân loại và hệ thống hóa các tài liệu và văn bản có liên quan đến vấn đề nghiên cứu.
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Gồm phương pháp điều tra, quan sát,
đàm thoại, thực hành trải nghiệm, các phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt
động.
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin
- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết: Tài liệu, sách báo, mạng internet.
- Phương pháp thống kê xử lý số liệu: Phương pháp toán học và các bảng biểu.


3

2. N ỘI DUNG SÁNG KIẾN
2.1. CƠ SỞ LÍ LUẬN
* Khái niệm kỹ năng sống
Theo tổ chức y tế thế giới (WHO): Kỹ năng sống là những hành động tích
cực, có liên quan đến kiến thức và thái độ, trực tiếp hướng vào hoạt động của cá
nhân hoặc tác động vào người khác, hướng vào những hoạt động làm thay đổi
mơi trường xung quanh, giúp mỗi cá nhân ứng phó có hiệu quả với các yêu cầu,
thách thức của cuộc sống hàng ngày[1].
* Những đặc trưng cơ bản của kỹ năng sống
+ Là khả năng con người biết sống sao cho hữu ích và có cách sống phù
hợp với mơi trường xã hội. [2]
+ Khả năng để con người dám đương đầu với các vấn đề, tình huống khó

khăn trong cuộc sống và biết cách để vượt qua. [2]
+ Các kỹ năng tâm lý để con người biết quản lý bản thân mình và tương
tác tích cực với mọi người, xã hội. [2]
Như chúng ta đã biết: Kỹ năng sống là những kỹ năng cần có cho hành vi
lành mạnh cho phép bạn đối mặt với những thách thức của cuộc sống hàng ngày.
Đặc biệt giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non chính là dạy cho trẻ có những
kinh nghiệm trong cuộc sống, biết những điều cần làm và những điều không nên
làm, truyền cho trẻ những kinh nghiệm sống của người lớn. Nhằm giúp trẻ có
những kỹ năng đương đầu với những khó khăn trong cuộc sống. Đối với trẻ 5 - 6
tuổi nhận thức của trẻ đã phát triển, trẻ bắt đầu tìm hiểu về thế giới xung quanh,
đã biết làm và thực hiện một số công việc tự phục vụ đơn giản mà người lớn
giao cho. Thế nhưng trên thực tế trong xã hội ngày nay các gia đình thường chú
trọng đến việc học kiến thức của trẻ mà không chú ý đến sự phát triển của các
kỹ năng sống cho trẻ. Luôn cho rằng con mình cịn q bé để hiểu và làm những
điều đó và nghĩ rằng trẻ mẫu giáo vẫn cịn được sống trong sự bao bọc, bảo vệ
một cách tuyệt đối của ông bà, bố mẹ, anh chị; mà không hay biết rằng chính sự
bao bọc đó đã và đang dần làm hư hỏng con em mình. Bởi ơng bà, bố mẹ, anh
chị… không phải lúc nào cũng ở bên cạnh trẻ khi có tình huống xấu xảy ra, hay
khi bị thất lạc thì trẻ phải làm gì? Tại sao chúng ta khơng tự đặt câu hỏi: Vì sao
lại xảy ra như vậy? Tại sao trẻ lại trở nên như vậy? Đó cũng chính là câu trả lời
cho việc trẻ khơng được giáo dục thói quen nề nếp hàng ngày, khơng được
người lớn truyền kinh nghiệm sống để trẻ biết cách sử lý tình huống, biết tránh
những nơi nguy hiểm. Tuy nhiên, để làm được điều đó bên cạnh sự giáo dục rèn
luyện của bố mẹ thì vai trị của Trường mầm non cũng như trách nhiệm của cô
giáo trực tiếp giảng dạy trẻ là yếu tố quan trọng mang một phần lớn tính chất
quyết định đặt một nền móng kỹ năng cho trẻ sau này.
Đứng trước những khó khăn như vậy tôi rất băn khoăn phải dạy trẻ như thế
nào, bằng những biện pháp gì, bởi đối với trẻ cái gì cũng mới mẻ, những bài học
đầu tiên đối với trẻ là ''Học ăn, học nói, học gói học mở''.



4

Vì vậy việc dạy trẻ phát triển tồn diện thơng qua việc giáo dục kỹ năng
sống đóng vai trị hết sức quan trọng và cần thiết.
2.2. THỰC TRẠNG TRƯỚC KHI ÁP DỤNG ÁP DỤNG SÁNG KIẾN KINH
NGHIỆM

Ý thức được tầm quan trong của việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ ở nhà
trường. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ tơi thấy có những thuận lợi và khó
khăn sau:
a. Thuận lợi
Trường mầm non Mậu Lâm là trường chuẩn quốc gia mức độ I, cơ sở vật
chất nhà trường khang trang rộng rãi, có đầy đủ trang thiết bị phục vụ cho việc
dạy và học cũng như hoạt động vui chơi của trẻ.
- Được BGH nhà trường và địa phương quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi
về cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho cơng tác chăm sóc - giáo dục trẻ
cũng như giáo dục kỹ năng sống cho trẻ tại lớp.
- Năm học 2020 - 2021 tôi được phân công chủ nhiệm lớp mẫu giáo 5 - 6
tuổi khu Đồng Mọc. Tuy là khu lẻ nhưng đa số trẻ khỏe mạnh và đi học chuyên
cần, nhanh nhẹn, tích cực tham gia vào các hoạt động.
Đối với bản thân: Có trình độ đại học, ln nhiệt tình, u nghề mến trẻ,
ln tìm tịi khám phá tìm ra những biện pháp mới, tạo hứng thú cho trẻ trong tất
cả các hoạt động đặc biệt là hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho trẻ. Luôn nhận
được sự ủng hộ nhiệt tình của các bậc phụ huynh.
b. Khó khăn
Bên cạnh những thuận lợi thì vẫn cịn tồn tại những khó khăn hạn chế.
*Đối với trẻ
Mặc dù ở cùng độ tuổi nhưng khả năng nhận thức, sự tập trung của trẻ
không đồng đều nên tơi cịn gặp nhiều bất cập trong việc tổ chức hoạt động giáo

dục kỹ năng sống cho trẻ.
Đa số trẻ thường được chiều chuộng ấp ủ bởi người lớn nên chưa mạnh
dạn, tự tin trước nơi đông người, cịn e rè nhút nhát, chưa có kỹ năng tự bảo vệ
bản thân trước những nguy hiểm.
* Đối với giáo viên
Giáo viên hàng năm chưa được tập huấn, bồi dưỡng sâu về chuyên đề này
nên việc áp dụng vào dạy học ít được chú trọng.
Nội dung giáo dục kỹ năng sống cho trẻ chưa phù hợp nên kết quả đạt
được chưa cao. Kế hoạch giáo dục hoạt động cho nhóm lớp của bản thân chưa
đề cập sâu đến việc giáo dục kỹ năng sống trong các hoạt động hàng ngày của
trẻ mà chủ yếu tập trung vào các hoạt động học, các giờ hoạt động về kiến thức
và thực hành.


5

* Đối với phụ huynh
Một số cha mẹ trẻ chưa hiểu rõ tầm quan trọng và sự cần thiết của việc
giáo dục kỹ năng sống cho trẻ khi ở nhà nên việc phối hợp với cha mẹ trẻ trong
việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ còn nhiều hạn chế và bất cập.
Phụ huynh chưa biết để trang bị những kỹ năng sống cho trẻ, các bậc cha
mẹ chưa thường xuyên dành thời gian lắng nghe, trao đổi mọi việc hàng ngày
diễn ra xung quanh các bé, cũng chưa dạy con những nguyên tắc cơ bản để giữ
an toàn cho mình như: Khơng đi theo và nhận q từ người lạ, giới hạn động
chạm cơ thể, luyện tập tình huống tự bảo vệ bản thân. Chưa trang bị cho bé
những kiến thức thực tế để bé chủ động trong mọi tình huống; để bé sẽ biết làm
gì khi gặp khó khăn, tìm sự trợ giúp của ai hay có thể tự sơ cứu cho mình nếu
gặp tai nạn nhỏ...
Với những thuận lợi và khó khăn trên tơi đã tiến hành khảo sát thực tế và
kết quả thu được như sau:

Bảng khảo sát thực trạng của trẻ trước khi áp dụng sáng kiến

STT

Nội dung khảo sát

Tổng
số trẻ

Đánh giá trẻ
Đạt

Chưa đạt

Số trẻ

Tỉ lệ%

Số trẻ

Tỉ lệ%

1

Kỹ năng giao tiếp ứng
xử phù hợp với người
xung quanh.

34


24

70%

10

30%

2

Kỹ năng phục vụ chăm
sóc bản thân

34

23

68%

11

32%

3

Kỹ năng hợp tác hoạt
động cùng nhóm

34


21

62%

13

38%

4

Kỹ năng xử lý tình
huống.

34

22

65%

12

35%

5

Kỹ năng tự bảo vệ bản
thân.

34


24

70%

10

30%

Qua thực tế trên tôi thấy kỹ năng sống của trẻ đang còn rất hạn chế. Là
một giáo viên được phân công trực tiếp đứng lớp mẫu giáo 5 - 6 tuổi tôi luôn
trăn trở và tự đặt cho mình một câu hỏi lớn. Mình phải làm gì? Làm như thế
nào? để mang lại kết quả trong việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ, chuẩn bị cho
trẻ một hành trang đầy đủ để trẻ bước vào bậc học tiếp theo. Vì thế với kinh
nghiệm của mình tơi mạnh dạn đưa ra một số các giải pháp và cách tổ chức giáo
dục kỹ năng sống cho trẻ cụ thể như sau:
2.3. CÁC BIỆN PHÁP ĐÃ SỬ DỤNG ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
2.3.1. BIỆN PHÁP GẦN GŨI, NẮM BẮT TÂM LÝ CỦA TRẺ


6

Đối với trẻ mầm non, việc nắm bắt tâm lý của trẻ là hết sức quan trọng.
Bởi những ngày đầu khi mới đến lớp mọi thứ đối với trẻ đều rất mới lạ. Trẻ lạ
trường, lạ lớp, lạ cô giáo, lạ các bạn vì thế trẻ rất sợ. Nếu như cô giáo không để ý
tới đặc điểm tâm lý của từng trẻ, khơng biết tính cách của trẻ ra sao mà yêu cầu trẻ
làm theo ý của cô sẽ khiến cho trẻ sợ hãi thậm chí cịn khơng muốn đi học. Vì vậy
trước tiên tơi nhẹ nhàng, ân cần gần gũi trẻ để tạo tâm lý an toàn cho trẻ, sau đó để
tìm hiểu về tính cách của trẻ cơ đến bên trẻ hỏi han trẻ, dần dần tôi sẽ biết được tính
cách của trẻ để có những biện pháp giáo dục riêng cho từng trẻ.
Ví dụ: Trong giờ đón trẻ. Đối với những trẻ nhút nhát, ít nói tơi ân cần,

nhẹ nhàng, gợi mở cho trẻ để trẻ trả lời: Con lại đây với cô nào? Sáng nay con
ăn sáng chưa? Ai mua áo đẹp cho con? Ai đưa con đi học?….

(Ảnh: Cô gần gũi trẻ)
Hay trong các giờ hoạt động học: Đối với những trẻ nhút nhát, ít nói tơi
đến gần thăm hỏi, gợi ý để trẻ trả lời những câu hỏi trong giờ học.
Trong giờ ăn trẻ cảm thấy món ăn khác vơi món mẹ nấu ở nhà, tôi lại
động viên trẻ ăn hết xuất, trong giờ ngủ tôi lại vỗ về ân cần và hát ru cho trẻ để
trẻ luôn cảm thấy được an tâm che chở và luôn coi “cô giáo như mẹ hiền”. Với
nhiều lần như vậy trẻ sẽ dần quen được cô và sẽ trị chuyện cùng cơ.
Kết quả đạt được: Sau khi áp dụng biện pháp này tôi thấy hiệu quả rất
tôt .Với cách làm đó trẻ đã dần quen cơ, quen bạn, trẻ bộc lộ bản thân một cách
dễ dàng trẻ kể về gia đình trẻ, tên bố mẹ, ơng bà, và anh chị em trong nhà. Qua
nhiều lần như vậy tơi thấy trẻ trở nên gần gũi với cơ, thích được trị chuyện cùng
cơ và đặc biệt trẻ rất thích giao lưu cảm xúc cùng cô và các bạn. Qua đó rèn cho
trẻ được kỹ năng giao tiếp, và giao lưu cảm xúc vơi những người xung quanh
trẻ.
2.3.2. X ÂY DỰNG NỘI DUNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO TRẺ


7

Đầu năm học tôi nắm bắt khả năng của trẻ trong lớp để xây dựng kế
hoạch hoạt động cho lớp một cách hiệu quả. Kế hoạch bao gồm những nội dung
về chăm sóc và giáo dục, trong đó có giáo dục kỹ năng sống cho trẻ.
Tôi đã xây dựng kế hoạch phù hợp với chủ đề như sau:
Ở chủ đề “Trường mầm non thân yêu”: Làm quen cách đánh răng, lau
mặt, biết mời cô, mời bạn khi ăn và ăn từ tốn.
Đến chủ đề “Gia đình”: Tập luyện một số thói quen tốt về giữ gìn sức
khỏe (Ăn chín, uống sơi). Biết sử dụng bát, thìa, cốc đúng cách, biết chào hỏi

khi đến lớp, khi về nhà.
Ở chủ đề “Bản thân”: Trẻ có thói quen, hành vi tốt trong ăn uống: Không
đùa nghịch, không làm đổ vãi thức ăn. Tự cài, cởi cúc.
Chủ đề “ Nghề nghiệp”: Trẻ biết cất giày dép, đồ dùng, đồ chơi đúng nơi
quy định.
Hay những ngày lễ tết trung thu, 20/11 tôi đã xây dựng kế hoạch về các
chương trình văn nghệ tại nhóm lớp phù hợp với chủ đề và khả năng của trẻ.
Ở các chủ đề tiếp theo tôi dần dần nâng cao yêu cầu để trẻ thực hiện,tiếp
tục ôn luyện những kỹ năng đã có để giúp trẻ trở thành một kỹ năng mà không
thể quên được
Kết quả đạt được: Thông qua các kế hoạch tôi đã xây dựng tôi chủ động
được rất nhiêu trong việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ, từ đó tơi có nhiều nội
dung và hình thức tổ chức các hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho trẻ tốt hơn
và có nhiều sáng tạo hơn nhưng vẫn đáp ứng và phù hợp với chủ đề và độ tuổi
của trẻ. Giúp trẻ tiếp thu nhanh hơn và hiệu quả hơn.
2.3.3. BIỆN PHÁP GIÁO DỤC KỸ NĂNG

SỐNG CHO TRẺ MỌI LÚC MỌI NƠI

+ Thơng qua hoạt động đón, trả trẻ - Thể dục sáng
Ở thời điểm đón, trả trẻ là thời điểm thích hợp nhất, thuận tiện nhất để giáo
viên có thể giáo dục trẻ thói quen, nề nếp cho trẻ như: Kỹ năng chào hỏi, lễ phép
trong giao tiếp, thói quen tự phục vụ như: để dép vào giá, bỏ cặp vào nơi quy định
của trẻ. Ngoài ra tơi cịn dạy trẻ biết chào hỏi, biết nói lời xin lỗi, biết nói cảm ơn,
khơng nói leo khi người khác nói, khơng tự tiện lấy đồ và sử dụng đồ của người
khác.....
Ví dụ: Thời gian đầu nhiều trẻ chưa có kỹ năng chào hỏi và giao tiếp với
cơ cùng bạn bè, tôi chủ động chào trẻ trước “cô chào bạn Linh Nhi” Thì lúc đó
trẻ sẽ biết đáp lại câu “Con chào cô ạ’ và tôi nhắc trẻ con chào bố, mẹ đi để vào
lớp với cô nào. Hoặc khi trẻ đang chơi mà có khách đến lớp tôi nhắc trẻ “các

con chào bác, bà… đi nào” cứ như vậy dần dần trẻ có thói quen chào cơ, chào
bố mẹ và chào khách, khi đến lớp, khi ra về.
Đến giờ trả trẻ cũng vậy, lúc đầu cô hướng dẫn cho trẻ dần dần cô giáo
yêu cầu trẻ tự lấy đồ dùng của mình, cất ghế, chào cơ sau đó mới được về. Việc
rèn luyện này phải trải qua một quá trình lâu dài, liên tục dần dần sẽ tạo thành


8

một nề nếp, thói quen mà trẻ khơng thể qn trước khi ra về. Qua đó ta có thể
rèn trẻ kỹ năng tự phục vụ một số việc đơn giản.
Bên cạnh thời điểm đón, trả trẻ thì thể dục sáng là hoạt động không thể
thiếu được dưới sân trường tôi kết hợp các kỹ năng xếp hàng ngang, hàng dọc
cho thẳng không xô đẩy nhau và tạo cho trẻ hứng thú vào tập luyện.
+ Thông qua các hoạt động học
Bên cạnh thời điểm đón, trả trẻ thì trong các hoạt động học là hoạt động
trọng tâm để lồng ghép, tích hợp các nội dung giáo dục kỹ năng sống cho trẻ.
Tuy nhiên mỗi hoạt động học lại phù hợp với từng nội dung rèn luyện khác
nhau, dựa vào nội dung của từng hoạt động để tích hợp một cách hài hịa nhất.
Thơng qua giờ hoạt động làm quen với tác phẩm văn học: Tơi có thể
lồng ghép rất nhiều nội dung giáo dục kỹ năng sống cho trẻ. VD như trong giờ
kể chuyện hoặc cho trẻ đọc thơ xong tôi đặt những câu hỏi và yêu cầu trẻ đứng
dậy trả lời như: Cơ vừa đọc bài thơ gì? Do ai sáng tác? Bài thơ nói lên điều gì?...
Và lúc trẻ đưa ra những câu trả lời cô yêu cầu trẻ phải nói được câu trả lời bắt
đầu bằng từ “Con thưa cơ” đó chính là lúc trẻ đang giao tiếp với cơ, đang trị
chuyện với cơ. Như vậy tơi đã rèn cho trẻ được kỹ năng trả lời các câu hỏi.
Thông qua hoạt động Âm nhạc: Đây là hoạt động khơng thể thiếu trong
trường mầm non và cũng là món ăn tinh thần giúp trẻ tự tin trong giao tiếp và
giúp trẻ phát huy những khả năng riêng biệt. Trong tất cả các hoạt động của lớp
tơi đều khuyến khích tất cả trẻ cùng tham gia, đặc biệt khi múa hát các bạn trai

thường thiếu tự tin tham gia tập cùng các bạn gái mà lớp tôi tỉ lệ các bạn trai lại
rất đông nên tôi thường phải động viên để trẻ tham gia, lúc đầu trẻ tập luyện có
thể chưa tốt, tơi khơng vội vàng phê bình trẻ mà nhẹ nhàng hướng dẫn lại theo
từng bước cho đến khi trẻ khá hơn rồi nhẹ nhàng động viên trẻ làm tiếp.
Kích thích sự tị mị ở trẻ cũng là một cách hay để giúp trẻ trở nên tự tin
hơn. Bởi vì đó là lúc trẻ khám phá thế giới xung quanh và kiểm nghiệm xem
mình có thể làm gì. Tất nhiên là những lúc trẻ tìm tịi, khám phá như vậy cô giáo
cần phải luôn theo sát để đảm bảo an tồn cho trẻ. Nhưng để có thể giúp trẻ học
được một kỹ năng mới, tôi không trực tiếp tham gia vào hoạt động của trẻ mà
tạo điều kiện để trẻ tự trải nghiệm, và học hỏi. Để phát triển sự tự tin của trẻ, tơi
quan sát những đặc tính nổi bật ở mỗi trẻ và khuyến khích trẻ tham gia vào các
hoạt động thích hợp với năng khiếu của bản thân.
Thông qua hoạt động khám phá khoa học: Khi tơi cho trẻ quan sát một
vật gì đó tơi đặt câu hỏi để cho trẻ tìm tịi, tự khám phá: Cơ có gì đây? Bơng hoa
có màu gì? Hoa thường dùng để làm gì? Con phải làm gì để chăm sóc và bảo vệ
các cây hoa? Trước những câu hỏi của cơ buộc trẻ phải suy nghĩ để tìm ra câu
trả lời và đó chính là lúc tơi rèn cho trẻ biết lựa chọn ngôn ngữ hợp lý để trả lời,
để giao tiếp.
Ví dụ: Giờ khám phá khoa học với thí nghiệm “Chìm và nổi” tơi chuẩn bị
rất nhiều vật dụng khác nhau như sỏi và quả bóng… Cho trẻ làm thí nghiệm để
trẻ phát hiện ra vật nào chìm dưới nước, vật nào nổi trên mặt nước. Trước khi


9

làm thí nghiệm tơi cho trẻ quyền được dự đốn các vật đó khi rơi dưới nước sẽ
như thế nào. Đây là lúc trẻ thể hiện sự tự tin của mình và nó cịn kích thích sự tị
mị muốn biết sự việc đó diễn ra như thế nào, có đúng ý mình nghĩ khơng.
Thơng qua các hoạt động sự tự tin của trẻ còn được thể hiện khá rõ rệt,
nếu trẻ càng có tính tự tin bao nhiêu thì trẻ càng phát huy tốt năng lực của mình

bấy nhiêu. Trẻ có tự tin vào mình thì trẻ mới hăng hái phát biểu ý kiến, bên cạnh
đó có những trẻ có thể trả lời được câu hỏi của cô những trẻ lại không dám giơ
tay phát biểu, phải chăng trẻ nhút nhát sợ mình trả lời sai! Tơi ln tìm hiểu
ngun nhân và có hướng khắc phục cho cá nhân trẻ để trẻ mạnh dạn, tự tin hơn.
Tơn trọng cũng chính là động lực tâm lý đầu tiên sinh ra sự tự tin, trẻ khơng
được tơn trọng thì trẻ sẽ mất dần sự tự tin trong chính bản thân trẻ. Đối với trẻ
có lẽ trẻ chưa hiểu được sự tơn trọng là gì mà trẻ chỉ hiểu rằng những việc mà
trẻ làm được sẽ được cô và các bạn khen ngợi để lần sau trẻ tiếp tục phát huy.
Nắm bắt được tâm lý này cho nên tôi luôn tôn trọng trẻ, khích lệ trẻ để tạo thêm
sự tự tin cho trẻ, nhưng bên cạnh đó tơi khơng q khen ngợi trẻ để dẫn đến việc
trẻ kiêu ngạo. Khi trẻ đã có sự tự tin thì mọi hoạt động sẽ đem lại kết quả cao.
Trẻ nhỏ không tránh khỏi mắc phải sai lầm, trẻ có mắc phải sai lầm thì trẻ mới
trưởng thành hơn trong cuộc sống. Cách hoàn hảo nhất để xây dựng sự tự tin
cho trẻ chính là cho trẻ thấy sự yêu thương vô điều kiện của bạn dành cho trẻ.
Rất nhiều bậc phụ huynh cũng như cô giáo khi trẻ mắc lỗi thường to tiếng và
quát mắng trẻ. Những hành động đó sẽ ít nhiều ảnh hưởng đến sự phát triển tâm
lý của trẻ, trẻ mất tự tin vào chính bản thân mình. Thay vào sự to tiếng và quát
mắng bằng những lời an ủi: “Cô biết con có thể làm được mà, lần sau con cố
gắng hơn”. Khi trẻ mắc lỗi, tơi từ từ phân tích giúp trẻ nhận ra những cái đúng,
cái sai từ đó trẻ rút ra bài học cho chính mình, và đó là điều cơ giáo đang tơn
trọng chính cá nhân trẻ.
Thơng qua họa động thể dục: Tôi tổ chức cho trẻ các vận động như:
Chui qua ống dài, ném vòng cổ chai; Bò qua chướng ngại vật, đi trên ghế thể
dục đầu đội túi cát, nhảy từ độ cao 45cm, ném trúng đích thẳng đứng, bị zíc zắc
qua 7 điểm, đi nối gót, …qua đó rèn cho trẻ các kỹ năng nhanh nhẹn, mạnh dạn,
tự tin, khéo léo khi tham gia vận động. Biết bảo vệ sức khỏe.
Từ những hiểu biết ban đầu kết hợp với sự hướng dẫn gợi mở của cơ trẻ
sẽ có câu trả lời thích hợp, giải tỏa được thắc mắc, sự tò mò, ham hiểu biết của
trẻ. Cứ như vậy mỗi ngày và ở mỗi chủ đề, mỗi hoạt động trẻ lại biết thêm được
cái mới về thế giới xung quanh trẻ. Dần dần trẻ sẽ ngày càng tích lũy được nhiều

kiến thức, nhiều vốn hiểu biết của mình về thế giới xung quanh và có thêm
những kỹ năng sống cho bản thân mình.
+ Thơng qua hoạt động ngoài trời
Với đặc điểm tâm lý của trẻ mầm non “Học mà chơi, chơi mà học”, vì thế
chúng ta khơng nhất thiết chỉ dạy cho trẻ trong mình giờ học mà chúng ta có thể
giáo dục trẻ ở mọi lúc, mọi nơi, gặp bất cứ trường hợp, tình huống nào chúng ta
đều có thể thơng qua giáo dục kỹ năng sống cho trẻ. Tôi đưa kỹ năng về sự tự
tin: Một trong những kỹ năng đầu tiên mà giáo viên cần chú tâm là phát triển sự


10

tự tin, lòng tự trọng của trẻ. Nghĩa là giúp trẻ cảm nhận được mình là ai, cả về cá
nhân cũng như trong mối quan hệ với những người khác. Kỹ năng sống này giúp
trẻ luôn cảm thấy tự tin trong mọi tình huống ở mọi nơi.
Ví dụ: Giờ hoạt động ngồi trời trẻ lớp tơi rất thích tham gia và tham gia
rất sơi nổi vì trẻ được chơi theo ý thích, có những nhóm trẻ thường rủ nhau chơi
xích đu và kể cho nhau nghe những câu chuyện trẻ biết, có nhiều trẻ thì lại thích
vẽ các hình theo ý tưởng của trẻ xuống nền sân trường. Ngoài ra tơi cịn sử dụng
các trị chơi dân gian để tạo mơi trường giao tiếp cho trẻ vì mỗi một trị chơi dân
gian thường giúp trẻ thực hành 1 - 3 kỹ năng sống.
Hoặc khi tôi cho trẻ thực hành: Chăm sóc vườn rau, vườn hoa, nhặt lá ở
sân trường… tơi hướng dẫn cho trẻ nhổ cỏ, tưới nước, nhặt lá … Đó chính là lúc
tơi rèn cho trẻ kỹ năng lao động, giữ vệ sinh mơi trường.

(Ảnh: Trẻ chăm sóc vườn hoa)
+ Thơng qua giờ hoạt động góc
Trong tất cả các giải pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ thì việc rèn luyện
kỹ năng sống cho trẻ trong hoạt động góc là thiết thực nhất, cụ thể nhất và trẻ
cũng dễ tiếp thu nhất. Bởi thông qua hoạt động vui chơi trẻ được nhập rất nhiều

vai chơi khác nhau, trẻ đóng vai và tái hiện lại những gì trẻ được biết, được thấy,
được học từ trong cuộc sống hàng ngày. Ở hoạt động này trẻ như được hịa mình
vào cuộc sống thực, được đóng vai những người lớn để tự xử lý, tự giải quyết
các tình huống một cách độc lập mà cơ chỉ đóng vai trị là người hướng dẫn trẻ.
Chính vì thế qua việc tham gia chơi ở các góc thì các kỹ năng sống được trẻ tiếp
thu một cách dễ dàng nhất.
Ví dụ: Qua khu vực chơi phân vai bán hàng, mẹ con, nấu ăn trẻ học được
các kỹ năng như: Kỹ năng giao tiếp (giữa người bán hàng và người mua hàng,
mẹ và con), Kỹ năng hợp tác (Trẻ biết chơi làm bác sĩ, biết trò chuyện, chia sẻ


11

với bạn cùng chơi), kỹ năng chăm sóc (nấu món ăn ngon cho mọi người, xúc bột
cho em bé ăn)…
Ngoài ra ở các khu vực chơi khác các kỹ năng của trẻ đều có thể được
củng cố và phát huy.
Ví dụ: Ở góc xây dựng, trẻ có kỹ năng hợp tác và làm việc theo nhóm, các
cháu đã biết tự phân vai chơi cho nhau và chơi rất đoàn kết, không tranh giành
đồ chơi lẫn nhau và đã biết cùng nhau tạo nên những cơng trình đẹp.
Hay khi cho trẻ xây ngơi nhà, xây trường học…Cơ giáo có thể trị chuyện,
trao đổi với trẻ: Các bác thợ đang làm gì? Khi thấy các bác thợ đang xây cơng
trình con phải làm gì? Vì sao phải tránh xa các cơng trình đang thi cơng?... Từ
đó trẻ sẽ biết được các cơng trình đang thi cơng có nhiều ngun vật liệu, các
bác thợ xây đang vận chuyển nguyên vật liệu nên phải tránh xa khơng các
ngun vật liệu đó rơi vào người rất nguy hiểm.
Điều đặc biệt ở hoạt động này chính là chúng ta rèn được cho trẻ kỹ năng
đảm nhận trách nhiệm và kỹ năng lãnh đạo. Bởi ngay ở nhiệm vụ của từng góc
chơi đã thể hiện rõ điều đó .
Thơng qua các hoạt động chơi đã tạo điều kiện cho trẻ tự rèn luyện nhân

cách và kỹ năng sống một cách tự nhiên. Từ chơi đòi hỏi trẻ suy nghĩ, giải quyết
các vấn đề, đưa ra ý tưởng phù hợp. Khi tham gia chơi trẻ sẽ sáng tạo cách chơi
và cố gắng đạt được mục đích đó chính là kỹ năng cơ bản trong cuộc sống hàng
ngày đối với trẻ.
+ Thông qua hoạt động vệ sinh - ăn trưa - ngủ trưa
Trong xã hội ngày nay để đảm bảo cuộc sống cho gia đình nên rất nhiều
ơng bố, bà mẹ đã để con cái ở nhà với ông bà đi làm ăn xa. Mặc dù được ông bà
chăm lo thế nhưng với nhiều lý do khác nhau vẫn có rất nhiều trẻ vấn đề vệ sinh
vẫn chưa được đảm bảo. Đây là một vấn đề rất quan trọng đối với sức khỏe của
trẻ. Chúng ta phải làm gì? Làm như thế nào ? Để trẻ tự biết chăm sóc bản thân
một số việc đơn giản? Sau rất nhiều lần suy nghĩ tôi nhận thấy rằng không ai
bằng tự ý thức của trẻ. Vì ở độ tuổi này trẻ đã tự nhận thức được rất nhiều. Từ
đó tơi tự nhủ phải rèn luyện kỹ năng tự chăm sóc bản thân cho trẻ để trẻ có thể
tự lập, tự phục vụ cho bản thân khi cần thiết. Và thời điểm vệ sinh - ăn trưa ngủ trưa là thích hợp nhất.
Ví dụ: Hàng ngày trước khi đến giờ ăn tơi đều tập cho trẻ rửa tay bằng xà
phòng, rửa mặt đúng khăn theo ký hiệu riêng của mình thật sạch sẽ sau đó mới
được ngồi vào bàn ăn.
Khi trẻ ăn xong, vệ sinh sạch sẽ mới đi ngủ. Tuy thời gian đầu trẻ đang còn
quên, thế nhưng dần dần với sự hướng dẫn liên tục, thường xuyên của cô trẻ đã có
nề nếp, thói quen vệ sinh rất tốt trước và sau khi ăn.
Còn trong khi trẻ ăn là lúc thuận tiện cho chúng ta trong việc giáo dục kỹ
năng tự xúc cơm của trẻ. Những ngày đầu khi đến trường trẻ rất ngại xúc cơm,
xúc cơm bằng tay trái, xúc cơm làm rơi vãi rất nhiều do trẻ chưa thành thạo. Thế


12

nên tôi đã hướng dẫn và cho trẻ thực hành cách tự xúc cơm ăn: Tay trái con cầm
bát. Tay phải xúc cơm. Cơm không bị rơi vãi. Sau một thời gian dài quan sát trẻ
tôi thấy trẻ đã tiến bộ lên rõ rệt, biết xúc cơm thành thạo, bàn ăn của trẻ đã

khơng cịn cơm rơi vãi.
Trước giờ đi ngủ thì sao? Thơng thường nhất là vào mùa đơng trẻ mặc rất
nhiều quần áo nên trước giờ đi ngủ cô yêu cầu trẻ tự cởi bớt áo ấm cất vào tủ để
cho thoải mái. Lần đầu có thể trẻ chưa biết cách cởi khóa, khuy áo phức tạp nên
cơ giáo cần giúp trẻ, đồng thời hướng dẫn để trẻ biết cách cởi áo. Không những
vậy trước khi ngủ dậy cơ hướng dẫn cho trẻ cách gấp chăn cất gối.

(Hình ảnh: Trẻ xếp gối chăn cùng cô)
+ Thông qua hoạt động chiều
Với giờ hoạt động chiều tơi có thể giáo dục cho trẻ rất nhiều kỹ năng khác
nhau như: kỹ năng giao tiếp, kỹ năng quản lý, Kỹ năng tự phục vụ, tự bảo vệ …
Ví dụ: Trị chuyện về một số luật giao thông đường bộ, tôi dạy trẻ một số
kĩ năng sau: Kỹ năng tuân thủ quy tắc của luật đường bộ: Đi bộ phải đi bên phải,
khi đi phải có người lớn dắt. Kỹ năng bảo vệ bản thân: Khi ngôi trên xe máy
phải đội mũ bảo hiểm, ngồi ngay ngắn không đùa nghịch khi ngồi trên xe….
Sau giờ học đó những trẻ được bố mẹ đưa đến trường bằng xe máy đều
phải đội mũ bảo hiểm, và khi ngồi trên xe thì ngồi rất ngay ngắn…
Khi cho trẻ nhận xét nêu gương cuối ngày tôi cho từng trẻ lên nêu ý kiến
tự đánh giá mình, đánh giá bạn. Những ngày đầu trẻ còn rất ngại, ngượng ngùng
nói một vài câu nhưng dần dần cơ rèn luyện cho trẻ kỹ năng giao tiếp, tính mạnh
dạn. Cuối cùng trẻ đã rất thích giờ nêu gương nhận xét để nói lên ý kiến của
mình và giờ đó khiến trẻ rất hứng thú.
Kết quả đạt được: Sau khi thực hiện giải pháp tôi nhận thấy trẻ hứng
thú với mỗi nội dung mà tơi đã lựa chọn, tạo cho trẻ có được tâm thế và tiếp cận
với những bài học mà tôi đặt ra để cung cấp kiến thức đến với trẻ,với các hoạt
động trải nghiệm từ đó tích lũy cho mình những bài học kinh nghiệm và trẻ


13


biết tự làm một số công việc phục vụ bản thân tạo cho trẻ có thói quen nề nếp,
sự cố gắng, sáng tạo và đề cao tinh thần trách nhiệm của mình với tập thể.
Thơng qua một ngày hoạt động của trẻ tôi đã lồng ghép giáo dục cho trẻ được
rất nhiều các kỹ năng sống, tôi nhận thấy trẻ mạnh dạn tự tin hơn rất nhiều, trẻ
thích được đi học hơn và thích được tham gia vào các hoạt động giáo dục kỹ
năng sống do cô tổ chức, trẻ tích lũy cho bản thân được nhiều các kỹ năng sống
hơn.
2.3.4. BIỆN PHÁP GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO TRẺ THÔNG
TỔ CHỨC HỘI THI VÀ, GIAO LƯU VĂN NGHỆ

QUA VIỆC

Đối với trẻ 5 - 6 tuổi, trẻ rất thích được tham gia biểu diễn văn nghệ
nhưng trẻ còn rụt rè, nhút nhát. Vì vậy ngay từ đầu năm học tơi đã tham mưu
với nhà trường tổ chức các cuộc thi với quy mơ tại nhóm lớp mình như: Cuộc thi
bé tài năng, bé làm ca sĩ, giọng thơ của bé …Ngồi ra, tơi thường tổ chức các
buổi liên hoan văn nghệ cuối tuần như đọc thơ, kể chuyện, hát, múa cho trẻ vào
chiều thứ 6, hay trong các giờ hoạt động học tôi thường tổ chức theo các cuộc
thi để giúp trẻ mạnh dạn, tự tin hơn .
Năm học 2020 - 2021 huyện tổ chức hội thi “Bé khỏe - bé tài năng” ngay
từ đầu năn học nắm được kế hoạch này tơi đã đưa ra những tiêu chí tại lớp mình
phụ trách để rèn cho tất cả trẻ, để trẻ có những kỹ năng cơ bản khi đứng trước
đám đơng thể hiện mình, ngồi ra giúp trẻ có tinh thần đồn kết với bạn để có
kết quả ất nhất để được tham gia cấp trường và cấp huyện.
Bên cạnh việc tổ chức các cuộc thi với quy mô tại nhóm lớp tơi đã tham
mưu với nhà trường phối hợp với các bậc cha mẹ trẻ, cùng các đoàn thể trong
trường, trong xã tổ chức giao lưu vào các ngày lễ lớn như 20-11, Trung Thu, 83…Khi đó tơi ln khích lệ động viên và đưa trẻ đi tham gia để giúp trẻ giao lưu
với bạn trong và ngoài trường để mở rộng thêm mối quan hệ cho trẻ. Từ đó phát
triển được kỹ năng thích nghi cho trẻ trước nơi đông người và kỹ năng hợp tác,
chia sẻ với bạn bè, kỹ năng đảm nhận trách nhiệm, nhiệm vụ mà cô giáo, nhà

trường giao cho.
Đặc biệt khi trẻ đã tự tin mạnh dạn thì trẻ đã có thể bước vào các lớp lớp
1. Ở đó trẻ sẽ được sống và học tập trong một môi trường mới với rất nhiều mối
quan hệ rộng rãi, nó địi hỏi trẻ phải biết thích nghi với một mơi trường mới,
phải mạnh dạn trước đám đơng vì thế tơi rất quan tâm đến nội dung giáo dục kỹ
năng thích nghi với mơi trường, trước đám đông cho trẻ.
Kết quả đạt được: Biện pháp này đã giúp trẻ trong lớp tôi mạnh dạn, tự
tin lên rất nhiều mỗi khi các cô giáo hoặc ai đó yêu cầu trẻ lên hát, đọc thơ, kể
chuyện, đi diễn văn nghệ, trẻ đã mạnh dạn tự tin đứng trước đám đơng để thể
hiện bản thân mình. Đó là một điều tôi rất vui và rất tự hào về học sinh của
mình, đó cũng là một động lực lớn để tôi tiếp tục giáo dục và rèn luyện cho trẻ.


14

2.3.5. BIỆN PHÁP GIÁO DỤC KỸ NĂNG

SỐNG THÔNG QUA CÁC TÌNH

HUỐNG

Trẻ con vốn ln hiếu động, ln muốn khám phá những điều mới lạ trong
cuộc sống hàng ngày, khi xã hội ngày càng hiện đại càng phát triển thì mối nguy
hiểm của trẻ ngày càng nhiều. Những nguy hiểm có thể xảy ra tiềm ẩn khơng chỉ
gia đình, ở trường học, ngoài trường mà ở bất kỳ đâu trong cuộc sống.
Đa phần các bậc cha mẹ luôn ý thức được điều này, nhưng khơng phải bậc
cha mẹ nào cũng có phương pháp dạy con những kỹ năng bảo vệ bản thân đứng
đắn. Sự lựa chọn thường gặp là nghiêm cấm trẻ tiếp xúc với các rủi do. Việc chỉ
nghiêm cấm mà khơng giáo dục trẻ thì trẻ càng kích thích tính tị mị ham khám
phá, và để có thể bảo vệ được bản thân, tơi có đưa ra một số tình huống bất trắc

thường xảy ra trong cuộc sống để trẻ được thực hành có vốn kinh nghiệm trong
cuộc sống.
Ví dụ: Qua câu chuyện “Bạn bị lạc đường” tôi kể cho trẻ nghe và trị
chuyện đặt tình huống cho trẻ. “Con sẻ làm gì khi đi chơi thì bị lạc đường” Cơ
đưa ra tình huống để giúp trẻ biết cách xử lý: Bé phải làm gì? Phải tìm sự giúp
đỡ từ ai? Phải cung cấp cho họ những thông tin gì? Sau đó đưa ra các giải pháp
để trẻ thảo luậnvà chọn phương án cho mình:
+ Nếu bị lạc đường, con cần bình tĩnh, khơng kêu khóc mà đứng im tại
chỗ để chờ cha mẹ quay lại tìm. Nếu chờ một lúc mà khơng thấy bố mẹ con có
thể tìm đến chú bảo vệ, công an ở nơi gần nhất.
+ Con nói với người đáng tin cậy, địa chỉ nhà mình, số điện thoại của cha,
mẹ nhờ họ giúp hoặc nhờ phát thanh lên loa công cộng để bố mẹ đón về.
+ Khi bị lạc khơng nên đi theo bất kỳ người lạ nào, vì có nguy cơ bị bắt
cóc. Nếu có người cố tình kéo đi, thì trẻ phải la hét to lên “Đây không phải là bố
mẹ cháu, cháu bị bắt...”,kêu cứu…
Ví dụ: Chủ đề “Giao thơng”
Trước đây, thông qua nội dung bài hát“Em đi qua ngã tư đường phố”
tôi chỉ dùng lời giáo dục trẻ: Khi đi qua ngã tư đường phố các con phải như thế
nào, đèn gì thì được đi, đèn gì thì phải dừng lại, khi đi xe chúng mình cần phải
như thế nào?...Chứ chưa đặt ra tình huống cụ thể. Với phương pháp giáo dục
như vậy tôi thấy kết quả đạt trên trẻ chưa cao. Trẻ ghi nhớ một cách máy móc,
và thường dễ qn. Do đó ngồi việc giáo dục như vậy vào giờ hoạt động chiều,
tơi đã đưa ra tình huống cụ thể cho trẻ được thực hành.
Ví dụ: Tơi tổ chức cho trẻ tham gia giao thông cùng các bạn, trẻ biết đi bộ
trên vỉa hè hoặc khi đi qua ngã tư đường phố các con thấy cột đèn tín hiệu giao
thơng với đèn đỏ bật lên thì dừng lại và đèn xanh bật lên thì mới được đi…
Với tình hình phức tạp trong xã hội mà hiện nay chúng ta đang rất lo lắng
đó là tình trạng bn bán trẻ em, nhiều tình huống bất trắc có thể xảy ra đối với
trẻ như bị bắt cóc, xâm hại … Tơi đã đưa ra những tình huống để dạy trẻ như:



15

“Nếu có người khơng quen biết cho con q, con nên làm như thế nào ?”
Tôi lắng nghe ý kiến của trẻ một số trẻ, tôi đưa ra những giả định, những
tình huống xấu “Nếu đó là người xấu thì sẽ rất nguy hiểm đối với các con” Tôi
đã phân tích cho trẻ hiểu vì sao các con khơng được nhận quà của người lạ nếu
mà nhận quà thì chúng mình sẽ bị họ bắt:

(Ảnh: Cơ tạo tình huống cho trẻ)
Ngoài việc giáo dục trẻ nhận biết và tránh xa những đồ dùng nguy hiểm
như phích nước, bếp đang đun, những vật sắc nhọn, đồ điện…. Tơi đưa tình
huống trẻ biết tránh những mối nguy hiểm khác như: “Nếu con đang chơi khơng
may bị đứt tay con sẽ làm gì ?”. Tơi cho trẻ nói suy nghĩ, cách giải quyết của
mình. Trong khi thảo luận với trẻ tơi gợi mở. Sau đó cơ giúp trẻ rút ra phương án
tối ưu nhất trong trường hợp này: Tuyệt đối không che giấu mà cần phải gọi
người lớn giớp đỡ.
Trong thời gian gần đây, đuối nước trong những ngày hè cũng đã cướp đi
tính mạng của rất nhiều trẻ em, là hiểm hoạ ln rình rập với tất cả mọi nhà.
Chính vì vậy, với trẻ mẫu giáo tuy trẻ còn nhỏ tuổi song tôi nghĩ rằng cũng cần
dạy cho trẻ một số kỹ năng ứng biến nếu chẳng may có điều đó xảy ra. Tơi đã
đưa tình huống:
Ví dụ: “Nếu con đi chơi cùng các anh chị các anh các chị rủ con tắm
sơng, hoặc thấy có một người ở dưới sơng kêu cứu thì con làm gì?”
Khi đó con sẽ khơng được xuống sơng tắm vì khơng có người lớn và khi
thấy người kêu cứu thì con phải chạy báo cho mọi người.
Tơi cho trẻ xem một số hình ảnh về cách xử lý kỹ năng thốt hiểm. Từ
những tình huống cụ thể mà rất dễ xảy ra đối với trẻ, bằng cách cho trẻ thảo luận,
yêu cầu trẻ suy nghĩ, vận dụng vốn hiểu biết của mình đã có để tìm cách giải quyết
vấn đề. Thơng qua đó tơi giúp trẻ tìm ra cách giải quyết tốt nhất, đó cũng chính là



16

kinh nghiệm mà tôi cần dạy trẻ. Cũng giúp trẻ có sự tư duy lơ rích, biết cách diễn
đạt suy nghĩ của mình, và giúp trẻ có thêm kinh nghiệm trong cuộc sống.
Kết quả đạt được:Thơng qua tình huống tơi dậy trẻ tơi thấy trẻ lớp tơi đã
có một số kỹ năng phịng tránh và ứng phó với những tình huống xấu xảy ra
trong cuộc sống hàng ngày của trẻ, thơng qua những tình huống đó tơi thấy trẻ
có những cách giải quyết rất thơng minh, có tư duy trong suy ngĩ của bản thân
giúp trẻ đúc rút ra thêm cho mình những kỹ năng sống tốt hơn.
2.3.5 GIÁO DỤC KĨ NĂNG SỐNG THƠNG QUA CÁC TRỊ CHƠI
Đối với trẻ, hoạt động vui chơi là hoạt động chủ đạo trong hoạt động của
trẻ ở trường mầm non. Thông qua chơi trẻ tạo được mối đoàn kết và sự hợp tác
với bạn. Chính vì vậy, tơi rất chú trọng đến việc tổ chức trị chơi cho trẻ. Thơng
qua hoạt động vui chơi trẻ được trải nghiệm nhiều trò chơi khác nhau trong cuộc
sống từ đó biết cách ứng xử với mọi người xung quanh.
Trong hoạt động vui chơi không thể thiếu được các trò chơi dân gian, trò
chơi dân gian thường được lồng ghép trong quá trình hoạt động của trẻ.
Trẻ được tiếp cận và trực tiếp tham gia chơi các trị chơi dân gian sẽ giúp
cho trẻ sớm hình thành các thói quen hoạt động có hệ thống, tính tập thể giúp trẻ
tự tin, linh hoạt hơn trong mọi hoạt động cũng như sự phát triển sau này của trẻ.
Thông qua trò chơi dân gian, trẻ sẽ phát triển được các giác quan, phát triển trí
nhớ, phát triển tư duy, trí tưởng tượng, ngơn ngữ.
Trị chơi trí tuệ cịn được gọi là trò chơi học tập, nhằm thúc đẩy hoạt động trí
tuệ, giúp trẻ nhận thức thế giới xung quanh thơng qua các thao tác trí óc kết hợp với
hành động chơi như: Ơ ăn quan, Cờ vua, Cờ tướng....
Trị chơi vui - khỏe - khéo léo là những trò chơi dân gian tổng hợp vì
mỗi trị chơi kết hợp nhiều kỹ năng vận động thể lực. Mục đích của các trị
chơi loại này nhằm phát huy tính tích cực chủ động của trẻ, giúp trẻ mở rộng

các mối quan hệ như: Hái quả - chui vào hang bắt chuột đồng hoặc chuột túi
nhảy qua rãnh nước - tới đích lấy cờ. Tất cả các trò chơi là phương tiện giáo
dục thể lực một cách tích cực và thoải mái, giúp trẻ hoàn thiện sức khỏe, hoàn
thiện các vận động như chạy, nhảy, đứng lên, ngồi xuống, hình thành và phát
triển các tố chất của thể lực (nhanh nhẹn, khéo léo) và những phẩm chất nhân
cách như tính kỉ luật, tính tập thể; như trị chơi: Kéo co, rồng rắn lên mây ,mèo
đuổi chuột…


17

(Ảnh: Cô tổ chức cho trẻ chơi)
Qua hoạt động vui chơi trẻ mạnh dạn dần, thành thạo dần trong giao tiếp,
trong ứng xử đối với mọi người xung quanh. Từ đây trẻ cũng biết nói và trả lời
đầy đủ câu từ, biết xưng hơ chuẩn mực.
Trị chơi dân gian mang tính tập thể cao. Vì vậy, giáo viên cần chú ý giáo
dục và rèn luyện cho trẻ biết phối hợp nhịp nhàng, ăn ý với nhau khi tham gia
chơi thì mới đạt được kết quả mong đợi. Từ đó trẻ học được các kỹ năng bằng
cách tham gia vào các trò chơi. Vai trò của giáo viên là tạo các tình huống để trẻ
có thể chơi với nhau.
Kết quả đạt được: Thơng qua trị chơi, tơi giúp trẻ có sự tự tin, biết phối
hợp chơi cùng bạn và có trách nhiệm với nhóm chơi của mình, biết đồn kết tạo
nên sức mạnh tập thể. Thơng qua chơi giúp trẻ có tính kỷ luật cao, ngồi ra cịn
rèn cho trẻ có một thể lực tốt đểphát triển một cách toàn diện.
2.3.6. BIỆN PHÁP GIÁO DỤC KỸ NĂNG

SỐNG CHO TRẺ THÔNG QUA VIỆC

PHỐI KẾT HỢP VỚI PHỤ HUYNH


Ngoài việc thực hiện các biện pháp giáo dục trên, tôi luôn ý thức được
tầm quan trọng của việc phối kết hợp giữa gia đình và nhà trường vì gia đình là
trường học đầu tiên đối với trẻ. Mặt khác việc dạy kỹ năng sống cho trẻ không
phải là chuyện một sớm một chiều mà là cả một quá trình. Các kỹ năng sống
phải được giáo dục, rèn luyện một cách đồng nhất thì mới bền vững và thành kỹ
xảo. Nếu chỉ dạy kỹ năng sống cho trẻ ở trường thơi thì chưa đủ. Bên cạnh đó,
mơi trường gia đình rất thích hợp để giáo dục kỹ năng sống cho trẻ. Trẻ được
tiếp thu các kỹ năng thơng qua gia đình một cách tự nhiên, nhẹ nhàng mà lại
hiệu quả cao. Đặc biệt trong thời buổi hiện nay nuôi dạy con luôn là mối quan
tâm hàng đầu của các bậc phụ huynh, ai cũng muốn con mình đạt được những
thành tích cao trong học tập cũng như trưởng thành hơn về mặt nhân cách. Tuy
nhiên việc làm thế nào để có thể giúp trẻ phát huy được khả năng tiềm ẩn? Làm


18

thế nào để trẻ có những kỹ năng sống tốt nhất thì nhiều phụ huynh vẫn cịn lúng
túng trong vấn đề này. Giáo viên là người được trang bị những tri thức khoa học
về nuôi dạy trẻ, là người gần gũi trẻ trong suốt cả ngày nên đã phát hiện ra
những nét đẹp hay những hành vi chưa tốt của mỗi trẻ và có khả năng tìm ra các
biện pháp giáo dục, các cách giải quyết phù hợp với quy luật phát triển tâm sinh
lý của trẻ. Chính vì vậy mà tôi phải tuyên truyền đến các bậc phụ huynh để họ
hiểu tầm quan trọng của kỹ năng sống, những kiến thức cần dạy trẻ, phương
pháp dạy trẻ như thế nào để trẻ tiếp thu một cách thoải mái, tự nhiên. Thơng qua
bảng tun truyền, hay ở những giờ đón trả trẻ tơi thường trị chuyện với các bậc
phụ huynh về các cách giáo dục kỹ năng sống cho trẻ, ngồi ra tơi cịn mời phụ
huynh tham quan hoặc tham gia trực tiếp vào các hoạt động của lớp hay thơng
qua các buổi họp phụ huynh trị chuyện, trao đổi nhằm giúp phụ huynh có thêm
những kiến thức để giáo dục kỹ năng sống cho trẻ tại gia đình. Cụ thể:
Ở hoạt động đón trẻ, tơi đã trao đổi với phụ huynh về tình hình sức khoẻ,

vệ sinh cá nhân, những kỹ năng trẻ đang có để cùng phụ huynh có những biện
pháp giáo dục trẻ, giúp trẻ chủ động trong các hoạt động.

(Ảnh: Cô trao đổi vơi phụ huynh)
Kết quả đạt được: Thông qua việc thường xuyên trao đổi với các bậc phụ
huynh về nội dung chăm sóc giáo dục trẻ, đã giúp tôi rất nhiều trong việc giáo
dục kỹ năng sống cho trẻ. Phụ huynh cũng hiểu được tầm quan trọng của kỹ
năng sống đối với trẻ.
2.4. HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Sau một năm thực hiện áp dụng “Một số biện pháp giáo dục kỹ năng
sống cho trẻ tại lớp mẫu giáo 5 - 6 tuổi khu Đồng Mọc Trường mầm non Mậu
Lâm” tôi đã thu được kết quả như sau:
*Về phía giáo viên


19

Nghiên cứu sáng kiến kinh nghiệm giúp bản thân nắm vững hơn kiến thức
về chuyên đề giáo dục kỹ năng sống cho trẻ, đặc biệt là trẻ ở độ tuổi cuối mầm
non, giúp trẻ tự tin hơn khi bước vào cấp học tiếp theo.
Bản thân sáng tạo, linh hoạt hơn khi sử dụng các phương pháp, hình thức
tổ chức lồng ghép giáo dục kỹ năng sống cho trẻ.
Giúp giáo viên gần gũi hơn với trẻ, trẻ quấn quýt yêu mến cô giáo hơn và
tạo mối quan hệ thân thiện hơn nữa với phụ huynh trong công tác phối kết hợp,
để chăm sóc giáo dục trẻ đạt hiệu quả cao.
* Về phía phụ huynh
Qua trao đổi với phụ huynh, nhiều phụ huynh cũng nhận thấy rằng có rất
nhiều điều con mình có thể làm được nhưng trước đó phụ huynh nghĩ con mình
cịn bé và ln làm hộ trẻ. Tạo cho phụ huynh có thói quen liên kết phối hợp
chặt chẽ với cô giáo trong việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ, thường xun có

sự trao đổi thơng tin 2 chiều giữa phụ huynh và giáo viên.
* Đối với trẻ
Qua một năm học thực hiện áp dụng các biện pháp giáo dục kỹ năng
sống qua đó tơi đã đạt được hiệu quả rõ rệt. Đặc biệt, với những hình thức cô
đưa ra, trẻ nhận thức rất nhanh và biết ứng dụng trong cuộc sống thông qua việc
trẻ được trải nghiệm trong tất cả các hoạt động do cô tổ chức. Từ đó, tạo cho trẻ
sự mạnh dạn, tự tin. Thơng qua việc trẻ được thảo luận, suy nghĩ tìm ra cách giải
quyết đã giúp trẻ phát triển ở nhiều mặt: Trẻ phát triển được các kỹ năng phán
đoán, suy luận, biết đưa ra quyết định của mình. Và cộng với những tình huống
đưa ra khơng chỉ giúp trẻ có kỹ năng ứng biến khi gặp tình huống tương tự mà
cịn giúp trẻ có kỹ năng biết cách suy luận, suy đốn tìm ra cách giải quyết ở các
tình huống khác nhau và hình thành kỹ năng sống cho trẻ.
Bảng khảo sát thực trạng của trẻ sau khi áp dụng sáng kiến
Đánh giá trẻ
ST
T

Nội dung khảo sát

Tổng
số
trẻ

Đạt

Chưa đạt

Số trẻ

Tỉ lệ

%

Số
trẻ

Tỉ lệ
%

1

Kỹ năng giao tiếp ứng xử phù
hợp với người xung quanh.

34

34

100%

0

0%

2

Kỹ năng phục vụ chăm sóc bản
thân

34


34

100%

0

0%

3

Kỹ năng hợp tác hoạt động
cùng nhóm

34

34

100

0

0%

4

Kỹ năng giữ vệ sinh mơi trường

34

34


100%

0

0%

5

Kỹ năng tự bảo vệ bản thân

34

33

97%

1

3%


20

So sánh kết quả trước và sau khi sử dụng các biện pháp trên chúng ta thấy
rằng: Các tiêu chí đặt ra đã đạt được kết quả rõ rệt, đã hình thành ở trẻ những kĩ
năng sống cơ bản, trẻ đã nhận thức được vấn đề mà cô giáo đưa ra. Kết quả đạt
được như vậy. Song với mong muốn quý báu, những bài học kinh nghiệm của
bản thân sẽ góp phần nâng cao hiệu quả cơng tác giáo dục kỹ năng sống trong
trường mâm non.

3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. KẾT LUẬN
Trong xã hội hiện nay, việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ là việc làm rất
cần thiết. Đòi hỏi mỗi người đều phải có sự sáng tạo, vận dụng linh hoạt các nội
dung lồng ghếp để giáo dục cho trẻ. Thơng qua qua các hoạt động có thể lồng
ghép nhiều nội dung giáo dục kỹ năng sống cho trẻ giúp trẻ tự tin trong cuộc
sống một cách thực tế. Với những việc làm tuy đơn giản nhưng để lại cho trẻ
dấu ấn mạnh mẽ và có thể theo trẻ trong suốt cuộc đời sau này.
Qua một năm áp dụng các biện pháp trên vào hoạt động giáo dục kỹ năng
sống cho trẻ 5 - 6 tuổi do tôi phụ trách. Tôi đã thu được kết quả rất đáng khích
lệ đa số trẻ hứng thú tham gia vào các hoạt động giáo dục kỹ năng sống do tôi tổ
chức, trẻ biết được vai trò của kỹ năng sống đối với cuộc sống. Từ đó mà các
hoạt động lồng ghép giáo dục kỹ năng sống luôn đạt hiệu quả cao.
Bản thân luôn linh hoạt sáng tạo trong việc xây dựng kế hoạch và tổ chức
các hoạt động giáo dục kỹ năng sỗng cho trẻ. Khai thác được tiềm năng sáng tạo ở
mỗi trẻ. Giáo dục trẻ như thế nào để trẻ cảm thấy thoải mái trong mọi tình huống,
tạo cho trẻ cơ hội để trẻ được thể hiện và bộc lộ khả năng của bản thân mình.Trong
quá rình áp dụng sáng kiến bản thân tôi đã rút ra được rất nhiều kinh nghiệm quý
báu trong công tác giảng dạy của mình đặc biệt là kinh nghiệm giáo dục kỹ năng
sống cho trẻ:
Để có được kỹ năng sống cho trẻ cần phải có thời gian, phải trải qua trong
một q trình tập luyện thường xuyên với sự hỗ trợ của người lớn, bạn bè.
Và để việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ đạt được kết quả cao thì cơ giáo
phải ân cần, nhẹ nhàng, phải tạo ra nhiều tình huống để trẻ được tự xử lý.
Thường xuyên tổ chức các hoạt động giáo dục để trẻ tìm tịi, khám phá,
phát huy vốn hiểu biết của trẻ.
Trong quá trình rèn luyện cho trẻ phải để cho trẻ được thoải mái không gị
bó, ép buộc trẻ.
Ngồi việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ ở nhà trường, giáo viên cần trao
đổi, phối kết hợp với cha mẹ trẻ để cha mẹ trẻ cũng có những phương pháp giáo

dục kỹ năng sống thêm cho trẻ tại nhà.
3.2. KIẾN NGHỊ


21

Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ là vấn đề hết sức cần thiết trong xã hội ngày
nay. Vì thế để việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ đạt kết quả cao bản thân tơi có
một số đề xuất như sau:
*Đối với các cấp lãnh đạo
Cần tăng cường trang thiết bị hiện đại như: Máy chiếu, tivi, loa đài để
giáo viên có thể sử dụng đưa nhiều hình ảnh cụ thể, nhiều minh chứng sinh động
cho trẻ được xem, được trải nghiệm.
Thường xuyên mở các lớp bồi dưỡng chuyên đề, bồi dưỡng thường xuyên
cho giáo viên tiếp thu, nâng cao chuyên môn.
Mở nhiều các cuộc thi cho trẻ để trẻ được tham gia nhằm phát huy tính
mạnh dạn, kỹ năng giao tiếp, ứng xử của trẻ.
Thường xuyên tổ chức cho trẻ những chuyến thăm quan ngoại cảnh giúp trẻ
có thêm hiểu biết về thế giới xung quanh trẻ.
*Đối với các bậc cha mẹ trẻ
Cần phải tìm hiểu qua sách báo, ti vi , mạng internet để biết thêm nhiều kiến
thức và có nhiều biện pháp giáo dục kỹ năng sống phù hợp với con em mình.
Khơng nên chiều chuộng, làm hộ trẻ, điều đó sẽ tạo cho trẻ tính ỉ lại, mà
nên yêu cầu trẻ tự làm để tập cho trẻ thói quen tự lập, tự chăm sóc bản thân.
Trên đây là sáng kiến mà bản thân tôi đã tích lũy được qua một năm giáo
dục và rèn luyện cho trẻ. Rất mong được các cấp lãnh đạo xem xét, góp ý, bổ
sung để sáng kiến của tơi đạt được hiệu quả cao nhất./
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Như Thanh, ngày 10 tháng 4 năm 2021
XÁC NHẬN CỦA HIỆU TRƯỞNG

NHÀ TRƯỜNG

Lê Thị Quân

CAM KẾT KHÔNG SAO CHÉP, COPPY

Nguyễn Thị Vân


22


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tài liệu WHO về giáo dục kỹ năng sống
2. Tạp chí giá trị cuộc sống .org
3. Tuyển chọn trò chơi dân gian dành cho trẻ mầm non
4. Tài liệu Bồi dưỡng giáo viên mầm non – Bộ GD&ĐT
5. Tham khảo tài liệu trên internet
6 . Chăm sóc giáo dục mẫu giáo và hướng dẫn thực hiện 5 - 6 tuổi - nhà
xuất bản giáo dục.
7. Tâm lý học mầm non.


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×