Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

Chuyên môn nguyễn thị hòa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (867.63 KB, 28 trang )

MỤC LỤC
STT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26

Nội dung
1. Mở đầu


1.1. Lý do chọn đề tài
1.2. Mục đích nghiên cứu
1.3. Đối tượng nghiên cứu
1.4. Phương pháp nghiên cứu
2. Nội dung
2.1.Cơ sở lý luận:
2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng SKKN
2.2.1. Thức trạng chung
2.2.2. Thuận lợi
2.2.3. Khó khăn
2.3. Các giải pháp và biện pháp thực hiện
2.3.1. Biện pháp 1
2.3.2. Biện pháp 2
2.3.3. Biện pháp 3
2.3.4. Biện pháp 4
2.3.5. Biện pháp 5
2.3.6. Biện pháp 6
2.3.7. Biện pháp 7
2.3.8. Biện pháp 8
2.4. Hiệu quả sau khi áp dụng một số biện pháp
3. Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận
3.2. Kiến nghị
Tài liệu tham khảo
Danh mục

Trang
1
1
2

2
2
2
3
3
3
4
4
5
5
6
7
7
8
10
13
15
17
18
18
18


1. Mở đầu
1.1. Lý do chọn đề tài.
Bác Hồ của chúng ta đã dạy “ Tiếng nói là thứ của cải vô cùng lâu đời và
vô cùng quý báu của dân tộc, chúng ta phải giữ gìn và bảo vệ nó”"[1]
Trong cơng tác giáo dục trẻ mầm non, chúng ta thấy rõ vai trị của ngơn ngữ
đối với việc giáo dục trẻ thơ. Ngơn ngữ góp phần đào tạo các cháu trở thành những
con người phát triển toàn diện. Hiện nay việc thực hiện đổi mới trong giáo dục

mầm non đã và đang thu hút rất nhiều nhà nghiên cứu nói chung, các cán bộ quản
lý cũng như hầu hết giáo viên trong nghành học mầm non nói riêng. Chương trình
giáo dục Mầm non đã triển khai thực hiện có hiệu quả việc đổi mới phương pháp
dạy học và đổi mới hình thức tổ chức nhằm nâng cao chất lượng giáo dục trẻ Mầm
non. Tuy nhiên thực tế vẫn còn nhiều bất cập, đặc biệt là việc đổi mới phương pháp
giảng dạy chưa hiệu qủa, sự lồng ghép tích hợp các hoạt động và các chuyên đề
giáo dục cho trẻ còn nhiều hạn chế, nội dung còn đơn điệu, rườm rà, lúng túng
chưa phù hợp với nội dung yêu cầu của chương trình.
Giáo dục Mầm non có tác dụng cực kì quan trọng trong việc hình thành và
phát triển nhân cách con người Việt Nam hiện đại. Nhất là trong giai đoạn hiện
nay, đất nước ta đang chuyển mình vươn lên đỉnh cao của thời đại Cơng nghiệp
hóa - Hiện đại hóa đất nước. Vì vậy để đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển đi lên
của xã hội thì việc cải tiến phương pháp giáo dục nhằm nâng cao chất lượng, khả
năng nhận biết cho trẻ là một vấn đề hết sức cần thiết đối với mỗi giáo viên, mỗi
đơn vị trường Mầm non. Để đảm bảo mục tiêu giáo dục thì trong trường Mầm non
phải kết hợp song song việc chăm sóc thể lực và giáo dục trí tuệ cho trẻ. Để làm tốt
được điều đó thì các hoạt động trong trường Mầm non cũng đóng một vai trị then
chốt, trong đó khơng thể thiếu được hoạt động phát triển ngơn ngữ cho trẻ. Nó là
một trong những hoạt động chính, giữ vị trí quan trọng trong giáo dục phát triển
tồn diện nhân cách trẻ. [2]
Ngơn ngữ chính là một trong những phương tiện thúc đẩy trẻ trở thành một
thành viên của xã hội. Ở trẻ nhỏ nhu cầu giao tiếp của trẻ là rất lớn. Ngôn ngữ là
cơng cụ hữu hiệu để trẻ có thể bày tỏ nguyện vọng của mình để người lớn có thể
chăm sóc, điều khiển và giáo dục trẻ. Ngơn ngữ là một điều kiện rất quan trọng để
trẻ tham gia vào mọi hoạt động và trong hoạt động hình thành nhân cách. Sự phát
triển chậm về mặt ngơn ngữ có ảnh hưởng đến sự phát triển toàn diện của trẻ. Cho
nên các nhà giáo dục cần phải đề ra nhiệm vụ, nội dung, phương pháp phát triển
ngôn ngữ trẻ đúng lúc và phù hợp với lứa tuổi. Đối với trẻ 24-36 tháng tuổi vốn từ
cịn ít, mức độ hiểu nghĩa cịn hạn chế, cách sử dụng từ chưa chính xác, trẻ cịn nói
ngọng, phát âm chưa chuẩn. Do đó việc phát triển làm giàu vốn từ cho trẻ, dạy trẻ

nói năng lưu lốt, phát âm đúng có kĩ năng trả lời một số câu hỏi, hiểu được yêu
cầu đơn giản bằng lời nói là một điều rất quan trọng. Chính vì vậy người lớn cần


phải chỉnh sửa uốn nắn kịp thời nhất là cô giáo. Ngày xưa ơng cha ta có câu: “Trẻ
lên ba cả nhà tập nói”. Là giáo viên mầm non, bản thân tôi nhận thức được tầm
quan trọng của việc phát triển ngơn ngữ, qua q trình chăm sóc và giáo dục trẻ tơi
có những suy nghĩ, trăn trở làm sao để phục vụ vào công tác giảng dạy các cháu
phát âm chuẩn, chính xác tiếng việt. Xuất phát từ những yêu cầu trên tôi mạnh dạn
chọn đề tài “ Một số biện pháp nâng cao chất lượng cho trẻ nhà trẻ 24-36 tháng
tuổi phát triển ngôn ngữ thông qua hoạt động nhận biết tập nói ở trường Mầm
non Xuân Phúc ” làm đề tài nghiên cứu của mình.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
- Tìm ra một số giải pháp hay, hiệu quả để áp dụng vào thực tế khi giúp trẻ
34 - 36 tháng tuổi phát triển ngôn ngữ một cách nhanh nhất. Thông qua “Lĩnh vực
phát trển ngôn ngữ ” giúp trẻ:
+ Tăng thêm vốn từ cho trẻ.
+ Giúp trẻ mở rộng tầm hiểu biết về thế giới xung quanh.
+ Luyện cho trẻ phát âm chuẩn, chính xác tiếng việt, nói được câu trọn vẹn
đúng nghĩa.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
- Một số biện pháp nâng cao chất lượng cho trẻ nhà trẻ 24-36 tháng tuổi
phát triển ngôn ngữ thông qua hoạt động nhận biết tập nói ở trường Mầm non
Xuân Phúc.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế: Nhằm giúp có kiến thức một cách
hệ thống về qui trình điều tra khảo sát trong thực tế.
- Phương pháp thực nghiệm: Đưa ra một số yêu cầu khảo sát trên trẻ
- Nhóm phương pháp trực quan (Xem vật thật, quan sát tranh ảnh, tham
quan, xem phim)

- Nhóm phương pháp dùng lời (Trị chuyện, đàm thoại, giảng giải, đọc thơ,
kể chuyện)
- Nhóm phương pháp thực hành (Trị chơi học tập, lao động)
- Phương pháp thống kê tổng kết rút kinh nghiệm: Tổng kết kinh nghiệm
giáo dục là q trình mơ tả, phân tích so sánh, phân loại tổng hợp những kinh
nghiệm giáo dục.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm1.
Có thể nói nhân cách con người phải được đặt nền móng ngay từ buổi đầu
tiên, chập chững bước vào đời. Ngày nay, chúng ta coi trọng Giáo dục mầm non, vì
giáo dục mầm non là nền tảng của giáo dục, đó là những năm đầu cuộc đời của trẻ,
nó có tầm quan trọng đặc biệt, vì thời kỳ này sự tăng trưởng và phát triển nhanh
của cơ thể trẻ cũng như về trí tuệ, tình cảm, nhân cách được bắt đầu hình thành.
1 Trình bày căn cứ lý thuyết mà tác giả đưa ra SKKN, có lập luận chắc chắn và có trích dẫn nguồn tài liệu.


Trẻ có phát triển tốt hay khơng là phụ thuộc vào người lớn xung quanh trẻ, đặc biệt
là giáo viên mầm non, là người mẹ hiền thứ hai của trẻ. Giáo dục trẻ một cách tồn
diện là một cơng việc vơ cùng khó khăn, nó phải là cả một q trình, đây là viên
gạch đầu tiên đặt nền móng cho việc xây dựng một tịa lâu đài trí tuệ. Chính vì vậy
mà BGD&ĐT đã đề ra mục tiêu của giáo dục Mầm non là phải trang bị chotrẻ
những gì tốt nhất kể cả về vật chất và tinh thần nhằm phát triển toàn diện về nhân
cách cho trẻ. [3]
Học thuyết Mác Lê-nin đã chỉ ra rằng: “Ngôn ngữ bắt đầu từ lao động,
bắt nguồn từ nhu cầu giao tiếp giữa con người với con người trong lao động
và trong cuộc sống”. Ở đứa trẻ ngôn ngữ phát triển trong nhu cầu giao tiếp
giữa trẻ với thế giới xung quanh. Trẻ bắt chước mọi người và được mọi người
dạy nói. Chính vì vậy Trường Mầm non phải là nơi để phát triển lời nói chuẩn
mực cho trẻ và cơ giáo là tấm gương phản chiếu rõ nhất, ngôn ngữ phải rõ ràng,
chính xác, cơ giáo và người lớn phải sử dụng những từ có văn hóa, phù hợp với

đặc điểm tâm sinh lý của trẻ. Để hoạt động phát triển ngôn ngữ cho trẻ một cách có
hiệu quả chúng ta phải dựa vào đặc điểm phát triển tâm sinh lí trẻ: . [5]
+ Đặc điểm phát triển sinh lí:
Như chúng ta đã biết, q trình phát triển về ngơn ngữ của trẻ thì đây là giai
đoạn ngơn ngữ chủ động của trẻ bắt đầu xuất hiện. Chính vì thế trong q trình
phát triển ngơn ngữ trẻ cịn mắc một số hạn chế sau:
Giai đoạn này tư duy trực quan là chủ yếu, lời nói ln ln gắn liền với mọi
hành động, đồ vật cụ thể thì trẻ mới hiểu được. Khi trẻ nói chủ yếu trẻ dựa vào
những đặc điểm bên ngồi để nói.
Trẻ phát âm chưa chính xác, trẻ cịn hay nói ngọng, nói lắp
+ Đặc điểm phát triển tâm lý
Ở giai đoạn này trẻ rất thích bắt chước người lớn.
VD: Mẹ đang nhặt rau trẻ sẽ ngồi xuống xin nhặt rau cùng mẹ.
Trẻ thích được người lớn khen, động viên kịp thời và thích những màu sắc
sặc sỡ.Trẻ thường hay đặt ra những câu hỏi để người lớn trả lời như: Vì sao ? Tại
sao ? Làm thế nào ?...
Trên đây là những cơ sở lý luận của đề tài và đã giúp tơi căn cứ vào đó để
tìm ra những biện pháp dạy trẻ sao cho thật phù hợp đối với hoạt động này.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm2.
2.2.1. Thực trạng chung.
Trong năm học 2019-220 q trình chăm sóc trẻ 24-36 tháng tuổi, tơi nhận
thấy cơ thể của trẻ cịn yếu, trẻ chưa nói rõ, vốn từ của trẻ cịn ít, khả năng nhận
thức còn hạn chế. Phần nhiều các cháu đang sống trong mơi trường chăm sóc, âu
yếm, chiều chuộng trong vòng tay của bà, của mẹ và của những người thân yêu
2Trình bày kết quả khảo sát thực trạng, phân tích các tài liệu, số liệu, những mâu thuẫn, khó khăn mà tác giả
gặp phải cần tìm cách giải quyết, khắc phục.


trong gia đình. Trẻ chưa thể hồ nhập với bạn, chưa quen với cô, chưa quen với nề
nếp sinh hoạt tập thể, chưa có thói quen vệ sinh tự phục vụ. Muốn làm được điều

đó người giáo viên phải có ý thức trau dồi ngôn ngữ, tự học, tự rèn luyện cho mình
cách nói rõ ràng, ngắn gọn, chính xác, nói chuyện với trẻ đúng đắn, thân ái, lịch sự.
Vì vậy trong q trình chăm sóc giáo dục trẻ tơi gặp những thuận lợi và khó khăn
như sau:
2.2.2.Thuận lợi.
Nhà trường trong năm học qua được các cấp lãnh đạo quan tâm chỉ đạo sâu
sát, được các bậc phụ huynh quan tâm và tin tưởng. Ban giám hiệu Nhà trường
luôn sát sao quản lý và điều hành phân công nhiệm vụ cũng như phân công giáo
viên phụ trách các lớp phù hợp, khoa học.
Trường được xây dựng tập trung tại một khu nên rất thuận tiện cho việc
quản lý và chăm sóc, giáo dục trẻ.
Trường mầm non Xuân phúc ngày nay được xác nhập từ trường mầm non
phúc đường củ nay thành trường mầm non Xuân Phúc, hiện nay gồm có 4 điểm
trường, 3 điểm lẻ và 1 điểm chính. Nhà trường có 18 nhóm lớp, hiện nay nhà
trường có 4bếp ăn, sạch sẽ, thống mát. Trường vừa được cơng nhận trường Mầm
non đạt Chuẩn Quốc gia mức độ I năm 2020. Trường có diện tích rộng, bằng
phẳng, cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp, có nhiều cây xanh bóng mát.
Bản thân là một giáo viên có tuổi nghề lâu năm, có tinh thần trách nhiệm cao
trong công tác giảng dạy, không ngừng học hỏi, tham khảo tài liệu, dự giờ đồng
nghiệp để rút ra kinh nghiệm cho bản thân,
- Bản thân là người kinh nói đúng chuẩn tiếng phổ thơng, phát âm chuẩn.
Nhưng trong lớp học lại có một số trẻ là người dân tộc nên bản thân đã luôn uốn
nắn kịp thời.
Trẻ khỏe mạnh, tích cực học tập và hứng thú hoạt động. Một lớp có chung
một độ tuổi nên nhận thức của trẻ tương đối đồng đều,
2.2.3.Khó khăn.
Là xã có địa bàn rộng, nhiều thơn cách xa trường nên vào những ngày mưa,
giá rét số trẻ đến trường còn hạn chế, ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng dạy
học của cơ và trẻ.
Trẻ đến lớp học cịn nói tiếng địa phương, phát âm sai lệch ảnh hưởng đến

khả năng tiếp thu bài, ngơn ngữ mạnh lạc của trẻ cịn hạn chế (nói chưa đủ câu, nói
trống khơng, nói lắp, nói ngọng, nói tiếng địa phương) nên ảnh hưởng rất lớn đến
việc giao tiếp và dạy trẻ trên lớp.
Cơ sở vật chất phòng học sử dụng lại của bậc học tiểu học củ, cho nên
khơng gian phịng học chật hẹp chưa đủ diện tích, đồ dùng đồ chơi chưa được
phong phú, đa dạng để đáp ứng được nhu cầu giáo dục hiện nay.
Phụ huynh chưa quan tâm đến con em mình, chưa nhiệt tình ủng hộ trong
việc gom các nguyên vật liệu để làm đồ dùng dạy học và hoạt động vui chơi cho


trẻ. Chưa coi trọng việc học của trẻ, cho là trẻ đến trường để giữ cho trẻ khỏi khóc
chứ khơng cần học.
Trí nhớ của trẻ cịn hạn chế, trẻ dễ nhớ nhưng lại rất chóng quên.
Do điều kiện đặc thù của địa phương dân cư phân bố không đồng đều ở rãi
rác khắp xã nên những ngày mưa gió dẫn đến trẻ đi học không đều ảnh hưởng đến
việc chăm sóc và giáo dục trẻ.
Đa số trẻ chưa qua nhà trẻ 18-24 tháng tuổi nên lần đầu tiên đến trường
quyấy khóc nhiều, nhút nhát, nói nhỏ, phát âm chưa chuẩn nặng tiếng địa phương.
Qua khảo sát đầu năm tôi thấy khả năng phát triển ngôn ngữ của các cháu
trong lớp tôi như sau:
* Bảng 1: Kết quả khảo sát thực trạng.
Nội dung
đánh giá
Khả năng nghe
hiểu
Khảnăng phát âm
đúng từ
Khả năng diễn đạt
ngôn ngữ giao tiếp


Kết quả thực trạng
Đạt
Chưa đạt

Tổng
số trẻ
Số trẻ

Tỷ lệ %

Số trẻ

Tỷ lệ %

23

14

61

9

39

23

13

57


10

43

23

12

52

11

48

Nhìn vào bảng kết quả khảo sát thực trạng trên cho ta thấy tình hình thực tế
về chất lượng của hoạt động nhận biết tập nói chưa cao, cháu yếu vẫn cịn, tỷ lệ
cháu trung bình rất cao.
* Nguyên nhân:
- Các trang thiết bị, đồ dùng, đồ chơi phục vụ cho giảng dạy còn hạn chế, đồ
dùng chưa đẹp, chưa sinh động sáng tạo vì vậy chưa thu hút được trẻ tham gia
hoạt động.
- Việc tạo môi trường (nhất là môi trường mở) cho trẻ hoạt động có nhiều
hạn chế, hình thức chưa thu hút được nhiều trẻ tham gia hoạt động.
- Trẻ còn sử dụng tiếng địa phương nhiều, một số trẻ chưa nói rõ từ hoặc đa
số cịn nói ngọng, nói chưa rõ lời. Do đó việc trẻ nói đủ câu, từ rõ ràng mạch lạc
cịn gặp nhiều khó khăn là do cơ chưa phối kết hợp tốt giữa gia đình và nhà trường.
- Còn hạn chế trong việc phát triển vốn từ cho trẻ, chưa phát huy được tính
tích cực của trẻ trong các hoạt động
- Nội dung phát triển ngôn ngữ cho trẻ cịn đơn điệu, chưa có một hệ thống
lơ ghíc nhất định.



2.3. Các sáng kiến kinh nghiệm hoặc các giải pháp đã sử dụng để giải
quyết vấn đề3.
2.3.1. Biện pháp 1: Rèn luyện nề nếp thói quen sử dụng ngơn ngữ tích
cực cho trẻ ngay từ đầu năm học.
Nề nếp thói quen là tính tất yếu chi phối đến việc sử dụng ngơn ngữ của trẻ,
xã hội càng văn minh thì vấn đề giáo dục hành vi văn hóa trong giao tiếp càng trở
nên quan trọng. Nề nếp học tập là yếu tố quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến thành
công của tiết học, vì vậy ngay từ lứa tuổi Mầm non, người lớn, đặc biệt là giáo viên
Mầm non, tôi ln chú trọng rèn luyện các nề nếp thói quen, hành vi lễ giáo cho
trẻ, uốn nắn trẻ mạnh dạn, tự nhiên khi giao tiếp với người khác, không rụt rè, e sợ,
âm lượng phát ra đủ nghe, không la hét, nói tục, chửi bậy, biết dùng ngơn ngữ êm
dịu, nhẹ nhàng, tình cảm để thể hiện tình cảm yêu thương đối với bạn bè, cơ giáo
và người thân. Vì vậy trong công tác giáo dục, cô giáo và người lớn phải thực sự
gương mẫu về lời ăn tiếng nói, nghiêm khắc và uốn nắn kịp thời khi trẻ nói sai, nói
trống khơng, nói thiếu chủ ngữ, vị ngữ, nói ngược vị trí câu.
Ví dụ: Khi trẻ muốn lấy quả bóng của bạn trẻ sẽ nói: “Đưa đây” tơi sẽ sửa
cho cháu nói lại “Bạn cho tơi mượn quả bóng”….Giáo dục các cháu biết cảm
ơn, xin lỗi, khơng nói dối, lễ phép với người lớn khi giao tiếp, biết chào hỏi cô khi
đến lớp, chào hỏi ông bà, bố mẹ và người lớn.
Trong sinh hoạt hằng ngày tôi chú ý rèn luyện cho các cháu có thói quen vệ
sinh cá nhân, vệ sinh cơng cộng, tập cho trẻ có thói quen tự phục vụ như : Tự đi
dép, đội mũ.
+ Giờ đón trẻ, khi trẻ đến lớp tơi dạy trẻ chào cô, chào bố, mẹ rồi vào lớp.
+ Dạy trẻ cất đồ dùng cá nhân đúng nơi qui định.
+ Giờ học, vào bài cô kể cho trẻ nghe một đoạn truyện, đọc cho trẻ nghe một
bài thơ, câu đố hay là tổ chức tiết học dưới hình thức trị chơi, chương trình của bé
( tùy vào nội dung) để gây sự hứng thú khi vào bài.
+ Giờ chơi, giáo dục trẻ khi chơi xong cất đồ chơi ngăn nắp gọn gàng, vừa

cất đồ chơi vừa đọc đoạn thơ: “ Giờ chơi hết giờ rồi, nhanh tay cất đồ chơi, nhẹ
tay thôi bạn ơi ”
+ Giờ ăn, tôi giáo dục trẻ trước khi ăn phải rửa tay, cho trẻ đọc bài thơ “giờ
ăn” sau đó mời cơ giáo, mời các bạn rồi mới ăn. Khi ăn khơng nói chuyện, khơng
làm cơm rơi, cơm vãi. Ăn xong lau miệng, uống nước, rửa tay.
+ Giờ ngủ trưa cô cho trẻ đọc bài thơ: “ Giờ đi ngủ ” trẻ lên giường nằm
ngủ không nói chuyện.
Trong tiết học tơi chú ý rèn cho các cháu ngồi học ngay ngắn, không nằm ra
chiếu, không được chạy lung tung trong khi học, biết lắng nghe và trả lời các câu
hỏi của cơ.
3Trình bày những biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề, có phân tích, nhận xét về vai trị, tác dụng, hiệu
quả của từng biện pháp đó; trình bày các sáng kiến kinh nghiệm cụ thể đã được rút ra.


Qua q trình thực hiện các biện pháp trên, tơi đã đưa trẻ vào nề nếp và thói
quen hằng ngày của trẻ, sau một thời gian trẻ thực hiện rất tốt. Từ đó
tơi nhận thấy trẻ tự tin, thoải mái và thích đến trường được học, được chơi, được
giao lưu với bạn.
Sau một thời gian áp dụng biện pháp, tôi thấy hiệu quả của giờ học được
nâng lên rõ rệt. Nề nếp các cháu đã đi vào ổn định và được BGH Nhà trường đánh
giá cao. Trẻ rất hứng thú trong mọi hoạt động.
2.3.2. Biện pháp2. Xây dựng nội dung hoạt động phù hợp với chủ đề để
phát triển ngôn ngữ.
- Giáo viên cần xác định chủ đề và nội dung của chủ đề được thực hiện trong
thời gian đó.
- Trang trí nhóm lớp phù hợp với chủ đề
- Lựa chọn nội dung cho các hoạt động ngôn ngữ phù hợp với chủ đề đó
- Xây dựng mơi trường phù hợp với chủ đề
- Chuẩn bị các phương tiện học liệu theo chủ đề
- Lên lịch hoạt động theo tuần, ngày và tích hợp nội dung PTNN với các

hoạt động của các lĩnh vực khác.
Ví dụ:
+ Với chủ đề “Bé thích đi bằng phương tiện gì” ở nhánh “Phương tiện giao
thông đường bộ” tôi lựa chọn nội dung cho các hoạt động ngơn ngữ như sau:
+ Trị chuyện: Tơi và trẻ cùng trị chun về các phương tiện giao thơng
như : Ơ tơ, Xe đạp, xe máy, xích lơ...(Hàng ngày ai đưa con đi học? Bố (Mẹ) chở
con đi học bằng xe gì? Đi đường con thấy những xe gì? Tiếng kêu của xe đó như
thế nào?
- Đọc thơ, ca dao, đồng dao, tục ngữ.
+ Đọc bài thơ:
“ Bé và mẹ ”
Tan học mẹ đón về
Dắt tay em qua phố
Mẹ luôn luôn nhắc nhở
Đi bộ trên vỉa hè
Đường rất nhiều loại xe
Nếu sang ngang phải đợi
Đèn xanh mới được đi
Bé ngoan ngỗn thầm thì
“Con nhớ rồi mẹ ạ !”.
(Lương Thị Xiêm)
“Đi chơi phố”
Đi chơi phố
Gặp đèn đỏ


Dừng lại thôi
Không qua vội
Đèn vàng rồi
Tiếp đèn xanh

Nào nhanh nhanh
Qua đường nhé”.
(Hồng Vy)
“ Đèn đỏ đèn xanh”
Dung dăng dung dẻ
Vui vẻ đi chơi
Đèn đỏ báo rồi
Bạn chờ tí nhé!
Dung dăng dung dẻ
Vui vẻ đi chơi
Đèn xanh báo rồi
Bạn ơi ! Đi nhé.
( Định Hải )
+ Các bài ca dao - Đồng dao:
“Bà còng đi chợ trời mưa”
Bà còng đi chợ trời mưa
Cái tơm cái tếp đi đưa bà cịng
Đưa bà đến quãng đường cong
Đưa bà vào tận ngõ trong nhà bà
Tiền bà trong túi rơi ra
Tép tôm nhặt được trả bà mua rau.
“ Đi cầu đi quán”
“ Đi cầu đi quán
Mua một đàn gà
Đi bán lợn con
Về cho ăn thóc
Đi mua cái xoong
Mua lược chải tóc
Đem về đun nấu
Mua cặp gài đầu

Mua quả dưa hấu
Đi mau về mau
Về biếu ông bà
Kẻo trời sắp tối ” [4]
+ Kể chuyện “Ô tơ con học bài”...
+Trị chơi phát triển ngơn ngữ: Chơi “Ơ tơ chim sẻ, Chơi đèn tín hiệu…”
+ Làm sách tranh truyện về các phương tiện giao thông đường bộ
- Tôi xây dựng môi trường phù hợp với chủ đề nhánh “Phương tiện giao
thơng đường bộ”:
Ví dụ:
+ Ở góc hoạt động với đồ vật tôi cho trẻ xếp “Ga ra ô tô”
Ở góc phân vai: Cho trẻ chơi bán hàng, nấu cho em ăn


+ Ở góc nghệ thuật : Hát các bài hát về phương tiện giao thông, Tô màu xe
máy, ô tô…
+ Ở góc đóng vai tơi cho trẻ chơi trị chơi đóng vai chú cảnh sát
- Với chủ đề này,tơi chuẩn bị đồ dùng trực quan phục vụ cho các tiết học là
các phương tiện do nhà trường mua sắm, các đồ chơi do chính tay các cơ tự taọ
bằng các phế liệu dễ sử dụng và an toàn cho trẻ. Sử dụng máy tính, băng đĩa có
hình ảnh các phương tiện giao thông,cho trẻ quan sát và đàm thoại.
- Tôi trang trí nhóm lớp phù hợp với chủ đề: Trang trí nhóm lớp bằng
tranh ảnh các phương tiện có liên quan đến chủ đề “Bé thích đi bằng phương
tiện gì ” ở các góc trong nhóm lớp sao cho trẻ dễ quan sát và đàm thoại.
- Lên lịch cho các hoạt động theo tuần: Mỗi tuần tôi lên kế hoạch cung cấp
kiến thức cho trẻ về 2-3 phương tiện giao thông.
2.3.3. Biện pháp 3: Lấy trẻ làm trung tâm của các hoạt động dạy và
học
Thực tế hiện nay quan điểm “Giáo viên làm trung tâm cho mọi hoạt động
giáo dục” Đã chuyển sang quan điểm “Lấy trẻ làm trung tâm”. Trẻ phải được coi là

trung tâm của mọi hoạt động giáo dục. Giáo viên cần phải dựa vào đặc điểm tâm
sinh lý và đặc điểm nhận thức của từng trẻ, từ đó lập kế hoạch giáo dục phù hợp.
Bên cạnh đó giáo viên Mầm non cần hiểu rằng việc đặt câu hỏi “Trẻ học
gì?” chỉ là hình thức bề ngồi của một vấn đề. Mà cần phải đặt câu hỏi “Trẻ học
như thế nào?” đó mới là điều cốt lõi của quá trình giáo dục trẻ.
Như chúng ta đã biết, phương pháp dạy học lấy trẻ làm trung tâm là phương
pháp phát huy được tối đa tính tích cực, khả năng tiếp thu và trí tưởng tượng của
trẻ. Vì vậy khi sử dụng phương pháp này trong quá trình dạy trẻ cơ chỉ nên gợi mở,
kích thích sự sáng tạo của trẻ, hướng dẫn trẻ để trẻ được chủ động tư duy từng chi
tiết các nhân vật qua các câu truyện, khơng sử dụng câu hỏi đóng mà sử dụng câu
hỏi mở.
Ví dụ: Thơ “u mẹ” Tơi đưa ra câu hỏi
+ Bài thơ nói về ai?
+ Trong bài thơ mẹ của bé đã vất vả như thế nào ?
+ Mẹ dậy sớm để làm gì?
+ Ai đã kề vào má của mẹ?
+ Em bé có u mẹ khơng?
+ Cịn các con thì sao? Yêu mẹ thì các con phải ntn?
Hay: Truyện “ Thỏ con không vâng lời”
+ Mẹ dặn Thỏ con như thế nào?
+ Thỏ con có nghe lời mẹ khơng?
+ Vì sao Thỏ con lại bị lạc đường?


+ Ai đã đưa Thỏ về nhà?
Từ những câu hỏi cơ đưa ra kích thích được sự tư duy của trẻ giúp trẻ nhớ
lại, khắc sâu hơn nội dung truyện một cách chính xác và sâu sắc.
2.3.4.Biện pháp 4: Luyện phát âm cho trẻ.
*Rèn luyện thính giác ngơn ngữ cho trẻ
Trẻ học nói được là nhờ vào sự vận động của thính giác( Trẻ bị điếc sẽ

khơng thể học nói được). Vì vậy việc rèn luyện thính giác ngơn ngữ cho trẻ là nội
dung hàng đầu trong quá trình dạy trẻ nói.
Rèn luyện thính giác ngơn ngữ là rèn luyện khả năng tri giác âm thanh ngôn
ngữ, giúp trẻ phân biệt được âm thanh nói chung.
Ví dụ: Âm thanh của từ “Hoa” khác âm thanh của từ “Lá”
Muốn trẻ rèn luyện khả năng tri giác âm thanh ngôn ngữ được tốt cần đặt
trẻ vào trong môi trường âm thanh( Bao gồm âm thanh nói chung và âm
thanh ngơn ngữ nói riêng). Trẻ càng thu nhận được tín hiệu ngơn ngữ bao nhiêu thì
sự phát triển lời nói càng nhanh chóng bấy nhiêu vì vậy chúng ta cần phải lặp đi
lặp lại nhiều lần giúp trẻ phát âm đúng.
Ví dụ: Khi dạy bài thơ “ Hoa nở ” khi trẻ đọc đến từ “xinh xinh” một số
trẻ sẽ phát âm sai, vì vậy cơ giáo cần chú ý kiên trì sửa sai cho trẻ bằng cách
(không lặp lại lỗi mắc sai của trẻ), không cáu gắt làm trẻ mất hứng thú mà cô sẽ
phát âm lại chậm, rõ và cho trẻ phát âm theo cô nhiều lần.
* Luyện cơ quan phát âm cho trẻ.
- Cơ quan phát âm đóng vai trị quan trọng trong q trình trẻ nói, nó điều
khiển bộ máy phát âm của trẻ. Quá trình giáo dục sẽ tác động đến bộ máy phát âm
của trẻ. Vì vậy chúng ta cần luyện cơ quan phát âm cho trẻ theo 2 nội dung sau:
Luyện vận động tự do nhằm giúp các bộ phận môi, răng, lưỡi chuyển động
nhịp nhàng, linh hoạt. Đối với trẻ Mầm non “ Trẻ học mà chơi, chơi mà học” vì
vậy giáo viên cần vận dụng khéo léo và kinh hoạt các phương pháp, biện pháp phù
hợp để lôi cuốn trẻ. Tôi đã suy nghĩ và lựa chon phương pháp sử dụng trò chơi để
luyện bộ máy phát âm cho trẻ.
Ví dụ: Cơ nói: Trời sắp tối rồi các con hãy “Gọi gà” để cho gà ăn nào! cô
hướng dẫn cho trẻ bặm 2 môi vào nhau thật chặt và phát âm(Bập..Bập...Bập) Như
thế tôi đã luyện tập cho trẻ biết điều khiển hoạt động của môi và hàm. Hoặc cho trẻ
làm đông tác “ Nhai kẹo cao su”, hay cho trẻ “Chậc lưỡi”…tôi đã luyện tập cho trẻ
biết điều khiển hàm theo 2 hướng…
*Luyện thở ngơn ngữ cho trẻ.
- Qua q trình quan sát và tiếp xúc với trẻ tôi nhận thấy đặc điểm của trẻ là

chưa biết điều khiển nhịp thở của mình khi nói cho phù hợp, có nhiều trẻ nói rất
nhanh vừa nói vừa thở. Hoặc ngược lại có những trẻ nói rất chậm ê..a..vừa


nói vừa thở. Vì vậy điều khiển sự thở là khơng thể thiếu được trong q trình rèn
luyện phát âm cho trẻ. Trò chơi được sử dụng rất nhiều, đa dạng phong phú trong
q trình giáo dục ngơn ngữ cho trẻ.
Ví dụ: Để luyện thở ngơn ngữ cho trẻ, trong khi cho trẻ tập thể dục tơi
có thể cho trẻ khởi động bằng các trò chơi như: Thổi nơ bay cao, xa; thổi chong
chóng; gà gáy…Thơng qua các trị chơi này giúp cho trẻ hít thở được đều đặn dần
dần trẻ sẽ biết cách lấy hơi khi nói.
*Luyện giọng.
- Giọng nói giúp trẻ thể hiện thái độ, tình cảm của mình trong từng lời nói
như: âu yếm, thủ thỉ, to, nhỏ…
Ví dụ: Khi cho trẻ đọc bài thơ: “Yêu mẹ”
- Giáo viên cần đọc mẫu bài thơ cho trẻ nghe 2-3 lần, cô đọc chậm và rõ thể
hiện sắc thái tình cảm của mình trong bài thơ, sau đó cho trẻ đọc theo cô. Trong khi
trẻ đọc cô sẽ giúp trẻ điều chỉnh giọng đọc để thể hiện tình cảm của mình đối với
mẹ.
2.3.5. Biện pháp 5. Sử dụng hệ thống câu hỏi phù hợp.
- Để phát triển tư duy sáng tạo của trẻ.Trong q trình trị chuyện, đàm thoại,
chúng ta nên sử dụng các loại câu hỏi khác nhau. Câu hỏi kích thích trẻ nhận biết
phân biệt sự vật hiện tượng, tình huống mà trẻ đang trực tiếp tri giác, gợi ý trẻ đến
hoạt động:
- Ở mỗi hoạt động học tơi đã bám sát vào mục đích u cầu về kiến thức, kĩ
năng cần đạt của hoạt động đó để tôi đưa ra một hệ thống câu hỏi phù hợp với nhận
thức của lứa tuổi . Câu hỏi ngắn gọn, rõ ràng, dễ hiểu, là những câu hỏi mở để phát
triển tư duy sáng tạo cho trẻ.
Ví dụ 1: Với tiết nhận biết phân biệt: “To - nhỏ” tôi đưa ra những câu hỏi khi
cho trẻ phân biệt quả cam to - quả táo nhỏ.

- Trong rổ có những quả gì?
- Quả cam có màu gì?
- Quả táo có màu gì?
- Quả nào to - quả nào nhỏ?
Sau đó tôi sẽ gọi nhiều trẻ trả lời để trẻ ôn lại màu sắc cũng như biết cách
phân biệt to - nhỏ, khắc sâu các biểu tượng về độ lớn cho trẻ đồng thời phát triển
ngôn ngữ, tăng thêm vốn từ cho trẻ. Sau mỗi lần trẻ trả lời tôi thường động viên
khen trẻ kịp thời.


Ảnh minh họa: Đang cho trẻ phát âm to nhỏ
Ví dụ 2: Với tiết kể chuyện: “Đôi bạn nhỏ”
Tôi đã sử dụng hệ thống câu hỏi để đàm thoại với trẻ hiểu nội dung câu
chuyện, nhớ tên chuyện.
- Cô kể câu chuyện gì?
- Trong câu chuyện có những ai?
- Ai đã đuổi bắt gà con?
- Gà con kêu như thế nào?
- Ai đã cứu gà con?
Thông qua các câu hỏi trẻ hiểu nội dung, tình tiết của câu chuyện, nhớ tên
chuyện, các nhân vật trong câu chuyện qua đó rèn thêm ngơn ngữ mạch lạc cho trẻ,
trẻ phát âm chính xác hơn các từ.
Ví dụ 3: Khi tơi cho trẻ “Xếp đường đi”, tôi đưa ra câu hỏi.
- Con đang xếp gì đấy?
- Con xếp các khối gỗ như thế nào?
Cô hỏi trẻ để trẻ nhớ lại cách xếp các khối gỗ sát cạnh nhau, khít nhau để tạo
thành đường đi thẳng không vấp ngã => tạo sự khéo léo cho trẻ => làm tăng thêm
vốn từ cho trẻ.
Ví dụ 4: Với tiết nhận biết tập nói: “Con cá vàng”
Tơi đưa ra hệ thống câu hỏi phù hợp với nhận thức của trẻ, ngắn gọn, rõ

ràng, bám sát vào các đặc điểm của con cá vàng.
- Đây là con gì?


- Cá nhìn bằng gì?
- Cá dùng mắt để làm gì?
- Các con có biết cá ăn bằng gì khơng?
- Đuôi cá vàng đâu?
- Vây đâu?
- Cá dùng vây và đi để làm gì?
Trẻ tri giác, tư duy để trả lời câu hỏi của cơ đưa ra, qua đó trẻ nắm được các
đặc điểm đặc trưng của con cá vàng => phát triển ngôn ngữ cho trẻ
Qua một thời gian áp dụng biện pháp sử dụng đa dạng các loại câu hỏi với
trẻ, tôi thấy vốn từ của trẻ tăng, trẻ nói rõ ràng, mạch lạc. Trẻ tiến triển về nhận
thức, ngơn ngữ và tình cảm.Trẻ giao tiếp dễ dàng hơn.
2.3.6. Biện pháp 6: Dạy trẻ nói qua vật thật, đồ chơi, tranh minh họa
Phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông quađồ chơi, vật thật, tranh minh họa là rất
cần thiết và bổ ích. Khi tổ chức cho trẻ hoạt động cơ cần phải xác định rõ mục đích
u cầu của đề tài, các hoạt động để áp dụng hình thức nào cho phù hợp với trẻ,
chuẩn bị đồ dùng đồ chơi cho tốt, đảm bảo an toàn vệ sinh, chính xác linh hoạt. Ở
lứa tuổi này trẻ thường hay trả lời trống khơng hoặc nói những câu khơng có nghĩa,
vì vậy tơi ln thường xun nhắc nhở trẻ và nói mẫu cho trẻ nghe, động viên
khuyến khích trẻ nhắc lại theo cô. Tôi tạo điều kiện đáp ứng nhu cầu của trẻ một
cách tỉ mỉ, chu đáo, ngắn ngọn dễ hiểu, chính xác để mọi hoạt động của trẻ trong
giờ hoạt động chung đạt hiệu quả nhất.
Trong khi dạy cháu, không nhất thiết cứ phải sử dụng tranh, vật thật hoặc
cho trẻ dạo chơi thăm quan mà tùy vào từng nội dung của đề tài để tôi chọn giáo cụ
trực quan cho phù hợp.
Ví dụ 1: Khi dạy bài “Quả cam” tôi đã suy nghĩ và nêu câu hỏi: Nên chọn
giáo cụ trực quan nào để cháu học có kết quả tôt hơn?

Nếu tôi sử dụng tranh minh họa thì trẻ sẽ khơng có cơ hội để sử dụng các
giác quan của mình, giờ học sẽ khơng sinh động, trẻ dẽ chán chóng qn. Vì vậy
tơi đã quyết định phải dạy bằng vật thật “ Quả cam thật” sau đó mới cho trẻ quan
sát tranh. Bởi vì khi trẻ được học bằng quả cam thật trẻ sẽ được sử dụng các giác
quan của mình như: Xúc giác, vị giác, thính giác…giờ học sinh động gây hứng thú
đối với trẻ, trẻ tiếp thu kiến thức một cách nhẹ nhàng và vững chắc hơn.


(Hình ảnh minh họa)
Thực tế qua quá trình tiếp xúc dạy các cháu, tôi nhận thấy trong một lớp
không phải cháu nào cũng nhận thức được như nhau, nếu tôi đặt những câu hỏi dễ
thì với những cháu nhận thức nhanh cháu đó sẽ khơng phát triển được trí thơng
minh, cịn nếu đặt câu hỏi khó thì với những cháu nhận thức chậm hơn sẽ khơng
tiếp thu được.
Ví dụ: Khi dạy bài “Quả táo, đu đủ” tôi sử dụng các câu hỏi sau:
Với những cháu có khả năng nhận thức bài dễ dàng tơi dùng câu hỏi: Quả gì
đây? Cái gì đây? ( Đồng thời chỉ vào vỏ, hạt)
Với những cháu có khả năng nhận thức nhanh, ngồi những câu hỏi đã dùng
cho các cháu trên, tôi đã sử dụng thêm các câu hỏi nhằm cho trẻ phân biệt được
mùi vị, hình dáng bên ngồi của các loại quả đó.
Ví dụ: Khi tôi hỏi: “ Quả táo và quả đu đủ” quả nào ăn ngọt, quả nào ăn vừa
chua vừa ngọt?
Khi nghe tôi hỏi như vậy, một số cháu sẽ trả lời ngay là “quả đu đủ ăn ngọt ,
còn quả táo ăn vừa chua vừa ngọt ạ!”Nhưng cũng có cháu chậm tiếp thu và nói
ngọng vì vậy trong q trình dạy tơi thường đặt câu hỏi để trẻ trả lời nhiều hơn.
Đặc biệt với những cháu nói ngọng hoặc phát âm chưa rõ, chưa đúng tơi ln kiên
trì tập nói cho các cháu, khơng cáu gắt làm trẻ mất hứng thú mà cơ sẽ nói mẫu
chậm, rõ chính xác và cho trẻ phát âm theo cô nhiều lần. Trong khi trẻ chơi, tôi
luôn quan tâm và chơi cùng trẻ, chú ý tới các cháu và tập nói cho các cháu nhiều
hơn.

Trong q trình dạy trẻ tập nói tơi cịn nhận thấy sự hiểu biết của trẻ còn rất
hạn chế vì thế khi giáo viên đặt câu hỏi mang tính tổng quát , nhiều khi trẻ sẽ


khơng trả lời được ý của câu cơ hỏi. Vì vậy ngay sau khi đặt câu hỏi tổng quát cho
trẻ suy nghĩ tôi lại gợi ý cho trẻ tiếp bằng những câu hỏi phụ để trẻ có thể trả lời
được dễ dàng câu hỏi của cơ.
Ví dụ: Khi dạy bài “ Hoa hồng, hoa cúc” khi cho trẻ so sánh 2 loại hoa này
nếu tôi hỏi: Hai loại hoa này giống nhau và khác nhau như thế nào? thì trẻ sẽ khó
trả lời nên tơi sẽ dùng những câu hỏi phụ để hỏi cháu: Hoa hồng và hoa cúc đều có
mùi gì? Hoa hồng màu gì? Hoa cúc màu gì? khi dùng các câu hỏi như thế này trẻ
sẽ so sánh và trả lời dễ dàng hơn.
Trẻ mầm non nói chung và trẻ nhà trẻ nói riêng, tư duy trực quan hành động
phát triển mạnh. Khi trẻ nhìn vào tranh trẻ làm quen được với các đồ vật, con vật
và trẻ nói được đồ vật con vật đó, tạo điều kiện để trẻ nói đúng và rõ hơn.
- Với chủ đề “Các con vật”
Ví dụ: Khi dạy bài “con gà trống”, tôi cho trẻ quan sát tranh và hỏi trẻ:
- Đây là con gì các con?
Trẻ trả lời: con gà trống
- Con gà trống có gì đây? (Có đầu, thân, chân )
- Gà trống gáy như thế nào?
Nếu tôi chọn tiết dạy con gà trống bằng vật thật “Con gà trống” thì sẽ khơng
giới thiệu được một cách tỉ mỉ những chi tiết của con vật được. Để các cháu tiếp
thu giờ học thoải mái và đạt kết quả cao, ngồi những phương pháp dạy cho thích
hợp với bài học, trong q trình dạy cháu tơi cịn phải tuỳ thuộc vào đối tượng
cháu để ra các loại câu hỏi cho phù hợp với nhận thức của trẻ. Để lôi cuốn sự chú ý
của trẻ vào tranh thì khi cho trẻ quan sát tranh minh hoạ, tranh minh hoạ phải rõ
nét, màu sắc và nét vẽ hình ảnh phù hợp với tư duy trực quan trừu tượng của trẻ.
Nên là một giáo viên tôi phải chọn lọc tranh cho phù hợp.



Ảnh minh họa
Khi cho trẻ quan sát các con vật ni trong gia đình, tơi cho trẻ quan sát mơ
hình, tranh, tôi hỏi trẻ:
- Tên con vật?
- Các đặc điểm của con vật? (màu sắc, mấy chân, tiếng kêu, môi
trường sống, ...)
Tơi cố gắng gọi nhiều cá nhân trẻ nói sau đó đến tập thể trẻ trả lời. Qua đó
trẻ phải tư duy, suy nghĩ trả lời các câu hỏi => rèn sự phát âm, cung cấp thêm
các vốn từ cho trẻ..
Ví dụ : Ở tiết nhận biết tập nói: “Con cá vàng” tôi đã cho trẻ được quan sát
bể cá vàng, trẻ được quan sát cá vàng bơi, đớp mồi, các hoạt động trong mơi
trường nước trẻ rất thích thú hăng say quan sát => qua đó trẻ biết được con cá
vàng gồm những gì, hoạt động như thế nào, sống ở đâu? => làm tăng thêm vốn
từ, phong phú thêm về tầm hiểu biết của trẻ về các lồi vật.
Ví dụ: Dạy tiết nhận biết các con vật sống trong rừng như con voi, con hổ
thì tranh vẽ phải rõ nét đúng màu sắc, bố cục tranh hợp lý để cơ chỉ vào trẻ có thể
trả lời được, cụ thể như:
- Đây là cái gì của con voi? (Con thưa cơ cái vịi ạ.)
- Cịn gì đây nữa các con? (Cái chân ạ.)


Ví dụ :Ở tiết kể chuyện, tơi đã sử dụng hệ thống tranh minh họa, sa bàn
minh họa nội dung câu chuyện, trẻ được quan sát, tri giác tranh theo lời kể của cô
làm cho trẻ thêm nhớ, khắc sâu nội dung của câu chuyện, nhớ các nhân vật trong
câu chuyện làm cho trẻ dễ thuộc chuyện hơn.
2.3.7. Biện pháp 7: Cho trẻ nhận biết tập nói ở một số hoạt động trong
ngày.
Muốn phát triển ngôn ngữ cho trẻ một cách có hiệu quả, tơi đã dạy trẻ ở các
hoạt động có chủ định như: Âm nhạc, kể truyện, đọc thơ và dạy trẻ ở mọi lúc mọi

nơi. Ngoài ra tơi cịn áp dụng lồng hoạt động học này để tích hợp cho hoạt động
học khác cho tiết học thêm sinh động kích thích sự hứng thú của trẻ.
*Phát triển ngơn ngữ thơng qua giờ đón trẻ.
Tơi đón trẻ với cử chỉ yêu thương và gần gũi và hỏi trẻ.
- Con đã chào cô và các bạn chưa?
- Con chào mẹ rồi vào lớp với cơ, chiều mẹ đến đón.
- Hôm nay ai đưa con đi học?
- Mẹ đưa con đi học bằng phương tiện gì?
- Sáng nay con được mẹ cho ăn gì?
- Trước khi đi học con chào ai ở nhà nữa nhỉ?
Sau khi đón trẻ xong tơi cho trẻ về các góc chơi mà trẻ thích , trẻ được chơi
tự do. Trẻ có thể quan sát các bức tranh xung quanh lớp theo chủ đề đang học và tự
mình khám phá. Trẻ có thể trị chuyện cùng cô và các bạn về bức tranh mà trẻ thấy.
(tôi chú ý quan sát để nắm được tâm tư nguyện vọng của trẻ sau đó nhằm thỏa mãn
nhu cầu tị mị ham học hỏi chủ trẻ). Từ đó trẻ sẽ được nói nhiều và ngơn ngữ cũng
sẽ phát triển theo hướng tích cực.
*Phát triển ngơn ngữ thơng qua hoạt động góc.
Thơng qua trị chơi, các biểu tượng mà trẻ thu nhận được trước đây được
chính xác hóa bằng ngơn ngữ. Qua trò chơi trẻ còn tập trung vận dụng các tri thức
đã thu nhận được. Trò chơi đã giúp trẻ nhớ ngơn ngữ. Đồng thời tạo ra các tình
huống để trẻ sử dụng vốn ngơn ngữ đã tích lũy được.
Ví dụ:- Thơng qua trị chơi “Khám bệnh” cơ là người gợi ý cho trẻ
+ Khi khám bệnh Bác sỹ phải đeo gì ? (ống nghe)
+ Thái độ của Bác sỹ đối với bệnh nhân phải như thế nào?
- Thông qua trị chơi “Người bán hàng, em tập làm cơ giáo...” , trò chơi
dân gian như: “Nu na nu nống”,” Tập tầm vơng”…trẻ được tự mình nói và đóng
vai các nhân vật.
*Phát triển ngôn ngữ thông qua dạo chơi tham quan.
Dạo chơi thăm quan cũng là một hình thức bổ sung và cung cấp cho trẻ mở
rộng thêm vốn từ mới, một số khái niệm mới cho trẻ.

Đối với trẻ 24-36 tháng, vốn từ của trẻ cịn rất ít, nhiều khi trẻ muốn nói ra
một sự việc nào đấy nhưng trẻ lại khơng biết dùng từ ngữ gì để diễn đạt, nên cháu


thường e..a hay đang nói giữa chừng lại khơng nói nữa vì khơng có từ để diễn đạt.
Vì vậy giáo viên cần bổ sung và làm giàu thêm vốn từ cho trẻ.
Ví dụ: Khi cho trẻ quan sát cây nhãn, tôi sử dụng các câu hỏi đàm thoại với
trẻ về tên gọi, đặc điểm, tác dụng của cây…để trẻ trả lời, cơ lắng nghe bổ sung và
tập nói cho trẻ. Ngồi ra tơi cịn khéo kéo linh hoạt lồng nghép tích hợp các chuyên
đề vào trong các hoạt động.
Ví dụ: Khi cho trẻ quan sát các loại cây ăn quả tơi hỏi trẻ: Con có biết vì sao
“ lá xanh lại ở trên cây, lá vàng lại rơi xống đất” khơng? tơi sẽ giải thích cho trẻ
hiểu vì lá vàng đã già rồi nên rụng xuống cho lá non mọc ra. Đồng thời tơi cịn giải
thích cho trẻ hiểu khi lá rụng xuống đất nếu không được con người quét dọn, nhiều
lá rơi xuống sẽ gây ô nhiễm môi trường bẩn sân trường sẽ không đẹp, cô sẽ hưỡng
dẫn tổ chức cho trẻ nhặt lá rụng bỏ vào thùng rác.
Hoặc khi đang chơi khi nghe tiếng sấm trẻ sẽ nói đó là tiếng pháo nổ, tơi sẽ
tranh thủ giải thích cho cháu hiểu đó là tiếng sấm báo hiệu trời chuẩn bị có mưa to
đấy các con ạ! Như vậy các cháu đã có thêm từ mới, khái niệm mới về sự vật, hiện
tượng trong tự nhiên…
Khi cho trẻ đi tham quan trẻ biết thêm một số các khái niệm về các Địa
danh.
Hoặc trong khi cháu chơi tôi đến gần quan sát trẻ chơi, gần gũi cháu để tập
trung nói cho cháu nghe khi cháu chơi với các đồ chơi ô tô, máy bay. Tôi lại gần
gợi ý để cháu ôn lại một số bộ phận của ô tô, máy bay mà các cháu đã học, thơng
qua đó để giúp cháu nắm vững hơn các vấn đề đã được học và đồng thời phát triển
ngôn ngữ cho trẻ được tốt hơn.
*Phát triển ngôn ngữ trước giờ ăn và giờ đi ngủ.
Ngồi các giờ hoạt động có chủ đích, giờ hoạt động chơi, giờ hoạt động lao
động… Trẻ cịn có giờ ăn, giờ ngủ . Ở những giờ này tôi đã dạy nói thêm cho trẻ .

Trong khi giúp trẻ tiến hành các công việc hàng ngày. Tôi lựa chọn những nội dung
thích hợp và nói tên các cơng việc đó cho trẻ biết.
Ví dụ: Ở giờ ăn trước khi trẻ ăn tôi hỏi trẻ tư thế ngồi, ăn uống như thế nào
là vệ sinh và cho trẻ đọc bài thơ “Giờ ăn”.
Đến giờ ăn cơm
Vào bàn bạn nhé
Nào thìa bát, đĩa
Xúc cho gọn gàng
Chớ có vội vàng Cơm rơi cơm vãi.
Ở giờ ngủ: Tôi cho trẻ đọc bài thơ “Giờ đi ngủ”
Giờ đi ngủ
Em lên giường
Nằm im lặng
Hai mắt nhắm


Ngủ cho ngoan.
*Phát triển ngôn ngữ thông qua hoạt động lao động.
Trẻ ở lứa tuổi mầm non chưa phải lao động để tạo ra cơ sở vật chất cho xã
hội, nhưng chúng ta phải giáo dục trẻ ý thức lao động, cho trẻ tham gia váo các
công việc lao động nhẹ nhàng, lao động tự phục vụ mình. Khi trẻ được tham gia
vào các hoạt động lao dộng , trẻ được tiếp xúc với thiên nhiên, với đồ dùng lao
động, đồ dùng sinh hoạt… Như vậy trẻ có điều kiện hình thành các biểu tượng
chưa có và khắc sâu các biểu tượng đã có. Từ đó trẻ sẽ biết sử dụng ngôn ngữ
trong các hoạt động lao động. Vốn ngôn ngữ của trẻ sẽ tăng lên.
Ví dụ: Trẻ biết nói: Đi dép, Đội mũ, Cởi áo.
*Dạy trẻ nói ở mọi lúc mọi nơi.
Hưởng ứng cuộc vận động “ Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích
cực” Trong lớp, tơi luôn xây dựng mối quan hệ giữa trẻ với cô giáo, từ đó tạo được
niềm tin ở trẻ, trẻ yêu q cơ, thích nghe cơ nói, mong muốn được đến lớp, từ đó

cơ giáo thực hiện cơng tác giảng dạy được tốt hơn.
Để giúp cháu nói được tốt hơn, tơi cịn dùng các hình thức trị chuyện với trẻ
trong tất cả các hoạt động, từ khi đón trẻ cho đến lúc trả trẻ. Cơ có thể trị chuyện
với trẻ như: Hơm nay ai đưa con đi học? Nhà con có những ai?... Qua đó cháu sẽ
biểu lộ được những suy nghĩ của mình bằng ngơn ngữ đơn giản nói được câu nhiều
từ hơn.
Xây dựng mối quan hệ giữa trẻ với trẻ, trẻ biết quan tâm đến nhau như khi 1
trẻ vắng khơng đi học thì trẻ khác sẽ hỏi ví dụ như: Bạn Hà đâu? Cô sẽ trả lời:
Hôm nay bạn Hà ốm không đi học được. Hay khi trẻ chơi, cô quan sát trẻ chơi và
dạy trẻ biết nhừơng nhịn đồ dùng, đồ chơi, không tranh đồ chơi của bạn..v.v.. hay
khi trẻ có những hành vi sai như đánh bạn, cơ sẽ giải thích cho trẻ hiểu đánh bạn là
sai, là không tốt con hãy xin lỗi bạn đi..v.v.. Như vậy trẻ sẽ có những hành vi,
những thái độ đúng từ đó trẻ sẽ nói được những từ ngữ biểu lộ những tình cảm tốt
đẹp trẻ biết nói lời hay làm việc tốt
Việc giáo dục ngôn ngữ cho trẻ ở lứa tuổi 24-36 tháng tuổi là một nhiệm vụ
cơ bản, thực hiện tốt được nhiệm vụ đó thì những người làm công tác giáo dục trẻ
ở mọi lứa tuổi mầm non phải biết tận dụng mọi hình thức dạy nói cho trẻ ở mọi
lúc, mọi nơi, trong mọi hoạt động.
2.3.8. Biện pháp 8: Xây dựng góc tuyên truyền và phối hợp vơí phụ
huynh trong cơng tác giáo dục trẻ phát triển ngôn ngữ.
“Lúc ở nhà Mẹ cũng là cô giáo
Khi đến Trường cơ giáo như Mẹ hiền”
Gia đình là nơi gần gũi và quan trọng nhất đối với trẻ. Trẻ em là một tờ giấy
trắng thì gia đình và nhà giáo dục là những cây bút màu vẽ lên những tác phẩm đầy
màu sắc cho trẻ, vì thế cơng tác giáo dục phối hợp giữa gia đình và Nhà trường là
một biện pháp quan trọng, góp phần nâng cao hoạt động phát triển ở trẻ đặc biệt là


lĩnh vực phát triển ngơn ngữ cho trẻ. Vì vậy song song với việc dạy trẻ ở mọi lúc
mọi nơi, tôi luôn chú trọng đến việc phối kết hợp chặt chẽ với gia đình để trao đổi

mọi hoạt động của trẻ cụ thể bằng các hình thức sau:
- Ở cửa lớp tơi xây dựng góc tun truyền “ Những điều phụ huynh cần biết”
để phụ huynh dễ quan sát. Tôi lên kế hoạch lịch dạy trẻ một tuần học để cha mẹ
cần biết được rằng hôm nay trẻ sẽ học gì? Ngày mai con mình sẽ được học gì? Như
vậy sẽ tiễn cho phụ huynh biết để dạy trẻ ở nhà. Và tơi thấy đây là biện pháp rất
hữu ích.
- Vận động phụ huynh hỗ trợ vật liệu mở: Thùng giấy, sách báo cũ, dụng cụ
hóa trang, vỏ chai, lon bia sạch…
- Trao đổi thêm với phụ huynh có cháu cá biệt: Nói ngọng, ít nói, để phụ
huynh phối kết hợp cùng tôi trong công tác giáo dục trẻ phát triển ngôn ngữ được
tốt hơn.


Ảnh minh họa: Trao đổi với phụ huynh


- Muốn dạy trẻ mầm non nói đúng ngữ pháp, đặc biệt là trẻ ở độ tuổi 24-36
tháng tuổi cô giáo phải tuyên truyền tới các bậc phụ huynh hiểu được tầm quan
trọng của việc nói đúng ngữ pháp và tác hại của việc nói lắp, nói ngọng. Ở độ tuổi
này trẻ hay bắt chước người lớn, nên người lớn khơng nói xun tạc theo ý thích
của mình khi giao tiếp với trẻ, khơng nên nói bậy, nói lóng, nói thiếu văn hố trước
mặt trẻ, khơng nói những lời khơng phù hợp với lứa tuổi ấu nhi làm trẻ khó hiểu,
đặc biệt câu nói phải rõ ràng mạch lạc, biểu cảm, các từ ngữ đầy đủ, cụm từ gần
gũi với trẻ để trẻ nghe rõ, hiểu nghĩa của từ.
Sau khi phối kết hợp với phụ huynh một thời gian tôi thấy vốn từ của trẻ
được phát triển khá rõ, đặc biệt là việc nói ngọng cũng giảm đi đáng kể, trẻ phát
âm chuẩn, nói rõ ràng trẻ hoạt động một cách sôi nổi tự tin, giao tiếp trước mọi
người không còn rụt rè e sợ. Thực hiện biện pháp này mang lại hiệu quả rất cao.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với
bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.

Qua thời gian áp dụng và thực hiện những biện pháp đến nay cô giáo đã thu
thập được một số hiệu quả như sau:
2.4.1.* Đối với trẻ.
- Có góc nghệ thuật, hoạt động với đồ vật phong phú và đa dạng, có nhiều
đồ dùng đồ chơi xanh, đỏ, vàng và các nguyên liệu thiên nhiên, các chất liệu phế
thải nhiều màu sắc để trẻ sử dụng rất lôi cuốn và thu hút hấp dẫn trẻ.
Những kết quả đạt được khi áp dụng biện pháp như sau:
Bảng 2: Kết quả khi áp dụng biện pháp của lớp tôi như sau:
Nội dung
đánh giá

Kết quả thực trạng
Đạt
Chưa đạt

Tổng
số trẻ
Số trẻ

Tỷ lệ %

Số trẻ

Tỷ lệ %

Khả năng nghe
23
21
91
2

9
hiểu
Khảnăng phát âm
23
20
87
3
13
đúng từ
Khả năng diễn đạt
23
20
87
3
13
ngôn ngữ giao tiếp
2.4.2.Đối với bản thân:
Trong qúa trình chăm sóc và giáo dục trẻ ở trường Tơi đã tìm được
cho mình những phương pháp và kinh nghiệm khá thành công trong việc nâng cao
chất lượng giáo dục phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua hoạt động nhận biết tập
nói đó là: “ Một số biện pháp nâng cao chất lượng cho trẻ nhà trẻ 24-36 tháng
tuổi phát triển ngôn ngữ thông qua hoạt động nhận biết tập nói ở trường Mầm
non Xuân Phúc ”,tại trường mầm non xuân phúc được các cấp lãnh đạo, Ban giám


hiệu nhà trường, đồng nghiệp và các bậc phụ huynh đánh giá rất cao về hiệu quả
khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm vào thực tế nhóm lớp mình phụ trách. Tơi đã sử
dụng các phương pháp đó là:
- Sử dụng phương pháp, biện pháp linh hoạt sáng tạo và kết hợp cho trẻ được hoạt
động nhiều với đồ vật nhất là các giờ học nhận biết tập nói, hay thông qua giờ hoạt

đọng vui chơi...
- Tạo môi trường phong phú phù hợp với nội dung của từng chủ điểm
- Có kỹ năng tổ chức hoạt động nhận biết tập nói để trẻ có đủ tự tin, có kĩ
năng giao tiếp linh hoạt, sáng tạo, trong mọi hoạt động.
- Lớp học được trang trí bằng các sản phẩm nhiều màu các loại đồ dùng trực
qua có màu sắc sặc sở hấp dẫn trẻ để không những giờ học đạt kết quả cao mà làm
cho trẻ hứng thú trong giờ chơi hoạt động ở các góc phù hợp đặc điểm lứa tuổi của
trẻ
Qua nghiên cứu đề tài tôi nhận thấy rằng trẻ phát âm đúng ngữ pháp, nói rõ
ràng mạch lạc hơn, hứng thú say mê trong học tập. Trẻ hoạt động khơng bị áp đặt,
gị bó, phát huy được khả năng, năng lực của bản thân, giúp trẻ trở nên năng động
hơn.
- Trẻ có khả năng nghe tiếng phổ thơng hiểu các câu hỏi hơn, khơng cịn ngơ
ngác.
- Trẻ mạnh dạn tự tin và hăng hái tham gia vào các hoạt động.
- Nhận biết của trẻ được mở rộng, ngôn ngữ phát triển đúng đắn, vốn từ của
trẻ phong phú. Trẻ nói được nhiều câu có nhiều từ, trẻ nói ngọng chiếm tỉ lệ thấp.
- Lớp học được trang trí bằng các sản phẩm nhiều màu sắc sặc sở do trẻ cùng cô tự
làm, rất phong phú và ngộ nghĩnh phù hợp đặc điểm lứa tuổi của trẻ
- Kích thích trẻ hứng thú hoạt động nhận biết màu ở mọi lúc mọi nơi
2.4.3.Đối với đồng nghiệp và nhà trường
Đối với đồng nghiệp sau khi dự giờ được đóng góp ý kiến Tôi thấy các cô
cũng đã tán thành với bài học của bản thân và từ đó học tập theo. Khơng chỉ áp
dụng đối với nhà trẻ mà cịn áp dụng với cả mẫu giáo bé, nhỡ,lớn, học sinh rất
hứng thú tham gia hoạt động thu hút lôi cuốn trẻ vào bài học một cách hứng thú, và
còn đạt kết quả cao.
3. Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận.
- Việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ lứa tuổi 24 - 36 tháng rất quan trọng nó
được thể hiện rõ ở các hoạt động trong ngày của trẻ ở trường mầm non, giúp trẻ

hồn thiện về nhân cách. Qua thời gian tìm tòi và thực hiện các biện pháp trên, kết
quả khảo sát đầu năm so với kết quả cuối năm học của trẻ được tăng lên rõ rệt.Từ


những kết quả trên tôi đã rút ra bài học kinh nghiệm khi dạy trẻ phát triển ngôn
ngữ.
- Cô giáo phải yêu nghề mến trẻ, tận tụy với công việc, ln tìm tịi
nghiên cứu các hình thức, biện pháp dạy trẻ phù hợp với khả năng nhận thức của
trẻ.
- Nắm được đặc điểm tâm sinh lý của từng trẻ
- Cô giáo cần nắm vững tiếng mẹ đẻ, ngôn ngữ của cơ phải mẫu mực chính
xác, khơng nói ngọng, nói lắp, khơng nói tiếng địa phương.
- Để có được một tiết dạy tốt giáo viên phải chuẩn bị đồ dùng trực quan đầy
đủ, bền đẹp, đảm bảo tính thẩm mỹ và khoa học thu hút trẻ vào tiết học đạt kết quả
cao.
- Là người giáo viên cần làm rõ tầm quan trọng của ngơn ngữ với việc hình
thành và phát triển nhân cách trẻ, không ngừng học tập để nâng cao trình độ
chun mơn, nghiệp vụ, tự rèn lun ngơn ngữ cho mình để phát âm chuẩn tiếng
phổ thơng. Xây dựng môi trường học tập phong phú thuận lợi, tạo cảm xúc để kích
thích trẻ đến với mơi trường học tập.
- Chú ý lắng nghe trẻ nói, giúp đỡ, khích lệ động viên, thu hút trẻ trò chuyện
với giáo viên, với các bạn và với những người khác .
- Phát hiện sớm những trẻ có khó khăn về ngơn ngữ, từ đó có biện pháp
thích hợp để giúp đỡ trẻ
Giáo viên cần phối kết hợp với phụ huynh về các biện pháp giúp trẻ phát
triển ngôn ngữ mà cô đã thử nghiệm đạt kết qủa trên lớp và tuyên truyền cho phụ
huynh về tầm quan trọng của việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
3.2. Kiến nghị.
- Đối với nhà trường: Đề nghị Ban giám hiệu nhà trường tham mưu với các
cấp, các ngành, tổ chức các nhóm trẻ nhỏ 28-24 tháng tuổi, nhằm đưa trẻ có một nê

nếp thói quen và tiếp cận, lắng nghe ngôn ngữ tiếng việt nhiều hơn.
- Đối với phòng giáo dục: Thường xuyên mở các lớp bồi dưỡng chuyên
môn, nghiệp vụ cho giáo viên tiếp thu học hỏi. Tổ chức các tiết học về chương
trình nhà trẻ.
Trên đây là một số kinh nghiệm của bản thân trong quá trình dạy học đối
với hoạt động phát triển ngơn ngữ cho trẻ 24-36 tháng tuổi. Vì điều kiện thời gian
có hạn nên sáng kiến kinh nghiệm của tơi khơng khỏi có những thiếu sót và hạn
chế, rất mong được sự góp ý của Hội đồng khoa học các cấp để tôi tiếp tục làm tốt
hơn nữa việc chăm sóc giáo dục trẻ 24 - 36 tháng tuổi cũng như các độ tuổi khác
trong trường Mầm non.
XÁC NHẬN CỦAXuân Phúc , ngày 02tháng 4 năm 2021
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ.
Tôi xin cam đoan đây là SKKN
Của mình viết, khơng sao chép
nội dung của người khác.


×