1
Lời nói đầu
Sau Đại hội đại biểu toằn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam,
chính sách khuyến khích phát triển Kinh tế t nhân đã đợc đời sống kinh tế khẳng
định. Chính sách đó đã trở thành một bộ phận quan trọng trong chính sách đổi
mới của đất nớc. Nhờ đó, trong những năm vừa qua khu vực kinh tế t nhân đã có
những bớc phát triển rất nhanh chóng, trở thành một bộ phận quan trọng trong
nền kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa ở nớc ta. Tuy nhiên, khu vực
này còn đang đứng trớc nhiều khó khăn, thách thức và còn nhiều hạn chế.
Sự phát triển của khu vực kinh tế t nhân trong thời gian qua cũng nh
những khó khăn mà khu vực đang này gặp phải luôn gắn liền với cơ chế chính
sách của Đảng và Nhà nớc, trong đó có chính sách Thuế. Với mục đích khuyến
khích kinh tế t nhân phát triển, chính sách Thuế trong thời gian qua đã có những
chuyển biến rõ rệt theo hớng không phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế,
tháo gỡ dần các khó khăn trong sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, bên cạnh những
kết quả đạt đợc, chính sách Thuế đối với khu vực kinh tế t nhân còn bộc lộ không
ít hạn chế. Vì vậy, cùng với sự phát triển khá mạnh mẽ của khu vực kinh tế t
nhân thì thực tiễn cũng đặt ra nhiều vấn đề cần phải giải quyết trong đó hoàn
thiện chính sách Thuế đang là vấn đề đợc đặt lên hàng đầu. Đề tài: "Một số ý
kiến nhằm hoàn thiện chính sách Thuế để hỗ trợ phát triển khu vực Kinh tế
t nhân ở Việt Nam" cũng hớng vào mục tiêu đó.
Đối tợng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tợng: Đối tợng nghiên cứu của đề tài là thực trạng của chính sách
Thuế đang đợc sử dụng với sự phát triển của khu vực kinh tế t nhân.
Phạm vi nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu các doanh nghiệp của t
nhân- bộ phận chủ yếu của kinh tế t nhân.
Ngoài lời nói đầu và kết luận, đề tài gồm ba phần chính:
2
Chơng I : Vai trò của chính sách Thuế đối với sự phát triển của khu vực
KTTN trong nền kinh tế thị trờng
Chơng II : Thực trạng tác động của chính sách Thuế đối với sự phát triển của
khu vực KTTN ở Việt Nam
Chơng III: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện chính sách Thuế để hỗ trợ phát
triển khu vực KTTN
Chơng I
3
vai trò của chính sách Thuế đối với sự phát
triển của khu vực kinh tế t nhân trong
nền kinh tế thị trờng
I. Khu vực kinh tế t nhân trong nền kinh tế thị trờng
1. Khái quát chung về khu vực KTTN
Theo thông lệ của thống kê quốc tế, ngời ta chia nền kinh tế của mỗi quốc
gia thành hai khu vực: khu vực Kinh tế Nhà nớc và khu vực Kinh tế t nhân.
Khu vực kinh tế Nhà nớc bao gồm toàn bộ các đơn vị, tổ chức trực tiếp sản
xuất kinh doanh, làm dịch vụ mà toàn bộ nguồn lực của các đơn vị thuộc sở hữu
Nhà nớc hoặc các doanh nghiệp mà Nhà nớc nắm cổ phần khống chế. Ngoài ra,
kinh tế Nhà nớc còn bao gồm các tài sản thuộc sở hữu Nhà nớc nh đất đai, tài
nguyên, ngân hàng, tài chính, dự trữ quốc gia,
Khu vực Kinh tế t nhân là khu vực còn lại, bao gồm toàn bộ các cá nhân và
các đơn vị sản xuất kinh doanh hoặc hoạt động dịch vụ dựa trên cơ sở sở hữu t
nhân về t liệu sản xuất. Nh vậy, nội dung về KTTN rất rộng cả về hình thức sở
hữu và ngành nghề mà các chủ thể đó tham gia vào sản xuất kinh doanh.
Xuất phát từ đặc thù của nền kinh tế nớc ta, trong quản lý và trong thống
kê khu vực KTTN lại đợc chia thành nhiều thành phần kinh tế khác nhau. Hiện
nay, tơng ứng với hệ thống tài khoản quốc gia (SNA), khu vực KTTN đợc chia ra
các thành phần kinh tế sau:
1. Thành phần kinh tế t nhân
2. Thành phần kinh tế cá thể
3. Thành phần kinh tế t bản t nhân
4. Thành phần kinh tế hỗn hợp
Khu vực KTTN ở nớc ta còn đợc gọi là khu vực kinh tế ngoài quốc doanh.
Các doanh nghiệp trong khu vực KTTN gọi là các doanh nghiệp của t nhân mà từ
đây xin gọi là doanh nghiệp t nhân.
4
2. Vai trò của khu vực KTTN trong nền kinh tế thị trờng
2.1 Khu vực KTTN là một bộ phận hữu cơ của nền kinh tế
Nhà nớc muốn điều tiết và quản lý nền kinh tế trên giác độ vĩ mô đòi hỏi
Chính phủ phải nắm đợc những lĩnh vực chính của nền kinh tế nh: Ngân hàng,
truyền thông, công nghiệp quốc phòng, Đối với những nớc phát triển theo cơ
chế kế hoạch hoá, khu vực kinh tế Nhà nớc đóng vai trò chủ đạo. Nó đợc hình
thành trên cơ sở quốc hữu hoá, quá trình cải tạo xã hội chủ nghĩa và sự đầu t của
Nhà nớc để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho CNXH. Đối với các nớc XHCN
nói chung, Việt Nam nói riêng, khu vực kinh tế nhà nớc có vai trò cực kỳ quan
trọng, nó đợc Nhà nớc tạo mọi điều kiện thuận lợi để phát triển.
Tuy nhiên, trong nền kinh tế thị trờng, do có tính năng động và hiệu quả,
khu vực KTTN lại đóng vai trò rất quan trọng. Nó giống nh cái "van điều chỉnh",
làm giảm thiểu những rủi ro và tăng tính linh hoạt cho nền kinh tế. Nếu không
có một khu vực KTTN đủ mạnh để làm tiền đề thì nền kinh tế thị trờng không thể
phát triển mạnh mẽ.
Mối quan hệ giữa khu vực KTTN và KTNN trong nền kinh tế thị trờng
hiện đại là quan hệ cạnh tranh giữa các lực lợng tham gia thị trờng và bình đẳng
trớc pháp luật nhằm giải quyết những vấn đề cơ bản cho nền kinh tế: sản xuất cái
gì, sản xuất nh thế nào và sản xuất cho ai. Hai khu vực này còn có sự hợp tác hỗ
trợ và thúc đẩy nhau cùng phát triển: Khu vực KTNN không thể hoạt động có
hiệu quả nếu biệt lập và đối lập với khu vực KTTN. Và ngợc lại, khu vực KTTN
cũng không thể phát huy hiệu quả nếu không đợc khu vực KTNN giúp đỡ và tạo
điều kiện để hoạt động.
Sự phát triển cân đối giữa hai khu vực này là nhân tố quan trọng để tăng
trởng kinh tế.
2.2 Khu vực KTTN đóng vai trò rất quan trọng trong việc tạo ra việc làm,
góp phần ổn định xã hội
Sự tồn tại và phát triển của khu vực KTTN là một phơng tiện hiệu quả để
giải quyết vấn đề thất nghiệp. Đó là do các doanh nghiệp t nhân thờng đợc dễ
5
dàng tạo lập với một lợng vốn không lớn, sử dụng lao động tại chỗ nên hầu nh
không phải giải quyết nơi ở cho ngời lao động, điều kiện đào tạo tay nghề của
ngời lao động thuận lợi hơn so với các khu vực kinh tế khác, chi phí đào tạo
không đáng kể.
2.3 Khu vực KTTN cung cấp một khối lợng lớn sản phẩm và dịch vụ, đa
dạng và phong phú về chủng loại, góp phần thúc đẩy tăng trởng kinh tế
Các DNTN với một số lợng đông đảo trong nền kinh tế đã tạo ra một sản l-
ợng, thu nhập đáng kể cho xã hội. Do đặc tính linh hoạt và mềm dẻo, doanh
nghiệp trong khu vực KTTN có khả năng đáp ứng những nhu cầu ngày càng đa
dạng, phong phú, độc đáo của ngời tiêu dùng. Sản phẩm của các doanh nghiệp
nhà nớc thờng mang tính chất công ích hoặc làm theo kế hoạch, chỉ đạo từ trên
xuống, những sản phẩm lớn, giá cao. Những sản phẩm nhỏ phục vụ tiêu dùng th-
ờng ít đợc sản xuất thờng phù hợp hơn với các doanh nghiệp t nhân.
2.4 Khu vực KTTN thu hút vốn đầu t trong dân c và sử dụng tối u các
nguồn lực tại địa phơng
Việc tạo lập DNTN không cần quá nhiều vốn, điều đó đã tạo cơ hội cho
đông đảo dân c có thể tham gia đầu t. Chính vì vậy, DNTN đợc coi là phơng tiện
có hiệu quả trong việc huy động, sử dụng các khoản tiền nhàn rỗi trong dân c và
biến nó thành các khoản vốn đầu t.
Với quy mô nhỏ và vừa, lại đợc trải đều trên hầu hết các vùng lãnh thổ nên
doanh nghiệp t nhân có khả năng tận dụng đợc các tiềm năng về nguyên vật liệu
có trữ lợng hạn chế, không đáp ứng đợc nhu cầu sản xuất quy mô lớn nhng lại
sẵn có ở địa phơng, sử dụng các sản phẩm phụ hoặc phế liệu, phế phẩm của các
doanh nghiệp lớn.
2.5 Khu vực KTTN góp phần quan trọng trong việc tạo lập sự phát triển cân
bằng và chuyển dịch cơ cấu theo vùng, lãnh thổ, đẩy mạnh CNH, HĐH
Thông thờng các DNNN tập trung ở những khu trung tâm, vùng đô thị, nơi
có cơ sở hạ tầng phát triển. Do đó mà có sự mất cân đối về trình độ phát triển
6
kinh tế, văn hoá xã hội giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng trong một
quốc gia.
Chính sự phát triển của kinh tế t nhân góp phần quan trọng tạo lập sự cân
đối giữa các vùng. Nó giúp cho vùng kém phát triển hơn có thể khai thác đợc
tiềm năng của vùng, của địa phơng để phát triển các ngành sản xuất và dịch vụ,
tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu theo vùng, lãnh thổ.
2.6 Khu vực KTTN góp phần tăng nguồn hàng xuất khẩu và tăng nguồn
thu cho ngân sách Nhà nớc
Ngày nay mối quan hệ giao lu kinh tế, văn hoá giữa các quốc gia phát triển
rộng rãi đã làm cho các sản phẩm truyền thống trở thành một nguồn xuất khẩu
quan trọng. Việc phát triển KTTN đã tạo ra khả năng thúc đẩy khai thác tiềm
năng của ngành nghề truyền thống ở các địa phơng mỗi nớc nh các ngành nghề
thủ công mỹ nghệ, du lịch, lễ hội,
Bên cạnh đó, sự tạo lập, phát triển các DNTN một cách dễ dàng sẽ làm gia
tăng số lợng doanh nghiệp và gia tăng khả năng cung ứng sản phẩm. Cùng với
điều đó sẽ làm tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nớc. Mặc dù số đóng góp của
một doanh nghiệp không lớn nhng với lực lợng đông đảo, DNTN cũng đóng góp
một phần đáng kể cho ngân sách nhà nớc.
Tóm lại, tuy KTTN ở mỗi nớc có đặc điểm và mức độ phát triển khác nhau
nhng đều là một bộ phận hữu cơ của nền kinh tế, đóng một vai trò quan trọng
trong việc phát triển kinh tế xã hội, duy trì các ngành nghề truyền thống, tăng
kim ngạch xuất khẩu, cho đất nớc. Chính vì vậy sự tồn tại và phát triển của kinh
tế t nhân là một tất yếu khách quan và cần thiết trong quá trình phát triển của mỗi
quốc gia.
II- Vai trò của chính sách thuế trong việc phát triển
khu vực kinh tế t nhân
Để phát triển kinh tế đòi hỏi chúng ta phải khai thác và sử dụng mọi tiềm
năng của đất nớc. Chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần là một
7
trong những nội dung quan trọng của sự nghiệp đổi mới nhằm giải phóng sức sản
xuất, khai thác mọi nguồn lực rộng rãi trong toàn xã hội bao gồm các nguồn lực
lao động, vốn, tài nguyên và đặc biệt là trí tuệ, kỹ năng kinh nghiệm của mọi ng-
ời dân cho việc phát triển kinh tế. Mặt khác, chính sách phát triển kinh tế nhiều
thành phần làm cho đại đa số dân chúng tham gia vào hoạt động kinh tế, tham
gia đầu t. Một trong những vấn đề quan trọng của việc phát triển kinh tế nhiều
thành phần là phải đa dạng hoá các hình thức đầu t, các loại hình doanh nghiệp
để mọi ngời có thể tham gia đầu t. Trong đó phát triển kinh tế t nhân là hình thức
thích hợp kích thích đầu t trực tiếp có hiệu quả để phát triển kinh tế.
Để phát triển khu vực KTTN Nhà nớc phải sử dụng hệ thống công cụ bao
gồm hệ thống công cụ hành chính, pháp luật, công cụ kinh tế, công cụ tài chính
trong đó chính sách Thuế là công cụ rất quan trọng và có hiệu lực của Nhà nớc.
1- Nội dung của chính sách Thuế:
Thuế đợc coi là một trong những công cụ sắc bén nhất của Nhà nớc do có
tính cỡng chế và pháp lý cao.
Chính sách thuế bao gồm các sắc thuế nh thuế GTGT, thuế thu nhập doanh
nghiệp(TNDN), thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB), thuế môn bài, thuế tài nguyên
Trong mỗi sắc thuế quy định cụ thể về: đối tợng nộp thuế, đối tợng chịu thuế, căn
cứ tính thuế, thuế suất, các trờng hợp miễn giảm
Bằng việc ban hành hệ thống luật thuế, Nhà nớc sẽ quy định đánh thuế
hoặc không đánh thuế, thuế suất cao hay thấp vào các mặt hàng, các ngành nghề,
đối với từng vùng, từng loại hình doanh nghiệp. Qua đó mà tác động khuyến
khích hoặc kìm hãm sự phát triển của một ngành nghề, một vùng hoặc một khu
vực kinh tế.
Các sắc thuế tác động trực tiếp lên các yếu tố đầu vào: lao động, vật t, tiền
vốn, hoạt động xuất nhập khẩu, tác động trực tiếp lên lợi nhuận và kết quả sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
8
2- Vai trò của chính sách thuế trong việc phát triển khu vực
KTTN
2.1 Thúc đẩy các tầng lớp dân c bỏ vốn đầu t trực tiếp tạo lập doanh nghiệp
mới
Bằng chính sách u đãi thuế, miễn giảm thuế đối với các doanh nghiệp mới
thành lập, Nhà nớc đã kích thích các tầng lớp dân c bỏ vốn ra thành lập các
doanh nghiệp mới. Nhà nớc có thể đánh thuế cao vào thu nhập từ hoạt động buôn
bán bất động sản để doanh nghiệp chuyển từ đầu t vào bất động sản, dự trữ ngoại
tệ, vàng sang đầu t vào sản xuất kinh doanh.
2.2 Góp phần thúc đẩy khả năng tự tích luỹ và mở rộng khả năng huy động
vốn từ bên ngoài, giúp DNTN tăng cờng năng lực tài chính để sản xuất kinh
doanh
Đối với các doanh nghiệp đang hoạt động, Nhà nớc cũng có các biện pháp
khuyến khích doanh nghiệp mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh thông qua
chính sách miễn giảm thuế, hoàn thuế thu nhập nếu doanh nghiệp sử dụng lợi
nhuận sau thuế để tái đầu t. Chẳng hạn, khi mức đánh thuế của Chính phủ tăng
lên, phần thu nhập còn lại của nhà đầu t sẽ giảm xuống, vì vậy các nhà đầu t sẽ bị
giảm bớt động lực kinh doanh. Ngợc lại, khi mức đánh thuế của Nhà nớc giảm
xuống sẽ có tác dụng khuyến khích tăng trởng đầu t và tái đầu t.
2.3 Hớng dẫn và điều tiết hoạt động của các DNTN ngành nghề và các khu
vực theo định hớng của Nhà nớc
Tăng trởng kinh tế là mục tiêu hàng đầu của mỗi nớc. Nhà nớc là ngời
hoạch định chiến lợc phát triển kinh tế-xã hội và trên cơ sở đó sử dụng các công
cụ quản lý vĩ mô để điều hành nền kinh tế vận động theo định hớng đã đề ra.
Nhà nớc có thể sử dụng chính sách u đãi, miễn giảm thuế, chính sách tín
dụng u đãi để hớng các DNTN phát triển ở những ngành nghề cần u tiên phát
triển, những vùng hải đảo, miền núi xa xôi hẻo lánh để khai thác tiềm năng tại
9
địa phơng, từng bớc xoá bỏ sự chênh lệch giữa nông thôn và thành thị, giữa đồng
bằng và miền núi.
2.4 Tăng khả năng hoạt động sản xuất kinh doanh và khả năng cạnh
tranh của các DNTN trên thị trờng trong nớc và quốc tế
Nhà nớc thực hiện hoàn thuế đầu vào cho các doanh nghiệp sản xuất hàng
xuất khẩu nh một hình thức tài trợ gián tiếp của Nhà nớc để hỗ trợ cho cho hoạt
động kinh doanh của các DNTN bên cạnh các hình thức nh trợ giá xuất khẩu, hỗ
trợ đào tạo cán bộ quản lý và công nhân kỹ thuật, hỗ trợ về công nghệ, xúc tiến
thơng mại nhằm giúp các DNTN nâng cao khả năng hoạt động kinh doanh và khả
năng cạnh tranh trên thị trờng.
3. Các chỉ tiêu phản ánh sự tác động của chính sách Thuế đến
sự phát triển của khu vực KTTN
Để cụ thể hoá sự tác động của các chính sách Thuế lên sự phát triển của
khu vực KTTN, ta có thể dựa vào các chỉ tiêu nh sau:
3.1 Nhóm chỉ tiêu định lợng:
(1) Nhóm chỉ tiêu nguồn lực:
+ Tổng số doanh nghiệp tăng lên
Chỉ tiêu này đợc xác định bằng cách so sánh số lợng doanh nghiệp qua các
năm tính bằng số tuyệt đối. Nó chính là số chênh lệch giữa số lợng doanh nghiệp
ngừng hoạt động do nhiều lý do khác nhau nh phá sản, giải thể và số lợng doanh
nghiệp mới đợc thành lập do sự tác động của nhiều yếu tố trong đó có sự tác
động tích cực của các chính sách Thuế
+ Tổng vốn đầu t của khu vực KTTN tăng lên:
Nhờ chính sách Thuế khuyến khích đầu t mà tổng vốn đầu t vào khu vực
KTTN ngày càng tăng. Chỉ tiêu này đợc xác định bằng cách tính tổng lợng vốn
đầu t của xã hội vào khu vực KTTN qua các năm. Vốn đầu t có thể tính bằng
10
đồng Việt Nam hoặc bằng USD. Ngoài ra ngời ta còn có thể so sánh tỷ trọng vốn
đầu t trong khu vực t nhân với tổng vốn đầu t của toàn xã hội qua các năm.
(2) Nhóm chỉ tiêu phản ánh kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh:
+ Tổng giá trị sản xuất:
Chỉ tiêu này đợc tính bằng tổng giá trị quy ra tiền của khối lợng hàng hoá
dịch vụ mà khu vực KTTN cung cấp cho xã hội. Do chính sách Thuế tích cực sẽ
thúc đẩy mạnh mẽ hoạt động sản xuất kinh doanh của các DNTN, nhờ đó mà
tổng giá trị sản xuất của tăng lên qua các năm, ngợc lại, nếu các chính sách Thuế
tồn tại những bất cập sẽ kìm hãm khu vực KTTN phát huy hết khả năng của
mình.
+ Tổng giá trị xuất khẩu:
Chỉ tiêu này đợc tính bằng tổng kim ngạch xuất khẩu hàng năm của khu
vực KTTN, quy ra đồng Việt Nam hoặc USD.
+ Tổng giá trị đóng góp vào GDP:
Chỉ tiêu này phản ánh mức đóng góp của khu vực KTTN cho nền kinh tế
quốc dân hàng năm.
(3) Nhóm chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sản xuất kinh doanh:
Chỉ tiêu này dựa trên kết quả tổng kết hoạt động kinh doanh của các doanh
nghiệp trong năm. Nó đo bằng tỷ lệ doanh nghiệp làm ăn có lãi trong khu vực
KTTN, trên cơ sở so sánh với tỷ lệ doanh nghiệp làm ăn có lãi trong khu vực
KTNN.
3.2. Nhóm các chỉ tiêu định tính:
(1) Nhóm chỉ tiêu hoạt động thị trờng:
+ Khả năng cung cấp hàng hoá cho thị trờng
+ Khả năng cạnh tranh
+ Khả năng liên doanh liên kết theo lĩnh vực hoạt động.
11
(2) Nhóm chỉ tiêu phản ánh mức độ đa dạng về ngành nghề và địa điểm
phân bổ:
+ Mức độ đa dạng về ngành nghề
+ Mức độ đa dạng về địa điểm phân bổ
Chơng II
Thực trạng tác động của chính sách thuế đối
với sự phát triển kinh tế t nhân ở Việt Nam
12
I. Tình hình phát triển của khu vực KTTN ở Việt Nam
1. Tình hình phát triển của khu vực KTTN
Trớc năm 1986, theo mô hình kinh tế xã hội chủ nghĩa truyền thống, cơ
cấu các thành phần kinh tế nớc ta trong thời kỳ này chuyển dịch theo hớng thiên
vị cho khu vực KTNN. Điều đó chẳng những hạn chế sự đóng góp của khu vực
KTTN mà còn làm tăng thêm tình trạng đối nghịch với hoạt động quản lý của
Nhà nớc-phát triển kinh tế ngầm nằm ngoài sự kiểm kê kiểm soát của chính
quyền.
Từ năm 1986 đến nay, Đại hội VI của Đảng (1986) đã chỉ ra những sai lầm
về kinh tế trong đó có vấn đề về cơ cấu các thành phần kinh tế. Để khắc phục
những sai lầm đó, Đại hội đã xác định nền kinh tế nớc ta là nền kinh tế nhiều
thành phần. Từ đó khu vực KTTN đợc bớc sang thời kỳ mới- đợc khôi phục và
khuyến khích phát triển. Thực trạng KTTN ở nớc ta có thể đợc khái quát qua một
số khía cạnh sau:
Số lợng doanh nghiệp
Nếu nh vào năm 1991, cả nớc mới có 414 doanh nghiệp của t nhân thì đến
hết năm 1995 đã có 15.276 doanh nghiệp, năm 1999 có 30.500 doanh nghiệp,
tăng gấp 74 lần so với năm 1991. Tính bình quân giai đoạn 1991-1999, mỗi năm
tăng 3.388 doanh nghiệp. Tính đến cuối năm 2002, tổng cộng có khoảng 86.207
doanh nghiệp t nhân đăng ký kinh doanh.
Tuy nhiên, tỷ lệ số doanh nghiệp bình quân trên dân số mới có 1/1000
ngời, còn thấp so với nhiều nớc trong khu vực và trên thế giới, chẳng hạn vào
năm 1999 tỷ lệ của Mỹ là 1/20, của Nhật và Hàn Quốc là 1/40, của Đài Loan là
49/1000 và tỷ lệ hiện nay ở nớc ta chỉ tơng đơng với tỷ lệ này ở Thái Lan vào
năm 1991.
Biểu1: Số lợng DNTN trong nền kinh tế
13
Nguồn: VietnamNet 17/5/2003
Quy mô doanh nghiệp t nhân
Doanh nghiệp trong khu vực kinh tế t nhân hầu hết có quy mô nhỏ, một
số có quy mô vừa, số có quy mô lớn rất ít (Theo Nghị định số 90/2001NĐ-CP
ngày 23/11/2001 của Chính phủ thì định nghĩa doanh nghiệp nhỏ và vừa là cơ sở
sản xuất kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ
đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 ngời). Trong các
doanh nghiệp phi nông nghiệp số doanh nghiệp có dới 300 lao động chiếm
97,71%, số doanh nghiệp có vốn thực tế sử dụng nhỏ hơn 10 tỷ đồng chiếm
94,93% bình quân vốn thực tế sử dụng của doanh nghiệp là 3,7 tỷ đồng. Trong
các doanh nghiệp thuộc ngành nông nghiệp, các con số thống kê hiện có cũng
cho thấy quy mô còn nhỏ hơn: số lao động trung bình là 12,7 ngời, số vốn đăng
ký là 248 triệu đồng.
Cơ cấu của các DNTN
Cơ cấu các loại hình doanh nghiệp
Trong tổng số doanh nghiệp thuộc khu vực KTTN, doanh nghiệp t nhân
chiếm 58,76%, công ty TNHH chiếm 36,68% và công ty cổ phần chỉ chiếm hơn
2% chứng tỏ mô hình công ty cổ phần cha thích hợp với thói quen và tâm lý của
ngời Việt Nam, đồng thời môi trờng pháp lý không thuận lợi để phát triển công
-
10,000
20,000
30,000
40,000
50,000
60,000
70,000
80,000
90,000
1992
1994
1996
1998
2000
2002
Số doanh nghiệp
-
10,000
20,000
30,000
40,000
50,000
60,000
70,000
80,000
90,000
1992
1994
1996
1998
2000
2002
Số doanh nghiệp
14
ty cổ phần. Đây cũng là một nguyên nhân hạn chế quy mô và khả năng tăng vốn
của doanh nghiệp thuộc khu vực KTTN. Hơn nữa tiến trình cổ phần hoá DNNN
diễn ra chậm chạp, tính đến tháng 10/2002 mới có 997 doanh nghiệp chuyển đổi
sở hữu càng làm cho cơ cấu loại hình trong kinh tế t nhân khó thay đổi.
Cơ cấu ngành nghề
Theo số liệu điều tra thì có tới 51,9% DNTN tập trung trong lĩnh vực kinh
doanh thơng mại, dịch vụ sửa chữa và nhà hàng, khách sạn, du lịch; 20,8%
DNTN hoạt động trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp; số lợng DNTN hoạt động
trong lĩnh vực nông nghiệp nhỏ lẻ, không đáng kể, chỉ khoảng 12%.
Nguyên nhân các DNTN tập trung nhiều trong lĩnh vực thơng mại là do
lĩnh vực này thích hợp với quy mô nhỏ, không hoặc ít có nhu cầu tăng vốn;
không cần đầu t vào công nghệ vừa đòi hỏi vốn lớn, vừa gặp phải rủi ro cao;
nhanh chóng thu hồi vốn; năng động, dễ rút khỏi thị trờng; hứa hẹn khả năng
sinh lợi cao và phù hợp với tâm lý kinh doanh của ngời Việt Nam.
Trong lĩnh vực sản xuất, các DNTN còn chiếm tỷ trọng thấp. Đây là lĩnh
vực cần nhiều vốn, công nghệ hiện đại, trình độ quản lý tiên tiến. Tuy nhiên, các
DNTN cũng đã đạt đợc những kết quả nhất định. Hàng năm, tốc độ tăng trởng
giá trị sản xuất của khu vực KTTN vào khoảng 10-14%.
Trong lĩnh vực nông nghiệp, chỉ có một số lợng không lớn các DNTN
hoạt động vì không có điều kiện thuận lợi về cơ sở hạ tầng, địa lý, giao dịch, trao
đổi. Mặt khác hoạt động của các doanh nghiệp lại phụ thuộc quá nhiều vào thời
vụ. Các lĩnh vực khác nh xây dựng, ngân hàng đòi hỏi vốn khá lớn và mức độ rủi
ro cao
Nh vậy, xét về cơ cấu ngành nghề của khu vực KTTN là có sự mất cân
đối.
Cơ cấu theo lãnh thổ
- Theo vùng:
Các DNTN ở nớc ta phân bố không đều, đa số tập trung ở đồng bằng và
đô thị, nơi có cơ sở hạ tầng phát triển và thị trờng tiêu thụ rộng lớn, hội tụ đầy đủ
15
những yếu tố thuận lợi cho quá trình hoạt động sản xuất và giao dịch kinh doanh.
Do đó số lợng doanh nghiệp ở miền núi chỉ chiếm 4,8% tổng số DNTN. Điều này
gây mất cân đối trong phát triển cơ cấu kinh tế vùng, tạo khoảng cách giữa nông
thôn và thành thị, giữa miền ngợc và miền xuôi về trình độ văn hoá và đời sống
nhân dân.
- Theo miền:
Biểu 2: Tỷ lệ phân bổ các doanh nghiệp theo miền
Nguồn: Tài liệu hội thảo " Khung pháp lý cho việc phát triển
khu vực KTTN"
Biểu đồ cũng cho thấy sự mất cân đối trong phân bố của các DNTN theo
miền, các DNTN chủ yếu tập trung vào vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Điều
đó có ảnh hởng không tốt đến sự phát triển chung của cả nớc. Vấn đề này không
chỉ thể hiện nguồn lực của đất nớc phân bổ không đều mà còn do tập tính và nhu
cầu phát triển sản xuất kinh doanh của ngời dân ở địa phơng đó. Tại các vùng tập
trung nhiều doanh nghiệp sẽ có tốc độ tăng trởng kinh tế cao, đơng nhiên đời
sống văn hoá, tinh thần, vật chất của ngời dân sẽ nâng cao.
Qua việc khái quát tình hình chung, có thể thấy khu vực kinh tế t nhân ở
nớc tìm đợc vị trí xứng đáng trong nền kinh tế quốc dân nh chúng ta mong
muốn. Nguyên nhân căn bản là các DNTN ở nớc ta đang còn gặp rất nhiều khó
Trung
9%
Nam
73%
Bắc
18%
Bắc
Trung
nam
16
khăn trong việc thành lập và triển khai hoạt động. Trong một nền kinh tế có xuất
phát điểm thấp, ngoài những khó khăn chung nh của các doanh nghiệp thuộc khu
vực kinh tế Nhà nớc, khu vực KTTN còn có những khó khăn riêng khi hoạt động
trong cơ chế thị trờng.
2- Những khó khăn chủ yếu của khu vực KTTN ở nớc ta:
2.1 Thiếu vốn cho sản xuất kinh doanh
Mặc dù số lợng DNTN rất lớn nhng tổng số vốn cho sản xuất kinh doanh
trong tổng vốn đầu t của toàn xã hội không tơng xứng với số lợng doanh nghiệp.
Bình quân số vốn của một doanh nghiệp đăng ký kinh doanh theo Luật doanh
nghiệp năm 2000 chỉ có 900 triệu đồng, năm 2001 khả quan hơn cũng chỉ đạt 1,2
tỷ đồng, tính bình quân chung là khoảng 250 triệu đồng/doanh nghiệp. So với các
nớc trong khu vực thì con số này là tơng đối thấp.
Các chủ DNTN thờng bắt đầu công việc kinh doanh và mở rộng quy mô
hoạt động bằng nguồn vốn tự có và các nguồn tín dụng phi chính thức. Nguồn
vốn này thờng đòi hỏi ngời đi vay phải trả chi phí cao quá mức, thờng thì lãi suất
cao gấp 3-6 lần lãi suất ngân hàng.
Nếu có thể tiếp cận với nguồn vốn tín dụng thì đa số chỉ là tín dụng ngắn
hạn trong khi nhu cầu vốn trung và dài hạn là rất lớn. Các doanh nghiệp cần vốn
trung và dài hạn để mua sắm máy móc, thiết bị mới và nâng cấp nhà xởng nhng
điều này rất khó và gần nh không thể thực hiện đợc khi mà vốn ngắn hạn chiếm
tới 80% tổng số vốn vay đợc các ngân hàng thơng mại duyệt. Chỉ có 18% các
DNTN quy mô lớn đợc vay vốn trung và dài hạn, còn doanh nghiệp quy mô nhỏ
thì không đáng kể.
Thêm vào đó, thị trờng tài chính phi ngân hàng nớc ta cha phát triển đồng
bộ, đầy đủ đã hạn chế các doanh nghiệp nói chung và các DNTN nói riêng. Việc
thiếu một thị trờng chứng khoán theo đúng nghĩa của nó cũng là một nguyên
nhân giải thích cho việc thiếu vốn của các doanh nghiệp.
17
Đồng thời cũng phải thừa nhận một thực tế là các DNTN mới ở giai đoạn
đầu của sự phát triển nên năng lực tài chính, thấp khả năng tích luỹ vốn còn hạn
chế, đây là nguyên nhân nội tại của chính các doanh nghiệp.
Tóm lại, điều kiện về vốn của khu vực KTTN Việt Nam hiện nay đang rất
hạn hẹp và việc huy động vốn gặp nhiều khó khăn. Quy mô vốn tự có rất nhỏ,
không đủ sức tài trợ cho các hoạt động sản xuất kinh doanh có chất lợng và hiệu
quả cao, đặc biệt đối với những doanh nghiệp muốn mở rộng và phát triển quy
mô hoạt động và đổi mới nâng cao chất lợng thiết bị công nghệ. Hạn chế này dẫn
đến hàng loạt các khó khăn khác cho khu vực KTTN.
2.2 Trình độ công nghệ, kỹ thuật
Các DNTN có quy mô vừa và nhỏ hạn chế trong trang bị kỹ thuật. Công
nghệ sản xuất của loại doanh nghiệp này hầu hết ở trình độ thấp và trung bình.
Nhiều doanh nghiệp và hộ kinh doanh cá thể sử dụng kỹ thuật lạc hậu, chắp vá,
lao động thủ công là chủ yếu. Nhiều cơ sở mua lại máy móc thiết bị cũ do các
DNNN thải ra. Điều kiện vốn và trình độ không cho phép các DNTN tự tài trợ để
đổi mới mạnh mẽ và áp dụng những trang thiết bị hiện đại, tiên tiến trong khi các
DNNN lại nhận đợc những khoản đầu t lớn từ Ngân sách Nhà nớc.
2.3 Trình độ quản lý doanh nghiệp và tay nghề ngời lao động
Hiện nay các DNTN thiếu vắng những nhà quản lý có trình độ cao, cha
hội đủ năng lực để chỉ đạo sản xuất kinh doanh theo chiến lợc mong muốn,
không đủ sức "chèo lái" để doanh nghiệp hoạt động và phát triển khi gặp khó
khăn lớn trong sản xuất kinh doanh nh: biến động thị trờng, giá cả, tỷ giá, lãi
suất, xuất nhập khẩu và các mối quan hệ khác. Tỷ lệ các nhà quản lý đợc qua các
lớp đào tạo và bồi dỡng về quản lý kinh doanh và quản trị doanh nghiệp rất thấp.
Thêm vào đó, lực lợng công nhân kỹ thuật và lao động lành nghề đợc đào tạo còn
quá ít, hạn chế về trình độ, lại luôn biến động. Số lao động giản đơn, cha qua đào
tạo chiếm từ 60-70% (điều tra của Bộ Lao động- thơng binh- xã hội). Vì thế nên
việc quản lý và sử dụng lao động ở các DNTN gặp nhiều khó khăn, cộng với đội
ngũ quản lý thiếu những kỹ năng cần thiết dẫn đến hiệu quả hoạt động của các
DNTN không cao, năng suất lao động thấp, thu nhập không ổn định.
18
2.4 Thiếu mặt bằng sản xuất, kinh doanh ổn định, lâu dài
So với các nớc trong khu vực thì DNTN nớc ta bị hạn chế hơn về vấn đề
quyền sử dụng đất. Mặt bằng sản xuất kinh doanh của khu vực KTTN rất hạn
hẹp, chủ yếu là đất của gia đình hay thuê lại của DNNN. Mãi đến gần đây mới có
một số doanh nghiệp thuộc khu vực KTTN đợc trực tiếp thuê đất từ cơ quan
chính quyền địa phơng. Khoảng gần 40% cơ sở kinh doanh có diện tích mặt bằng
dới 100 m
2
, gần 53% có diện tích mặt bằng dới 200 m
2
.
Các DNTN khó có đợc giấy chứng nhận về quyền sử dụng đất dài hạn,
đặc biệt là ở thành thị- nơi mà đất cho sản xuất kinh doanh chủ yếu đợc cấp cho
các DNNN. Chính điều này gây cản trở không nhỏ cho các DNTN thế chấp
quyền sử dụng đất để vay vốn ngân hàng và khả năng liên kết, liên doanh với các
nhà đầu t nớc ngoài. Việc thiếu tính đảm bảo về quyền sử dụng đất lâu dài cũng
tạo tâm lý không ổn định cho doanh nghiệp để mở rộng sản xuất kinh doanh về lâu
dài.
Mặt khác, các điều kiện về cơ sở hạ tầng tối thiểu cung không đầy đủ,
nhất là điện nớc, hệ thống giao thông Do đó các doanh nghiệp tập trung chủ
yếu ở các khu đô thị, đồng bằng- nơi có điều kiện thuận lợi hơn cho sản xuất
kinh doanh.
Ngoài ra các DNTN còn gặp nhiều khó khăn khác nh công tác thanh tra
kiểm tra phức tạp, quan hệ kinh tế giữa các doanh nghiệp dễ bị hình sự hoá, hạn
chế trong việc tiếp cận với hạn ngạch xuất nhập khẩu, Nh vậy, sự tồn tại và phát
triển của khu vực KTTN là xu thế tất yếu khách quan trong nền kinh tế thị trờng.
Sau những nỗ lực không ngừng của Đảng và Nhà nớc, các DNTN đã đợc quan
tâm hơn và đã đạt đợc những thành tựu nhất định góp phần thúc đẩy tăng trởng
kinh tế, tạo thêm việc làm, cải thiện đời sống nhân dân. Mặt khác trong quá trình
phát triển, các DNTN vẫn gặp nhiều khó khăn vớng mắc cần sớm đợc giải quyết.
Khó khăn của các DNTN do nhiều yếu tố cả khách quan và chủ quan gây ra.
Trong nền kinh tế thị trờng có sự định hớng của Nhà nớc, chính sách của Nhà n-
ớc có vai trò cực kỳ quan trọng, có thể tạo điều kiện thuận lợi nhng cũng có thể
19
tạo thêm khó khăn cho các DNTN, đặc biệt là các chính sách tài chính, trong đó
có chính sách Thuế. Sau đây chúng ta sẽ xem xét tác động của chính sách Thuế
hiện hành ở nớc ta đến sự phát triển của khu vực kinh tế này.
II. Thực trạng tác động của chính sách thuế đến sự
phát triển của khu vực KTTN:
1- Vài nét về chính sách Thuế chủ yếu đợc sử dụng trong thời gian
qua
Sau khi hoà bình lập lại ở miền Bắc (1954) và giải phóng miền Nam
thống nhất đất nớc(1975), Nhà nớc ta thực hiện công cuộc cải tạo XHCN, xây
dựng nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung với hai hình thức sở hữu là sở hữu toàn
dân (kinh tế quốc doanh) và sở hữu tập thể (kinh tế hợp tác). Trong bối cảnh đó
thuế đợc sử dụng nh một công cụ quản lý vừa nhằm mục tiêu tập trung nguồn thu
cho ngân sách, vừa góp phần thực hiện công cuộc cải tạo XHCN. Hệ thống thuế
mang nặng tính bao cấp đối với thành phần kinh tế quốc doanh và tập thể, cải tạo
đi đến xoá bỏ các thành phần kinh tế khác.
Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đợc áp dụng các loại thuế sau:
- Thuế môn bài
- Thuế doanh thu
- Thuế hàng hoá
- Thuế lợi tức doanh nghiệp
- Thuế buôn chuyến
- Thuế sát sinh
Ngoài ra còn phải nộp lệ phí trớc bạ, lệ phí chứng th.
* Cải cách thuế b ớc 1:
Từ đại hội Đảng Cộng sản toàn quốc lần thứ VI, khi đờng lối xây dựng và
phát triển nền kinh tế nhiều thành phần đợc khẳng định thì quy luật khách quan
20
của nền kinh tế nhiều thành phần đòi hỏi phải có những đổi mới toàn diện trong
hệ thống chính sách và bộ máy quản lý thu thuế.
Cùng với việc đổi mới các chính sách tài chính, nớc ta đã thực hiện cải
cách thuế lần thứ nhất (cải cách thuế bớc 1) trong 5 năm 1991-1995
Trong cải cách thuế lần thứ nhất, hệ thống thuế Việt Nam lần đầu tiên đ-
ợc áp dụng thống nhất cho mọi loại hình doanh nghiệp, mọi thành phần kinh tế,
bao gồm các Luật, Pháp lệnh thuế sau:
- Luật thuế doanh thu
- Luật thuế tiêu thụ đặc biệt
- Luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu
- Luật thuế lợi tức
- Luật thuế sử dụng đất nông nghiệp
- Luật thuế chuyển quyền sử dụng đất
- Pháp lệnh thuế tài nguyên
- Pháp lệnh thuế nhà đất
- Pháp lệnh thuế thu nhập đối với ngời có thu nhập cao
Ngoài ra còn một số loại thuế mang tính chất lệ phí nh: thuế môn bài,
thuế sát sinh trớc đây áp dụng với khu vực công thơng nghiệp ngoài quốc doanh
nay áp dụng đối với mọi đối tợng không phân biệt. Một số loại phí, lệ phí nh lệ
phí trớc bạ, chứng th, lệ phí giao thông và một số loại phí khác cũng đợc ban
hành mới, sửa đổi, bổ sung.
Sau 5 năm thực hiện cải cách thuế lần thứ nhất, chúng ta đã đạt đợc
những thành tựu rất đáng khích lệ về nhiều mặt. Song cải cách thuế lần thứ nhất
vẫn còn nhiều nhợc điểm ảnh hởng tới sự phát triển của khu vực KTTN
Một là, chính sách thuế còn phức tạp trong việc xác định đối tợng chịu
thuế, đối tợng không chịu thuế, đối tợng nộp thuế và đối tợng không phải nộp
thuế, nhiều trờg hợp miễn giảm thuế. Đó là do hệ thống thuế đợc xây dựng vừa
chứa đựng mục tiêu thu ngân sách, vừa có mục tiêu góp phần tham gia thực hiện
21
các chính sách xã hội. Vì vậy các DNTN thờng bị thua thiệt hơn so với các
DNNN.
Hai là, thuế doanh thu, thuế lợi tức còn chứa đựng sự phân biệt khá lớn về
các ngành nghề và hoạt động kinh doanh: thơng mại dịch vụ phải chịu thuế suất
cao hơn hoạt động sản xuất. Khu vực KTTN quá nhỏ bé, mới đợc thừa nhận nên
giai đoạn này chủ yếu kinh doanh tổng hợp hoặc đầu t vào lĩnh vực thơng mại,
dịch vụ. Do vậy thuế suất cao đối với các hoạt động này thực sự là một trở lực lớn
đối với khu vực KTTN.
Ba là, việc xác định chi phí hợp lý, hợp lệ để tính lợi tức chịu thuế, tính
thuế lợi tức bổ sung vẫn còn sự phân biệt đáng kể. Đối với DNNN, mỗi khi có sự
tăng giá vật t, thiết bị, hàng hoá, thay đổi tỷ giá thì toàn bộ vật t có gốc ngoại tệ,
hàng hoá tồn kho đều đợc đánh giá lại để bảo toàn vốn. Rõ ràng là khi không đợc
áp dụng quy định này, trong trờng hợp tăng giá hoặc tăng tỷ giá ngoại tệ, các
doanh nghiệp ngoài quốc doanh tuy không có lãi hoặc lãi ít phải lấy vốn để nộp
thuế. Tiền lơng của các DNNN đợc tính vào chi phí hợp lý, hợp lệ theo đơn giá đ-
ợc duyệt trong khi hầu hết các doanh nghiệp ngoài quốc doanh phải thực hiện
theo mức tiền lơng bình quân từng ngành nghề do UBND cấp tỉnh quy định (th-
ờng rất thấp) mà thực tế số phải trả cho ngời lao động cao hơn nhiều.
Trong trờng hợp có lợi tức cao phải nộp thuế lợi tức bổ sung thì DNNN
cũng có lợi thế hơn về mức lợi tức đợc trừ khi tính lợi tức bổ sung và đợc áp dụng
mức thuế suất bổ sung thấp hơn khu vực t nhân.
Do đó hệ thống thuế vẫn đòi hỏi đợc cải cách để tiếp tục đẩy mạnh công
cuộc đổi mới, tạo một môi trờng kinh doanh bình đẳng hơn cho các khu vực kinh
tế, khơi dậy và phát huy tối đa nội lực, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế.
* Cải cách thuế b ớc hai:
Cải cách thuế bớc 2 đợc bắt đầu từ năm 1997, với nội dung gồm:
- Ban hành thuế Giá trị gia tăng (GTGT) thay thế thuế doanh thu
- Sửa đổi, bổ sung Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
22
- Mở rộng diện đánh thuế TTĐB
- Ban hành Luật thuế Thu nhập doanh nghiệp (TNDN) và thuế thu nhập
cá nhân thay cho thuế lợi tức và Pháp lệnh về thuế thu nhập đối với ngời có thu
nhập cao
- Ban hành Luật thuế tài nguyên thay cho Pháp lệnh hiện hành
- Sắp xếp lại các loại thuế liên quan đến việc sử dụng đất
- Ban hành Pháp lệnh phí, lệ phí
Chính sách Thuế hiện hành là kết quả của quá trình cải cách thuế bớc hai.
2- Những tác động thuận lợi của chính sách Thuế đến sự phát triển
của khu vực KTTN
Vậy chính sách Thuế đang đợc sử dụng có có những u điểm gì trong việc
hỗ trợ khu vực KTTN phát triển. Chúng ta có thể xem xét những tác động thuận
lợi của chính sách Thuế tới sự phát triển của khu vực KTTN trên hai khía cạnh:
Một là, những thuận lợi từ phía các chính sách đến các doanh nghiệp trong nền
kinh tế nói chung; hai là, sự bình đẳng giữa các khu vực trong nền kinh tế.
Từ sau cải cách thuế bớc 1, sự phân biệt đối xử về chính sách thuế nhằm
kìm hãm, triệt tiêu sự phát triển của khu vực KTTN đã bị xoá bỏ. Cải cách thuế
bớc 2 tiếp tục có sự đổi mới đáng kể. Trong thời gian này, các DNNN tiếp tục đ-
ợc sắp xếp lại, các doanh nghiệp mới đợc thành lập để đón nhận các chính sách
kinh tế mới đa số là các doanh nghiệp thuộc khu vực KTTN. Biểu hiện rõ nhất
của sự đổi mới này phải nói tới sự có mặt và nhanh chóng đi vào thực tế của hai
Luật thuế mới là thuế TNDN và thuế GTGT.
Luật thuế TNDN
- Đối tợng nộp thuế không phân biệt thành phần kinh tế
Thuế TNDN áp dụng chung cho tất cả các cơ sở kinh doanh theo quy
định của pháp luật, không phân biệt thành phần kinh tế.
23
-áp dụng một mức thuế suất thống nhất cho các hoạt động kinh
doanh:
Luật thuế TNDN với một mức thuế suất thống nhất không phân biệt theo
hoạt động kinh doanh là một bớc tiến đáng kể vì một tỷ lệ lớn các DNTN hoạt
động trong lĩnh vực thơng mại, dịch vụ- lĩnh vực mà trớc đây phải chịu mức thuế
suất cao hơn.
- Căn cứ tính thuế rõ ràng hơn, giảm đi sự phân biệt với các DNNN
Sửa đổi chế độ thu sử dụng vốn Ngân sách đối với các DNNN, tạo nên sự
bình đẳng hơn về chi phí tính thuế. Trớc đây khoản nộp này đợc coi nh lãi tiền
vay tính trên số vốn đợc giao và đợc tính vào chi phí hợp lý, hợp lệ của DNNN.
Khi các DNNN phải lấy khoản lợi nhuận sau thuế để trang trải cho khoản nộp
này có nghĩa là khu vực KTTN có đợc sự bình đẳng với khu vực KTNN về chi
phí tài chính của các chủ sở hữu bỏ ra để thành lập doanh nghiệp.
- Các quy định về chuyển lỗ thông thoáng hơn với các doanh nghiệp nói
chung và các doanh nghiệp mới thành lập nói riêng; quy định về chi phí cho tiếp
thị, cho tiêu thụ hàng hoá; tỷ lệ khống chế tối đa về chi phí giao dịch, chi phí
khánh tiết, tạo nên sự rõ ràng hơn trong chính sách cũng có thể coi nh là các
biện pháp gián tiếp để xoá đi khả năng phân biệt đối xử trong quá trình triển
khai thực hiện các Luật của cơ quan thuế.
- Về thuế thu nhập bổ sung
Trớc đây, theo quy định của Luật thuế Lợi tức, có phân biệt về khoản thu
nhập sau thuế đợc tính trừ khi xác định thuế suất bổ sung và thuế bổ sung thì nay
đều đợc áp dụng thuế suất thống nhất- chỉ tính thuế bổ sung 25% trên phần lợi
nhuận sau thuế thu nhập cao hơn 20% vốn chủ sở hữu.
- Mở rộng đối tợng miễn giảm thuế
Luật thuế TNDN không chỉ là sự sửa đổi, bổ sung dổi mới của thuế lợi
tức trớc đây, mà còn quy định chế độ khuyến khích đầu t, điều chỉnh lại cơ cấu
24
đầu t thông qua quy định về miễn giảm thuế: miễn giảm thuế hai năm đầu cho
cho các cơ sở sản xuất mới đợc thành lập, giảm 50% trong hai năm tiếp theo và
đối với những cơ sở mới thành lập ở những vùng khó khăn thì có thể đợc xét
miễn giảm thêm hai năm nữa. Đồng thời, thuế TNDN còn mở rộng diện u đãi cho
những dự án đầu t vào những lĩnh vực, ngành nghề, vùng kinh tế khuyến khích
phát triển. Nh vậy Luật thuế TNDN dã tạo điều kiện cho sự ra đời ngày càng
nhiều các DNTN, đa dạng hoá khu vực phân bổ và đa dạng hoá ngành nghề hoạt
động của khu vực KTTN.
Thuế GTGT
- Các mức thuế suất đơn giản hơn
Từ 11 mức thuế suất của thuế doanh thu, thuế GTGT hiện nay chỉ có 3
mức thuế suất: 5%, 10%, 20% đòi hỏi các doanh nghiệp phải tổ chức lại sản xuất
kinh doanh, thực hiện hạch toán kinh doanh, tính toán giá thành, giá bán phù hợp
với thị trờng và nộp đợc thuế, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
- Giảm hiện tợng đánh trùng thuế
Việc thực hiện Luật thuế GTGT thay thế cho thuế doanh thu trớc đây đã
thúc đẩy sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, lu thông hàng hoá phát triển
vì thuế GTGT chỉ đánh trên giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ thông qua
khâu sản xuất, lu thông và tiêu dùng chứ không đánh trùng, chồng chéo nh thuế
doanh thu.
Với thuế doanh thu trớc đây, cứ qua mỗi khâu mua bán hàng hoá là một
lần phải chịu thuế, và đây là tồn tại cơ bản nhất của chế độ này. Trong khi đó,
khả năng khép kín trong hoạt động sản xuất kinh doanh của DNTN là rất thấp.
Chỉ trừ các doanh nghiệp chế biến nông sản là có thể tận dụng đợc nguyên liệu
sẵn có ở địa phơng, còn các doanh nghiệp chế tạo cơ khí, sản xuất hàng thủ công
mỹ nghệ hầu hết các vật t thiết bị phục vụ sản xuất kinh doanh đều phải mua
ngoài.
25
Mặt khác, do hạn chế về khả năng tiếp cận thị trờng nên các DNTN thờng
phải qua nhiều khâu trung gian thơng mại để đáp ứng vật t thiết bị phục vụ sản
xuất kinh doanh, nên với thuế doanh thu trớc đây, các DNTN phải chịu thiệt thòi
rất lớn. Việc ban hành và đa vào áp dụng thuế GTGT đã cơ bản khắc phục đợc
tồn tại này, góp phần tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp.
- Không thu thuế GTGT đối với máy móc thiết bị, phơng tiện vận tải, vật
t xây dựng nhập khẩu mà trong nớc cha sản xuất đợc để tạo tài sản cố đinh cho
doanh nghiệp, thực hiện khấu trừ và hoàn thuế GTGT đối với tài sản cố định để
khuyến khích đầu t mới và trang bị thêm máy móc thiết bị, mở rộng sản xuất.
- Chế độ hoàn thuế khuyến khích xuất khẩu
Việc hoàn thuế GTGT đầu vào cho hàng hoá xuất khẩu thực chất là việc
Nhà nớc trợ giá cho hàng hoá xuất khẩu, giúp các doanh nghiệp xuất khẩu tập
trung nguồn hàng để xuất khẩu, giảm giá vốn hàng xuất khẩu và tăng khả năng
cạnh tranh của hàng Việt Nam xuất khẩu với hàng hoá trên thị trờng quốc tế. Đặc
biệt là các doanh nghiệp ở khu vực nông thôn sản xuất các mặt hàng truyền
thống: thủ công mỹ nghệ, mây tre đan, gốm sứ, thì chính chính sách trợ giá cho
hàng xuất khẩu của Nhà nớc thông qua thuế GTGT đã tạo điều kiện cho các
doanh nghiệp này có thể tăng khả năng xuất khẩu các hàng hoá của mình ra nớc
ngoài.
- Về chế độ hoá đơn, chứng từ
Để đợc khấu trừ thuế GTGT đầu vào đợc tính đúng số thuế GTGT đầu ra
đòi hỏi các doanh nghiệp thực hiện mua bán hàng hoá dịch vụ phải có hoá đơn
chứng từ đầy đủ và hợp lệ, từ đó chấn chỉnh công tác kế toán ở khu vực KTTN.
* Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu mới đợc sửa đổi, bổ sung cũng
có nhiều tác động tích cực. Việc điều chỉnh thờng xuyên thuế suất thuế nhập
khẩu theo hớng quy định mức thuế suất cao hơn đối với những sản phẩm trong n-
ớc đã sản xuất đợc, đã có tác dụng bảo hộ, khuyến khích sản xuất trong nớc phát