Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

THỰC TRẠNG LO ÂU, TRẦM CẢM Ở NHÂN VIÊN CỦA HAI TRUNG TÂM Y TẾ TẠI HÀ NỘI NĂM 2021 VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.63 MB, 88 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THĂNG LONG

LÊ THANH DIỆU HUYỀN

THỰC TRẠNG LO ÂU, TRẦM CẢM Ở
NHÂN VIÊN CỦA HAI TRUNG TÂM Y TẾ
TẠI HÀ NỘI NĂM 2021 VÀ MỘT SỐ
YẾU TỐ LIÊN QUAN

LUẬN VĂN THẠC SĨ Y TẾ CÔNG CỘNG

HÀ NỘI – 2022

.


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THĂNG LONG
KHOA: KHOA HỌC SỨC KHỎE
BỘ MÔN: Y TẾ CÔNG CỘNG

LÊ THANH DIỆU HUYỀN

THỰC TRẠNG LO ÂU, TRẦM CẢM Ở
NHÂN VIÊN CỦA HAI TRUNG TÂM Y TẾ
TẠI HÀ NỘI NĂM 2021 VÀ MỘT SỐ
YẾU TỐ LIÊN QUAN
Chuyên ngành : Y TẾ CÔNG CỘNG
Mã số : 8 72 07 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ Y TẾ CÔNG CỘNG


HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. NGUYỄN BẠCH NGỌC

HÀ NỘI – 2022 .


LỜI CẢM ƠN
Trước hết, em xin tri ân và gửi lời cảm ơn sâu sắc đến giảng viên hướng
dẫn khoa học của em, PGS.TS. Nguyễn Bạch Ngọc, một người cô tâm huyết,
luôn nhiệt tình chỉ dạy, giúp đỡ em trong suốt quá trình học tập và thực hiện đề
tài. Những điều em học được không chỉ là kiến thức, kinh nghiệm mà còn phong
cách, thái độ làm việc đầy tích cực của cô. Chính những điều đó đã truyền cảm
hứng cho em, giúp em học tập và làm việc tốt hơn.
Em cũng xin trân trọng cảm ơn Ban Giám hiệu, các thầy, cô giáo Bộ môn
Y tế Công cộng, trường Đại học Thăng Long đã trực tiếp giảng dạy, đóng góp
những ý kiến quý báu cho em trong suốt quá trình học tập và thực hiện khóa
ḷn.
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến lãnh đạo Trung tâm y tế Quận
Thanh Xuân và Trung tâm Y tế Thị xã Sơn Tây đã ủng hộ và tạo những điều
kiện tốt nhất cho em trong suốt quá trình học tập và thực hiện khóa luận. Đồng
thời em cũng xin gửi lời cảm ơn đến cán bộ, nhân viên của hai Trung tâm, là đối
tượng nghiên cứu của đề tài, đã hỗ trợ cung cấp thông tin đầy đủ để em có thể
thực hiện tốt nhất đề tài này.
Cuối cùng em xin cảm ơn ba, mẹ, các anh chị em trong gia đình, bạn bè
đã luôn bên cạnh ủng hộ, chia sẽ và hỗ trợ em trong suốt thời gian học tập và
làm khóa luận tại trường Đại học Thăng Long.
Em xin chân thành cảm ơn.
Hà Nội, ngày 30 tháng 11 năm 2021
Học viên

Lê Thanh Diệu Huyền



LỜI CAM ĐOAN

Kính gửi : - Phịng Sau Đại học - Trường Đại học Thăng Long
- Bộ môn Y tế Công cộng - Trường đại học Thăng Long
- Hội đồng chấm khóa ḷn tớt nghiệp thạc sĩ khóa 8
Tên em là Lê Thanh Diệu Huyền - Học viên lớp Cao học Y tế cơng cợng
8.1, khóa 8- Trường Đại học Thăng Long.
Em xin cam đoan các số liệu trong luận văn này là có thực, kết quả trung
thực, chính xác và chưa từng được công bố ở bất kỳ công trình khoa học nào.
Em xin cam đoan đề tài luận văn: “Thực trạng lo âu, trầm cảm ở nhân viên
của hai Trung tâm Y tế tại Hà Nội năm 2021 và một số yếu tố liên quan” là cơng
trình nghiên cứu của riêng em, do chính bản thân em thực hiện, tất cả số liệu
trong luận văn này là trung thực, khách quan và chưa từng được công bố trong
bất kỳ cơng trình nào khác. Nếu có điều gì sai trái em xin hoàn toàn chịu trách
nhiệm.
Hà Nội, ngày 30 tháng 11 năm 2021
Học viên

Lê Thanh Diệu Huyền


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BV

Bệnh viện

CBYT


Cán bộ y tế

ĐTNC

Đối tượng nghiên cứu

DASS

Thang đánh giá trầm cảm, lo âu, stress
(Depression, Anxiety and Stress Scale)

GAD-7

Thang đánh giá lo âu (General Anxiety Disorder-7)

KHHGĐ

Kế hoạch hóa gia đình

NVYT

Nhân viên y tế

PHQ-9

Thang

đánh

giá


trầm

cảm

(Patient

Health

Questionnaire)
RLLA

Rối loạn lo âu

RLTT

Rối loạn tâm thần

TTYT

Trung tâm Y tế

TYT

Trạm y tế

YTCC

Y tế công cộng


TCYTTG

Tổ chức Y tế thế giới (World health Organization)


MỤC LỤC
ĐẶT VẤN ĐỀ ............................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU........................................................ 3
1.1. Lo âu, trầm cảm................................................................................... 3
1.1.1. Một số khái niệm ............................................................................. 3
1.1.2. Nguyên nhân gây ra lo âu, trầm cảm ................................................. 4
1.1.3. Các dấu hiệu, triệu chứng của lo âu, trầm cảm................................... 6
1.1.4. Hậu quả của lo âu, trầm cảm ............................................................... 6
1.2. Một số phương pháp nghiên cứu lo âu, trầm cảm ............................... 7
1.2.1. DASS 21 và DASS 42...................................................................... 7
1.2.2. Bảng hỏi nội dung công việc của Karasek. .......................................... 8
1.2.3. Thang đánh giá lo âu của Zung (SAS): ................................................ 8
1.2.4. Thang đánh giá trầm cảm của Beck ..................................................... 9
1.2.5. Thang đánh giá trầm cảm PHQ–9 và thang đánh giá lo âu GAD-7........ 9
1.3. Nghiên cứu về lo âu, trầm cảm của nhân viên y tế............................. 10
1.3.1. Nghiên cứu về lo âu, trầm cảm của nhân viên y tế trên thế giới .........10
1.3.2. Nghiên cứu về lo âu, trầm cảm của nhân viên y tế tại Việt Nam ........12
1.4. Các yếu tố liên quan đến lo âu, trầm cảm ở nhân viên y tế................ 14
1.5. Giới thiệu địa điểm nghiên cứu. ........................................................... 15
1.6. Khung lý thuyết nghiên cứu................................................................. 18
CHƯƠNG 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU............ 18
2.1. Đối tượng, địa điểm, thời gian nghiên cứu ........................................... 19
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu........................................................................19
2.1.2. Địa điểm nghiên cứu ........................................................................19
2.1.3. Thời gian nghiên cứu.........................................................................19

2.2. Phương pháp nghiên cứu ..................................................................... 19
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu...........................................................................19
2.2.2. Cỡ mẫu và cách chọn ........................................................................19


2.3. Biến số, chỉ số nghiên cứu và tiêu chí đánh giá .................................... 20
2.3.1. Biến số và chỉ số nghiên cứu............................................................ 20
2.3.2. Tiêu chí đánh giá ............................................................................. 24
2.4. Phương pháp thu thập thông tin .......................................................... 24
2.4.1. Công cụ thu thập thông tin ................................................................24
2.4.2. Kỹ thuật thu thập thông tin ................................................................24
2.4.3. Quy trình thu thập thơng tin và sơ đồ nghiên cứu................................25
2.5. Xử lý và phân tích số liệu ..................................................................... 27
2.6. Sai số và khống chế sai số..................................................................... 27
2.7. Đạo đức nghiên cứu ............................................................................. 27
2.8. Hạn chế của đề tài ................................................................................ 28
CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU.................................................... 29
3.1. Một số thông tin chung của đối tượng nghiên cứu. .............................. 29
3.2. Thực trạng lo âu, trầm cảm của đối tượng nghiên cứu........................ 32
3.3. Một số yếu tố liên quan tới lo âu, trầm cảm ở đối tượng nghiên cứu... 40
3.3.1. Một số yếu tố liên quan tới lo âu ở đối tượng nghiên cứu ....................40
3.3.2. Một số yếu tố liên quan tới trầm cảm ở đối tượng nghiên cứu .............46
CHƯƠNG 4. BÀN LUẬN ........................................................................... 53
4.1 Thực trạng lo âu, trầm cảm ở đối tượng nghiên cứu. ........................... 54
4.2. Phân tích một số yếu tố liên quan tới tình trạng lo âu, trầm cảm của đối
tượng nghiên cứu........................................................................................ 59
4.2.1. Một số yếu tố cá nhân liên quan tới tình trạng lo âu, trầm cảm của đối
tượng nghiên cứu........................................................................................59
4.2.2. Một số yếu tố công việc liên quan tới tình trạng lo âu, trầm cảm của đối
tượng nghiên cứu........................................................................................60

KẾT LUẬN................................................................................................. 65
KHUYẾN NGHỊ......................................................................................... 67


DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ, HÌNH VẼ

DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1. Các biến số, chỉ số nghiên cứu………………………………………….

20

Bảng 3.1. Thông tin chung của đối tượng nghiên cứu theo đặc điểm nhân khẩu
học …………………………………………………………………………………

29

Bảng 3.2. Thông tin chung của đối tượng nghiên cứu theo đặc điểm công việc…..

30

Bảng 3.3. Đặc thù công việc của đối tượng nghiên cứu …………………………..

31

Bảng 3.4. Thái độ đối với công việc của đối tượng nghiên cứu …………………..

32

Bảng 3.5. Thực trạng lo âu, trầm cảm của đối tượng nghiên cứu ………...……….


33

Bảng 3.6.Mức độ lo âu của đối tượng nghiên cứu theo đặc điểm cá nhân ………..

35

Bảng 3.7. Mức độ lo âu của đối tượng nghiên cứu theo đặc điểm chuyên môn…...

36

Bảng 3.8. Mức độ lo âu của đối tượng nghiên cứu theo mợt sớ đặc điểm vị trí
cơng việc……………………………..…………………………………………….

36

Bảng 3.9. Mức độ lo âu của đối tượng nghiên cứu theo đặc thù công việc ……….

37

Bảng 3.10. Mức độ trầm cảm của đối tượng nghiên cứu theo đặc điểm cá nhân …

38

Bảng 3.11. Mức độ trầm cảm của đối tượng nghiên cứu theo chuyên môn……….

39

Bảng 3.12. Mức độ trầm cảm của đối tượng nghiên cứu theo một số đặc điểm vị
trí cơng việc ………….…………………………………………………………….


39

Bảng 3.13. Mức đợ trầm cảm của đối tượng nghiên cứu theo đặc thù công
việc……...…………………………………………………………………………..

40

Bảng 3.14. Mối liên quan giữa các yếu tố cá nhân với tình trạng lo âu của ĐTNC..

41

Bảng 3.15. Mới liên quan giữa các ́u đặc điểm chun mơn với tình trạng lo âu
của NVYT ………… ………………………………………………………………

42

Bảng 3.16. Mối liên quan giữa các ́u thâm niên cơng tác với tình trạng lo âu của
NVYT………………………………………………………………………………

42

Bảng 3.17. Mối liên quan giữa các yếu tố về thời gian làm việc với tình trạng lo
âu của NVYT ………... ……………………………………………………………
Bảng 3.18. Mối liên quan giữa mức thu nhập hàng tháng của gia đình với tình

43


trạng lo âu của NVYT ………... …………………………………………………..


44

Bảng 3.19. Mối liên quan giữa các ́u tớ về vị trí việc làm với tình trạng lo âu
của NVYT ………… ………………………………………………………………

45

Bảng 3.20. Mới liên quan giữa các yếu tố về môi trường làm việc với tình trạng lo
âu của NVYT ………………………………………………………………………

45

Bảng 3.21. Mới liên quan giữa các ́u tớ về sự hài lịng với cơng việc với tình
trạng lo âu của NVYT ………... …………………………………………………..

46

Bảng 3.22. Mối liên quan giữa các yếu tố cá nhân với tình trạng trầm cảm của
NVYT ………... …………………………………………………………………...

47

Bảng 3.23. Mối liên quan giữa các yếu đặc điểm chuyên môn với tình trạng trầm
cảm của NVYT ………… …………………………………………………………

48

Bảng 3.24. Mới liên quan giữa các yếu thâm niên công tác với tình trạng trầm
cảm của NVYT ………….…………………………………………………………


48

Bảng 3.25. Mới liên quan giữa các yếu tố về thời gian làm việc với tình trạng
trầm cảm của NVYT ………… ……………………………………………………

49

Bảng 3.26. Mới liên quan giữa mức thu nhập hàng tháng của gia đình với tình
trạng trầm cảm của NVYT ………... ……………………………………………...

50

Bảng 3.27. Mới liên quan giữa các ́u tớ về vị trí việc làm với tình trạng trầm
cảm của NVYT ………... ………………………………………………………….

50

Bảng 3.28. Mối liên quan giữa các yếu tố về môi trường làm việc với tình trạng
trầm cảm của NVYT ………….……………………………………………………

51

Bảng 3.29. Mối liên quan giữa các yếu tố về sự hài lịng với cơng việc với tình
trạng trầm cảm của NVYT ………... ……………………………………………...

52


DANH MỤC HÌNH
Hình 1.1. Sơ đồ tổ chức của Trung tâm Y tế quận/thị xã……………………...17

Hình 2.1: Sơ đồ nghiên cứu……………………………………………………26
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 3.1: Tỉ lệ lo âu của đối tượng nghiên cứu……………………………..33
Biểu đồ 3.2: Tỉ lệ trầm cảm của đối tượng nghiên cứu………………………...34
Biểu đồ 3.3. Tỉ lệ đối tượng nghiên cứu biểu hiện theo các nhóm lo âu, trầm
cảm……………………………………………………………………………..34


1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Theo Tổ chức y tế Thế Giới định nghĩa về sức khỏe: “Sức khỏe là mợt
trạng thái hồn toàn thoải mái về thể chất, tinh thần và xã hợi, chứ khơng phải là
chỉ khơng có bệnh hay tật” [47]. Có thể thấy rằng, sức khỏe tinh thần là phần
không thể thiếu của sức khỏe nói chung, được đánh giá ngang hàng và có mối
liên quan chặt chẽ với sức khỏe thể chất và xã hội. Năm 2012, Tổ chức y tế Thế
Giới đã đưa ra định nghĩa về sức khỏe tinh thần: “Sức khỏe tinh thần là một
trạng thái sức khoẻ trong đó mỗi cá nhân nhận ra khả năng của chính mình, có
thể đới phó với những căng thẳng bình thường của c̣c sớng, có thể làm việc
hiệu quả và thành cơng, và có thể đóng góp cho cợng đồng của mình” [47]. Như
vậy, sức khỏe tinh thần có vai trị vơ cùng quan trọng trong đời sống cảm xúc
lành mạnh của con người, là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng công
việc và sức khỏe của người lao đợng.
Trong bới cảnh tồn cầu hóa hiện nay, các áp lực đến từ công việc là
không thể tránh khỏi. Bên cạnh dó, xuất hiện nhiều vấn đề khác như biến đổi khí
hậu, bất ổn địa chính trị, bệnh mới xuất hiện… Các rối lọan sức khỏe tinh thần
đang có xu hướng tăng đáng kể ở các quốc gia phát triển và đang phát triển.
Tại Việt Nam, những năm gần đây, vấn đề căng thẳng nghề nghiệp cũng
đã được quan tâm và chú trọng nhiều hơn. Đã có thêm nhiều nghiên cứu về sức
khỏe tinh thần của người lao động được thực hiện ở các ngành nghề khác nhau,

đặt biệt là về vấn đề lo âu, trầm cảm. Các nghiên cứu được tiến hành cho kết quả
mức độ lo âu, trầm cảm khá cao ở một số ngành nghề, trong đó có nhân viên y
tế.
Ngành y tế nói chung và hệ thớng y tế dự phòng nói riêng đóng vai trò
quan trọng trong chăm sóc bảo vệ sức khỏe nhân dân. Nhiều nghiên cứu đã chỉ
ra rằng các nhân viên y tế có nguy cơ bị lo âu, trầm cảm cao hơn nhiều so với
các ngành nghề khác. Các rối loạn tâm thần của nhân viên y tế gây ra các hậu
quả như kiệt sức, nhân viên có ý định chủn cơng tác, giảm sự hài lịng của
người bệnh và mắc nhiều lỡi trong q trình chẩn đoán, điều trị, chăm sóc [27].
Trung tâm Y tế quận Thanh Xuân và Trung tâm Y tế Thị xã Sơn Tây trực


2
tḥc Sở Y tế Hà Nợi, có chức năng cung cấp dịch vụ chuyên môn, kỹ thuật về y
tế dự phòng; khám bệnh, chữa bệnh, phục hồi chức năng và các dịch vụ y tế
khác. Đặc biệt từ đầu năm 2020, sự xuất hiện của đại dịch Covid -19 đã mang
đến một thách thức lớn cho hệ thống y tế tồn cầu nói chung cũng như hệ thớng
y tế tại Việt Nam nói riêng. Trước tình hình dịch bệnh diễn biến phức tạp, các
Trung tâm Y tế trên địa bàn của thủ đô đã phải huy động mọi nguồn lực, tập
trung, nỗ lực, khắc phục và vượt qua các khó khăn do ảnh hưởng của đại dịch để
hoàn thành các nhiệm vụ công tác, đặc biệt là trong công tác phịng chớng dịch
bệnh.
Năm 2020 đã khiến tất cả cán bợ viên chức của Trung tâm Y tế quận
Thanh Xuân và Trung tâm Y tế Thị xã Sơn Tây vừa phải nỗ lực ngăn chặn dịch
Covid -19, vừa phải luôn trong tư thế sẵn sàng chống dịch. Những yếu tố đó có
thể đã ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe của các nhân viên y tế, gây ra căng
thẳng về cả mặt thể chất và tinh thần. Tuy nhiên, lại chưa có nghiên cứu nào
được thực hiện ở hai Trung tâm về vấn đề này.
Chính vì những lý do trên, đề tài: “Thực trạng lo âu, trầm cảm ở nhân
viên của hai Trung tâm Y tế tại Hà Nội năm 2021 và một số yếu tố liên quan”

được thực hiện với các mục tiêu sau:
Mục tiêu nghiên cứu:
1. Đánh giá thực trạng lo âu, trầm cảm ở nhân viên của Trung tâm Y tế quận
Thanh Xuân và Trung tâm Y tế Thị xã Sơn Tây, Hà Nợi năm 2021
2. Phân tích một số yếu tố liên quan đến lo âu, trầm cảm của đối tượng nghiên
cứu.


3

CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Lo âu, trầm cảm.
1.1.1. Một số khái niệm
1.1.1.1. Sức khỏe tinh thần
Sức khỏe tinh thần là một phần không thể thiếu của sức khỏe và hạnh
phúc. Năm 2012, Tổ chức Y tế Thế giới đưa ra định nghĩa: “Sức khỏe tinh thần
là một trạng thái sức khoẻ trong đó mỗi cá nhân nhận ra khả năng của chính
mình, có thể đới phó với những căng thẳng bình thường của c̣c sớng, có thể
làm việc hiệu quả và thành cơng, và có thể đóng góp cho cộng đồng của mình”
[47].
1.1.1.2. Lo âu
Lo là một phản ứng cảm xúc tự nhiên của con người trước những mối đe
dọa, khó khăn, thử thách mà nhận thức được của mợt người với tâm sinh lý bình
thường, đó là cảm giác sợ hãi, mơ hồ, khó chịu lan toả cùng các rối loạn cơ thể ở
một hay nhiều bộ phận nào đó. Lo âu thực chất là tín hiệu báo đợng, báo trước
cho cá thể biết rằng sẽ có sự đe doạ từ bên trong hoặc bên ngoài cơ thể (những
khó khăn, thử thách, đe doạ của tự nhiên hoặc xã hợi), từ đó giúp con người tìm
ra được các giải pháp phù hợp để tồn tại và phát triển [18].
1.1.1.3. Trầm cảm
Theo Tổ chức Y tế thế giới (TCYTTG): “Trầm cảm là một rối loạn tâm

thần phổ biến, đặc trưng bởi sự buồn rầu, mất sự thích thú hoặc khối cảm, cảm
giác tợi lỡi hoặc giá trị bản thân thấp, rối loạn giấc ngủ, ăn uống và kém tập
trung” [6].
Theo bảng phân loại tâm thần lần thứ 4 của hiệp hội tâm thần học Mỹ
(DSM– IV, 1984): “Trầm cảm là trạng thái rối loạn cảm xúc, biểu hiện bằng
giảm khí sắc, mất mọi quan tâm thích thú, giảm năng lượng dẫn đến tăng sự mệt
mỏi và giảm hoạt động, phổ biến là tăng sự mệt mỏi sau một số cố gắng nhỏ, tồn
tại trong một khoảng thời gian kéo dài, ít nhất là hai tuần” [9].
Trầm cảm là mợt rới loạn khí sắc thường gặp trong các rới loạn tâm thần.
Nó là mợt tình trạng buồn chán, giảm hứng thú quá mức và kéo dài, từ đó ảnh
hưởng đến các hoạt động trong cuộc sống như công việc/học tập, gia đình và xã


4
hợi. Là rới loạn tâm thần có thể điều trị được [2].
Với các khái niệm trên, trầm cảm được xem xét biểu hiện ở các mặt: cảm
xúc, nhận thức, cơ thể và hành vi.
1.1.1.4. Nhân viên y tế
Theo TCYTTG (2006), nhân viên y tế là tất cả những người tham gia vào
những hoạt động mà mục đích là nhằm nâng cao sức khỏe của người dân. Nói
chính xác, theo nghĩa này thì người mẹ chăm sóc con ốm và những người tình
nguyện trong lĩnh vực y tế cũng bao gồm trong nguồn nhân lực y tế [1].
1.1.2. Nguyên nhân gây ra lo âu, trầm cảm
Giống như các rối loạn tâm thần khác, mặc dù nhiều nghiên cứu đã cung
cấp một số dữ liệu nhưng cho đến nay khoa học vẫn chưa tìm ra được nguyên
nhân chính xác gây ra lo âu, trầm cảm. Tuy nhiên nhiều nghiên cứu đã chỉ ra
được các yếu tố liên quan đến các rối loạn đó. Bao gồm các yếu tố sau [5, 25,
39]:
-


Các đặc điểm cá nhân: tuổi, giới tính, cân nặng, tình trạng bệnh tật, tính

cách, suy nghĩ, trình đợ học vấn, lới sống…
-

Gia đình: di truyền, số người trong gia đình, mối quan hệ giữa các thành

viên trong gia đình, tình trạng về kinh tế, vật chất…
-

Môi trường xã hội: an ninh trật tự, tình hình chính trị, văn hoá, kinh tế…

-

Nơi làm việc: các mối quan hệ trong công việc, văn hoá tổ chức, môi trường

làm việc, cơ sở vật chất, trang thiết bị, khối lượng công việc, các nguy cơ gặp
phải trong cơng việc, vị trí, chức danh…
-

Mơi trường tự nhiên: thiên tai, thời tiết, tiếng ồn, nhiệt độ, giao thông, bụi,

sự ô nhiễm…
Viện nghiên cứu Sức khỏe Tâm thần Quốc Gia Việt Nam (NIMH) chỉ ra
rằng các yếu tố nguy cơ đới với rới loạn lo âu có thể bao gồm: là nữ giới; điều
kiện kinh tế khó khăn; bị ly hơn hoặc góa bụa; tiếp xúc với các sự kiện căng
thẳng trong cuộc sống… Nếu không được điều trị rới loạn lo âu có thể dẫn đến
các tình huống trầm trọng hơn về triệu chứng. Điều này sẽ ảnh hưởng tiêu cực
đến khả năng làm việc của chủ thể [40].
Ngun nhân trầm cảm thường khơng rõ ràng chính xác. Trầm cảm có thể



5
gây ra bởi các yếu tố tâm lý hoặc do gặp phải những biến cớ trong đời sớng của
mình. Trầm cảm có thể kéo dài hoặc tái phát, gây ảnh hưởng nhiều đến công
việc hàng ngày. Nghiêm trọng nhất là trầm cảm có thể dẫn tới tự tử và hành vi tự
tử. Khi mức đợ trầm cảm là nhẹ thì có thể điều trị mà khơng cần dùng tới th́c
nhưng khi trầm cảm là vừa hoặc nặng thì cần phải kết hợp giữa điều trị thuốc và
phương pháp tâm lý trị liệu [46].
Theo Tổ chức Sức khỏe tâm thần (Anh Q́c), trầm cảm có thể xảy ra đợt
ngợt do những biến cố trong cuộc sống như thất nghiệp, mất mát người thân, các
vấn đề gia đình hoặc các sự kiện thay đổi cuộc sống khác.
Các rối loạn tâm thần trong lao động là kết quả của sự ảnh hưởng lẫn nhau
giữa người lao động và điều kiện lao động. Trong một nghiên cứu của Viện Y
học lao động và An toàn của Mỹ đã nhận thấy nếu cá nhân đóng vai trò quan
trọng trong nguyên nhân gây ra RLTT thì điều kiện lao động cũng là một yếu tố
không thể thiếu. Một số điều kiện gây ra RLTT trong lao động như:
- Nhiệm vụ: làm việc nặng nhọc, không được giải lao thường xuyên, thời
gian làm việc kéo dài và làm việc ca kíp, cơng việc đòi hỏi trách nhiệm cao
nhưng quyền lợi thấp, không sử dụng đúng kĩ năng…
- Quản lý: thiếu sự tham gia của người lao động trong giải quyết cộng việc,
giáo dục truyền thông nghèo nàn, thiếu chính sách gia đình-tình bạn…
- Quan hệ cá nhân với cá nhân: môi trường xã hội nghèo nàn và thiếu sự
giúp đỡ lẫn nhau hoặc sự giúp đỡ của đồng nghiệp và lãnh đạo.
- Vai trị cơng việc: có mâu thuẫn hoặc khơng hiểu rõ tính chất của cơng
việc, trách nhiệm quá lớn, chịu áp lực chỉ đạo của nhiều người.
- Cơng việc: cơng việc thiếu an tồn, khơng có cơ hợi tiến thủ, thay đổi quy
trình làm việc mà người lao động không được chuẩn bị từ trước.
- Mơi trường lao đợng: điều kiện vi khí hậu nơi làm việc xấu, nguy hại đến
sức khoẻ như quá đông người, ồn, ơ nhiễm khơng khí.

Trong những thập kỉ vừa qua, các công đoàn ngành nghề, các tổ chức khoa
học, bao gồm các Văn phòng Lao đợng q́c tế có mối quan tâm ngày càng tăng
về tác động của RLTT đới với NVYT. Nhiều nghiên cứu cho thấy NVYT có tỉ
lệ lạm dụng thuốc và tự tử cao hơn so với ngành nghề khác, NVYT có tỉ lệ


6
stress, trầm cảm và lo âu cao liên quan đến cơng việc căng thẳng. Các RLTT của
NVYT góp phần đưa đến các hậu quả như kiệt sức, vắng mặt, nhân viên có ý
định chủn cơng tác, giảm sự hài lịng của người bệnh và mắc nhiều lỡi trong
q trình chẩn đoán, điều trị, chăm sóc [36].
Một số điều kiện phổ biến liên quan đến đặc thù ngành góp phần gây ra
RLTT cho NVYT như [36]:
- Mức biên chế đầy đủ.
- Khối lượng công việc quá nhiều.
- Thời gian làm việc kéo dài.
- Mức độ ổn định của công việc.
- Mức độ rõ ràng của công việc.
- Mối quan hệ với người bệnh: thái độ của người bệnh và người nhà người
bệnh, sự mong đợi của người bệnh…
- Tiếp xúc với các chất lây nhiễm và độc hại.
- Sự căng thẳng khác nhau giữa các ngành nghề chăm sóc sức khoẻ, thậm
chí trong cùng mợt ngành nghề lại tuỳ tḥc vào nhiệm vụ.
1.1.3. Các dấu hiệu, triệu chứng của lo âu, trầm cảm
Các dấu hiệu của lo âu, trầm cảm bao gồm những bất thường về thể chất,
cảm xúc, nhận thức và hành vi. Có thể là sự kiệt sức, tự dưng thèm ăn hoặc bỏ
ăn, đau đầu rối loạn giấc ngủ cùng những biểu hiện khó chịu khác. Lo âu còn đi
kèm với cảm giác bất an, giận dữ hoặc sợ hãi. Người bị lo âu, trầm cảm thường
có các biểu hiện thực thể (như tăng nhịp tim, tăng huyết áp, nhức đầu, mệt mỏi,
thở ngắn hơi, ra mồ hôi...). Biểu hiện về cảm xúc (như cảm thấy khó chịu, dễ

cấu gắt, buồn bã, chán nản, thờ ơ, không thân thiện, sa sút tinh thần…). Có
những hành vi như lạm dụng chất kích thích (rượu, bia, thuốc lá…) dễ gây hấn,
bất cần đời, xáo trộn các sinh hoạt hàng ngày (ăn uống, giấc ngủ), mất tập trung,
hay quên, xa lánh mọi người, có vấn đề về tình dục… Nếu lo âu, trầm cảm kéo
dài sẽ tổn hại đến hệ miễn dịch và các chức năng sinh lý khác, làm suy yếu khả
năng chống lại bệnh tật của cơ thể cũng như sự xâm nhập của vi khuẩn và làm
tăng nguy cơ tử vong [14]
1.1.4. Hậu quả của lo âu, trầm cảm


7
Tổng hợp từ nhiều nghiên cứu cho thấy lo âu, trầm cảm không những tác
động xấu cho cá nhân mà cịn cho xã hợi. Lo âu, trầm cảm được xem là một
trong những nguyên nhân phổ biến nhất của nhiều căn bệnh như:
- Bệnh tâm thần kinh: mất ngủ, đau đầu, hoa mắt, chóng mặt, buồn phiền,
cáu gắt, loạn trí nhớ, trầm cảm...
- Bệnh tim mạch: tăng huyết áp, nhồi máu cơ tim, tai biến mạch máu não,
loạn nhịp tim, hồi hợp đánh trớng ngực...
- Bệnh tiêu hóa: viêm lt dạ dày - tá tràng, chảy máu tiêu hóa, thủng dạ
dày, tiêu chảy, khô miệng, chán ăn, ăn không tiêu, hơi thở hơi, rới loạn chức
năng đại tràng...
- Bệnh tình dục: giảm ham muốn, di tinh, mộng tinh, giao hợp đau.
- Bệnh phụ khoa: rối loạn kinh nguyệt, rối loạn nội tiết...
- Bệnh cơ khớp: co cứng cơ, đau lưng, đau khớp, cảm giác kiến bị ở ngón
tay, máy mắt, cḥt rút, run rẩy...
- Tồn thân: suy sụp, mệt mỏi, dễ mắc các bệnh dị ứng hay bệnh truyền
nhiễm...
- Về mặt tinh thần. Các biểu hiện của nó là: Hay quên, mất trí nhớ, căng
thẳng, lo sợ. Mất ngủ, run rẩy… [14], [22], [24], [25]
1.2. Một số phương pháp nghiên cứu lo âu, trầm cảm

Trên thế giới hiện nay có nhiều thang đo đánh giá lo âu, trầm cảm, trong
đó một số công cụ phổ biến được dùng nhiều trong các nghiên cứu:
1.2.1. DASS 21 và DASS 42
DASS (Depression Anxiety Stress Scales) là thang điểm đánh giá cả ba
tình trạng trầm cảm, lo âu và căng thẳng được phát triển bởi các nhà nghiên cứu
tại Đại học New South Wales của Úc bao gồm 2 phiên bản DASS 42 và phiên
bản rút gọn DASS 21. Thang đo DASS 42 và DASS 21 kết hợp được cả hai yếu
tố lâm sàng và xã hội, là những yếu tố cần thiết cho một nghiên cứu. Các nội
dung được đề cập trong DASS không hẳn có ý nghĩa chẩn đoán như các triệu
chứng được đưa ra trong hướng dẫn phân loại quốc tế bệnh tật lần thứ 10 (ICD


8
10), mà mục đích của nó là đưa ra một thực trạng trong quần thể nghiên cứu
giúp cho nhà quản lý nhân lực có những chính sách để cải thiện, nâng cao hiệu
suất nguồn nhân lực. Đồng thời khuyến cáo những đối tượng nghiên cứu nếu
gặp phải những vấn đề được liệt kê trong DASS một cách thường xuyên và ở
mức độ nặng thì nên tìm sự giúp đỡ từ các chuyên gia tâm lý [42].
Trong thang điểm DASS 42 mỗi 14 mục tạo nên 1 thang đo riêng cho
từng tình trạng trầm cảm, lo âu hoặc căng thẳng. Đối với DASS 21 mỗi 7 mục
tạo nên 1 thang đo riêng cho từng tình trạng [30]. Mục đích chính của thang đo
DASS là xác định các khía cạnh của rối loạn cảm xúc. Nó hiệu quả đối với các
mẫu trên 16 tuổi. Các thang DASS là các rối loạn cảm xúc tự đánh giá chính vì
vậy nó là một trong những test sàng lọc hiệu quả đối với tình trạng trầm cảm, lo
âu và căng thẳng của đối tượng nghiên cứu. Điều này góp phần tích cực trong
chẩn đoán lâm sàng của các bác sĩ. Các thang DASS cũng được khuyên có thể
sử dụng kết hợp các thang đánh giá khác. Hiện nay thang DASS đã được Việt
Hóa và sử dụng khá rộng rãi tại Việt Nam, trong đó có sử dụng để đánh giá tình
trạng căng thẳng nghề nghiệp.
1.2.2. Bảng hỏi nội dung công việc của Karasek.

Bảng hỏi nội dung công việc (Job contend questionnaire) trong đó có
đánh giá về các căng thẳng do công việc gây ra. Bảng hỏi gồm 33 câu hỏi với số
điểm từ 1 đến 4 tương ứng với các mức độ tăng dần cho mỗi câu mô tả mô hình
căng thẳng của Karasek. Bảng hỏi này đánh giá các phương diện: áp lực thể
chất, quyền quyết định thời gian và nhịp độ công việc, quyền quyết định về mức
độ phức tạp của công việc, quyền quyết định về thứ bậc trách nhiệm, sự ủng hộ
về mặt xã hội thông qua đánh giá mối quan hệ người lao động với đồng nghiệp
và cấp trên. Bảng câu hỏi này đã được Việt Hóa và bắt đầu được sử dụng nhiều
tại các nghiên cứu về căng thẳng nghề nghiệp tại Việt Nam [29].
1.2.3. Thang đánh giá lo âu của Zung (SAS):


9
SAS là trắc nghiệm đánh giá mức độ lo âu đo cả người tiến hành trắc
nghiệm và người được trắc nghiệm thực hiện. Bệnh nhân phải đọc thông viết
thạo, được giải thích rõ ràng cách thực hiện trắc nghiệm ngồi trong phòng
thoáng mát yên tĩnh. Bệnh nhân đọc kỹ từng đề mục (20 đề mục) đối chiếu với
trạng thái của bản thân trong vòng 1 tuần trở lại đây và đánh số phù hợp nhất
vào cột bên phải: 1 – khơng có, 2 – đơi khi, 3 – có trong phần lớn thời gian, 4 –
có trong hầu hết hoặc tất cả thời gian. Tổng điểm sẽ đi từ 20-80. Thường được
tính ra điểm tương ứng từ 25% đến 100%. Từ 40 điểm trở lên là có rối loạn lo âu
[14].
1.2.4. Thang đánh giá trầm cảm của Beck
Thang đánh giá trầm cảm của Beck ứng từ 25% đến 100%. Từ 40 điểm
trở lên. Thang đánh giá là một công cụ đánh giá chủ quan rối loạn trầm cảm
được sử dụng nhiều nhất trong nghiên cứu lâm sàng tâm thần học và dược lý,
cũng như trong lĩnh vực đa khoa và cả trong dịch tễ học, mang lại những dữ liệu
sâu sắc về tình trạng trầm cảm. Đây là một thang được đánh giá là một công cụ
cho phép các nhà lâm sàng sử dụng những ngưỡng điểm khác nhau về mức độ
nặng của rối loạn trầm cảm đã được Beck khuyến cáo như sau:

+ Điểm tổng cộng đến dưới 13 điểm: không có trầm cảm.
+ Điểm tổng cộng từ 14-19 điểm: trầm cảm nhẹ .
+ Điểm tổng cộng từ 20-29 điểm: trầm cảm vừa.
+ Điểm tổng cộng từ 30 điểm trở lên: trầm cảm nặng.
Như vậy, ngưỡng điểm tổng cộng của thang Beck là 14 được nhiều tác
giả chấp thuận, để xác định bệnh nhân có biểu hiện bệnh lý rối loạn trầm cảm.
Có thể nói đây là một công cụ được các bệnh nhân chấp nhận tốt và sử dụng dễ
dàng, vì nó ngắn ngọn [4] [14]
1.2.5. Thang đánh giá trầm cảm PHQ–9 và thang đánh giá lo âu GAD-7
Bài kiểm tra trầm cảm PHQ-9 được hai bác sĩ Spitzer Williams và
Kroenke hợp tác tạo nên. Hệ thống nội dung bài kiểm tra trầm cảm PHQ-9 bao
gồm 9 câu hỏi. Mỗi câu hỏi có sẵn 4 đáp án để người thực hiện bài test lựa chọn.


10
Điểm của các câu hỏi dao động từ 0 (không có), 1 (vài ngày), 2 (hơn một nửa số
ngày), và 3 (hầu như hàng ngày). Tổng điểm dao động từ 0 đến 27. Sau khi thực
hiện bài kiểm tra, cộng dồn tổng điểm đạt được rồi sau đó tra kết quả theo thang
điểm. Tổng điểm nhỏ hơn 5 điểm là không có dấu hiệu trầm cảm, bắt đầu từ 5
điểm là đã có dấu hiệu trầm cảm. Trên 19 điểm là tình trạng trầm cảm nặng
nhất. Theo đánh giá, bài kiểm tra trầm cảm PHQ-9 được thiết kế nhằm sàng lọc
và hỗ trợ theo dõi tình trạng đáp ứng điều trị của người bệnh. Bảng PHQ-9 được
sử dụng như là một công cụ kép, vừa phát hiện trầm cảm và vừa phản ánh được
mức độ nặng của trầm cảm. Nhiều nghiên cứu đánh giá độ giá trị và độ tin cậy
của nó trong việc chẩn đoán và đánh giá độ nặng và theo dõi đáp ứng điều trị đ ã
được công bố [17].
GAD-7 là một bảng câu hỏi gồm 7 câu hỏi được phát triển để sàng lọc
Rối loạn Lo âu Chung (GAD) và đánh giá mức độ nghiêm trọng của nó. GAD-7
yêu cầu những người tham gia đánh giá tần suất họ gặp phải 7 triệu chứng cốt
lõi về lo âu trong 2 tuần. Các danh mục phản hồi là “hoàn toàn không có”, “vài

ngày”, “hơn nửa số ngày trong tuần” và “gần như mọi ngày”, được ghi tương
ứng là 0, 1, 2 và 3. Tổng điểm của GAD-7 nằm trong khoảng từ 0 đến 21. Trong
số các bệnh nhân chăm sóc ban đầu và người dân nói chung, GAD-7 đã chứng
minh được tính nhất quán tốt, độ tin cậy cao trong các nghiên cứu được thực
hiện tại các phòng khám chăm sóc sức khỏe ban đầu [32].
Căn cứ theo đối tượng và địa điểm nghiên cứu, tôi quyết định sử dụng
thang đánh giá trầm cảm PHQ–9 và thang đánh giá lo âu GAD-7 do thang đo có
tính chất phù hợp với mục đích nghiên cứu, đối tượng nghiên cứu, đồng thời
cũng dễ tiếp cận, có độ tin cậy cao và đã được việt hóa để đo trạng thái lo âu,
trầm cảm của nhân viên y tế.
1.3. Nghiên cứu về lo âu, trầm cảm của nhân viên y tế
1.3.1. Nghiên cứu về lo âu, trầm cảm của nhân viên y tế trên thế giới
Trên thế giới, các nghiên cứu về lo âu, trầm cảm ở nhân viên y tế là khá
phổ biến. Đặc biệt là trong đợt dịch Covid-19, vấn đề sức khỏe tinh thần của


11
nhân viên y tế càng được quan tâm hơn. Nghiên cứu của Nobuyasu Awano
(2020) về “Lo âu, trầm cảm và khả năng phục hồi của nhân viên y tế ở Nhật Bản
trong đợt bùng phát dịch bệnh Covid-19” được thực hiện trên 848 nhân viên y tế
tại Trung tâm Y tế Chữ thập đỏ Nhật Bản, sử dụng thang đánh giá rối loạn lo âu
GAD-7 và Thang đo trầm cảm của Trung tâm nghiên cứu dịch tễ học (CES-D),
kết quả cho thấy có 10% người tham gia có biểu hiện lo âu từ trung bình đến
nặng và tỉ lệ trầm cảm của ĐTNC là 27,9% [41].
Nghiên cứu của 03 tác giả Sverre Urnes Johnson, Omid V Ebrahimi, Asle
Hoffart (2020) sử dụng bộ câu hỏi đánh giá trầm cảm PHQ-9 và thang đánh giá
rối loạn lo âu GAD-7, được thực hiện trên 1773 nhân viên y tế tuyến đầu tại Na
Uy trong đợt bùng phát dịch COVID-19, nghiên cứu cho kết quả 21,5% NVYT
có biểu hiện lo âu ở mức vừa và nặng; 20,5% NVYT có biểu hiện trầm cảm
[45].

Nghiên cứu của Mark.G và cộng sự năm 2011 trên 870 điều dưỡng ở
miền nam nước Anh cho thấy tỷ lệ căng thẳng nghề nghiệp trong nhóm này là
27,3% [36].
Nghiên cứu của Creedy D.K (2017) sử dụng thang đo là DASS 21 đã
khảo sát tình trạng stress, lo âu, trầm cảm trên 1037 điều dưỡng/nữ hộ sinh tại
Australia, cho kết quả tỉ lệ stress là 22,1%, 17,3% trầm cảm và 20,4% lo âu.
Nghiên cứu cũng đưa ra ý kiến rằng các RLTT của NVYT có liên quan nhiều
đến các đặc điểm công việc, tuy nhiên nghiên cứu chưa đi vào phân tích kĩ các
yếu tố này [32].
Một số kết quả nghiên cứu trên thế giới cho thấy tỉ lệ căng thẳng ở bác sĩ,
điều dưỡng dao động từ 51,8% đến 62,96% bao gồm:
Nghiên cứu của BauerJ và cộng sự năm 2016 trên 354 bác sĩ ở các Bệnh
viện Đức cho thấy tỉ lệ bác sĩ có căng thẳng là 52% [29].


12
Nghiên cứu của Beschoner P và cộng sự năm 2016 nhằm đánh giá các
liên quan về giới tính đến tình trạng trầm cảm, căng thẳng trong công việc của
các bác sĩ cho thấy tỉ lệ bác sĩ mắc căng thẳng là 51,8% [30].
1.3.2. Nghiên cứu về lo âu, trầm cảm của nhân viên y tế tại Việt Nam
Tại Việt Nam, các nghiên cứu về sức khỏe tâm thần bắt đầu được chú ý
trong những năm gần đây, tuy nhiên các nghiên cứu về lo âu và trầm cảm của
NVYT vẫn còn hạn chế, chủ yếu là các nghiên cứu về stress nghề nghiệp. Đồng
thời các nghiên cứu chủ yếu được thực hiện trên nhóm trong hệ điều trị, các
nghiên cứu thực hiện ở nhóm trong hệ dự phòng vẫn còn hạn chế.
Nghiên cứu của Trần Thị Thu Thủy và Nguyễn Thị Hương Liên trên
nhóm 600 điều dưỡng tại bệnh viện Việt Đức Hà Nội năm 2015 cho thấy tỷ lệ
căng thẳng nghề nghiệp chỉ ở mức 18,5%. Nghiên cứu sử dụng thang đo
DASS21 của quỹ tâm lý Úc [20].
Nghiên cứu của Nguyễn Thị Bích Liên (2016) cho kết quả nhân viên Y tế

làm việc tại trung tâm phòng chống HIV/AIDS có tỷ lệ stress ở mức cao là
22,2%; mức trung bình là 66,7% và mức thấp là 11,1% [10].
Các nghiên cứu mới nhất năm 2017 và 2018 cho thấy tỷ lệ căng thẳng
nghề nghiệp dường như có xu hướng gia tăng. Nghiên cứu của Trần Văn Thơ
năm 2017 về tình trạng căng thẳng của nhóm điều dưỡng viên bệnh viện tại
bệnh viện Nhi Trung Ương cho thấy có đến 42,5% điều dưỡng viên lâm sàng có
tình trạng căng thẳng [19]. Trong khi đó, tỷ lệ căng thẳng của nhóm bác sĩ công
tác tại bệnh viện E Hà Nội theo nghiên cứu của Lê Văn Tuấn là 25% cũng được
sử dụng thang đo DASS 21 [24]. Nghiên cứu của Lê Thị Huệ năm 2018 ở nhân
viên y tế bệnh viện phong Tuy Hòa cho thấy tỷ lệ căng thẳng nghề nghiệp của
Bác sĩ và điều dưỡng Bệnh viện Phong – Da liễu Trung ương Quy Hòa năm
2018 là 6,4% [7].
Nghiên cứu của tác giả Nguyễn Mạnh Tuân và cộng sự (2018) sử dụng
thang đo DASS 21, được tiến hành tại BV Trưng Vương nhằm đánh giá tình


13
trạng stress, trầm cảm, lo âu của toàn bộ 650 NVYT tại BV. Kết quả cho thấy tỉ
lệ stress là 10,5%, trong đó, có 6,9% ở mức độ vừa, 3,4% mức độ nặng và 0,2%
mức độ stress rất nặng. Có 20,8% mẫu nghiên cứu có biểu hiện trầm cảm, mức
độ vừa chiếm tỉ lệ 15,4%, 1,9% trầm cảm ở mức độ rất nặng. Tỉ lệ lo âu ở
NVYT ghi nhận trong nghiên cứu là 31,5%, chủ yếu là lo âu mức độ vừa với
21,8%, có khoảng 4,6% mẫu nghiên cứu có tình trạng lo âu ở mức độ rất nặng
[23].
Nghiên cứu của Vũ Bá Quỳnh (2018) về “Thực trạng stress của điều
dưỡng khoa ngoại, Bệnh viện trung ương quân đội 108” cho thấy tỷ lệ trầm cảm
ở các đối tượng này là 29,3%, lo âu là 43% và stress là 33,7%. Nữ điều dưỡng
có tỷ lệ trầm cảm (31,4%), lo âu (46,2%) và stress (35,9%) cao hơn so với nam
điều dưỡng (tương ứng 33,8%, 23,4% và 23,7%). Tỷ lệ trầm cảm, lo âu và stress
mức nặng và rất nặng tương ứng là 3,3%, 11,4% và 7,3% [15].

Nghiên cứu của Nguyễn Bạch Ngọc, Vũ Mai Lan (2019) về “Stress, trầm
cảm, lo âu ở nhân viên điều dưỡng khối nội tại một bệnh viện hạng 1” cho kết
quả tỷ lệ lo âu: 43,2%, trầm cảm: 24,5% [13].
Nghiên cứu về “Stress, trầm cảm, lo âu và một số yếu tố liên quan của
điều dưỡng tại Bệnh viên Nhi trung ương năm 2019” của Nguyễn Thị Minh
Huyền và Nguyễn Bạch Ngọc cho kết quả tỷ lệ điều dưỡng có dấu hiệu stress,
trầm cảm, lo âu lần lượt là: 23,6%; 27,4%; 41,6%. Mức độ stress, trầm cảm và
lo âu nặng và rất nặng của các đối tượng nghiên cứu lần lượt là 10,5%, 14,0% và
56,6%. Các đối tượng nữ có dấu hiệu stress, trầm cảm và lo âu (tỷ lệ lần lượt là
24,5%; 28,4% và 44,3%) cao hơn nam giới (tỷ lệ lần lượt là 20,5%; 24,1% và
32,5%). Nghiên cứu đã phân tích được một số yếu tố liên quan đến stress của
đối tượng nghiên cứu, gồm:
Những điều dưỡng có trình độ học vấn trung cấp/cao đẳng có khả năng có
dấu hiệu stress cao gấp 5,1 lần so với những điều dưỡng có trình độ sau đại học
(p<0,05).
Những người không được hỗ trợ từ gia đình, bạn bè có khả năng mắc


14
stress cao gấp 2,5 lần những người được hỗ trợ từ gia đình, bạn bè (p<0,001).
Những người không hài lòng với công việc có khả năng mắc stress cao
gấp 2,7 lần người hài lòng với công việc (p<0,01).
Nghiên cứu này chưa tìm thấy mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa
stress với các yếu tố tuổi tác, giới tính, thói quen uống rượu bia, thuốc lá, tần
suất trực và thâm niên công tác.
Nhìn chung các nghiên cứu trong nước và nhóm nghiên cứu tham khảo
được giữa các đối tượng nghiên cứu có mức độ stress, lo âu, trầm cảm khác
nhau. NVYT có tỷ lệ stress trung bình khoảng 30-40% và đa số các nghiên cứu
sử dụng bộ công cụ DASS 21 để đánh giá [8].
1.4. Các yếu tố liên quan đến lo âu, trầm cảm ở nhân viên y tế.

Nghiên cứu của Ngô Thị Kiều My và cộng sự (2014) tiến hành trên 370
điều dưỡng và hộ sinh khối lâm sàng BV Phụ Sản – Nhi Đà Nẵng, sử dụng bộ
công cụ chuẩn DASS 21 của Lovibond để đánh giá tình trạng stress, lo âu, trầm
cảm. Kết quả cho thấy tỉ lệ điều dưỡng, hộ sinh khối lâm sàng bị stress, lo âu,
trầm cảm lần lượt là 18,1%, 33,2%, 18,4%. Kết quả phân tích hồi quy logistic đa
biến cho thấy một số yếu tố liên quan với stress là công việc hiện tại chưa ổn
định, diện tích nơi làm việc chật chội, quan hệ với cấp trên chưa tốt; các yếu tố
liên quan với lo âu gồm không luyện tập thể dục, gặp biến cố cá nhân, tình trạng
sức khoẻ không tốt, chưa công bằng trong đánh giá công việc; các yếu tố liên
quan với trầm cảm bao gồm tình trạng sức khoẻ không tốt, chưa tự chủ trong
công việc, ít tham gia hoạt động văn thể mỹ tại bệnh viện, quan hệ với cấp trên
không tốt [12].
Kết quả phân tích hồi quy đa biến theo nghiên cứu của tác giả Nguyễn
Mạnh Tuân và cộng sự (2018) tại BV Trưng Vương, xác định được các yếu tố
ảnh hưởng đến stress ghi nhận là việc kiêm nhiệm quản lý, áp lực công việc và
công việc đơn điệu. Đối với tình trạng trầm cảm, áp lực công việc cao và việc
cảm thấy không hài lòng về nơi làm việc là 2 yếu tố tác động chính làm tăng tỉ lệ


15
trầm cảm sau khi phân tích đa biến. Không hài lòng với môi trường làm việc,
nơi làm việc và áp lực công việc cao là những nguyên nhân chủ yếu làm gia tăng
tỉ lệ lo âu ở NVYT. Đồng thời nghiên cứu cũng đi vào phân tích mối liên quan
giữa các yếu tố cá nhân với tình trạng stress, lo âu, trầm cảm, tuy nhiên kết quả
nghiên cứu chỉ ra rằng không tìm thấy mối liên quan giữa stress, lo âu, trầm cảm
với tuổi, giới, trình độ chuyên môn, tổng thu nhập bình quân hàng tháng [23].
Nghiên cứu của Nguyễn Bạch Ngọc, Vũ Mai Lan (2019) về “Stress, trầm
cảm, lo âu ở nhân viên điều dưỡng khối nội tại một bệnh viện hạng 1” đã phân
tích được một số yếu tố liên quan đến tình trạng stress ở đối tượng nghiên cứu,
gồm không/hơi không hài lòng với cuộc sống gia đình (OR=3,24;

95%CI=1,252-8,422; p<0,05), thường xuyên đối mặt với cái chết của người
bệnh (OR=1,801, 95%CI=1,047-3,099; p<0,05), thường xuyên bị bạo lực bệnh
viện (OR=4,205, 95%CI=2,103-8,406; p<0,001), mức độ lắng nghe của cấp trên
không tí nào/đôi khi (OR=2,275, 95%CI=1,306-3,962; p<0,05), bị stress công
việc (OR=3,12, 95%CI: 1,789-5,453, p< 0,05), phản ứng cơ thể nhiều
(OR=2,68; 95%CI: 1,121-6,429; p<0,05), ít được hỗ trợ của xã hội (OR=1,77;
95%CI: 1,030-3,046; p<0,05) [13].
Nghiên cứu của Vũ Bá Quỳnh (2018 ) đã xác định được một số yếu tố
liên quan đến stress ở nhân viên điều dưỡng khối Ngoại bao gồm: Làm việc tiếp
xúc với nguy cơ lây nhiễm bệnh cao (OR = 1,6, p< 0,05); tiếp xúc thường xuyên
với tiếng ồn (OR = 1,9, p< 0,05), có nhiều áp lực trong cơng việc (OR = 2,6, p<
0,02), chăm sóc các ca bệnh nặng, phức tạp (OR = 2.1, p< 0,02), không có cơ
hội thăng tiến (OR = 1,8, p< 0,02), khơng hài lịng với thu nhập (OR = 2,6, p<
0,001), không nghỉ phép cho mục đích nghỉ ngơi, du lịch (OR = 1,9, p< 0,01)
[15].
1.5. Giới thiệu địa điểm nghiên cứu.
Quận Thanh Xuân nằm ở cửa ngõ phía Tây Nam của Thủ đô Hà Nội có
diện tích 9,2km2 gồm 11 phường. Với dân số là 282,678 người và mật độ dân số
lớn thứ 2 của Hà Nội [3].


×