Tải bản đầy đủ (.pdf) (55 trang)

Thực trạng kiến thức, thực hành về quy trình tiêm an toàn của điều dưỡng bệnh viên mê linh năm 2021

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (937.17 KB, 55 trang )

BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐIỀU DƯỠNG NAM ĐỊNH

CHU VĂN HẢI

THỰC TRẠNG KIẾN THỨC, THỰC HÀNH VỀ QUY TRÌNH
TIÊM AN TOÀN CỦA ĐIỀU DƯỠNG BỆNH VIỆN MÊ LINH
NĂM 2021

BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP

NAM ĐỊNH, 2021


BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐIỀU DƯỠNG NAM ĐỊNH

CHU VĂN HẢI
THỰC TRẠNG KIẾN THỨC, THỰC HÀNH VỀ QUY TRÌNH
TIÊM AN TOÀN CỦA ĐIỀU DƯỠNG BỆNH VIỆN MÊ LINH
NĂM 2021

Chuyên ngành: Điều dưỡng nội người lớn
BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: TS ĐỖ MINH SINH

NAM ĐỊNH, 2021


i


LỜI CẢM ƠN

Trong quá trình học tập, nghiên cứu và thực hiện báo cáo chuyên đề, tôi
đã nhận được sự hướng dẫn cũng như sự giúp đỡ, động viên của các thầy cô
giáo, các đồng nghiệp tại Bệnh viện Đa khoa Mê Linh, gia đình và bạn bè.
Đến nay, báo cáo chun đề đã được hồn thành.
Với sự kính trọng và lịng biết ơn sâu sắc, tơi xin bày tỏ lòng biết ơn trân
thành tới: TS. Đỗ Minh Sinh, Trường Đại học Điều dưỡng Nam Định là
người thầy đã tận tình chỉ bảo, hướng dẫn và giúp đỡ tơi trong suốt thời gian
thực hiện và hoàn thành báo cáo chuyên đề.
Tơi xin trân trọng cảm ơn Ban Giám hiệu, phịng Đào tạo Sau Đại học,
các phòng ban và các thầy cô giáo Trường Đại học Điều dưỡng Nam Định đã
cho tôi kiến thức, những kinh nghiệm quý báu và tạo điều kiện, giúp đỡ tôi
trong thời gian học tập tại trường.
Tơi cũng xin bày tỏ lịng biết ơn chân thành nhất đến Ban Giám đốc, các
đồng nghiệp tại Bệnh viện Đa khoa Mê Linh đã tận tình giúp đỡ và tạo điều
kiện để tơi có thể hồn thành tốt khóa học này.
Tơi cũng bày tỏ lịng biết ơn trân thành và sâu sắc tới gia đình, đồng
nghiệp, bạn bè và tập thể lớp Chuyên khoa cấp I khóa 8 những người đã giành
cho tơi tình cảm và nguồn động viên khích lệ.

Hà nội, tháng 9 năm 2021
Học viên

CHU VĂN HẢI


ii

LỜI CAM ĐOAN

Tôi là Chu Văn Hải học viên lớp điều dưỡng chuyên khoa I khóa 8,
Trường Đại học Điều Dưỡng Nam Định xin cam đoan đây là báo cáo chuyên
đề của riêng tôi. Nội dung trong bài báo cáo này hồn tồn trung thực, khách
quan và chưa được cơng bố trongbất cứ một cơng trình nào khác.
Báo cáo này do bản thân tôi thực hiện dưới sự hướng dẫn của giáo viên
hướngdẫn. Nếu có điều gì sai trái tơi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà nội, tháng 9 năm 2021
Học viên

CHU VĂN HẢI


iii

MỤC LỤC

LỜI CẢM ƠN ..........................................................................................................i
LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................... ii
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT ..............................................................................iv
DANH MỤC BẢNG ............................................................................................... v
ĐẶT VẤN ĐỀ......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ................................................. 3
1.1. Cơ sở lý luận .................................................................................................... 3
1.2. Cơ sở thực tiễn................................................................................................ 11
Chương 2............................................................................................................... 21
CHƯƠNG 2: MÔ TẢ VỀ VẤN ĐỀ CẦN GIẢI QUYẾT ...................................... 21
Chương 3............................................................................................................... 30
BÀN LUẬN .......................................................................................................... 30
KẾT LUẬN ........................................................................................................... 35
ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP .......................................................................... 36

TÀI LIỆU THAM KHẢO .........................................................................................
PHỤ LỤC..................................................................................................................


iv

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
BKT

: Bơm kim tiêm

BV

: Bệnh viện

BVĐK

: Bệnh viện đa khoa

CTSN

: Chất thải sắc nhọn

ĐD

: Điều dưỡng

ĐDV

: Điều dưỡng viên


ĐTNC

: Đối tượng nghiên cứu

KBCB

: Khám bệnh, chữa bệnh

KSNK

: Kiểm soát nhiễm khuẩn

NCV

: Nghiên cứu viên

NVYT

: Nhân viên y tế

SK

: Sát khuẩn

TAT

: Tiêm an toàn

VST


: Vệ sinh tay

WHO

: Tổ chức Y tế Thế giới

KHHGĐ

: Kế hoạch hóa gia đình

TTTT

: Thu thập thơng tin


v

DANH MỤC BẢNG
Bảng 1.

Một số đặc điểm của đối tượng nghiên cứu .......................................... 21

Bảng 2.

Kiến thức chung về tiêm an tồn đạt theo từng tiêu chí ........................ 22

Bảng 3.

Kiến thức chuẩn bị người bệnh của điều dưỡng viên đạt theo từng tiêu

chí........................................................................................................ 23

Bảng 4.

Kiến thức của điều dưỡng về dụng cụ và thuốc tiêm đạt theo từng tiêu
chí........................................................................................................ 24

Bảng 5.

Các bước thực hành tiêm an toàn của điều dưỡng ................................. 25

Bảng 6.

Các bước thực hành tiêm an toàn của điều dưỡng viên ...........................27


1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong Y tế an toàn là nền tảng của chất lượng trong chăm sóc sức khỏe con
người và an toàn bệnh nhân là một vấn đề ưu tiên hàng đầu đối với thực hành y
khoa. Một trong những tiêu chí quan tâm nhất để đảm bảo an tồn người bệnh chính
là Tiêm an tồn. Tiêm có vai trị rất quan trọng trong cơng tác chăm sóc và điều trị
đặc biệt là đối với bệnh nhân cấp cứu hoặc bệnh nặng đe doạ đến tính mạng.Tổ
chức Y tế thế giới WHO định nghĩa: Mũi tiêm an toàn (TAT) là an toàn cho người
bệnh, an toàn cho nhân viên y tế và an tồn cho cộng đồng[1].
Tiêm khơng an tồn gây ra các tác động mang tính tồn cầu bao gồm: sức
khỏe, kinh tế, gánh nặng tâm lý, xã hội và các lĩnh vực khác ở nhiều cấp độ khác
nhau (cá nhân, gia đình, cộng đồng, quốc gia…). Trên thế giới, hàng năm có khoảng
16 tỷ mũi tiêm được thực hiện và có tới 50% mũi tiêm tại các nước đang phát triển
khơng đạt đủ tiêu chí mũi tiêm an tồn. Năm 2000, tiêm khơng an tồn là ngun

nhân dẫn đến 21 triệu người nhiễm bệnh viêm gan B, 2 triệu người nhiễm viêm gan
C và 260 nghìn người nhiễm HIV [2].
Tại Việt Nam, một số tai biến trong tiêm xảy ra tại các cơ sở y tế đã gây hậu
quả khơng nhỏ làm ảnh hưởng đến tính mạng, sức khỏe của NB, nhân viên y tế
(NVYT) và cộng đồng làm ảnh hưởng đến chất lượng khám bệnh, chữa bệnh
(KBCB) và uy tín của ngành. Đã có rất nhiều nghiên cứu đã chỉ ra 2 rằng kiến thức
và thực hành TAT của ĐDV tại các BV còn nhiều hạn chế. Vì vậy, trước thực trạng
đó, Bộ Y tế đã ban hành Hướng dẫn tiêm an toàn tại Quyết định số 3671/QĐ-BYT
ngày 27 tháng 9 năm 2012 nhằm cung cấp những kiến thức và kỹ năng trong thực
hành TAT để triển khai áp dụng thống nhất trong tất cả các cơ sở KBCB, cơ sở đào
tạo cán bộ y tế và các cá nhân liên quan. Ngày 18 tháng 11 năm 2016 Bộ Y tế đã
ban hành Quyết định 6858/QĐ - BYT về bộ tiêu chí đánh giá chất lượng bệnh viện
phiên bản 2.0 gồm 83 tiêu chí. Trong đó chỉ số tiêm an toàn là một trong mười một
chỉ số chăm sóc của cơng tác điều dưỡng.
Tại Bệnh viện đa khoa huyện Mê Linh, năm 2010 đã tiến hành nghiên cứu
thực trạng mũi tiêm an toàn của ĐDV. Tuy nhiên trong những năm gần đây qua các
đợt kiểm tra quy chế đánh giá chất lượng bệnh viện và các báo cáo hàng tháng lên
phòng điều dưỡng cho thấy các mũi tiêm đạt an toàn chưa cao do nhiều yếu tố tác


2

động vào việc đảm bảo thực hiện các mũi tiêm an toàn của ĐDV. Tại thời điểm
hiện tại, Bệnh viện đa khoa huyện Mê Linh đang trong thời gian sửa chữa nâng cấp
hạ tầng do đó mặt bằng các khoa điều trị bị thu hẹp lại rất nhiều, số lượng bệnh
nhân ln trong tình trạng q tải, thời gian làm việc chuyên môn của điều dưỡng bị
thu hẹp do tăng số lượng cơng việc thủ tục hành chính và áp dụng phần mềm máy
tính vào cơng tác quản lý và điều trị bệnh nhân nội trú chưa thay thế được hoàn toàn
hồ sơ bệnh án giấy… Những vấn đề này đã trực tiếp ảnh hưởng tới thời gian công
tác chuyên môn của điều dưỡng và gây ra những hạn chế trong thực hành Tiêm an

toàn. Mặt khác tiêm an toàn là một chỉ số quan trọng trong công tác đánh giá chất
lượng của bệnh viện hàng năm. Đại đa số các mũi tiêm ở các khoa lâm sàng chủ yếu
là tiêm tĩnh mạch. Vì vậy nhóm nghiên cứu chúng tơi tiến hành thực hiện nghiên
cứu về tiêm an toàn với quy trình tiêm tĩnh mạch và tìm hiểu các yếu tố liên quan
đến việc thực hiện các mũi tiêm an toàn đối với ĐDV trong khối lâm sàng của bệnh
viện đa khoa huyện Mê Linh với mục tiêu như sau:
1. Mô tả thực trạng kiến thức, thực hành về quy trình tiêm an tồn của điều
dưỡng các khoa lâm sàng bệnh viện đa khoa huyện Mê Linh năm 2020
2. Đề xuất một số giải pháp nâng cao kiến thức thực hành về quy trình tiêm
an tồn của điều dưỡng các khoa lâm sàng tại BVĐK huyện Mê Linh


3
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Các định nghĩa và khái niệm sử dụng trong nghiên cứu
1.1.1.1. Định nghĩa tiêm an toàn
Tiêm an toàn là quy trình tiêm khơng gây nguy hại cho người nhận mũi tiêm,
không gây phơi nhiễm cho người thực hiện mũi tiêm và không tạo chất thải nguy
hại cho người khác và cộng đồng [1].
1.1.1.2. Định nghĩa về tiêm tĩnh mạch
Là kỹ thuật dùng kim đưa thuốc, dịch vào tĩnh mạch với góc tiêm 30° so với
mặt da. Khi tiêm chọn tĩnh mạch nổi rõ, mềm mại, không di động, da vùng tiêm
nguyên vẹn [1].
1.1.1.3.Một số khái niệm sử dụng trong nghiên cứu
* Bơm tiêm vô khuẩn:
Là bơm tiêm đã được tiệt khuẩn, còn hạn dùng, được đựng trong túi cịn
ngun vẹn, kim tiêm khơng chạm vào các đồ vật hoặc tay trước khi tiêm
* Vệ sinh tay:

Thực hiện theo hướng dẫn tại cơng văn số 7517/BYT-ĐT: Hướng dẫn quy
trình rửa tay thường quy và sát khuẩn tay nhanh bằng dung dịch chứa cồn và 05 thời
điểm rửa tay:
- Trước khi tiếp xúc với người bệnh;
- Trước khi làm thủ thuật vô khuẩn;
- Sau khi tiếp xúc với máu và dịch tiết;
- Sau khi tiếp xúc với người bệnh;
- Sau khi tiếp xúc với những vùng xung quanh bệnh nhân [3].
* Chất sát khuẩn
Các chất chống vi khuẩn (ngăn ngừa nhiễm khuẩn với mô sống hoặc da).
Chất này khác với chất kháng sinh sử dụng để tiêu diệt hoặc kìm hãm sự phát
triển của vi khuẩn một cách đặc hiệu và khác với chất khử khuẩn dụng cụ. Một
số loại chất sát khuẩn (SK) là chất diệt khuẩn thực sự, có khả năng tiêu diệt vi
khuẩn trong khi một số loại chất SK khác chỉ có tính năng kìm hãm, ngăn ngừa


và ức chế sự phát triển của chúng [1].

4

* Sát khuẩn và chuẩn bị vùng da tiêm
+ Sử dụng kẹp không mấu vô khuẩn để gắp bông gạc tẩm cồn: Khi sát khuẩn
không được chạm kẹp vào da người bệnh.
+ Sát khuẩn da vùng tiêm theo hình xốy ốc từ trong ra ngồi với đường kính
10cm cho đến khi sạch.
+ Thời gian sát khuẩn 30 giây, để da tự khô hồn tồn rồi mới tiêm.
+ Khơng chạm tay hoặc vật dụng không vô khuẩn vào vùng da đã được sát
khuẩn.
*Dung dịch sát khuẩn tay có chứa cồn
Dịch pha chế có chứa cồn dưới dạng chất lỏng, gel hoặc kem bọt dùng để

xoa/chà tay nhằm tiêu diệt hoặc làm giảm sự phát triển của vi sinh vật. Các loại
dung dịch này có thể chứa một hoặc nhiều loại cồn pha theo công thức được công
nhận của các hãng dược phẩm [1].
* Dự phòng sau phơi nhiễm
Biện pháp ngăn ngừa lây truyền các tác nhân gây bệnh đường máu sau phơi
nhiễm.
* Kỹ thuật vô khuẩn
Là các kỹ thuật không làm phát sinh sự lan truyền của vi khuẩn trong quá trình
thực hiện như: vệ sinh tay (VST), mang trang phục phòng hộ cá nhân, sử dụng chất
khử khuẩn da, cách mở các bao gói vơ khuẩn, cách sử dụng dụng cụ vơ khuẩn.
* Mũi tiêm an toàn trong nghiên cứu
Mũi tiêm an toàn trong nghiên cứu là mũi tiêm đạt đủ 17 tiêu chuẩn thực hành
trong bảng kiểm đánh giá thực hành TAT [4]. Cụ thể:
1. Bơm kim tiêm vơ khuẩn
2. Có sử dụng xe tiêm khi đi tiêm
3. Có sử dụng khay tiêm khi đi tiêm
4. Có hộp đựng vật sắc nhọn ở gần nơi tiêm
5. Rửa tay, sát khuẩn tay nhanh trước khi chuẩn bị thuốc
6. Rửa tay, sát khuẩn tay nhanh trước khi đưa kim tiêm qua da
7. Mang găng khi tiêm tĩnh mạch, truyền dịch, truyền máu
8. Kim lấy thuốc đảm bảo vô khuẩn


9. Tiêm thuốc đúng chỉ định

5

10. Tiêm thuốc đúng thời gian
11. Tiêm đúng vị trí
12. Tiêm đúng góc kim so với mặt da

13. Tiêm đúng độ sâu
14. Rút pittông kiểm tra trước khi bơm thuốc
15. Bơm thuốc đảm bảo hai nhanh một chậm
16. Không dùng hai tay đậy nắp kim
17. Cô lập ngay bơm kim tiêm đã nhiễm khuẩn trong hộp an tồn.
*Ngun tắc thực hành tiêm:[1]
- Khơng gây nguy hại cho người nhận mũi tiêm:
+Chuẩn bị đầy đủ phương tiện, dụng cụ thuốc tiêm.
+Thực hiện 05 đúng bao gồm: đúng người bệnh, đúng thuốc, đúng liều
lượng, đúng thời điểm, đúng đường tiêm.
+Phòng và chống sốc: Trước khi tiêm cần hỏi về tiền sử dị ứng của người
bệnh.Luôn mang theo hộp chống sốc khi tiêm. Khi tiêm cần bơm chậm, vừa bơm
vừa quan sát sắc mặt người bệnh. Sau khi tiêm nên để người bệnh nằm hoặc ngồi tại
chỗ 10-15 phút.
+ Phịng tránh xơ hóa cơ hoặc đâm kim vào dây thần kinh: Xác định đúng vị
trí tiêm, tiêm đúng góc độ và độ sâu.
+ Các phịng ngừa khác: Đảm bảo đúng kỹ thuật vô khuẩn trong tiêm truyền,
hỏi người bệnh về tiền sử dùng thuốc để tránh tương tác thuốc. Sử dụng thuốc tiêm
một liều. Nếu phải sử dụng thuốc tiêm nhiều liều, cần sử dụng kim lấy thuốc vô
khuẩn và không lưu kim trên lọ thuốc. Không pha trộn 2 hoặc nhiều loại thuốc vào
một loại bơm kim tiêm (BKT). Không dùng một kim tiêm để lấy nhiều loại thuốc.
- Không gây nguy hại cho người tiêm:
+Nguy cơ bị phơi nhiễm do máu hoặc do kim tiêm/vật sắc nhọn đâm
 Mang găng khi có nguy cơ tiếp xúc với máu hoặc dịch tiết của người bệnh
 Dùng gạc bẻ ống thuốc
 Không dùng tay đậy nắp kim
 Bỏ BKT vào thùng kháng thủng ngay sau khi tiêm. Không tháo rời kim tiêm
ra khỏi bơm tiêm sau khi tiêm



6

 Không để vật sắc nhọn (VSN) đầy quá 3/4 hộp kháng thủng
 Khi bị phơi nhiễm VSN, cần xử lý, khi báo ngay.
+ Nguy cơ bị đổ lỗi trách nhiệm cho người tiêm
 Thơng báo, giải thích rõ cho người nhà hoặc người bệnh trước khi tiêm
 Kiểm tra y lệnh trong hồ sơ bệnh án (trừ trường hợp cấp cứu)
 Đánh giá tình trạng người bệnh trước, trong và sau khi tiêm
 Pha thuốc trước sự chứng kiến của người nhà, người bệnh
 Giữ lại lọ thuốc có ghi tên người bệnh đến hết ngày tiêm để làm vật chứng
 Ghi phiếu chăm sóc
+ Khơng gây nguy hại cho cộng đồng:
 Chuẩn bị hộp kháng thủng để đựng VSN.
 Tạo thói quen cho người tiêm: bỏ ngay BKT vào hộp kháng thủng ngay sau
khi tiêm.
 Thu gom và bảo quản BKT đã sử dụng theo đúng quy chế quản lý chất thải y
tế.
*Mũi tiêm khơng an tồn trong nghiên cứu
Mũi tiêm khơng an tồn trong nghiên cứu là mũi tiêm có từ một tiêu chí thực
hành khơng đạt trở lên bao gồm những đặc tính sau: dùng bơm tiêm, kim tiêm
(BKT) không vô khuẩn, tiêm không đúng thuốc theo chỉ định; không thục hiện
đúng các buớc của quy trình tiêm; các chất thải, đặc biệt là chất thải sắc nhọn
(CTSN) sau khi tiêm không phân loại và cô lập ngay theo quy chế quản lý chất thải
của Bộ Y tế.
* Người điều dưỡng thực hành tiêm an toàn đúng trong nghiên cứu
Người điều dưỡng thực hành tiêm an tồn đúng trong nghiên cứu là người
điều dưỡng có cả 2 mũi tiêm quan sát đạt mũi tiêm an toàn.
*Phơi nhiễm nghề nghiệp
Phơi nhiễm nghề nghiệp là sự tiếp xúc trực tiếp với máu, dịch tiết, chất bài tiết
(trừ mồ hơi) có chứa tác nhân gây bệnh trong khi NB thực hiện nhiệm vụ dẫn đến

nguy cơ lây nhiễm bệnh [1].
*Phương tiện phòng hộ cá nhân
Phương tiện phòng hộ cá nhân (PPE) bao gồm găng tay, khẩu trang, áo khoác


7

phịng thí nghiệm, áo chồng, tạp dề, bao giày, kính bảo hộ, kính có tấm chắn
bên, mặt nạ. Mục đích sử dụng PPE là để bảo vệ NVYT, NB, người nhà NB và
NVYT khỏi bị nguy cơ phơi nhiễm và hạn chế phát tán mầm bệnh ra mơi trường
bên ngồi. Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) không khuyến cáo sử dụng khẩu trang,
găng tay, kính bảo vệ mắt, quần áo bảo vệ trong thực hiện tiêm. Các PPE này chỉ sử
dụng trong trường hợp người tiêm có nguy cơ phơi nhiễm với máu, dịch tiết, chất
tiết (trừ mồ hôi) [1].
* Thùng đựng chất thải sắc nhọn
Còn gọi là “hộp đựng chất thải sác nhọn (CTSN)”, “hộp kháng thủng” hay
“hộp an toàn”. Hộp đựng CTSN được sản xuất bằng chất liệu cứng, chống thủng,
chống rò rỉ được thiết kế để chứa CTSN một cách an tồn trong q trình thu gom,
hủy bỏ và tiêu hủy. Thùng này phải được thiết kế và quản lý theo đúng Quy chế
Quản lý chất thải y tế của Bộ Y tế [5].
* Xử lý các vật sắc nhọn sau khi tiêm
Phân loại chất thải ngay tại nguồn, cô lập ngay vật sắc nhọn vào hộp kháng
thủng đủ tiêu chuẩn, không đậy lại nắp kim, không uốn cong, bẻ gẫy kim [1].
1.1.1.4. Hậu quả và gánh nặng bệnh tật của tiêm khơng an tồn
Tiêm khơng an tồn có thể gây ra các hậu quả nghiêm trọng ảnh hưởng trực
tiếp tới tính mạng con người, kinh tế, xã hội, tâm lý và một số các lĩnh vực khác.
Thực tế là gây ra hậu quả và gánh nặng bệnh tật cho cả người nhận mũi tiêm, người
thực hiện tiêm và cộng đồng nếu như khơng có những giải pháp nhằm bảo đảm thực
hiện mũi tiêm an toàn[1].
Những nguy hại về sức khỏe và kinh tế do tiêm đã được khẳng định qua nhiều

nghiên cứu. Người ta ước tính rằng việc tiêm khơng an tồn gây thiệt hại khoảng
535 triệu USD mỗi năm cho chi phí y tế trực tiếp cho việc giải quyết những hậu quả
do tiêm khơng an tồn gây ra, tiêm khơng an tồn cũng gây nên khoảng 1,3 triệu cái
chết và làm mất đi 26 triệu năm sống [6].
* Đối với người bệnh:
Những hậu quả gây ra với tình mạng con người do tiêm khơng an tồn là
nguy cơ bị áp xe tại vị trí tiêm, chứng liệt thần kinh, phản ứng dị ứng, sốc phản vệ
và đặc biệt là nguy cơ truyền các virus qua đường máu cho người bệnh, NVYT và
cộng đồng.


8

Theo nghiên cứu “Gánh nặng toàn cầu của bệnh do tiêm bị ô nhiễm được
đưa ra trong các thiết lập chăm sóc sức khỏe” của Hauri và cộng sự cho thấy trung
bình mỗi người nhận 3,4 mũi tiêm, trong đó 39,3% sử dụng bơm tiêm dùng lại.
Tổ chức Y tế Thế giới WHO (2004) cho thấy 50% số bơm kim tiêm vẫn
được thiêu ngoài trời hoặc bán ở chợ đen và trong năm 2000 trên tồn cầu có
khoảng 21triệu ca nhiễm mới viêm gan B chiếm 32%, 2 triệu ca nhiễm mới viêm
gan C chiếm 40% và 260.000 ca nhiễm mới HIV chiếm 5% so với tổng số ca nhiễm
mới của từng loại virus đó. Tại các nước phát triển, tiêm khơng an tồn gây nên
khoảng 1/3 những trường hợp nhiễm mới HBV và là nguyên nhân chủ yếu của
những trường hợp nhiễm HCV, gây nên khoảng 2 triệu trường hợp nhiễm mới mỗi
năm chiếm trên 40% những trường hợp nhiễm HCV.
* Đối với nhân viên y tế:
Đối với nhân viên Y tế, nếu mũi tiêm khơng an tồn có thể dẫn đến những
hậu quả khó lường mà chủ yếu là các bệnh lây qua đường máu như viêm gan B;
HIV... Một mắt xích quan trọng của q trình lây bệnh từ người bệnh sang nhân
viên y tế qua đường máu là các tai nạn do vật sắc nhọn. Theo WHO, đối tượng bị
tai nạn nghề nghiệp do kim đâm vào tay chiếm tỷ lệ cao nhất là điều dưỡng (44 72%); tiếp theo là bác sỹ (28%); kỹ thuật viên xét nghiệm là 15%; hộ lý là 3 - 16%

và nhân viên hành chính chiếm khoảng 1 - 6% [7],[8].
Điều dưỡng là đối tượng nhân viên y tế đáng được quan tâm nhất khi đề cập
tới chủ đề tiêm an tồn bởi vì đây là đối tượng có ảnh hưởng lớn tới bản thân họ và
các đối tượng còn lại là người được tiêm và cộng đồng [9]. Một số nghiên cứu trước
đây về chấn thương do kim đâm cho thấy khoảng 10% đến 25% chấn thương xẩy ra
do lắp lại nắp đậy kim tiêm sau khi sử dụng. Theo nghiên cứu tại Anh năm 2004
của Mehta trong vòng 1 năm, tỷ lệ NVYT bị kim đâm là 4-5% trong đó điều dưỡng
bị kim đâm thì 23% ĐDV bị nhiễm viêm gan B, bác sĩ 15%, kỹ thuật viên 11%
nhiễm viêm gan B [2].
Trong số các NVYT không được điều trị dự phòng sau phơi nhiễm, nguy cơ
nhiễm khuẩn sau khi bị tổn thương do kim tiêm là 23%- 62% đối với HBV và 0-7%
đối với HCV [10]. Nhiễm khuẩn chéo sang NB khác và sang NVYT có thể từ tay
của NVYT, thuốc, thiết bị và dụng cụ y tế hoặc bề mặt mơi trường. Nghiên cứu
đánh giá tình hình lây nhiễm viêm gan C ở nhân viên y tế tại BV Trung ương


9

Hungary (2001) cho thấy trong số 477 nhân viên y tế được xét nghiệm máu tìm
kháng thể kháng vi rút viêm gan C thì có 2,7% nhân viên y tế có HCV dương tính,
trong đó 2,7% là điều dưỡng và 2,9% là nhân viên khác của BV, tỷ lệ nhiễm HCV
có liên quan đến yếu tố nghề nghiệp, nghĩa là thời gian làm việc tại BV càng dài thì
tỷ lệ nhiễm HCV càng lớn [11].
Việt Nam là một nước đang phát triển nằm trong khu vực Đông Nam Á - nơi
có tỷ lệ nhiễm khuẩn do tiêm khơng an tồn cao nhất thế giới (tỷ lệ nhiễm mới HBV
là 22,4%-53,6%, nhiễm mới HCV là 30,8%-59,5%, nhiễm mới HIV là 7,0%24,3%). Theo thống kê chưa đầy đủ của ủy ban phòng chống AIDS cho thấy số tai
nạn nghề nghiệp ở các phịng xét nghiệm HIV, riêng trong năm 1999 có tới 62 vụ
(trong số 695.097 mẫu xét nghiệm HIV), đây là một loại tai nạn do kim lấy máu
đâm vào tay NVYT, như vậy nguy cơ lây nhiễm bệnh HIV qua đường máu là rất
cao [8]. Bên cạnh đó, một loạt các hậu quả khác do tiêm khơng an tồn đã được ghi

nhận tại Việt Nam như tỷ lệ người bệnh bị áp xe tại vị trí tiêm, chứng liệt thần kinh,
phản ứng dị ứng, sốc phản vệ do tiêm không an toàn.
Tại Việt Nam, nghiên cứu của Nguyễn Thúy Quỳnh năm 2008, cho thấy: điều
dưỡng có tần suất phơi nhiễm cao nhất (79,6/1000 người/4 tháng, trong đó tổn
thương xuyên da là 66,7/1000 người/4tháng); đứng thứ 2 là nhóm bác sĩ (26,9/1000
người/4 tháng, trong đó tổn thương xuyên da 22,2/1000 người/4 tháng). NVYT
thường xuyên thực hiện các công việc tiêm, truyền có tần suất phơi nhiễm cao nhất
và 100% các trường hợp là tổn thương xuyên da (43,3/1000 người/4tháng) [12].
Năm 2009, tại BV Xanh Pôn nghiên cứu trên 669 nhân viên của 33 khoa
phòng lâm sàng và cận lâm sàng cho thấy tỷ lệ NVYT có xét nghiệm dương tính
HBsAg là 7,3%, tần suất phơi nhiễm chung trong quá trình làm việc là
241,5/người/năm. Tần suất phơi nhiễm cao nhất là trong nhóm NVYT phải thường
xuyên thực hiện tiêm truyền là 55,5 người/năm, nhóm điều dưỡng có tần xuất phơi
nhiễm cao nhất là 146,1 người/năm, vị trí tổn thương ngón tay chiếm 42%, thời
điểm tổn thương thường vào buổi sáng 54% trong tổng số các phơi nhiễm [13].
Các tác nhân gây bệnh qua đường máu cũng có thể là nguyên nhân gây bệnh
cho cán bộ NVYT. Theo Cục quản lý khám chữa bệnh ước tính 44% ca nhiễm
HIV, 39% ca nhiễm HBV và HCV đều do tai nạn nghề nghiệp, nhiễm khuẩn chéo
trong bệnh viện gây lên. Vì vậy tuân thủ các quy trình kỹ thuật trong TAT góp phần


đảm bảo an toàn cho người bệnh và cả

10

nhân viên y tế. Theo khỏa sát của hội

điều dưỡng Việt Nam năm 2005, chỉ có 22,5% mũi tiêm đạt thực hành an toàn.
Nguyên nhân chủ yếu là do kỹ thuật tiêm, truyền chưa đảm bảo an tồn, kỹ thuật
vơ khuẩn kém, thiếu thốn dụng cụ tiêm, dung dịch sát khuẩn tay và sự cập nhật

thông tin không kịp thời của nhân viên y tế về hướng dẫn TAT[4].
* Đối với cộng đồng:
Tiêm khơng an tồn khơng những chỉ gây hại cho NB, NVYT mà còn gây hại
cho cộng đồng. Hiện tại chưa có số liệu thống kê một cách đầy đủ về tác hại gây ra
cho cộng đồng nhưng bằng chứng thực tế cho thấy những nguy hại từ việc xử lý
BKT sau tiêm không đúng, người trong cộng đồng đã nhặt đem về tái sử dụng hoặc
bị tổn thương trong quá trình nhặt bới rác do việc phân loại và thiêu đốt BKT khơng
đúng quy trình.
Việc thu gom, xử lý không đúng dụng cụ tiêm truyền nhiễm bẩn, dẫn đến
NVYT và cộng đồng có thể phơi nhiễm nguy cơ bị thương tích do kim đâm. Tiêm
khơng an tồn gây ra tâm lý lo lắng cả người được tiêm, người thực hành tiêm và
cộng đồng về nguy cơ lây nhiễm bệnh qua đường máu, dịch, nguy cơ bị tổn thương
do VSN… Bên cạnh đó, cơ sở hạ tầng khơng tốt về xử lý rác thải y tế là nguyên
nhân khiến tiêm khơng an tồn gây tổn hại đến cộng đồng.
Tiêm khơng an toàn gây những hậu quả nghiêm trọng là những điều đã được
chứng minh, tuy nhiên một trong những điểm rất đáng chú ý của vấn đề tiêm an
toàn là khả năng phịng tránh khơng để xẩy ra mất an tồn. Theo nhận định của
Trung tâm Kiểm sốt bệnh tật của Hoa Kỳ (CDC) và WHO thì có tới 80% các rủi ro
do kim tiêm có thể phịng ngừa được bằng việc phối hợp các biện pháp hết sức đơn
giản pháp như: sử dụng trang thiết bị tiêm vô khuẩn; thực hiện đúng quy trình tiêm.
Những sự mất an tồn trong tiêm có thể được giảm nhẹ đi rất nhiều nếu mọi cá nhân
và cộng đồng hiểu rõ thực trạng về tiêm và chủ động kiểm soát các hành vi có có
nguy cơ gây hại và tiến tới loại trừ chúng ra khỏi đời sống.
1.1.1.5. Các nguy cơ dẫn đến tiêm khơng an tồn
Việc thực hiện các kỹ thuật tiêm truyền cho người bệnh có thao tác chưa
đúng trong quy trình tiêm truyền là ngun nhân chính dẫn đến mũi tiêm khơng an
tồn.
Cơng tác kiểm sốt nhiễm khuẩn khơng đảm bảo trong thực hiện kỹ thuật



tiêm truyền có nguy cơ cao dẫn đến mũi

11

tiêm khơng an tồn.

Kiến thức và thực hành tiêm an tồn cịn nhiều hạn chế cho cách tiếp cận và
cập nhật thông tin và hướng dẫn tiêm an toàn chưa đúng, đủ.
Số lượng bệnh nhân quá tải, khối lượng công việc quá nhiều dẫn đến việc
làm tắt hoặc làm theo thói quen của điều dưỡng cắt bớt một số bước khi thực hiện
tiêm, truyền cho người bệnh.
Phương tiện, dụng cụ, vật tư y tế không đảm bảo hoặc không đủ cho điều
dưỡng sử dụng trong q trình thực hiện chun mơn.
Cơ sở hạ tầng, trang thiết bị chưa hiện đại, điều kiện môi trường làm việc không
thuận tiện làm giảm ý thức tuân thủ quy trình kỹ thuật của điều dưỡng.
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Thực trạng sử dụng thuốc tiêm và hiện tượng lạm dụng tiêm
Tiêm, truyền đang trở thành một thủ thuật xâm lấn phổ biến, với số lượng mũi
tiêm lớn trong chẩn đốn, phịng bệnh và chữa bệnh. Kết quả nghiên cứu của Yan Y
và cộng sự được tiến hành tại Trung Quốc nhằm đánh giá về TAT của người dân ở
huyện Kinh Châu, Hồ Bắc cho thấy trong số 595 đối tượng nghiên cứu có 192
người đã được tiêm ít nhất 1 lần trong 3 tháng chiếm 32,3%, trung bình 0,93 mũi
tiêm/người [14]. Hauri và cộng sự năm 2004 cũng cho thấy tỷ lệ tiêm hàng năm cho
mỗi người dao động từ 1,7 đến 11,3 [7]. Tại Việt Nam, năm 2005, nghiên cứu của
Đào Thành và cộng sự được tiến hành với mục tiêu đánh giá toàn diện trên phạm vi
toàn quốc về kết quả sau 5 năm thực hiện cuộc vận động TAT toàn quốc. Qua quan
sát ngẫu nhiên 776 mũi tiêm cho thấy: tỷ lệ mũi tiêm trung bình của NB là 2,2 mũi
tiêm/người/ngày [15]. Nghiên cứu của Trần Thị Minh Phượng tại BV đa khoa Hà
Đông năm 2012 cho thấy tỷ lệ NB nội trú có tiêm chiếm 64%, trung bình mỗi NB
nhận tới 3,1 mũi tiêm/ngày [16].

Thực tế cho thấy, việc lạm dụng tiêm truyền đang trở thành một vấn đề báo
động tại một số nước đang phát triển. Lạm dụng tiêm gây nên những thiệt hại lớn về
mặt kinh tế và làm tăng nguy cơ khơng an tồn trong q trình thực hiện tiêm. Tại
Indonesia và Tanzania, trên 70% những mũi tiêm được cho là khơng cần thiết hoặc
có thể thay thế bằng thuốc uống, cái được cho là an toàn và rẻ tiền hơn rất nhiều [2].
Theo nghiên cứu của Hauri và cộng sự năm 2004 cũng đưa ra kết luận lạm dụng tiêm
và thực hành khơng an tồn đưa đến một gánh nặng đáng kể về tử vong và khuyết tật


trên toàn thế giới [7]. Nghiên cứu tại

12

Jingzhou, Trung Quốc về thực hành tiêm

tại các cơ sở y tế cho thấy có tới 52% đơn thuốc của NB ngoại trú có chỉ định tiêm,
trong đó 57% số mũi tiêm là không cần thiết [14]. Tại Việt Nam, nghiên cứu của Đào
Thành năm 2010 về thực trạng TAT trước và sau can thiệp tại 13 BV đại diện cho 3
vùng Bắc, Trung, Nam kết quả cho thấy trên 85% nhân viên y tế cho rằng có tình
trạng lạm dụng thuốc tiêm trong đó hơn một nửa số người cho rằng đó là tình trạng
phổ biến và quan điểm này khơng thay đổi ở đánh giá trước và sau [17].
Nguyên nhân dẫn đến lạm dụng tiêm bắt nguồn từ cả phía người được tiêm,
người tiêm và cộng đồng. Do thiếu thông tin về những nguy hại do tiêm truyền; có
niềm tin mơ hồ về tác dụng hiệu quả dùng thuốc theo đường tiêm so với uống; một
số NB thích được tiêm hơn, đề nghị hoặc yêu cầu bác sỹ cho thuốc tiêm, truyền
trong khi có thể dùng thuốc uống thay thế. Bên cạnh đó bác sỹ cũng kê đơn lạm
dụng thuốc tiêm để làm hài lòng NB và thêm nữa, lợi nhuận, tiền công thu được từ
thuốc tiêm cũng cao hơn thuốc uống.
1.2.2.Thực trạng cung cấp trang thiết bị, phương tiện phục vụ tiêm
Nhiều quốc gia chưa thực sự quan tâm đầu tư trang thiết bị phục vụ cơng tác

tiêm an tồn nhằm bảo đảm an toàn cho nhân viên y tế và cộng đồng. Irina
Mikheeva - Viện nghiên cứu dịch tễ học quốc gia liên bang Nga và cộng sự đã tiến
hành nghiên cứu về quản lý chất thải y tế trên 65.415 cơ sở y tế ở 50 vùng lãnh thổ
khác nhau của liên bang Nga năm 2005 cho thấy: 61,5% cơ sở y tế sử dụng chai
nhựa để chứa bơm kim tiêm. Chỉ có 1,4% cơ sở y tế sử dụng máy cắt kim; 14% cơ
sở y tế tái sử dụng các vật dụng thải bỏ.
Thiếu phương tiện, dụng cụ tiêm hoặc phương tiện, dụng cụ tiêm không phù
hợp. Thiếu BKT hoặc BKT khơng phù hợp về mặt kích cỡ, chủng loại hay không
bảo đảm chất lượng cho việc tái sử dụng. Một số cơ sở y tế dùng chung BKT cho
những loại thuốc khác nhau, cho những NB khác nhau, dùng một kim lấy thuốc để
pha thuốc và rút thuốc nhiều lần. Theo báo cáo của WHO, dựa trên kết quả nghiên
cứu về hiện trạng tiêm tại 19 nước đại diện cho 5 vùng trên thế giới, có 40% mũi
tiêm được thực hiện bằng BKT dùng lại mà không được tiệt khuẩn [2].
Nghiên cứu tại 80 cơ sở y tế ở Philippin năm 2007 (theo bộ công cụ đánh giá
tiêm an toàn của WHO) cho thấy: tỷ lệ sử dụng lại bơm kim tiêm xấp xỉ 16%,
khoảng 49% các cơ sở y tế chưa có hệ thống xử lý rác thải, chỉ có 17% số cơ sở y tế


có thùng chứa vật sắc nhọn đảm bảo tiêu

13

chuẩn. Tại Gujarat, Indian, 77% số

người cung cấp mũi tiêm có những mũi tiêm được thực hành một cách khơng an
tồn bao gồm luộc bơm kim tiêm để dùng lại, đậy lại nắp kim tiêm bằng hai tay và
tiếp xúc trực tiếp với dịch cơ thể.
Tại Việt Nam, thiếu các phương tiện vệ sinh tay: Không đủ bồn rửa tay tại các
buồng bệnh, buồng thủ thuật, không cung cấp đủ nước, xà phòng, khăn lau tay sạch
hoặc dung dịch SK tay nhanh có chứa cồn làm ảnh hưởng đến quy trình TAT của

ĐDV. Giải pháp trang bị đủ các phương tiện vệ sinh tay như lắp đặt đủ các bồn rửa
tay ở buồng bệnh, buồng thủ thuật; cung cấp đủ nước, xà phòng, khăn lau tay sạch
cho mỗi lần rửa tay hoặc dung dịch SK tay nhanh có chứa cồn treo hoặc đặt sẵn trên
các xe tiêm đã được đề cập đến trong Hướng dẫn TAT của Bộ Y tế [1];
Thiếu các phương tiện thu gom chất thải y tế sau tiêm theo đúng quy định tại
Quyết định 43/2007/QĐ-BYT ngày 30/11/2007 của Bộ Y tế ban hành Quy chế
Quản lý chất thải y tế. Rất nhiều các cơ sở KBCB hiện nay sử dụng hộp đựng
CTSN sau tiêm không đạt yêu cầu, khơng đủ hộp, hộp khơng có tính kháng thấm,
kháng thủng, khơng phù hợp về kích cỡ, hoặc sử dụng khơng đúng như đựng q
đầy, để hộp khơng đúng vị trí gây tai biến cho người thực hành tiêm và người thu
gom chất thải sau tiêm. Nghiên cứu đánh giá kiến thức về TAT và tần suất rủi ro do
vật sắc nhọn đối với điều dưỡng, hộ sinh tại 8 tỉnh đại diện, 6 tháng đầu năm 2005
của Phạm Đức Mục và cộng sự đã cho thấy có 63,1% và 62,6% số người được hỏi
cho rằng thiếu dụng cụ xử lý chất thải và thiếu hộp đựng CTSN chuẩn là nguyên
nhân dẫn đến mũi tiêm khơng an tồn [18]. Để thực hiện tốt nội dung này trong
tiêm truyền, Bộ Y tế đã khuyến cáo các cơ sở KBCB phải bảo đảm phương tiện
đựng CTSN phù hợp với phương pháp tiêu hủy cuối cùng. Hộp đựng CTSN phải
bảo đảm các tiêu chuẩn: thành và đáy cứng khơng bị xun thủng; có khả năng
chống thấm; kích thước phù hợp; có nắp đóng mở dễ dàng; miệng hộp đủ lớn để
cho vật sắc nhọn vào mà khơng cần dùng lực đẩy; có dịng chữ “chỉ đựng chất thải
sắc nhọn” và có vạch báo hiệu ở mức 3/4 hộp và có dịng chữ “Khơng được đựng
quá vạch này”; màu vàng; có quai hoặc kèm hệ thống cố định; khi di chuyển vật sắc
nhọn bên trong khơng bị đổ ra ngồi [1].
1.2.3.Thực trạng tiêm an tồn
Kiến thức, thực hành TAT chưa tốt đặc biệt là tại các nước đang phát triển


đang là một vấn đề được rất nhiều tổ

14


chức, cá nhân quan tâm. Theo WHO có

tới 50% các mũi tiêm ở các nước đang phát triển chưa bảo đảm an tồn, WHO cảnh
báo tiêm khơng an tồn đã trở thành thông lệ ở các nước đang phát triển [2]. Đã có
rất nhiều thao tác thực hành tiêm chưa đúng được ghi nhận qua các nghiên cứu của
các nước: chỉ có 12,5% rửa tay bằng xà phòng và nước trước khi thực hành tiêm
[10]; 23% trả lời vẫn đậy nắp kim thường xuyên và 32,8% trả lời thỉnh thoảng vẫn
đậy lại nắp kim sau tiêm [1].
Tại Việt Nam, việc thực hiện tiêm truyền cho NB trong các cơ sở KBCB chủ
yếu do ĐDV thực hiện. Từ năm 2001 đến nay, được sự quan tâm của Bộ Y tế, Hội
Điều dưỡng Việt Nam đã phát động phong trào TAT trong toàn quốc, đồng thời tiến
hành những khảo sát về thực trạng TAT vào những thời điểm khác nhau (2002;
2005; 2008). Kết quả những khảo sát cho thấy: 55% nhân viên y tế cịn chưa cập
nhật thơng tin về TAT liên quan đến KSNK; phần lớn nhân viên y tế chưa tuân thủ
quy trình kỹ thuật và các thao tác KSNK trong thực hành tiêm (vệ sinh tay, mang
găng, sử dụng panh, phân loại và thu gom vật sắc nhọn sau tiêm, dùng tay để đậy
nắp kim sau tiêm...), chưa báo cáo và theo dõi rủi ro do vật sắc nhọn (87,7%) [17].
Hiện tại, thực hành tiêm của ĐDV tại các BV rất khác nhau và một số thực
hành chưa phù hợp. Thiếu kiến thức về phân loại chất thải sau tiêm: sau khi tiêm
xong, dùng tay để tháo BKT bằng tay; bẻ cong kim tiêm; đậy nắp kim tiêm; không
rửa tay sau khi tiêm; không lường trước được những phản ứng bất ngờ của NB đặc
biệt là đối với những bệnh nhi, NB có những rối loạn về tâm thần hay những NB bất
hợp tác [17]. Thực hành TAT không đúng được phản ánh qua rất nhiều nghiên cứu
tại các thời điểm và các vùng miền khác nhau: 50,1% ĐDV sát khuẩn da nơi tiêm
không đúng quy định [19]; 37,7% không rửa tay, sát khuẩn tay nhanh trước khi
chuẩn bị dụng cụ tiêm [20], 51% không sát khuẩn tay trước khi tiêm [21]; 38,3%
dùng hai tay đậy lại nắp kim tiêm [20]. Hiện tại, ViệtNam chưa có nghiên cứu nào
đánh giá hậu quả tồn diện do tiêm khơng an tồn gây ra tuy nhiên vẫn có một số tai
biến xảy ra tại các cơ sở KBCB mà hậu quả của tiêm không an toàn là rất lớn.

Thu gom BKT đã sử dụng để tái sử dụng hoặc bán ra thị trường bên ngồi
theo những cách khơng an tồn. Những sai phạm này là hết sức trầm trọng bởi
chúng có thể gây hại cho cộng đồng dân cư rộng lớn. Thải bỏ BKT bừa bãi ra môi
trường. Tiêu hủy không đúng cách như thiêu đốt gây ơ nhiễm khơng khí, tạo ra


những chất sau tiêu hủy chưa thực sự an

15

toàn hoặc chôn lấp không đạt tiêu chuẩn

độ sâu gây hại cho những người khác [17].
Tình trạng quá tải NB, quá tải công việc đang là những rào cản lớn đối với
việc thực hiện TAT. Tình trạng thiếu nhân lực, bố trí công việc không hợp lý khiến
ĐDV phải thực hiện quá nhiều công việc dưới nhiều áp lực và việc tuân thủ TAT
khơng được thực thi một cách tồn diện [17].
Cơng tác quản lý chưa hiệu quả: thiếu kiểm tra giám sát, thiếu chế tài thưởng
phạt, chưa tạo phong trào thi đua, tạo môi trường điều kiện thuận lợi cho TAT [17].
Năm 2012, Bộ Y tế Việt Nam đã ban hành Hướng dẫn TAT với nhiều nội
dung cập nhật so với quy trình tiêm hiện đang được thực hiện và yêu cầu triển khai
thực hiện tại tất cả các BV trong toàn quốc nhằm bảo đảm thực hiện mũi tiêm an
toàn cho người nhận mũi tiêm, người tiêm và cộng đồng. Đến nay nhiều BV đã cập
nhật quy trình tiêm theo Hướng dẫn TAT để ĐDV thực hiện tại BV song chưa có
nghiên cứu nào đánh giá việc thực hiện TAT tại các BV theo Hướng dẫn này.
1.2.4. Các nghiên cứu về yếu tố liên quan đến kiến thức, thực hành Tiêm an toàn
1.2.4.1.Một số yếu tố liên quan đến kiến thức Tiêm an toàn
Nghiên cứu so sánh kiến thức, thái độ thực hành tiêm an toàn của điều dưỡng
được tiến hành tại BV Đại học y và BV Sản ở Ibadan, trên tổng số 385 ĐDV cho
thấy 100% ĐDV đã nghe nói về TAT, mức độ kiến thức được đánh giá là cao và

khơng có sự khác biệt đáng kể giữa hai BV, 70,4% biết được tiêm khơng an tồn có
nguy cơ lây nhiễm bệnh qua đường máu, 55,9% cho rằng dùng hai tay đậy nắp kim
tiêm không phải là thực hành TAT đúng, 76,1% cho rằng BKT sau sử dụng phải
được bỏ vào thùng đựng CTSN [22].
Ở Việt Nam, đã có một số nghiên cứu về kiến thức TAT tại các thời điểm khác
nhau, quy mô khác nhau tuy nhiên bộ công cụ để đánh giá kiến thức của ĐDV trong
các nghiên cứu rất khác nhau, một số câu hỏi có nội dung chưa cập nhật, chưa đi
sâu vào kiến thức trọng tâm về TAT. Năm 2005, Phạm Đức Mục đã tiến hành
nghiên cứu mô tả cắt ngang 529 Điều dưỡng - hộ sinh đang công tác tại các khoa
lâm sàng trong một số cơ sở y tế tại 8 tỉnh trong thời gian từ 15/6/2005 đến
15/7/2005 nhằm đánh giá kiến thức của điều dưỡng, hộ sinh về TAT sau 5 năm thực
hiện cuộc vận động TAT toàn quốc của Hội Điều dưỡng Việt Nam bằng bộ câu hỏi
phát vấn gồm 11 câu hỏi về kiến thức và nguyên nhân tiêm khơng an tồn, kết quả


95,3% ĐDV trả lời đúng TAT có thể lây

16

truyền HIV, 97,4% trả lời đúng có thể

lây truyền viêm gan B và 74,4% trả lời đúng có thể lây truyền HCV [18].
Năm 2010, Đào Thành đã tiến hành nghiên cứu đánh giá tại 13 BV đại
diện toàn quốc, kết quả cho thấy tỷ lệ có kiến thức về chuẩn bị trước tiêm đạt
trên 82%, riêng kiến thức về tiêu chuẩn của hộp kháng thủng chỉ đạt 54,6%,
kiến thức về quy trình tiêm đạt 65,3%, vệ sinh tay VST sau khi tiêm 50,5%,
phòng ngừa và xử lý tai nạn do vật sắc nhọn cịn rất hạn chế, chỉ có30,9% có
kiến thức đạt [17].
Nghiên cứu đánh giá thực hiện TAT tại BV đa khoa Hà Đông, Hà Nội, năm
2012 của Trần Thị Minh Phượng cho thấy tỷ lệ ĐDV có kiến thức TAT đạt là

82,6%; tỷ lệ đạt thấp nhất là cách hạn chế lây truyền qua đường máu (65,1%) và
cách tiêu hủy vật sắc nhọn đúng (67,9%) [16].
* Một số các yếu tố liên quan đến kiến thức:
Chưa có nhiều các nghiên cứu tìm hiểu mối liên quan đến kiến thức TAT của
ĐDV trên Thế giới và ở Việt Nam. Nghiên cứu của Yan Y và cộng sự được tiến
hành tại Trung Quốc đã đánh giá về kiến thức TAT có 90,3% đối tượng biết rằng
tiêm khơng an tồn có thể lây truyền các bệnh qua đường máu trong đó: HIV là
74,4%, viêm gan B là 55,8%, viêm gan C là 22,9%. Phân tích hồi quy cho thấy tuổi,
trình độ học vấn và địa bàn dân cư là những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến kiến
thức của họ về an toàn tiêm [14].
Nghiên cứu của Trần Thị Minh Phượng tại BV đa khoa Hà Đơng năm 2012 đã
tìm thấy mối liên quan với kiến thức TAT của ĐDV: nhóm ĐD từ 30 tuổi trở xuống
có kiến thức đạt cao gấp 3,3 lần nhóm trên 30 tuổi, nhóm có thâm niên cơng tác
dưới 10 năm có kiến thức đạt cao gấp 4,9 lần nhóm từ 10 năm trở lên, nhóm được
đào tạo, tập huấn trong 1 năm qua có kiến thức cao hơn gấp 10,3 lần nhóm chưa đào
tạo (p<0,05) [16].
Như vậy cũng đã có một số nghiên cứu đã tìm thấy mối liên quan giữa một số
yếu tố với kiến thức TAT như yếu tố nhóm tuổi, trình độ học vấn, đào tạo. Trên
thực tế, việc đào tạo, tập huấn kiến thức sẽ giúp ĐDV cải thiện kiến thức một cách
đáng kể tuy nhiên việc cải thiện thực hành TAT sẽ bị ảnh hưởng của rất nhiều yếu
tố. Do vậy trong giới hạn của nghiên cứu, chúng tơi đi sâu tìm hiểu một số yếu tố
liên quan đến thực hành TAT của ĐDV.


1.2.4.2.Một số yếu tố liên quan đến

17

thực hành Tiêm an toàn


Báo cáo đánh giá thực hiện TAT và quản lý chất thải do tiêm tại 71 cơ sở y tế
của 4 huyện trực thuộc Ethiopia của tổ chức USAID năm 2009 cho thấy sau 4 năm
triển khai chương trình can thiệp, thực hành tiêm của cán bộ y tế được cải thiện
đáng kể: 80% vệ sinh tay trước khi tiêm; 78% thực hiện phân loại BKT ngay sau
tiêm trong khi đó tỷ lệ này vào năm 2004 chỉ đạt lần lượt là 4% và 8% [23].
Nghiên cứu cắt ngang trên 80 ĐDV tại BV miền Tây Ấn Độ năm 2009 cho
thấy, chỉ có 12,5% rửa tay bằng xà phịng và nước trước khi thực hành tiêm có
42,5% dùng hai tay đậy lại nắp kim tiêm sau tiêm [9].
Nghiên cứu mô tả cắt ngang về thực hành tiêm của ĐDV bằng phương pháp
quan sát trực tiếp theo bảng kiểm gồm 17 tiêu chí trên 776 mũi tiêm tại 18 BV của 8
tỉnh đại diện ba vùng Bắc, Trung, Nam trong thời gian từ tháng 5 đến tháng 9 năm
2005 của Đào Thành và cộng sự, kết quả cho thấy chỉ có 22,6% mũi tiêm đạt đủ
17/17 tiêu chí tiêm an tồn. Hầu hết các các mũi tiêm đều xác định đúng vị trí tiêm
(99,2%), góc độ tiêm (97%), độ sâu kim (92%) và bảo đảm 2 nhanh 1 chậm (96%).
Tuy nhiên tỷ lệ tuân thủ rửa tay trước khi chuẩn bị dụng cụ chỉ đạt 35,4% và rửa tay
trước khi đâm kim qua da đạt 55,8%. Còn 9% ĐDV dùng hai tay đậy nắp kim tiêm
[15]. Tuy nhiên một số nội dung trong bảng công cụ đánh giá thực hành tiêm trong
nghiên cứu chưa được cập nhật so với Hướng dẫn tiêm an tồn. Nghiên cứu cũng
chưa tìm được các yếu tố liên quan giữa các yếu tố như tuổi, kinh nghiệm thực hành
tiêm hay kiến thức TAT với thực hành tiêm an toàn của điều dưỡng.
Tháng 7 năm 2005, Nguyễn Thị Như Tú đã tiến hành nghiên cứu cắt ngang
“Thực trạng TAT tại tỉnh Bình Định sau 5 năm hưởng ứng cuộc vận động TAT”
trên đối tượng 120 ĐDV, hộ sinh, y sỹ đang công tác tại 7 BV đa khoa tỉnh, BV đa
khoa khu vực, các trung tâm y tế trực thuộc Sở Y tế Bình Định. Kết quả quan sát
thực hành tiêm cho thấy: 94% người tiêm không rửa tay/SK trước khi đưa kim qua
da, 72% không SK tay trước khi chuẩn bị thuốc, 24% khơng đúng góc độ tiêm, 17%
kim lấy thuốc không đảm bảo vô khuẩn, 3% kim tiêm thuốc không đảm bảo vô
khuẩn trước khi đưa qua da. Đánh giá theo 10 tiêu chuẩn mũi TAT, chỉ có 6% mũi
tiêm đạt 10/10 tiêu chuẩn đề ra [24].
Nghiên cứu mô tả cắt ngang “Khảo sát thực trạng TAT tại BV Trung ương

Huế” của Phan Cảnh Chương và cộng sự tại 30 khoa lâm sàng, bằng phương pháp


quan sát 1000 mũi tiêm trong thời gian

18

từ ngày 01 đến ngày 12 tháng 12 năm

2009 cho thấy các tiêu chí sử dụng dụng cụ tiêm thích hợp, an tồn được thực hiện
rất tốt, 100% các mũi tiêm sử dụng bơm tiêm vô khuẩn dùng 1 lần, bông SK được
hấp tiệt khuẩn 95,2%, dung dịch SK tay nhanh có sẵn trên xe tiêm đạt 98,1%, hộp
kháng thủng gần nơi tiêm đạt 97,5%. Tuy nhiên thực hành tiêm còn một số vấn đề
tồn tại: 37,7% ĐDV không rửa tay trước khi chuẩn bị dụng cụ, 29,0% khi rút thuốc
tiêm chạm tay vào vùng vô khuẩn, 48,6% ĐDV sát khuẩn da vùng tiêm không đúng
quy định, 34,5% không giao tiếp, quan sát người bệnh trong và sau khi tiêm, 61,7%
ĐDV dùng hai tay đậy nắp kim tiêm, 64,3% ĐDV dùng tay để tháo kim sau khi tiêm,
74,5% ĐDV không mang găng tay khi tiêm truyền tĩnh mạch. Nghiên cứu chưa tìm
được mối liên quan đến thực hành tiêm an toàn của ĐDV tại BV [20].
Nghiên cứu “Khảo sát thực trạng TAT tại BV Tim Hà Nội” của Đoàn Hoàng
Yến và cộng sự được tiến hành từ tháng 5 đến tháng 9 năm 2011 với phương pháp
mô tả cắt ngang. Kết quả: trung bình mỗi ngày có khoảng 136 mũi tiêm được thực
hiện tại BV; mỗi ĐDV thực hiện khoảng 3 mũi tiêm/ngày; các dụng cụ, phương tiện
thực hànhTAT đã được chuẩn bị đầy đủ; 100% ĐDV thực hiện đúng kỹ thuật tiêm; tỷ
lệ sát khuẩn vị trí tiêm đúng quy định là 97,8%; cô lập ngay vật sắc nhọn sau khi tiêm
98,4%. Tuy nhiên, còn một số thực hành của NVYT chưa tốt như tỷ lệ kiểm tra sự
nguyên vẹn của bơm tiêm còn thấp 27,5%; SK đầu ống thuốc, lọ thuốc 13,4%.
Nghiên cứu chưa đưa ra được tỷ lệ mũi tiêm đạt đủ cả 4 nhóm tiêu chuẩn đề ra [25].
Nghiên cứu mơ tả cắt ngang có phân tích, kết hợp định lượng và định tính
được tiến hành từ tháng 2 đến tháng 8 năm 2012, tại BVĐK Hà Đông Hà Nội của

Trần Thị Minh Phượng cho thấy tỷ lệ mũi tiêm thực hành đúng 23 tiêu chí TAT là
22,2%[16].
1.2.4.2.1.Yếu tố kiến thức về TAT
Khi tìm hiểu mối liên quan giữa kiến thức và thực hành TAT của ĐDV tại BV
đa khoa Hà Đông năm 2012, Trần Thị Minh Phượng đã cho thấy tỷ lệ thực hành
đúng trong nhóm có kiến thức đạt (26,7%) cao gấp 3 lần so tỷ lệ đúng trong nhóm
có kiến thức khơng đạt (10,5%), nhưng chưa có khác biệt có ý nghĩa thống kê. Tuy
nhiên trong nhiên cứu này có thể cỡ mẫu chưa đủ lớn, để làm rõ sự khác biệt mối
liên quan này cần có những nghiên cứu với cỡ mẫu lớn hơn và trên địa bàn rộng
hơn [16].


×