Tải bản đầy đủ (.pdf) (22 trang)

Tư tưởng hồ chí minh về nội dung của đại đoàn kết dân tộc giá trị lí luận – thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (466.26 KB, 22 trang )

HỌC VIỆN NGÂN HÀNG
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN
MƠN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

ĐỀ TÀI: Tư tưởng Hồ Chí Minh về nội dung của đại đồn kết
dân tộc. Giá trị lí luận – thực tiễn.

Giảng viên hướng dẫn: TS. Nguyễn Văn Nguyên
Sinh viên thực hiện: Cao Minh Trang
Mã sinh viên: 22A4050307
Nhóm tín chỉ: PLT06A31

Hà nội, ngày 23 tháng 6 năm 2021


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 2
1.

Tính cấp thiết của đề tài. ......................................................................... 2

2.

Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.......................................................... 2

3.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu........................................................... 2


4.

Cơ sở lí luận và phương pháp nghiên cứu. ............................................ 2

5.

Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài. .................................................. 2

NỘI DUNG........................................................................................................... 3
I. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc. ...................... 3
1.

Vai trị của đại đồn kết dân tộc. ............................................................3

2.

Lực lượng của khối đại đoàn kết dân tộc. ............................................. 6

3.

Điều kiện để xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc ...............................7

4.

Hình thức tổ chức khối đại đồn kết dân tộc. ....................................10

5.

Phương thức xây dựng khối đại đoàn kết tồn dân tộc. ..................14


II. Giá trị lí luận và thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết
dân tộc. ............................................................................................................ 15
1.

Giá trị lí luận và thực tiễn. .....................................................................15

2.

Liên hệ trách nhiệm sinh viên hiện nay trong việc học tập và làm

theo tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc. ................................18
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 20
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................ 21

1


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Đồn kết, đồn kết, đại đồn
kết. Thành cơng, thành cơng, đại thành cơng”. Đại đoàn kết toàn dân tộc là tư
tưởng cơ bản, nhất quán và xuyên suốt trong cuộc đời hoạt động cách mạng của
Chủ tịch Hồ Chí Minh. Từ thực tiễn lịch sử dân tộc, Người cũng đã khẳng định
đoàn kết là một trong các truyền thống quý báu của dân tộc ta đã được hun đúc
từ lòng yêu nước nồng nàn của bao thế hệ người Việt. Là thanh niên Việt Nam,
là những người sẽ, đã, và đang góp sức mình cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc, việc học tập, thực hiện và tuyên truyền tư tưởng Hồ Chí Minh về đại
đồn kết dân tộc là vơ cùng cần thiết và quan trọng. Bởi lẽ, đoàn kết chính là lực
lượng vơ địch, là một trong những cơ sở để đạt được thành công và thắng lợi.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.

Tìm hiểu và phân tích nội dung quan điểm tư tưởng của Hồ Chí Minh về các
vấn đề của đại đoàn kết dân tộc, qua đó biết vận dụng và phát huy tinh thần đồn
kết vào đời sống, xã hội.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu về Tư tưởng Hồ Chí Minh về nội dung đại đoàn kết dân
tộc, bao gồm giá trị lý luận và giá trị thực tiễn.
4. Cơ sở lí luận và phương pháp nghiên cứu.
Bài tiểu luận được thực hiện nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận
của chủ nghĩa Mác-Lênin kết hợp sử dụng các phương pháp lịch sử, phân tích,
tổng hợp, khái quát, …
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài.
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc nhằm làm cho
mỗi người chúng ta nhận thức, thấm nhuần được những nội dung cơ bản của đề
tài, vận dụng và phát huy tinh thần đoàn kết vào công việc, đời sống.

2


NỘI DUNG
I. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc là một bộ phận quan trọng
trong hệ thống tư tưởng của Người về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt
Nam. Đoàn kết ở đây có thể hiểu đơn giản là sự tập hợp, kết thành một khối
thống nhất, cùng hoạt động vì một mục đích chung. Đại đồn kết nghĩa là đồn
kết với quy mô rộng lớn, thành phần và lực lượng đông đảo của khối đoàn kết.
Người đã đưa ra định nghĩa về đại đoàn kết: “Đại đoàn kết tức là trước hết phải
đoàn kết đại đa số nhân dân, mà đa số nhân dân là công nhân, nông dân và các
tầng lớp nhân dân lao động khác. Đó là nền gốc của đại đồn kết. Nó cũng như
cái của nền nhà, cái gốc của cây. Nhưng đã có nền vững, gốc tốt, cịn phải đồn
kết các tầng lớp nhân dân khác”. Như vậy, từ quan niệm của Người, ta hiểu đại

đoàn kết là đồn kết tất cả các dân tộc, tơn giáo, giai cấp, mọi giới, mọi lứa tuổi,
mọi vùng miền của đất nước, đoàn kết mọi thành viên của dân tộc Việt Nam dù
ở phương trời nào thành một khối vững chắc, thống nhất về mục tiêu. Để hiểu rõ
tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc, ta cần làm rõ những nội dung cụ
thể sau:
1. Vai trị của đại đồn kết dân tộc.
1.1. Đại đồn kết d ân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết định
thành công của cách mạng Việt Nam.
Trước tiên, đại đồn kết dân tộc là chính sách dân tộc, là vấn đề chiến lược
của cách mạng. Với Hồ Chí Minh, đại đồn kết khơng phải là một chủ trương
xuất phát từ nguyện vọng, ý muốn chủ quan của lực lượng lãnh đạo, vì nếu như
vậy, đồn kết chỉ dừng lại là một thủ đoạn chính trị mang tính nhất thời. Đại
đồn kết phải là sự đúc kết những địi hỏi khách quan của quần chúng nhân dân
trong công cuộc tiến hành đấu tranh cách mạng giải tự giải phóng. Đây là chiến
lược tập hợp mọi lực lượng có thể tập hợp được, nhằm hình thành sức mạnh to
lớn của toàn dân tộc trong cuộc đấu tranh với kẻ thù dân tộc, giai cấp. Đại đoàn
kết dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh khơng chỉ đơn giản là phương pháp tổ
3


chức, tập hợp lực lượng, mà cao hơn, nó là bộ phận hữu cơ, là tư tưởng cơ bản,
nhất quán, xuyên suốt trong đường lối chiến lược cách mạng Việt Nam. Ở Hồ
Chí Minh, tư tưởng đại đồn kết dân tộc luôn được thể hiện từ rất sớm và nhất
quán xuyên suốt từ đầu đến cuối trong toàn bộ quá trình hoạt động và lãnh đạo
cách mạng của Người. Hồ Chí Minh nhìn nhận đại đồn kết là sự nghiệp của
dân, do dân, vì dân, trong tiến trình lãnh đạo cách mạng, Người u cầu khơng
được có bất cứ lúc nào lơ là nhiệm vụ xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc. Xây
dựng khối đại đoàn kết dân tộc khơng chỉ dừng lại ở nhận thức mà cịn cần được
cụ thể hóa theo từng bước phát triển của cách mạng. Người nói: “Ta đồn kết để
đấu tranh cho thống nhất và độc lập của Tổ quốc, ta còn phải đoàn kết để xây

dựng nước nhà”. Người tập hợp lực lượng để cùng nhau đánh đổ thực dân, đế
quốc xâm lược, từ đó đem lại hạnh phúc, ấm no cho toàn thể nhân dân. Điều này
hoàn toàn khác so với cuộc cách mạng tư sản.
Tiếp đến, đại đoàn kết dân tộc quyết định thành công của cách mạng. Sự
nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước là một công việc hết
sức hệ trọng, to lớn và vô cùng khó khăn. Nhiệm vụ đó chỉ có thể thành cơng khi
tập hợp được sức mạnh đồn kết của tồn dân tộc vì đồn kết mới tạo nên sức
mạnh, tạo nên lực lượng hùng hậu có thể đương đầu và chiến thắng kẻ thù. Theo
Hồ Chí Minh, cách mạng muốn thành cơng phải có lực lượng, lực lượng đó phải
đủ mạnh để chiến thắng kẻ thù và xây dựng thành cơng xã hội mới. Muốn có lực
lượng mạnh thì phải phải đoàn kết tốt, đoàn kết tạo ra sức mạnh, là then chốt của
sự thành công. Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã chứng minh giữa đồn kết và
thành cơng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau bởi phạm vi, mức độ, quy mô của
thành công trước hết phụ thuộc vào chính quy mơ và mức độ của khối đại đồn
kết, có đồn kết mới có thắng lợi, càng gặp kẻ thù lớn, càng khó khăn gian khổ
bao nhiêu lại cần phải đoàn kết chặt chẽ, rộng rãi và vững chắc bấy nhiêu.

4


1.2. Đại đoàn kết toàn dân tộc là một mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của
cách mạng Việt Nam.
Sự nghiệp cách mạng có nhiều mục tiêu đặt ra, trong đó đại đoàn kết dân tộc
là một mục tiêu hàng đầu, vì có thực hiện thành cơng đại đồn kết dân tộc thì
mới có thể thực hiện được các mục tiêu khác. Hồ Chí Minh coi đây khơng chỉ là
khẩu hiệu chiến lược, mục tiêu hàng đầu mà còn là mục tiêu lâu dài của cách
mạng, xem như tôn chỉ hoạt động của Đảng Cộng sản Việt Nam. Khát vọng dân
tộc được độc lập, tự do và thống nhất, nhân dân được sống ấm no, hạnh phúc là
mẫu số chung, là điểm để quy tụ tất cả mọi người dân Việt Nam vào khối đại
đồn kết dân tộc. Vì thế, xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc trong một mặt trận

thống nhất chính là để tập hợp và lãnh đạo quần chúng nhân dân thành một khối
thống nhất về ý chí và hành động, tạo nên sức mạnh trong cuộc đấu tranh, đưa
cuộc cách mạng tự giải phóng của nhân dân đi đến thắng lợi.
Đại đoàn kết toàn dân tộc còn là nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng. Trong
di chúc, Người đã dặn lại rằng "Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu
của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ
gìn sự đồn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình". Đại
đồn kết dân tộc không phải là một chủ trương xuất phát từ từ ý muốn chủ quan
của lực lượng lãnh đạo cách mạng mà xuất phát từ nhu cầu khách quan của bản
thân quần chúng nhân dân trong cuộc đấu tranh để tự giải phóng, là sự nghiệp
của dân, do dân, vì dân. Đảng là lực lượng lãnh đạo cách mạng Việt Nam, là
ngọn cờ dẫn dắt quần chúng nhân dân đấu tranh giành độc lập, tự giải phóng. Để
thực hiện được điều đó, trước tiên phải đồn kết được toàn dân, nên tất yếu đại
đoàn kết dân tộc phải được xác định là nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, nhiệm vụ
này phải được quán triệt trong tất cả mọi lĩnh vực, từ chủ trương, chính sách, tới
hoạt động thực tiễn của Đảng. Nhiệm vụ hàng đầu của Đảng là thức tỉnh, tập
hợp, hướng dẫn, chuyển những đòi hỏi khách quan, tự phát của quần chúng
thành những đòi hỏi tự giác, có tổ chức, thành sức mạnh vơ địch trong cuộc đấu
tranh vì độc lập dân tộc, tự do cho nhân dân, hạnh phúc cho con người.
5


2. Lực lượng của khối đại đoàn kết dân tộc.
2.1 Chủ thể của khối đại đoàn kết dân tộc.
Kế thừa và nâng tầm tư duy chính trị truyền thống của cha ơng: “Nước lấy
dân làm gốc”, Hồ Chí Minh đã tìm sức mạnh lớn lao, vơ địch của cơng cuộc đấu
tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước từ lực lượng nhân dân: “Trong bầu
trời khơng có gì q bằng nhân dân. Trong thế giới khơng có gì mạnh bằng lực
lượng đoàn kết của nhân dân”. Chủ thể của khối đại đồn kết tồn dân tộc, theo
Hồ Chí Minh bao gồm toàn thể nhân dân. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, dân,

nhân dân có một nội hàm rất rộng. Khái niệm “dân”, “nhân dân” được Hồ Chí
Minh tiếp cận ở hai phương diện vừa với nghĩa cộng đồng “mọi con dân nước
Việt”, vừa với nghĩa cá thể “mỗi một người con Rồng cháu Tiên”. “Dân” tức là
không phân biệt dân tộc, tín ngưỡng, già trẻ, gái trai, giàu nghèo, quý tiện, ở
trong nước hay ngoài nước. Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Người là đoàn
kết tất cả các tầng lớp nhân dân, các giai cấp, các chính đảng, đồn thể, các dân
tộc, tơn giáo, kể cả những người trước đây lầm đường lạc lối nhưng đã biết hối
cải, quay về với chính nghĩa của dân tộc. Như vậy, dân, nhân dân vừa là một tập
hợp đông đảo quần chúng, vừa được hiểu là mỗi con người Việt Nam cụ thể, và
cả hai đều là chủ thể của đại đoàn kết toàn dân tộc. Đại đoàn kết dân tộc tức là
phải tập hợp được mọi người dân vào một khối thống nhất trong cuộc đấu tranh
chung. Đại đoàn kết bao hàm nhiều cấp độ các quan hệ liên kết các lực lượng xã
hội từ thấp đến cao bao gồm: Lực lượng đoàn kết (gồm các giai tầng xã hội: giới
- ngành - lứa tuổi); Địa bàn đoàn kết (nông thôn - thành thị, miền ngược - miền
xuôi); Phạm vi đồn kết (gia đình - tập thể - quốc gia - quốc tế).
2.2. Nền tảng của khối đại đoàn kết tồn dân tộc.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đại đoàn kết dân tộc phải dựa vào cơ sở lấy lợi
ích tối cao của dân tộc và quyền lợi cơ bản của nhân dân lao động làm nền tảng,
kết hợp hài hồ lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể, giai cấp và dân tộc, quốc gia và
quốc tế. Nền tảng của khối đại đoàn kết dân tộc tiếp tục được khẳng định: “Đại
đoàn kết tức là trước hết phải đoàn kết đại đa số nhân dân, mà đại đa số nhân
6


dân ta là công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác”. Theo
Hồ Chí Minh, lực lượng làm nền tảng cho khối đại đoàn kết toàn dân tộc là liên
minh công - nông - lao động trí óc, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Nền
tảng liên minh cơng - nơng - lao động trí óc càng được củng cố vững chắc thì
khối đại đồn kết dân tộc càng có thể mở rộng, khơng e ngại bất cứ thế lực nào
có thể làm suy yếu khối đại đoàn kết dân tộc: “Trong sự nghiệp cách mạng,

trong sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa, lao động trí óc có một vai trị quan
trọng và vẻ vang; và cơng, nơng, trí cần phải đồn kết chặt chẽ thành một khối”.
Bên cạnh đó, Người cũng nhấn mạnh trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc,
phải đặc biệt chú trọng yếu tố “hạt nhân” là sự đoàn kết và thống nhất trong
Đảng vì đó là điều kiện cho sự đồn kết ngồi xã hội. Đảng có đồn kết, nhất
quán trong mọi phương hướng, mục tiêu, hành động thì mới lãnh đạo được quần
chúng nhân dân tập trung thành một khối đồn kết trong cơng cuộc đấu tranh
giành độc lập. Sự đoàn kết của Đảng càng được củng cố thì sự đồn kết tồn dân
tộc càng được tăng cường.
3. Điều kiện để xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc
Đại đồn kết dân tộc có vai trị to lớn, quyết định thành bại của cách mạng
Việt Nam, sức mạnh của đoàn kết toàn dân đã được minh chứng qua bao năm
lịch sử của dân tộc Việt Nam. Xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc quy tụ mọi
giai cấp, tầng lớp trở thành mục tiêu hàng đầu của Đảng trong công cuộc lãnh
đạo quần chúng nhân dân đấu tranh giành độc lập, tự do, xây dựng cuộc sống
ấm no, hạnh phúc. Để thực hiện được mục tiêu cấp thiết này cần phải bảo đảm
các điều kiện then chốt sau đây:
Một là, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân phải kế thừa truyền thống yêu
nước, nhân nghĩa, đoàn kết của dân tộc.
Lịch sử dân tộc Việt Nam từ khi ra đời tới nay bao gồm những trang sử hào
hùng về công cuộc dựng nước và giữ nước. Trong quá trình hình thành và phát
triển của lịch sử dân tộc đã hình thành và phát triển nhiều giá trị văn hóa, trở
7


thành truyền thống văn hóa quý báu, thấm sâu vào tư tưởng, tình cảm mỗi con
người Việt Nam. Là người con đất Việt sinh ra và lớn lên khi đất nước đang oằn
mình trong xiềng xích nơ lệ, đắm chìm trong đêm dài bóc lột của thực dân,
mang trong mình lịng u nước, thương dân, khao khát tìm ra con đường giải
phóng dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh càng thấm nhuần hơn nữa những truyền

thống quý báu của cha ông ta, đặc biệt là truyền thống yêu nước, nhân nghĩa,
toàn dân đoàn kết. Đây là cội nguồn sức mạnh để dân tộc ta chiến thắng mọi kẻ
thù, thiên tai, bảo vệ đất nước trường tồn và giữ vững bản sắc văn hóa dân tộc.
Chính vì lẽ đó, khi tiến hành cơng cuộc xây dựng khối đại đồn kết tồn dân,
Đảng ta phải không ngừng vận dụng, phát huy truyền thống dân tộc, khơi dậy
lòng yêu nước của mỗi cá nhân, quy tụ mọi tầng lớp, giai cấp hướng về mục tiêu
chung là đoàn kết để đấu tranh tự giải phóng dân tộc.
Hai là, xây dựng khối đại đồn kết dân tộc phải có lịng khoan dung, độ
lượng với con người.
Khoan dung, độ lượng cũng là một trong những tình cảm quý báu của dân
tộc ta. Tinh thần này của Hồ Chí Minh khơng phải là sách lược nhất thời, thủ
đoạn chính trị mà là sự tiếp nối và phát triển truyền thống nhân ái, bao dung của
dân tộc. Đây là tư tưởng nhất quán thể hiện trong đường lối, chính sách của
Đảng. Trong mỗi quốc gia dân tộc bao giờ cũng tồn tại những tầng lớp, giai cấp
khác nhau, hơn nữa Việt Nam còn là quốc gia đa dân tộc, đa tôn giáo nên không
thể tránh khỏi sự khác biệt trong ý thức, suy nghĩ. Trải qua gần một thế kỉ chịu
thống trị của đế quốc nước ngoài, hàng nghàn năm phong kiến với những âm
mưu thủ đoạn “chia để trị” của thực dân và thậm chí do những sai lầm ấu trĩ của
cán bộ cách mạng nên giữa một bộ phận các dân tộc, tôn giáo, giai cấp... cịn có
những khoảng cách, nghi hoặc nhất định. Bởi vậy, những tàn tích của những
định kiến quá khứ do đế quốc, phong kiến để lại còn đè nặng lên tư tưởng và
tình cảm của quần chúng nhân dân. Cần có lòng khoan dung, độ lượng với mỗi
cá nhân, trân trọng phần thiện dù nhỏ nhất của mỗi người để tập hợp được mọi
8


lực lượng, bởi lẽ, ai cũng có những mặt tốt, xấu khác nhau nhưng đều có trong
mình tinh thần dân tộc. Cần phải đoàn kết những người lầm đường, lạc hối
nhưng biết hối cải, có lịng hướng thiện. Trong nhận thức của Người, có tấm
lịng độ lượng sẽ có được sự cảm hóa sâu sắc: “Sơng to, biển rộng, thì bao nhiêu

nước cũng chứa được, vì độ lượng nó rộng và sâu. Cái chén nhỏ, cái đĩa cạn, thì
một chút nước cũng đầy tràn, vì độ lượng của nó hẹp nhỏ...”. Khơng những vậy,
nội bộ Đảng lãnh đạo cịn cần phải xóa bỏ hết thành kiến, chống những cái xấu,
căn bệnh chia rẽ gây mất đoàn kết. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng chỉ ra rằng:
“Phải chống bệnh hẹp hòi. Bệnh này rất nguy hiểm, mà nhiều cán bộ và đảng
viên cịn mắc phải. Trong, thì bệnh này ngăn trở Đảng thống nhất và đồn kết.
Ngồi, thì nó phá hoại sự đồn kết tồn dân…”. Cán bộ có đồn kết, trung thực,
nhân nghĩa thì mới có thể cùng giúp nhau tiến bộ để phục vụ nhân dân.
Ba là, xây dựng khối đại đồn kết rộng rãi cần có niềm tin vào nhân dân.
Tin dân, dựa vào dân trong chiến lược đại đồn kết Hồ Chí Minh xuất phát
từ tư duy chính trị truyền thống “dân là gốc của nước”, “chở thuyền là dân, lật
thuyền cũng là dân”. Đây là nguyên tắc được Người kế thừa và nâng cao trên cơ
sở quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, cách mạng là sự nghiệp của quần
chúng, nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử. Tin vào dân, dựa vào dân và lấy
dân làm gốc có nghĩa là phải tin tưởng vững chắc vào sức mạnh to lớn và năng
lực sáng tạo của nhân dân, phải đánh giá đúng vai trò của lực lượng nhân dân.
Người viết: “Có lực lượng dân chúng việc to tát mấy, khó khăn mấy cũng làm
được. Khơng có thì việc gì làm cũng khơng xong. Dân chúng biết giải quyết
nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ mà những người tài giỏi,
những đồn thể to lớn nghĩ mãi khơng ra”. Bên cạnh đó, Hồ Chí Minh tin tưởng
vào khả năng tiến bộ của con người, cần biết khơi gợi khả năng tiềm tàng của
mỗi người, sức mạnh tập thể bao giờ cũng lớn lao và đem lại hiệu quả cao hơn
sức mạnh cá nhân. Người cũng tin rằng trong mỗi con người, “ai cũng có ít hay
nhiều tấm lịng u nước” tiềm ẩn bên trong. Tấm lịng u nước ấy có khi bị
9


bụi rậm che mờ, việc cần làm là thức tỉnh, giáo dục lương tri con người thì lịng
u nước lại bộc lộ, nhân dân lại cùng đoàn kết đứng lên đấu tranh. Ngoài ra, để
nhấn mạnh và khẳng định vai trị quan trọng của nhân dân đối với cơng cuộc xây

dựng khối đại đồn kết, Hồ Chí Minh cịn nói: “Gốc có vững cây mới bền. Xây
lầu thắng lợi trên nền Nhân dân”. Nhân dân là chỗ dựa vững chắc của Đảng, là
nền, gốc và chủ thể của Mặt trận dân tộc thống nhất. Đảng có mạnh hay khơng
nhờ vào đường lối, chính sách đúng đắn xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng
chính đáng của nhân dân, được nhân dân tin cậy, ủng hộ và hăng hái thực thi.
Tin dân, dựa vào dân, vì suy cho cùng, mọi sức mạnh, mọi thành cơng đều bắt
nguồn từ lịng Dân hợp ý Đảng.
4. Hình thức tổ chức khối đại đồn kết dân tộc.
4.1. Hình thức tổ chức của khối đại đồn kết dân tộc là Mặt trận dân tộc
thống nhất.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đại đồn kết dân tộc khơng thể chỉ dừng lại ở
quan niệm, ở những lời kêu gọi, những lời hiệu triệu mà phải trở thành một
chiến lược cách mạng, phải trở thành khẩu hiệu hành động của tồn Đảng, tồn
dân tộc. Nó phải biến thành sức mạnh vật chất, trở thành lực lượng vật chất có tổ
chức. Tổ chức đó chính là Mặt trận dân tộc thống nhất. Ngay sau khi tìm ra con
đường và sức mạnh để cứu nước, Hồ Chí Minh đã rất chú tâm việc đưa quần
chúng nhân dân vào các tổ chức yêu nước phù hợp với từng giai đoạn và giai
cấp, ngành nghề, lứa tuổi, tơn giáo,…sao cho mỗi nhóm có thể phát huy tốt nhất
năng lực riêng mình, góp sức mạnh vào khối đại đồn kết tồn dân. Đó có thể là
nông hội, công hội, hội phụ nữ, hội thanh-thiếu niên, hội Phật giáo cứu quốc,
trong đó bao trùm nhất là Mặt trận dân tộc thống nhất. Mặt trận dân tộc thống
nhất là nơi quy tụ mọi tổ chức và cá nhân yêu nước, nơi tập hợp mọi con dân
nước Việt, không chỉ ở trong nước mà con bao gồm cả những người Việt Nam
định cư ở nước ngoài, dù ở bất cứ phương trời nào, chỉ cần tấm lòng hướng về
quê hương, về Tổ quốc Việt Nam thì đều được coi là thành viên của mặt trận.
10


Lực lượng toàn dân phải được tập hợp trong Mặt trận dân tộc thống nhất để
vừa đông về số lượng, vừa đảm bảo về chất lượng, điều mà các phong trào yêu

nước trước đây chưa thực hiện được. Toàn dân tộc chỉ trở thành lực lượng to
lớn, có sức mạnh vô địch trong đấu tranh bảo vệ và xây dựng Tổ quốc khi được
tập hợp, tổ chức lại thành một khối vững chắc, được giác ngộ về mục tiêu chiến
đấu chung và hoạt động theo một đường lối chính trị đúng đắn. Nếu khơng được
như vậy, thì quần chúng nhân dân dù có đơng tới hàng triệu, hàng trăm triệu con
người cũng chỉ là một số đơng khơng có sức mạnh.
Dựa vào từng thời kì cách mạng, căn cứ vào yêu cầu và nhiệm vụ của mỗi
giai đoạn chiến đấu, Mặt trân dân tộc thống nhất có những tên gọi khác nhau
như: Hội Phản đế đồng minh (1930), Mặt trận Thống nhất nhân dân phản đế
Đông Dương (1936), Mặt trân Việt Minh (1941), Mặt trận dân tộc giải phóng
miền Nam Việt Nam (1960),.. tuy tên gọi từng thời kì khác nhau, nhưng thực
chất chỉ là một tổ chức chính trị - xã hội rộng rãi của nhân dân Việt Nam.
4.2. Nguyên tắc xây dựng và hoạt động của Mặt trận dân tộc thống
nhất.
Một là, Mặt trận phải được xây dựng trên nền tảng liên minh công – nông –
lao động trí óc, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Mặt trận dân tộc thống nhất là thực thể của tư tưởng đại đồn kết dân tộc. Đó
khơng phải là một tập hợp ngẫu nhiên, tự phát của quần chúng nhân dân, mà là
một khối đồn kết chặt chẽ, có tổ chức trên nền tảng khối liên minh cơng-nơngtrí thức, do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Đây là nguyên tắc cốt lõi trong chiến lược
đại đoàn kết toàn dân tộc của Hồ Chí Minh, trên cơ sở đó để mở rộng Mặt trận,
làm cho Mặt trận quy tụ được cả dân tộc, kết thành một khối vững chắc trong
Mặt trận.
Hồ Chí Minh cho rằng cần phải lấy liên minh cơng nông là nền tảng cơ bản
cho Mặt trận dân tộc thống nhất vì: “Họ là người trực tiếp sản xuất tất cả mọi tài
phú làm cho xã hội sống. Vì họ đơng hơn hết, mà cũng bị áp bức bóc lột nặng nề
11


hơn hết. Vì chí khí cách mạng của họ chắc chắn, bền bỉ hơn của mọi tầng lớp
khác". Người nhấn mạnh vai trị nịng cốt của liên minh cơng nơng đồng thời chỉ

ra vai trò và sự cần thiết của việc mở rộng đoàn kết với các tầng lớp khác, đặc
biệt là tầng lớp trí thức. Người nói: “Trong sự nghiệp cách mạng, trong sự
nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa, lao động trí óc có một vai trị quan trọng và
vẻ vang, và cơng, nơng, tri cần đồn kết chặt chẽ thành một khối”.
Theo Hồ Chí Minh, đại đồn kết là cơng việc của tồn dân và nó chỉ được
củng cố và phát triển lớn mạnh khi có sự lãnh đạo của Đảng. Sự lãnh đạo của
Đảng đối với Mặt trận vừa là vấn đề mang tính nguyên tắc, vừa là một tất yếu
bảo đảm cho Mặt trận tồn tại, phát triển và có hiệu lực trong thực tiễn. Vì chỉ có
chính đảng của giai cấp cơng nhân, được giác ngộ sâu sắc tư tưởng chủ nghĩa
Mác-Lênin mới đánh giá đúng vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử,
mới vạch ra được sách lược đúng đắn tập để hợp quần chúng vào khối đại đoàn
kết trong Mặt trận. Đảng và Mặt trận có mối quan hệ máu thịt, lợi ích của Đảng
chính là gắn liền với lợi ích của tồng xã hội. Khơng có Mặt trận, Đảng khơng
có lực lượng, khơng thể thực hiện được những nhiệm vụ cách mạng; ngược lại,
khơng có sự lãnh đạo của Đảng, Mặt trận khơng thể hình thành, phát triển và
khơng có phương hướng hoạt động đúng đắn. Do đó, Đảng Cộng sản Việt Nam
vừa là thành viên, vừa là lực lượng lãnh đạo Mặt trận.
Hai là, Mặt trận hoạt động theo nguyên tắc lấy việc thống nhất lợi ích tối
cao của dân tộc với lợi ích của tầng lớp nhân dân là cơ sở để củng cố và không
ngừng mở rộng.
Thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất là để thực hiện đại đoàn kết toàn dân,
song khối đại đoàn kết đó chỉ có thể thực hiện bền chặt và lâu dài khi có sự
thống nhất cao độ về mục tiêu và lợi ích. Mục đích chung của Mặt trận dân tộc
thống nhất được Hồ Chí Minh xác định cụ thể phù hợp với từng giai đoạn cách
mạng, nhằm tập hợp tới mức cao nhất lực lượng dân tộc vào khối đại đoàn kết.
Đại đoàn kết phải xuất phát từ mục tiêu vì nước, vì dân. Đồn kết phải lấy lợi
12


ích tối cao của dân tộc, lợi ích căn bản của nhân dân lao động là mục tiêu phấn

đấu. Đây là nguyên tắc bất di bất dịch, là ngọn cờ đoàn kết và là mẫu số chung
để quy tụ các tầng lớp. giai cấp, đảng phái, dân tộc, tôn giáp vào Mặt trận. Bởi lẽ
lợi ích tối cao của dân tộc được bảo đảm thì lợi ích cơ bản của mỗi bộ phận, mỗi
cá nhân mới được thực hiện.
Ba là, Mặt trận hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ, đảm bảo
đoàn kết ngày càng rộng rãi và bền vững.
Mặt trận dân tộc thống nhất là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của cả dân
tộc, bao gồm nhiều giai cấp, tầng lớp, đảng phái, dân tộc. tơn giáo khác nhau với
nhiều lợi ích khác nhau. Do vậy, hoạt động của mặt trận dân tộc thống nhất phải
theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ. Hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương
dân chủ có nghĩa là mọi vấn đề của Mặt trận đều phải được đem ra để tất cả các
thành viên cùng nhau bàn bạc công khai, để đi đến nhất trí, loại trừ mọi sự áp
đặt hoặc dân chủ hình thức. Để thực hiện nguyên tắc hiệp thương dân chủ phải
đứng vững trên lập trường giai cấp cơng nhân, giải quyết hài hịa mối quan hệ
giữa lợi ích dân tộc và ích lợi giai cấp, lợi ích chung và lợi ích riêng, lợi ích lâu
dài và lợi ích trước mắt. Những lợi ích riêng chính đáng, phù hợp với lợi ích
chung của đất nước, của dân tộc cần được tơn trọng. Những gì riêng biệt, khơng
phù hợp sẽ dần được giải quyết bẳng lợi ích chung của dân tộc, bằng sự nhân
thức đúng đắn hơn về mối quan hệ giữa lợi ích chung và riêng. Giải quyết hợp lí
mối quan hệ lợi ích trong Mặt trận dân tộc thống nhất sẽ góp phần mở rộng và
củng cố vững chắc hơn khối đại đoàn kết dân tộc.
Bốn là, Mặt trận dân tộc thống nhất là khối đoàn kết lâu dài, chặt chẽ, đoàn
kết thật sự, chân thành, thân ái, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
Tính chặt chẽ, lâu dài của khối đại đoàn kết biểu hiện qua việc địi hỏi tăng
cường củng cố liên minh cơng, nơng, lao động trí óc, làm nền tảng cho khối đại
đồn kết.

13



Tính chất rộng rãi của khối đại đồn kết thể hiện ở việc mở rộng biên độ tập
hợp mọi giai tầng xã hội.
Đoàn kết, chân thành, thân ái: Là một tập hợp nhiều giai tầng, dân tộc, tôn
giáo, đảng phái, bên cạnh những điểm tương đồng, giữa các thành viên của Mặt
trận vẫn có những điểm khác nhau cần phải bàn bạc, để thu hẹp những nhân tố
khác biệt, cục bộ, nhân lên những nhân tố chung, đi đến thống nhất, đoàn kết.
Để giải quyết vấn đề này, một mặt Hồ Chí Minh nhấn mạnh phương châm đề
cao điểm tương đồng, hạn chế sự khác biệt; mặt khác, đoàn kết phải gắn với đấu
tranh, khắc phục tình trạng đồn kết xi chiều, phải nêu cao tinh thần phê bình
và tự phê bình để biểu dương mặt tốt, khắc phục mặt chưa tốt.
5. Phương thức xây dựng khối đại đoàn kết tồn dân tộc.
Một là, làm tốt cơng tác tun truyền, giáo dục, vận động quần chúng.
Hồ Chí Minh coi đồn kết, đại đoàn kết như một mục tiêu, một nhiệm vụ
hàng đầu của Đảng. Để tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc, Hồ Chí Minh rất
chú trọng tiến hành công tác tuyên truyền, vận động, giáo dục quần chúng. Công
tác tuyên truyền theo Người là một khoa học, nghệ thuật cách mạng, do vậy các
tổ chức và cán bộ cách mạng phải khơng ngừng tìm tịi lựa chọn nội dung, hình
thức phù hợp để chuyển tải đường lối của Đảng một cách sâu rộng tới nhân dân.
Vận động quần chúng để đoàn kết mọi người, tạo ra động lực phát triển kinh tế xã hội và văn hóa, phát huy đầy đủ vai trị, trí tuệ, khả năng to lớn của quần
chúng nhân dân trong sự nghiệp kháng chiến kiến quốc trong xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc.
Cần phải làm tốt công tác giáo dục ,tuyên truyền, hướng dẫn ,giúp đỡ và vận
động quần chúng nhân dân thực hiện tốt mọi chủ trương, đường lối của Đảng
,chính sách và pháp luật của Nhà nước; giúp nhân dân hiểu đầy đủ, sâu sắc về
quyền lợi ,trách nhiệm và nghĩa vụ của cơng dân, từ đó họ tích cực, chủ động ,tự
giác phấn đấu và cống hiến cho sự nghiệp cách mạng

14



Mọi phương pháp tiếp cận và nội dung tuyên truyền, vận động quần chúng
đều phải phù hợp với tâm tư, nguyện vọng của quần chúng, đồng thời phải xuất
phát từ thực tế trình độ dân trí, văn hóa, phong tục, tập quán đối với từng địa
phương, từng đối tượng nhân dân.
Hai là, thành lập đoàn thể, tổ chức quần chúng phù hợp với từng đối tượng.
Theo Hồ Chí Minh, để tập hợp quần chúng nhân dân một cách có hiệu quả,
cần phải tổ chức đoàn thể, tổ chức quần chúng. Đây là những tổ chức để tập
hợp, giáo dục, rèn luyện quần chúng cho phù hợp từng giai cấp, dân tộc, tơn
giáo, lứa tuổi, giới tính,vùng, miền… Các đồn thể, tổ chức quần chúng ra đời,
dưới sự lãnh đạo của Đảng, có nhiệm vụ tuyên truyền, giáo dục, giác ngộ, vận
động, tập hợp các tầng lớp nhân dân tham gia cách mạng, đấu tranh bảo vệ
quyền lợi và lợi ích của mình.
Ba là, các đồn thể, tổ chức quần chúng được tập hợp và đoàn kết trong Mặt
trận dân tộc thống nhất.
Theo Hồ Chí Minh, các đồn thể, tổ chức quần chúng hợp thành Mặt trận
dân tộc thống nhất. Mặt trận dân tộc thống nhất càng rộng rãi, càng chặt chẽ,
thống nhất bao nhiêu thì khối đại đồn kết tồn dân tộc càng mạnh mẽ, bền vững
bấy nhiêu. Các đoàn thể, tổ chức quần chúng và Mặt trận dân tộc thống nhất là
sợi dây gắn kết Đảng và nhân dân. Bản chất của đoàn thể nhân dân, các tổ chức
quần chings là tổ chức của nhân dân, do đó vai trị của Mặt trận và các đồn thể
nhân dân phải là vận động quần chúng bao gồm các giai cấp, các tầng lớp xã hội
tham gia vào các tổ chức của mình.
II. Giá trị lí luận và thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết
dân tộc.
1. Giá trị lí luận và thực tiễn.
Gần 60 năm hoạt động cách mạng vì sự nghiệp giải phóng dân tộc và sự tiến
bộ của nhân loại, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho toàn Đảng, toàn dân, toàn
quân ta một tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá - đó là hệ thống tư tưởng
15



của Người, trong đó có tư tưởng về đại đồn kết đóng vai trị lớn lao đối với sự
nghiệp cách mạng của Việt Nam, có giá trị lí luận và thực tiễn hết sức quan
trọng.
Về mặt lí luận, tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc là di sản vô
giá mà Người để lại cho cho Đảng và nhân dân ta. Những nội dung trong tư
tưởng về vấn đề đại đoàn kêt dân tộc của Người cùng với chủ nghĩa Mác-Lênin
đã trở thành nền tảng lí luận và định hướng hoạt động của Đảng Cộng sản Việt
Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc là một trong những ngọn
đuốc soi sáng quá trình nhận thức và giải quyết những vấn đề cách mạng Việt
Nam, là nguồn sức mạnh vô tận để chiến thắng mọi kẻ thù, bảo đảm thắng lợi
cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Người chỉ rõ đoàn kết, đồn kết, đại
đồn kết; thành cơng, thành cơng, đại thành cơng. Muốn vậy phải đồn kết trong
Đảng, đồn kết trong nhân dân và đoàn kết quốc tế. Đoàn kết vì lợi ích chung và
sự phát triển của các thành viên của cả cộng đồng. Đồn kết vì mục tiên dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Giá trị lí luận của tư
tưởng Hồ Chí Minh cịn càng được nâng cao tính thiết thực qua phương pháp
luận của Người trên tư cách là một nhà biện chứng thực hành. Mỗi tư tưởng,
mỗi luận điểm đều gắn liền với thực tiễn tình hình đất nước, mang ý nghĩa chỉ
dẫn về phương pháp (phương pháp nhận thức, phương pháp hành động, phép
ứng xử, phép dùng người…).
Về mặt thực tiễn, xuất phát từ những quan điểm lí luận của Người, tư tưởng
Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc đã thực sự phát huy tính đúng đắn, thiết
thực. Trước hết, trong q trình đấu tranh giải phóng của dân tộc ta, những quan
điểm, lí luận của Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn dân thực sự là ngọn cờ dẫn
đường cho phương hướng lãnh đạo của Đảng, cho cơng cuộc xây dựng khối đại
đồn kết tồn dân để thực hiện nhiệm vụ cách mạng. Thực tiễn cách mạng Việt
Nam 90 năm qua đã thể hiện sức mạnh diệu kì, vĩ đại của tư tưởng Hồ Chí Minh
về đại đoàn kết. Từ chỗ là tư tưởng của vị lãnh tụ kính yêu trở thành chiến lược
16



đại đoàn kết của toàn Đảng và trở thành sức mạnh, tình cảm của cả dân tộc. Sức
mạnh đó là nguồn gốc làm nên thắng lợi rực rỡ của Cách mạng tháng Tám năm
1945, kháng chiến chống Pháp (1945-1954), kháng chiến chống Mỹ (19541975). Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc thực sự là chiến lược đấu
tranh cách mạng của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân bởi mọi lí luận, quan
điểm của Người nêu ra đều bắt nguồn từ lợi ích của dân tộc, của nhân dân lao
động.
Khơng chỉ vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết tồn dân cịn là động
lực góp phần xây dựng chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng, thực sự làm cho Đảng trong sạch, vững mạnh, xứng đáng là
Đảng cách mạng chân chính, là đạo đức. Thấm nhuần tư tưởng của Chủ tịch Hồ
Chí Minh, Đảng ta khẳng định, nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc là
liên minh cơng, nơng và đội ngũ trí thức, đồng thời, cần mở rộng đoàn kết, phát
triển đội ngũ doanh nhân, khuyến khích doanh nhân khởi nghiệp, sáng tạo, làm
giàu chân chính, gắn với thực hiện tốt trách nhiệm xã hội, đóng góp ngày càng
nhiều cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đặc biệt, Đảng quan tâm giáo
dục, phát triển thế hệ trẻ, bảo vệ bình đẳng giới, chăm sóc, phát huy kinh
nghiệm, trí tuệ và sự gương mẫu của người cao tuổi cũng như bảo đảm sự bình
đẳng, đồn kết thực sự giữa các dân tộc, tôn giáo, giữa người dân trong nước với
đồng bào sinh sống định cư ở nước ngồi. Đó chính là điều kiện khách quan về
chính trị, làm nền tảng cho sự nghiệp phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, bảo
đảm quốc phòng, an ninh của đất nước, thể hiện nhận thức tiến bộ, sâu sắc của
Đảng trong cơng cuộc tích cực học tập và phát huy tinh thần đại đoàn kết dân
tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Trong cơng cuộc xây dựng và phát triển đất nước ngày nay, dù cịn mn
vàn khó khăn, thử thách nhưng tinh thần đồn kết của dân tộc Việt Nam lúc nào
cũng hừng hực và sẵn sàng trỗi dậy, bộc lộ. Hơn một năm qua, kể từ khi đại dịch
COVID -19 bùng phát hồi đầu năm 2020, chưa bao giờ từ “đoàn kết” lại được
17



nhắc đến nhiều như vậy và tinh thần đoàn kết của dân tộc Việt Nam một lần nữa
thể hiện sức mạnh, hiệu quả to lớn trong cơng tác phịng, chống dịch. Thực hiện
và phát huy giá trị tư tưởng của chủ tịch Hồ Chí Minh, với tinh thần tương thân
tương ái, tình đồn kết và lịng quyết tâm chống dịch, toàn thể đồng bào Việt
Nam từ các cấp lãnh đạo cho đến mỗi người dân, tổ chức, từ đội ngũ y tế đến
quân đội trên tuyến đầu đến lực lượng cơng an và hệ thống chính trị ở cấp cơ sở
đều đồng lịng dốc sức đối phó với dịch bệnh. Tinh thần đồn kết của nhân dân
Việt Nam khơng phải ngẫu nhiên mà có. Tinh thần ấy được hun đúc và rèn
luyện trong suốt lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ đất
nước của nhân dân ta mà người thắp nên ngọn lửa đó là Chủ tịch Hồ Chí Minh
vĩ đại, là biểu hiện sáng ngời của tư tưởng Hồ Chí Minh về tinh thần đại đoàn
kết dân tộc.
2. Liên hệ trách nhiệm sinh viên hiện nay trong việc học tập và làm theo
tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc.
Phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc đã trở thành một bài học kinh
nghiệm lớn của dân tộc ta, là điều kiện bảo đảm thực hiện thành công việc đấu
tranh giải phóng dân tộc. Trong cơng cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc hiện nay,
bài học kinh nghiệm này vẫn còn nguyên giá trị và cần được tiếp tục phát huy để
khơi dậy sức mạnh to lớn của dân tộc trong cơng cuộc đổi mới vì mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Là một sinh viên, đứng trong hàng ngũ thanh niên – những người mai đây sẽ
tiếp bước cha anh nắm giữ vận mệnh đất nước, việc học tập, vận dụng và phát
huy tinh thần đồn kết theo tư tưởng Hồ Chí Minh là vơ cùng quan trọng. Trước
tiên, cần có tinh thần đồn kết từ những việc nhỏ trong phạm vi nhà trường, tập
thể, biết tự đặt mình trong tổ chức, tơn trọng ngun tắc và quy định chung,
không chia bè kéo cánh gây mất đoàn kết nội bộ. Biết tương trợ, giúp đỡ lẫn
nhau để cùng tiến bộ, đồn kết nhưng khơng có nghĩa là bao che cho khuyết
điểm của nhau mà mỗi cá nhân cần nêu cao tinh thần tự phê bình và phê bình.

18


Tiếp đến rộng hơn, là cần phát huy tinh thần đồn kết trong việc thực hiện
nghiêm túc các chính sách của Đảng, Nhà nước đối với công cuộc xây dựng
khối đại đoàn kết toàn dân, kiên quyết chống lại những luận điệu xuyên tạc, chia
rẽ lòng dân về Chủ tịch Hồ Chí Minh, về Đảng và đường lối hoạt động của
Đảng. Bên cạnh đó, cần trau dồi trình độ của bản thân để thích ứng với điều kiện
xã hội mới, góp phần tích cực vào cơng tác xây dựng khối đại đồn kết dân tộc
nói riêng và cơng cuộc phát triển đất nước, bảo vệ Tổ quốc nói chung.

19


KẾT LUẬN
Trải qua bao giai đoạn lịch sử, nội dung của tư tưởng Hồ Chí Minh về đại
đồn kết dân tộc đến nay vẫn vẹn nguyên giá trị, là tài sản tinh thần vô giá của
Đảng và dân tộc ta. Giá trị ấy được khai thác, vận dụng thực tiễn hiệu quả tới
đâu tùy thuộc vào ý thức, trình độ, năng lực của mỗi người chúng ta. Nghiên
cứu, học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là cơng
việc rất quan trọng, cần thiết và ln có tính thời sự. Mang trong mình dịng máu
Rồng Tiên, tự hào là người con Đất Việt, mỗi cá nhân dù sống ở Việt Nam hay
những nơi xa xôi ngồi Tổ quốc cũng đều ln ln tiềm ẩn lịng u nước, tinh
thần đồn kết, một lịng hướng về q hương. Vì vậy, khơi nguồn và phát triển
sức mạnh dân tộc cũng như trí tuệ của con người Việt Nam, thực thi chiến lược
đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh một cách sáng tạo, quy tụ lực lượng dân
tộc bằng nội dung và hình thức tổ chức thích hợp với mọi đối tượng tập thể và
cá nhân trên cơ sở lấy liên minh cơng - nơng - trí thức làm nòng cốt do Đảng
Cộng sản lãnh đạo, phấn đấu vì độc lập của Tổ quốc, tự do, hạnh phúc của của
toàn dân là một bài học kinh nghiệm lịch sử có giá trị bền vững lâu dài, đặc biệt

có ý nghĩa chính trị quan trọng trong sự nghiệp thực thi đường lối đổi mới, thực
hiện cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
hiện nay.
Trên đây là toàn bộ bài làm của em về đề tài “Tư tưởng Hồ Chí Minh về nội
dung của đại đoàn kết dân tộc - giá trị lý luận và thực tiễn”. Vì đây là đề tài
rộng, có thể tiếp cận từ nhiều phương diện nhưng trong khn khổ bài tập có
hạn nên phần trình bày của em khơng thể tránh khỏi những thiếu sót. Em rất
mong nhận được sự góp ý của thầy cơ để bài làm được hoàn thiện tốt hơn.

20


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tài liệu học tập môn Tư tưởng Hồ Chí Minh.
2. />3. />4. />
21



×