Tải bản đầy đủ (.docx) (46 trang)

Dự đoán giá cổ phiếu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (465.3 KB, 46 trang )

CÁCH CHỌN DỤNG THẦN
Lấy Thê Tài làm dụng thần, là cơ sở để dự đốn giá cả cổ phiếu.
Tử Tơn là Nguyên thần : là lượng giao dịch cũng như nhân tố có lợi cho cổ phiếu
tăng giá.
Phụ Mẫu là Cừu thần : là tin nội bộ, tin tức và tin đồn bất lợi cho giá cổ phiếu.
Quan Quỷ : là nhà cái, cá mập, tay to thao túng giá cổ phiếu, nó có tính 2 mặt vừa
có thể chế phục Kỵ thần nên có thể có tác dụng tốt đối với Dụng thần, đồng thời lại
có thể tiết khí Dụng thần. Đây chính là lúc cổ phiếu tăng giá hoặc giảm giá ồ ạt
theo hành vi ôm hàng hay xả hàng của cá mập.
Huynh Đệ là Kỵ thần : là nhân tố gây bất lợi cho giá cổ phiếu.
NHỮNG DỰ ĐỐN CƠ BẢN


Dự đốn giá cổ phiếu : Thê Tài vượng tướng thì giá cổ phiếu lên cao; nếu
hưu tù, bị khắc thương thì giá cổ phiếu sẽ giảm.



Dự đoán giá cổ phiếu lâu dài : nhất định đồng thời phải đánh giá hào Tử
Tôn, nếu Tài vượng tướng nhưng Tử Tơn hưu tù, Khơng Phá chính là
trước mắt giá cổ phiếu đã lên tới đỉnh khó mà tăng giá thêm nữa.



Dự đốn giá cổ phiếu lâu dài : nếu Dụng thần, Nguyên thần tàng phục mà
vượng là có khí, chỉ cần Kỵ thần khơng động, xung phi xung phục khiến
phục thần xuất hiện là thời điểm cổ phiếu sẽ tăng giá.



Tài vượng, động mà hố tiến thần hoặc Thê Tài có khí, Tử Tơn động mà


hố tiến thần : cổ phiếu sẽ dần dần tăng giá.



Tài mặc dù vượng nhưng động động mà hoá thoái thần hoặc Tử Tơn động
mà hố khơng, hố Phá, hố Thối : cổ phiếu sẽ giảm giá.



Tài khơng vượng nhưng Tử Tơn vượng tướng hoặc Tử động mà hố hồi
đầu sinh thì trước mắt giá tuy thấp nhưng về sau sẽ có cơ hội tăng giá
mạnh.




Tài vượng tướng có khí, Tử tơn vượng phát động mà không lâm Không
Vong, không bị Nguyệt Phá; Kỵ thần Huynh Đệ đồng thời phát động : nên
để ý kĩ cổ phiếu này về lâu dài tất có cơ hội tăng giá.



Tài vượng tướng có khí; Tử Tơn và Huynh Đệ tuy đồng thời phát động
nhưng Tử Tôn Không Phá : giá cổ phiếu sẽ khơng tăng.



Tài vượng tướng, Huynh Đệ phát động nhưng đồng thời có Quan Quỷ
động mà chế phục Huynh Đệ : chính là cá mập cố ý đẩy giá cổ phiếu lên
cao.




Thê Tài hưu tù, Huynh Đệ phát động : giá cổ phiếu tất giảm.



Thê Tài vượng tướng nhưng Huynh Đệ phát động mà hoá tiến thần : trước
mắt giá cổ phiếu tuy tốt nhưng về sau sẽ giảm dần, cũng là thời điểm nên
xả hàng.



Thê Tài hưu tù; Phụ Mẫu và Huynh Đệ đồng thời phát động : giá cổ phiếu
sẽ sụt giảm.



Thê Tài hưu tù; Quan Quỷ độc phát hoặc Thê Tài động hoá Quan Quỷ :
giá cổ phiếu sẽ giảm.



Phụ Mẫu cùng Chu Tước (chủ tin tức) phát động ; trong quẻ lại có nhân
tố gây bất lợi cho Thê Tài thì giá cổ phiếu sẽ giảm nhưng nếu có nhân tố
có lợi cho Thê Tài thì giá cổ phiếu sẽ tăng.



Quẻ Phục ngâm, Thê tài bị Hợp hoặc Nhập Mộ thì giá cổ phiếu rất khó

lên cao. Quẻ Phản Ngâm thì giá cổ phiếu lên xuống, chao đảo thất
thường.



Thê Tài vượng và Huynh Đệ mạnh yếu tương đương, đồng thời hoá Thoái
hoặc Nhập Mộ thì giá cổ phiết bất động, khơng tăng mà cũng không
giảm.

Trên đây là 1 số quy luật phán đoán cơ bản, cần phải luyện tập thuần thục mới có
thể nắm chắc vi diệu, tuyệt đối khơng được máy móc cứng nhắc mà phải uyển
chuyển theo biến hố vi diệu của quẻ.
DỰ ĐOÁN GIÁ CẢ TRONG 1 NGÀY
Các bước phán đoán cơ bản :




Xác định Dụng thần suy vượng



Ảnh hưởng của hào Động đến Dụng, Nguyên, Kỵ thần.



Xác định thời gian mở cửa và đóng cửa của thị trường để từ đó xác định
được giờ gây tác động đến Dụng thần.




Nếu xác định được Dụng thần vượng tướng hữu khí thì trong ngày tất giá
sẽ tăng nhưng sẽ có thời điểm giá giảm tuỳ thuộc vào yếu tố gây ảnh
hưởng.

Ví dụ 1: Ngày Bính Dần tháng Tuất, xem giá cổ phiếu Neeson được quẻ Hoả
Trạch Khuê biến Hoả Thuỷ Vị Tế.

Lấy Thê Tài làm Dụng thần. Thê Tài Tý thuỷ phục tàng dưới Phi thần Huynh Đệ
Mùi thổ. Dụng thần không được Nhật không sinh Nguyệt đến khắc, phi thần khắc
thương là hưu tù. Phụ Mẫu Tị hoả phát động khiến Dụng thần lâm tuyệt tổ hợp này
tất nhiên là giá sẽ giảm.
Phản hồi : Ngày hôm sau cổ phiếu Neeson giảm từ 34.5 xuống 33.9 yên.
Ví dụ 2: Ngày Tân Mùi tháng Tuất xem giá cổ phiếu Benny hôm sau được quẻ Lôi
Hoả Phong biến Lôi Sơn Tiểu Quá.


Lấy Thê Tài làm Dụng thần. Tài Ngọ hoả không được Nhật Nguyệt sinh phù là hưu
tù. Nhưng Kỵ thần Huynh Đệ Hợi thuỷ bị Nhật Nguyệt khắc chế, so với Dụng thần
càng thêm hưu tù hơn. Nguyên thần Tử Tơn Mão mộc độc phát sinh Dụng thần,
nhìn sơ qua thì có vẻ cổ phiếu sẽ tăng giá nhưng Tử Tôn Mão mộc nhập mộ, lại
Thê Tài Ngọ hoả bị Nhật thần hợp trú đây là tượng giá cổ phiếu sẽ khơng thay đổi,
nếu có thì tăng nhẹ.
Phản hồi: Ngày hôm sau cổ phiếu vẫn là 33.5 yên, không thay đổi gì.
DỰ ĐỐN GIÁ CẢ TRONG 1 TUẦN
Các bước phán đốn cơ bản :


Xác định Dụng thần suy vượng




Ảnh hưởng của hào Động đến Dụng, Ngun, Kỵ thần.



Trong tuần thì từng ngày trong tuần sẽ tác động đến Dụng thần.



Nhìn Khí của Dụng để có cái nhìn tổng quan, nhìn Nhật kiến trong tuần
để xác định thời điểm mua bán.

Ví dụ: Ngày Giáp Dần tháng Tý xem giá cổ phiếu Jony được quẻ Phong Lơi Ích
biến Thiên Hoả Đồng Nhân.


Lấy Thê Tài làm Dụng thần. Trong quẻ Dụng thần lưỡng hiện là Mùi thổ cùng Thìn
thổ lại đồng thời phát động, lấy hào Mùi thổ sang tháng bị Nguyệt Phá làm Dụng
thần. Dụng thần Mùi thổ không được Nhật Nguyệt sinh phù, bị Nhật khắc thương,
động hoá Phá, tin tức bất lợi quá nhiều cho nên tuần này giá cổ phiếu sẽ giảm.
Thứ 2, ngày Giáp Dần, Kỵ thần lâm Nhật khắc thương Dụng thần : giá cổ phiếu
giảm.
Thứ 3, ngày Ất Mão, cũng là Kỵ thần lâm Nhật khắc thương Dụng thần : giá cổ
phiếu cũng sẽ giảm.
Thứ 4, ngày Bính Thìn, Dụng thần nhập Mộ : giá cổ phiếu tiếp tục giảm.
Thứ 5, ngày Đinh Tị, Dụng thần được Nhật sinh : giá cổ phiếu sẽ tăng.
Thứ 6, ngày Mậu Ngọ, Dụng thần thực Phá : giá cổ phiếu sẽ giảm.
Phản hồi:
Thứ 2, ngày Giáp Dần, giá cổ phiếu từ 46.4 yên giảm còn 44.4 yên.

Thứ 3, ngày Ất Mão, giá cổ phiếu từ 44.4 yên giảm cịn 42.0 n.
Thứ 4, ngày Bính Thìn, giá cổ phiếu từ 42.0 yên giảm còn 40.0 yên.
Thứ 5, ngày Đinh Tị, giá cổ phiếu tăng từ 40.0 yên lên 40.4 yên.


Thứ 6, ngày Mậu Ngọ, giá cổ phiếu từ 40.4 n giảm cịn 39.4 n.
DỰ ĐỐN THỜI ĐIỂM MUA BÁN TỐT NHẤT
Tử Tơn hưu tù, Thê Tài vượng tướng chính là lúc giá cổ phiếu đang cao nhất vì vậy
phải chọn ngày Thê Tài vượng mà bán để xả hàng.
Thê tài có khí, phát động mà hố Tiến hoặc Tử Tơn động là giá cổ phiếu sẽ tăng vì
vậy nên chọn thời điểm Thê Tài bị khắc để mua vào là tốt nhất.
Ví dụ: Ngày Giáp ngọ, tháng Thân xem cổ phiếu đang trữ hàng lúc nào bán đi là
tốt nhất được quẻ Trạch Thuỷ Khốn biến Bát Thuần Khảm.

Lấy Thê Tài Dần mộc làm Dụng thần. Dụng thần Nguyệt Phá, Nhật không sinh
phù là hưu tù, may mà Nguyên thần Hợi thuỷ phát động vừa sinh vừa hợp phá
Dụng thần. Có điều Dụng thần vốn khơng có gốc rễ, giá cổ phiếu sẽ không tăng lên
được, nhất định phải xả hàng nhanh. Ngày hôm sau là Ất Mùi Dụng thần Nhập Mộ
giá tất sẽ giảm mạnh, hôm nay bán đi là tốt nhất.
Phản hồi: Bắt đầu từ ngày thứ 2 giá cổ phiếu giảm một mạch.
Trên đây là số phán đoán cơ bản về giá cổ phiếu trên thị trường ngoại hối hoặc
chứng khốn. Bài viết này khơng dành cho người mới học Dự đoán lục hào mà
phải yêu cầu có 1 căn cơ nhất định. Nếu chưa nắm rõ hoặc nhập mơn dự đốn thì
mời các bạn xem bài viết Lục Hào Nhập Môn hoặc Hướng Dẫn Học Dự Đoán
Lục Hào.


CHƯƠNG 1 VŨ TRỤ QUAN CỦA DỊCH
I. HỌC THUYẾT ÂM DƯƠNG
Thế giới có nam thì có nữ, có cát thì có hung, tất cả sự vật trong vũ trụ

đều có tính hai mặt. Bản thân vũ trụ chính là do vũ trụ chính và vũ trụ
phụ cấu thành, vũ trụ là một tổ hợp thể âm dương to lớn. Cô dương bất
trưởng, cô âm bất sinh, âm dương phụ thuộc lẫn nhau, không thể tồn
tại một cách độc lập. Chữ Dịch (易), xét về nguồn gốc và tổ hợp của văn
tự thì chính là hợp thể của hai chữ Nhật ( 易 ) và Nguyệt ( 易 ). Nhật là
dương, Nguyệt là âm, “Dịch” phản ánh sự biến hóa của âm dương. Nói
cách khác, bản chất của “Dịch” là miêu tả quy luật phát triển và biến
hóa của vũ trụ, sự phát triển và biến hóa của vũ trụ chính là do vai trò
của âm dương tạo nên, quy luật mà nó tuân theo được cổ nhân gọi là
“Đạo”. “Đạo” là bản chất của vũ trụ, thuật dự đốn chính là một phương
tiện để nhận thức và cầu chứng[1] “Đạo”. Thuật dự đoán được xây dựng
dựa trên nguyên lý âm dương, nó có thể dự đốn chính xác rất nhiều
sự việc có liên quan đến con người, điều đó là bởi vì giữa con người và
vũ trụ có mối quan hệ rất chặt chẽ. Con người là sản phẩm tất yếu của
sự phát triển đến một giai đoạn nhất định của vũ trụ. Con người là tinh
hoa của vũ trụ, là hình ảnh thu nhỏ của vũ trụ, mỗi một con người
chính là một tiểu vũ trụ. Chỉ có nhận thức được vũ trụ, mới có thể thực
sự nhận thức được nhân thể[2], chỉ có nhận thức được nhân thể, mới có
thể giải đáp được những câu đố của vũ trụ. Con người là linh hồn của
vạn vật, sự phát triển của vũ trụ cũng chính là sự phát triển của con
người. Ở phương diện nhân thể, âm dương được thể hiện rất phong phú.
Xét về giới tính, nữ là âm, nam là dương; xét về một cá nhân, ở trên là
dương, phía dưới là âm, lưng là dương, ngực là âm, bên trái là dương,
bên phải là âm, bên ngoài là dương, bên trong là âm, phủ là dương,
tạng là âm. Cuộc đời của con người chính là một q trình biến hóa
của âm dương. Trước khi chưa thụ thai, con người ở dạng nhân tố di
truyền, hoặc mật mã di truyền, là một hình thức tồn tại vơ hình và âm
tính, sau khi âm dương kết hợp thì phụ nữ mang thai, dương tính sẽ
xuất hiện và hình thành thai nhi, đây chính là sự chuyển biến từ âm
đến dương. Nếu so sánh giữa thai nhi trong bụng và con người bên

ngồi cơ thể thì thai nhi là âm, con người được sinh ra là dương. Sau
khi được sinh ra, con người liên tục trưởng thành, lúc nhỏ là âm, lớn
lên là dương, khi dương phát triển đến một giai đoạn nhất định, thì lại
phát triển về hướng âm, thời trai tráng là dương, tuổi già là âm, người
đang sống là dương, sau khi chết là âm. Chỉ có nắm vững nguyên lý


âm dương, chúng ta mới có thể sử dụng thuật dự đốn lục hào dự dốn
chính xác xu thế phát triển của con người và sự vật.

II. HỌC THUYẾT NGŨ HÀNH
Từ góc độ của Dịch, ngũ hành là yếu tố cơ bản nhất để cấu thành thế
giới vật chất, trong vạn sự vạn vật đều đã bao hàm các thành phần của
ngũ hành, mỗi sự phát sinh, phát triển của sự vật đều là kết quả của tác
dụng tương hỗ trong ngũ hành. Nói một cách cụ thể, ngũ hành là chỉ
năm loại nguyên tố: thủy, hỏa, mộc, kim và thổ. Năm loại nguyên tố
này là sự khái quát và tổng kết cao độ của người xưa về các thuộc tính
của mọi sự vật trong vũ trụ.
Trong ngũ hành, sự vật đại diện cho thủy có đặc tính là lạnh, hướng
xuống, ẩm thấp, ẩm ướt, như nước, mưa, tuyết, ban đêm, màu đen,
phía bắc, băng… đều thuộc về thuộc tính thủy. Đặc tính của hỏa là nóng
ấm, sáng, hướng lên, bốc lên, như ngọn lửa, hào quang, mùa hạ, màu
đỏ, phía nam… đều thuộc về thuộc tính hỏa. Đặc tính của mộc là sinh
sơi, nhu hịa[3], khúc trực[4], thư triển[5], như thực vật, buổi sáng,
mùa xn, phía đơng, hoa cỏ… đều thuộc về thuộc tính mộc. Đặc tính
của kim là mát mẻ, sạch sẽ, túc giáng[6], thu liễm[7], như kim loại,
mùa thu, màu trắng, phía tây… đều thuộc về thuộc tính kim. Đặc tính
của thổ là trưởng dưỡng[8], sinh hóa, thụ nạp, biến hóa, như đất, núi,
màu vàng, trung ương… đều thuộc về thuộc tính thổ.
Học thuyết ngũ hành khơng chỉ là sự phân loại tính chất sự vật, mà

quan trọng hơn là nó đã nói rõ quy luật thơng thường của sự vận động
bên trong sự vật. Nói cách khác, quan hệ tương hỗ trong ngũ hành vừa
có một mặt tương sinh vừa có một mặt tương khắc, chính bởi vì tác
dụng của tương sinh tương khắc này mà sự vật trong vũ trụ mới có thể
biến hóa và phát triển.
Tương sinh của ngũ hành là thủy sinh mộc, mộc sinh hỏa, hỏa sinh thổ,
thổ sinh kim và kim sinh thủy. Mối quan hệ này là tổng kết từ thực tiễn
lâu dài của người xưa khi quan sát các hiện tượng trong tự nhiên. Thí
dụ, trong ngũ hành thì hoa cỏ, cây cối có thuộc tính là mộc, mặc dù là
chúng sinh trưởng ở trong đất, nhưng nhất định phải có nước ẩm ướt thì
mới có thể sinh trưởng, vì vậy mà cho rằng thủy sinh mộc. Lại như dùi
gỗ có thể lấy được lửa, cây cối có thể bị đốt cháy, vì vậy mà cho rằng
mộc sinh hỏa. Vật bị lửa đốt mà biến thành tro, tro chính là thổ, cho
nên hỏa sinh thổ. Kim loại được tinh luyện từ khống thạch trong đất, vì


vậy thổ có thể sinh kim. Kim loại sau khi nóng chảy có thể biến thành
chất lỏng, hơi nước lại dễ dàng ngưng tụ thành giọt nước trên bề mặt
kim loại nhẵn bóng, vì vậy mà người xưa cho rằng thủy là do kim sinh
ra.

Tương khắc của ngũ hành là thủy khắc hỏa, hỏa khắc kim, kim khắc
mộc, mộc khắc thổ và thổ khắc thủy. Nguyên lý tương khắc này cũng là
từ việc quan sát thế giới tự nhiên mà quy nạp và tổng kết ra. Tính chất
của thiên địa là nhiều thắng ít, nước có thể dập tắt lửa, do đó thủy khắc
hỏa. Tinh luyện thắng cứng, lửa có thể làm cho kim loại nóng chảy, vì
vậy hỏa khắc kim. Cương thắng nhu, đao cụ kim loại có thể chặt cây,
cho nên kim khắc mộc. Chuyên thắng tán, rễ của cỏ cây có thể đâm
vào đất, cho nên mộc khắc thổ. Thực thắng hư, đất có thể ngăn nước,
do đó thổ khắc thủy.

[1] cầu chứng: tìm cách chứng thực.
[2] nhân thể: cơ thể con người.
[3] nhu hịa: ơn hịa, dịu dàng, mềm mại
[4] khúc trực: vừa có thể khúc khuỷu quanh co, lại vừa có thể sn
thẳng
[5] thư triển: xòe ra, mở ra, giãn ra


[6] túc giáng: là một thuật ngữ trong trung y. Phế chủ túc giáng, nghĩa
là phế khí nên sạch, nên giáng xuống.
[7] thu liễm: thu lại
[8] trưởng dưỡng: sinh ra và ni dưỡng

CHƯƠNG 2 CAN CHI VÀ DỰ ĐỐN LỤC HÀO
Từ những giáp cốt văn được khai quật cho thấy, từ thời nhà Thương,
người ta đã sớm sử dụng Lục Thập Hoa Giáp để ghi lại ngày tháng năm.
Lục Thập Hoa Giáp có một sức mạnh đáng kinh ngạc, bên trong nó có
hàm chứa khái niệm thời gian-khơng gian, là phương tiện để truyền đạt
thông tin vũ trụ và sự biến hóa của vạn sự vạn vật trong vũ trụ. Ngồi
vai trị quan trọng đối với sự phát triển của Dịch học, Lục Thập Hoa
Giáp cịn có ảnh hưởng sâu rộng đến các hệ thống học thuật khác sau
này. Chẳng hạn như phép “Tý Ngọ Lưu Trú”, “Linh Quy Bát Pháp”
trong Trung y hiện nay chính là cách lấy huyệt vị dựa vào thiên can
địa chi của thời gian mà bệnh nhân đến. Có thể nói rằng, nếu khơng có
sự xuất hiện của can chi thì lịch sử sẽ khơng xuất hiện thuật dự đoán
lục hào.

I. THẬP THIÊN CAN
Thập thiên can là Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm,
Quý. Thứ tự sắp xếp này là cố định, nó cho thấy q trình biến hóa của

vạn vật từ sinh trưởng đến phồn thịnh, suy lão rồi tử vong.
1. Âm dương của thập thiên can
Thiên can có phân chia âm dương, số lẻ là dương, số chẵn là âm. Giáp,
Bính, Mậu, Canh, Nhâm là dương, gọi là can dương; Ất, Đinh, Kỷ, Tân,
Quý thuộc âm, gọi là can âm.
2. Ngũ hành của thập thiên can
Giáp Ất là mộc, Bính Đinh là hỏa, Mậu Kỷ là thổ, Canh Tân là kim,
Nhâm Quý là thủy.
3. Thập thiên can và phương vị


Giáp Ất là phương Đơng, Bính Đinh là phương Nam, Mậu Kỷ là trung
ương, Canh Tân là phương Tây, Nhâm Quý là phương Bắc. Giữa thập
thiên can còn tồn tại quan hệ tương hợp, tương xung, hợp hóa,… Tuy
nhiên, trong dự đoán lục hào thường chỉ chú trọng can ngày dự đoán,
dùng để an lục thần, những ý nghĩa khác thì rất ít khi dùng, vì vậy có
thể bỏ qua không ghi ra.

II. THẬP NHỊ ĐỊA CHI
Thập nhị địa chi là Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tị, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu,
Tuất, Hợi. Trong dự đốn lục hào, vai trị thập nhị địa chi là hết sức
quan trọng, nhất định phải ghi nhớ thuộc tính ngũ hành và mối quan
hệ sinh khắc xung hợp lẫn nhau của chúng.
1. Âm dương của thập nhị địa chi
Tý, Dần, Thìn, Ngọ, Thân, Tuất là chi dương. Sửu, Mão, Tị, Mùi, Dậu, Hợi
là chi âm.
2. Ngũ hành của thập nhị địa chi
Dần Mão cùng thuộc mộc, Dần là dương mộc, Mão là âm mộc. Tị Ngọ
cùng thuộc hỏa, Ngọ là dương hỏa, Tị là âm hỏa. Thân Dậu cùng thuộc
kim, Thân là dương kim, Dậu là âm kim. Hợi Tý cùng thuộc thủy, Tý là

dương thủy, Hợi là âm thủy. Thìn Tuất Sửu Mùi cùng thuộc thổ, Thìn
Tuất là dương thổ, Sửu Mùi là âm thổ.
3. Thập nhị địa chi và phương vị
Tý là phương Bắc, Sửu Dần là Đơng Bắc, Mão là Đơng, Thìn Tị là Đông
Nam, Ngọ là phương Nam, Mùi Thân là Tây Nam, Dậu là phương Tây,
Tuất Hợi là Tây Bắc.
4. Thập nhị địa chi và bốn mùa
Dần Mão Thìn là mùa xuân, Tị Ngọ Mùi là mùa hạ, Thân Dậu Tuất là
mùa thu, Hợi Tý Sửu là mùa đông.
5. Thập nhị địa chi và tháng
Từ góc độ dương lịch mà nói, Dần là tháng 2, Mão là tháng 3, Thìn là
tháng 4, Tị là tháng 5, Ngọ là tháng 6, Mùi là tháng 7, Thân là tháng


8, Dậu là tháng 9, Tuất là tháng 10, Hợi là tháng 11, Tý là tháng 12,
Sửu là tháng 1.
6. Thập nhị địa chi và mười hai canh giờ
Giờ Tý (23 giờ – 1 giờ), giờ Sửu (1 giờ – 3 giờ), giờ Dần (3 giờ – 5 giờ),
giờ Mão (5 giờ – 7 giờ), giờ Thìn (7 giờ – 9 giờ), giờ Tị (9 giờ – 11 giờ),
giờ Ngọ (11 giờ – 13 giờ), giờ Mùi (13 giờ – 15 giờ), giờ Thân (15 giờ –
17 giờ), giờ Dậu (17 giờ – 19 giờ), giờ Tuất (19 giờ – 21 giờ), giờ Hợi (21
giờ – 23 giờ).
7. Lục hợp của thập nhị địa chi
Trong thập nhị địa chi, hai địa chi tương hợp thành cặp, có sáu cặp cho
nên gọi là lục hợp. Tức là Tý và Sửu hợp, Dần và Hợi hợp, Mão và Tuất
hợp, Thìn và Dậu hợp, Tị và thân Hợp, Ngọ và Mùi hợp.
8. Lục xung của thập nhị địa chi
Trong thập nhị địa chi, hai địa chi tương xung thành cặp, có sáu cặp
cho nên gọi là lục xung. Tức là Tý Ngọ tương xung, Sửu Mùi tương
xung, Dần Thân tương xung, Mão Dậu tương xung, Thìn Tuất tương

xung, Tị Hợi tương xung.
9. Thập nhị địa chi và quan hệ đối ứng với động vật
Tý chuột, Sửu trâu, Dần hổ, Mão thỏ, Thìn rồng, Tị rắn, Ngọ ngựa, Mùi
dê, Thân khỉ, Dậu gà, Tuất chó, Hợi lợn.
10. Tam hợp của địa chi
Thân Tý Thìn hợp thủy cục, Tị Dậu Sửu hợp kim cục, Dần Ngọ Tuất hợp
hỏa cục, Hợi Mão Mùi hợp mộc cục.
11. Tam hình của địa chi
Dần hình Tị, Tị hình Thân, Thân hình Dần, Sửu Tuất Mùi tương hình, Tý
hình Mão, Mão hình Tý, Thìn Ngọ Dậu Hợi tự hình.
Trên đây là những khái niệm thường gặp liên quan đến thập nhị địa chi
cần ghi nhớ. Phương pháp sử dụng cụ thể sẽ được trình bày chi tiết ở
các chương sau.


CHƯƠNG 3 KIẾN THỨC CĂN BẢN VỀ BÁT
QUÁI
I. Ý NGHĨA CƠ BẢN CỦA BÁT QUÁI
Sự vật trong vũ trụ nhiều khơng thể nào đếm được, lại thêm biến hóa đa
dạng, tuy nhiên chúng không hỗn độn, mà tồn tại theo quy luật rất
đáng ngạc nhiên. Căn cứ vào tính chất khác nhau của sự vật, người xưa
đã sử dụng một khái niệm trừu tượng để quy nạp tất cả sự vật trong vũ
trụ thành tám loại hình thái, đó chính là bát qi.
Bát
qi
chính
là Càn ☰, Khơn ☷, Chấn ☳, Tốn ☴, Khảm ☵, Ly ☲, Cấn ☶, Đoài☱, người
xưa đã dùng tám quái này để đại diện cho mọi sự vật trong tự nhiên.
Càn đại diện trời, Khôn đại diện đất, Chấn đại diện sấm, Tốn đại diện gió,
Khảm đại diện nước, Ly đại diện lửa, Cấn đại diện núi, Đoài đại diện đầm

(hồ).
Ký hiệu cơ bản nhất để cấu thành bát quái là hào, hào phân âm dương,
hào dương là vạch liền (__), hào âm là vạch đứt (_ _). Ba hào tạo thành
một quái tượng, theo tượng tam tài thiên địa nhân. Hai quái đơn chồng
lên nhau lại có thể tạo thành một trùng quái, quái ở trên gọi là thượng
quái hay ngoại quái, quái ở dưới gọi là hạ quái hay nội quái. Có tổng
cộng 64 trùng quái, gọi là 64 quái.
Từ hình tượng ký hiệu của bát quái, người xưa đã đặt ra bài ca để thuận
tiện cho việc ghi nhớ, bài ca đó như sau: “Càn tam liên, Khôn lục đoạn,
Chấn ngưỡng vu, Cấn phúc uyển, Đoài thượng khuyết, Tốn hạ đoạn, Ly
trung hư, Khảm trung mãn.”
Tuy là chỉ có tám loại hình, nhưng bát quái có thể đối ứng với vạn sự
vạn vật trong vũ trụ, có thể nói rằng bát qi chính là kho tàng thông
tin vũ trụ. Mối quan hệ đối ứng giữa bát quái và giới tự nhiên có thể từ
từ hiểu rõ sau khi đã đi sâu vào, ở đây chỉ cần ghi nhớ những ý nghĩa
thường dùng là được.
1. Quan hệ đối ứng giữa bát quái và nhân sự
Càn là cha, Khôn là mẹ, Chấn là trưởng nam, Tốn là trưởng nữ, Khảm
là trung nam, Ly là trung nữ, Cấn là thiếu nam, Đoài là thiếu nữ.


2. Quan hệ đối ứng giữa bát quái và cơ thể
Càn là đầu, Đoài là miệng, Chấn là chân, Tốn là đùi, Ly là mắt, Khảm là
tai, Cấn là tay, Khôn là bụng.
3. Quan hệ đối ứng giữa bát quái và nội tạng
Càn là đầu, phổi, ruột già; Khôn là lá lách, dạ dày; Chấn là gan, mật;
Tốn là gan, mật; Khảm là thận, bàng quang; Ly là tim, ruột non; Cấn là
lá lách, dạ dày; Đoài là phổi, ruột già,…
4. Quan hệ đối ứng giữa bát quái và phương vị
Càn là Tây Bắc, Đoài là phương Tây, Ly là phương Nam, Chấn là

phương Đông, Tốn là Đông Nam, Khảm là phương Bắc, Cấn là Đông
Bắc, Khôn là Tây Nam.
Sự đối ứng giữa bát quái và vạn sự vạn vật có thể được phân chia vơ
cùng vơ tận, trong thuật dự đốn Mai Hoa Dịch Số thì được ứng dụng
rất rộng rãi, tuy nhiên trong dự đốn lục hào thì khơng được sử dụng
nhiều.
5. Thuộc tính ngũ hành của bát qi
Càn Đồi thuộc kim, Khơn Cấn thuộc thổ, Ly thuộc hỏa, Chấn Tốn
thuộc mộc, Khảm thuộc thủy.

II. PHÂN CUNG BÁT QUÁI
Từ bát quái phát triển thành 64 quái, 64 quái này được phân thành
tám cung, mỗi cung gồm tám quẻ, thứ tự sắp xếp của nó là cố định bất
biến, mỗi quẻ có một tên gọi riêng.
Cung Càn: Quẻ đầu tiên, thượng quái hạ quái đều là Càn, gọi là Càn Vi
Thiên, cũng gọi là quẻ đầu cung Càn. Quẻ thứ hai thượng Càn hạ Tốn,
gọi là Thiên Phong Cấu, hoặc nhất thế quái cung Càn. Quẻ thứ ba
thượng Càn hạ Cấn, gọi là Thiên Sơn Độn, hoặc nhị thế quái cung Càn.
Quẻ thứ tư thượng Càn hạ Khôn, gọi là Thiên Địa Bĩ, hoặc tam thế quái
cung Càn. Quẻ thứ năm thượng Tốn hạ Khôn, gọi là Phong Địa Quan,
hoặc tứ thế quái cung Càn. Quẻ thứ sáu thượng Cấn hạ Khôn, gọi là
Sơn Địa Bác, hoặc ngũ thế quái cung Càn. Quẻ thứ bảy thượng Ly hạ


Khôn, gọi là Hỏa Địa Tấn, hoặc quẻ du hồn cung Càn. Quẻ thứ tám
thượng Ly hạ Càn, gọi là Hỏa Thiên Đại Hữu, hoặc quẻ quy hồn cung
Càn.
Tám quẻ cung Đoài là: Đoài Vi Trạch, Trạch Thủy Khốn, Trạch Địa Tụy,
Trạch Sơn Hàm, Thủy Sơn Kiển, Địa Sơn Khiêm, Lôi Sơn Tiểu Quá, Lôi
Trạch Quy Muội.

Tám quẻ cung Ly là: Ly Vi Hỏa, Hỏa Sơn Lữ, Hỏa Phong Đỉnh, Hỏa Thủy
Vị Tế, Sơn Thủy Mơng, Phong Thủy Hốn, Thiên Thủy Tụng, Thiên Hỏa
Đồng Nhân.
Tám quẻ cung Chấn là: Chấn Vi Lôi, Lôi Địa Dự, Lôi Thủy Giải, Lôi
Phong Hằng, Địa Phong Thăng, Thủy Phong Tỉnh, Trạch Phong Đại
Quá, Trạch Lôi Tùy.
Tám quẻ cung Tốn là: Tốn Vi Phong, Phong Thiên Tiểu Súc, Phong Hỏa
Gia Nhân, Phong Lơi Ích, Thiên Lôi Vô Vọng, Hỏa Lôi Phệ Hạp, Sơn Lôi
Di, Sơn Phong Cổ.
Tám quẻ cung Khảm là: Khảm Vi Thủy, Thủy Trạch Tiết, Thủy Lôi Truân,
Thủy Hỏa Ký Tế, Trạch Hỏa Cách, Lôi Hỏa Phong, Địa Hỏa Minh Di, Địa
Thủy Sư.
Tám quẻ cung Cấn là: Cấn Vi Sơn, Sơn Hỏa Bí, Sơn Thiên Đại Súc, Sơn
Trạch Tổn, Hỏa Trạch Khuê, Thiên Trạch Lý, Phong Trạch Trung Phu,
Phong Sơn Tiệm.
Tám quẻ cung Khôn là: Khôn Vi Địa, Địa Lôi Phục, Địa Trạch Lâm, Địa
Thiên Thái, Lôi Thiên Đại Tráng, Trạch Thiên Quải, Thủy Thiên Nhu,
Thủy Địa Tỷ.
Tám quẻ đầu tiên ở mỗi cung đều là tám quẻ thuần, quẻ thứ bảy ở mỗi
cung gọi là quẻ du hồn, quẻ thứ tám gọi là quẻ quy hồn. Thuộc tính
ngũ hành của mỗi quẻ trong cung đều tương đồng với thuộc tính của
cung đó. Nghĩa là, thuộc tính ngũ hành của tám trùng quái trong
cung Càn đều là kim, thuộc tính ngũ hành của tám trùng quái trong
cung Khôn đều là thổ, những trường hợp khác cũng tương tự như vậy.

CHƯƠNG 4 PHƯƠNG PHÁP LẤY QUẺ


Lấy quẻ, hay còn gọi là khởi quẻ, là bước đầu tiên trong dự đoán lục
hào. Người ta thường sử dụng ba đồng tiền để trích xuất quái tượng, gọi

là “phép dùng đồng tiền thay cỏ thi”, hay “phép gieo đồng tiền”,…
Khoảng từ thời Chiến Quốc đến giữa thời Hán, phương pháp gieo đồng
tiền đã được sử dụng để thay thế phương pháp dùng thẻ tre hoặc cỏ thi,
nhờ đó mà tốc độ lấy quẻ trở nên nhanh hơn. Dự đoán lục hào sử dụng
đồng tiền để lấy quẻ, phương pháp của nó độc đáo, đơn giản mà đầy ý
nghĩa sâu sắc. Mỗi đồng tiền được chia thành mặt chính và mặt sau,
tượng trưng cho hai khí âm dương. Mặt có chữ là âm, mặt khơng có
chữ là dương, ba đồng tiền lại tượng trưng cho tam tài thiên địa nhân.
Bên ngồi của đồng tiền là hình trịn tượng trưng cho trời, lỗ bên trong
là hình vng tượng trưng cho đất, điều này bắt nguồn từ thuyết trời
trịn đất vng (Càn là trời, là trịn; Khơn là đất, là vng). Bộ phận ở
giữa cạnh ngoài và lỗ bên trong được gọi là thịt, tượng trưng cho con
người có xác thịt. Vì vậy, trong ba đồng tiền nhỏ bé đã bao hàm lý lẽ
âm dương trời đất, đồng thời cũng phản ánh vũ trụ quan đạo sinh nhất,
nhất sinh nhị, nhị sinh tam.
Nghi thức trước khi xin quẻ của người xưa khá rườm rà, người ta thường
phải đốt nhang, tắm gội để bày tỏ lịng tơn kính đối với thần linh và
thỉnh cầu thần linh cho gợi ý, nhưng trên thực tế dự đốn lục hào
khơng liên quan đến thần linh, mà đó chỉ là một loại hoạt động của tiềm
thức, chỉ cần động ý định dự đốn là có thể lấy đồng tiền gieo quẻ. Tuy
nhiên, nếu người xin đoán coi việc này là trị đùa, căn bản là khơng có
ý định dự đốn, thì có thể thơng tin trong qi tượng sẽ khơng phản
ánh chính xác. Khi lấy quẻ, bất kể là người được cử đến gieo quẻ hay là
dự trắc sư gieo quẻ đều được, gieo quẻ chỉ là một hình thức trích xuất
qi tượng.
Phương pháp lấy quẻ là bảo người xin đoán nắm ba đồng tiền trong tay,
úp kín hai tay lại, đừng để đồng tiền rơi ra khỏi tay, sau đó lắc lên
xuống, khiến cho các đồng tiền dao động tạo ma sát, sản sinh từ trường
tương thông với tâm linh (đương nhiên là bản thân dự trắc sư cũng có
thể gieo quẻ thay cho người được cử đến). Sau khi lắc vài lần thì thả

xuống mặt bàn hoặc khay có đáy bằng (tránh thả xuống vật mềm),
xem và ghi lại tình hình chính phản của ba đồng tiền, sau đó đặt các
đồng xu trở lại trong tay và tiếp tục gieo. Gieo như vậy sáu lần là được
một trùng quái.
Lúc ghi lại kết quả của quái tượng, một mặt lưng hai mặt chữ là thiếu
dương, là đơn, dùng một gạch ” ” để biểu thị. Một mặt chữ hai mặt lưng


là thiếu âm, là sách[1], dùng hai gạch ” ” để biểu thị. Ba mặt lưng là
lão dương, là trùng, dùng vòng tròn “O ” để biểu thị bên cạnh ” “. Ba
mặt chữ là lão âm, là giao, dùng dấu gạch chéo “X” để biểu thị bên
cạnh ” “. Ghi quẻ theo thứ tự từ dưới lên trên, kết quả của lần gieo đầu
tiên là hào sơ, kết quả của lần gieo thứ hai là hào hai, tương tự như vậy
cho đến hào sáu. Mỗi quẻ đều do sáu hào tạo thành, cho nên gọi là quẻ
lục hào. Lão dương và lão âm ở trong quẻ lục hào gọi là hào động, là
biểu thị hào vị này sẽ phát sinh biến hóa, dương động biến âm, âm
động biến dương, phản ánh đầy đủ triết lý của vũ trụ là vật cực tất phản,
dương cực biến âm, âm cực biến dương. Hào được biến ra gọi là hào
biến. Quẻ gieo ra gọi là quẻ chính, quẻ nhận được sau khi biến hóa gọi
là quẻ biến. Cũng có quẻ khơng có hào động, chỉ có quẻ chính. Thử
nêu ra một ví dụ để nói rõ:
Lần sáu gieo được 2 mặt lưng 1 mặt chữ: (thiếu âm) hào 6
Lần năm gieo được 3 mặt lưng:

o (lão dương) hào 5

Lần bốn gieo được 3 mặt chữ:

x (lão âm) hào 4


Lần ba gieo được 1 mặt lưng 2 mặt chữ:

(thiếu dương) hào 3

Lần hai gieo được 2 mặt lưng 1 mặt chữ:

(thiếu âm) hào 2

Lần đầu gieo được 1 mặt lưng 2 mặt chữ: (thiếu dương) hào sơ
Quẻ này trên Khảm dưới Ly là quẻ Thủy Hỏa Ký Tế, bởi vì hào 4 và hào
5 phát động, phát sinh biến hóa, sau khi biến hóa sẽ thành trên Chấn
dưới Ly, là quẻ Lơi Hỏa Phong. Quẻ Thủy Hỏa Ký Tế là quẻ chính, quẻ
Lơi Hỏa Phong là quẻ biến.
[1] sách: nứt ra

CHƯƠNG 5 PHƯƠNG PHÁP TRANG QUẺ
Sau khi trích xuất được quẻ, các bước tiếp theo chính là lắp ráp can
chi, Thế Ứng, lục thân và lục thần,… Trong dự đốn lục hào, những
cơng việc này được gọi là trang quẻ (lắp ráp quẻ). Trước khi trang quẻ,
chúng ta phải có một nhận thức cơ bản về bát quái. Căn cứ vào
nguyên lý âm dương, bát quái có thể được chia thành hai loại là dương
quái và âm quái. Càn, Chấn, Khảm, Cấn là dương quái; Khôn, Tốn, Ly,


Đoài là âm quái. Mỗi trùng quái được chia thành thượng quái và hạ
quái, tám cung tạo thành 64 quái đều có thuộc tính ngũ hành của nó,
quẻ đầu tiên của mỗi cung được gọi là bản cung, quẻ đầu hoặc quẻ
thuần, bảy quẻ khác mà nó thống lĩnh gọi là phi cung. Thuộc tính ngũ
hành của các phi cung đều tương đồng với bản cung, quẻ thứ bảy của
mỗi cung được gọi là quẻ du hồn, quẻ thứ tám được gọi là quẻ quy hồn.


I. PHƯƠNG PHÁP SẮP XẾP CAN CHI
Việc phối thiên can địa chi lên sáu hào vị của quẻ được gọi là nạp giáp.
Trong dự đoán thực tế, thiên can không tham gia vào việc phán đốn
cát hung, mà thơng thường chỉ dùng để phán đốn trích xuất con số.
Do đó, khi trang quẻ thường tỉnh lược thiên can và chỉ nạp địa chi.
Nạp giáp ca
Càn kim Giáp Tý ngoại Nhâm Ngọ, Khảm thủy Mậu Dần ngoại Mậu
Thân.
Chấn mộc Canh Tý ngoại Canh Ngọ, Cấn thổ Bính Thìn ngoại Bính Tuất.
Khơn thổ Ất Mùi ngoại Q Sửu, Tốn mộc Tân Sửu ngoại Tân Mùi.
Ly hỏa Kỷ Mão ngoại Kỷ Dậu, Đoài kim Đinh Tị ngoại Đinh Hợi.
Bài ca nạp giáp này chính là căn cứ và phương pháp để lắp ráp can chi
cho mỗi hào vị. Mỗi quẻ đều nạp can chi từ hào sơ, căn cứ vào nguyên
lý bát quái âm dương thuận nghịch, dương quái thì nạp can chi dương
thuận chiều kim đồng hồ (theo thứ tự của 12 chi, tức là Tý, Dần, Thìn,
Ngọ, Thân, Tuất), âm quái thì nạp can chi âm ngược chiều kim đồng hồ
(ngược với thứ tự của 12 chi, tức là Hợi, Dậu, Mùi, Tị, Mão, Sửu).
Ví dụ, giả sử gieo được quẻ Thủy Phong Tỉnh. Hạ quái là Tốn, Tốn tại nội
quái nạp Tân Sửu, Tốn là âm quái, đi ngược chiều nạp can chi âm là
Tân Sửu, Tân Hợi, Tân Dậu, không dùng chi dương. Thượng quái là
Khảm, Khảm tại ngoại quái nạp Mậu Thân, Khảm là dương quái đi
thuận, tức là Mậu Thân, Mậu Tuất, Mậu Tý, chỉ nạp can chi dương,
không dùng chi âm. Kết quả của phép nạp giáp như sau:


II. PHƯƠNG PHÁP AN THẾ ỨNG
Thế Ứng là thứ thể thiếu trong dự đoán lục hào, cũng là một trong
những căn cứ để dự đoán cát hung của sự vật. Thế Ứng là linh hồn
trong quẻ, một quẻ nếu như khơng có Thế Ứng, thì cũng giống như một

qn đội khơng có tham mưu trưởng và chỉ huy, đã mất đi trung tâm
của quẻ. Vị trí Thế Ứng của mỗi quẻ là cố định bất biến, không thể an
sai. Nếu an sai Thế Ứng thì rất khó nắm bắt được chủ thứ của sự vật.
Thời xưa, người ta an Thế Ứng bằng cách ghi nhớ thứ tự của các quẻ
trong mỗi cung bát quái, khiến cho rất nhiều người mới học phải tiêu
tốn khơng ít thời gian ở bước này. Dưới đây, tôi sẽ chỉ cho mọi người
một phương pháp khơng cần nhớ tên của 64 quẻ mà vẫn có thể an Thế
Ứng, đồng thời cịn có thể tìm được qi cung. Tơi gọi đó là hào biến
pháp an Thế Ứng tầm cung quyết.
Hào biến pháp an Thế Ứng tầm cung quyết
Tầm Thế tòng sơ vãng thượng luân, âm hào biến dương dương biến
âm.
Biến chí nội ngoại tương đồng quái, cai hào tức vi Thế sở lâm.
Nhược đáo ngũ hào quái nhưng dị, chuyển tòng tứ hào hướng hạ hành.
Nhược đáo sơ hào phương vi chỉ, quy hồn Thế tại tam hào lâm.
Nội ngoại tương đồng vật tu biến, lục hào an Thế vi bát thuần.
Ký đắc nội ngoại tương đồng quái, nguyên quái tức dĩ thử vi cung.
Nhược vấn Ứng hào an hà xử, Thế cách lưỡng hào tức vi Ứng.


Đây là một phương pháp an Thế Ứng kiêm tìm cung. Sau khi được quẻ,
phải tìm xem hào Thế của quẻ này nằm ở hào nào, có thể biến từ hào
sơ lên trên, gặp hào dương thì biến thành hào âm, gặp hào âm thì
biến thành hào dương, cứ biến đến khi nội quái và ngoại quái giống
nhau, hào sau cùng biến khiến cho nội ngoại quái giống nhau chính là
hào vị lâm hào Thế.
Ví dụ quẻ Thủy Trạch Tiết, nội ngoại quái không giống nhau, ngoại là
Khảm, nội là Đoài, chúng ta biến từ hào sơ lên trên, hào sơ là hào
dương, biến nó thành hào âm, sau khi đã biến hào sơ thì nội quái và
ngoại quái giống nhau, vậy thì hào Thế của quẻ này nhất định tại hào

sơ, đồng thời có thể khẳng định Thủy Trạch Tiết thuộc cung Khảm.
Lại ví dụ quẻ Sơn Thủy Mơng, nội ngoại quái không giống nhau, ngoại
quái là Cấn, nội quái là Khảm, chúng ta biến từ hào sơ lên trên, hào sơ
là hào âm biến thành hào dương, hào 2 là hào dương, biến thành hào
âm. Hào 3 là hào âm, biến thành hào dương, hào 4 là hào âm, biến
thành hào dương, khi biến đến hào 4, nội quái và ngoại quái đều biến
thành quẻ Ly, vậy thì hào Thế của quẻ này là hào 4, hơn nữa có thể
khẳng định Sơn Thủy Mơng là quẻ trong cung Ly.
Nếu biến đến hào 5 mà nội ngoại quái vẫn chưa giống nhau thì chuyển
từ hào 4 biến xuống. Hào 6 là tông miếu, vĩnh viễn không thể biến, sau
khi đã biến hào 4, nếu nội ngoại xuất hiện hai quẻ giống nhau, thì hào
Thế tại hào 4, đồng thời có thể khẳng định quẻ này là quẻ du hồn.
Ví dụ quẻ Phong Trạch Trung Phu, hai quẻ thượng hạ khơng giống
nhau, thượng là Tốn, hạ là Đồi, chúng ta biến từ hào sơ lên trên, hào
sơ là hào dương, biến thành hào âm, hào 2 là hào dương, biến thành
hào âm, hào 3 là hào âm, biến thành hào dương, hào 4 là hào âm,
biến thành hào dương, hào 5 là hào dương, biến thành hào âm. Sau
khi biến đến hào 5 mà thượng hạ quái vẫn chưa giống nhau, thượng
quái đã biến thành Ly, hạ quái đã biến thành Cấn. Vậy thì chuyển từ
hào 4 biến xuống, hào 4 là dương, lại biến về thành âm, sau khi biến
hào 4 thì hai quẻ nội ngoại đều thành Cấn, lúc này có thể khẳng định
hào Thế của quẻ này là tại hào 4, hơn nữa là quẻ du hồn của cung Cấn.
Nếu như chuyển từ hào 4 biến xuống mà biến đến hào sơ mới xuất hiện
hai quẻ thượng hạ giống nhau thì quẻ này là quẻ quy hồn, hào Thế an
tại hào 3.


Ví dụ quẻ Sơn Phong Cổ, hai quẻ thượng hạ khác nhau, thượng là quẻ
Cấn, hạ là quẻ Tốn, chúng ta biến từ hào sơ lên trên, hào sơ là hào âm,
biến thành hào dương, hào 2 là hào dương, biến thành hào âm, hào 3

là hào dương, biến thành hào âm, hào 4 là hào âm, biến thành hào
dương, hào 5 là hào âm, biến thành dương. Sau khi biến đến hào 5,
ngoại quái đã biến thành Càn, nội quái đã biến thành Chấn, hai quẻ
thượng hạ vẫn khác nhau, vậy thì chuyển từ hào 4 biến xuống, hào 4 là
hào dương, biến về thành hào âm, hào 3 là hào âm, biến về thành hào
dương, hào 2 là hào âm, biến về thành hào dương, hào sơ là hào
dương, biến về thành hào âm, lúc này hai quẻ thượng hạ đã giống
nhau, đều thành quẻ Tốn. Do đó, chúng ta có thể khẳng định quẻ Sơn
Phong Cổ là quẻ quy hồn thuộc cung Tốn, hào Thế tại hào 3.
Quẻ quy hồn cịn có một phương pháp phán đốn đơn giản hơn, tức là
sau khi gieo ra quẻ, đầu tiên xem có phải là quẻ quy hồn hay khơng,
nếu khơng phải thì dùng phương pháp an Thế Ứng ở trên. Phương
pháp tìm đơn giản đó là trước tiên biến đổi âm dương của hào 5, nếu
như sau khi biến mà tạo thành quẻ có nội ngoại quái giống nhau, thì
quẻ đó chính là quẻ quy hồn. Ví dụ như quẻ Sơn Phong Cổ ở trên, hào 5
là hào âm, sau khi biến nó thành hào dương thì nội ngoại quái đều
thành quẻ Tốn, như vậy có thể biết Sơn Phong Cổ là quẻ quy hồn thuộc
cung Tốn, lấy hào Thế an tại hào 3.
Nếu ban đầu hai quẻ thượng hạ giống nhau thì khơng cần phải biến, đó
chắc chắn là quẻ bản cung và hào Thế tại hào 6, giống như Càn Vi
Thiên. Sau khi tìm được hào Thế thì an hào Ứng rất dễ, nó và hào Thế
cách nhau hai hào.

III. AN LỤC THÂN
Lục thân là chỉ Huynh Đệ, Phụ Mẫu, Quan Quỷ, Thê Tài, Tử Tôn. Đây là
lấy quan hệ lục thân của nhân sự đưa vào trong quẻ, dùng để suy diễn
tương đồng sự sinh khắc chế hóa giữa các sự vật. Do đó, lục thân có thể
bao hàm rất nhiều ý nghĩa chứ khơng thể chỉ hiểu trên mặt chữ, chúng
ta có thể xem nó như là một loại ký hiệu của dự đoán lục hào.
Lục thân ở mỗi hào vị trong quẻ chính và trong quẻ biến đều được xác

định dựa trên mối quan hệ sinh khắc giữa ngũ hành của địa chi nạp
hào và thuộc tính ngũ hành của quái cung quẻ chính.


Địa chi nạp hào có thuộc tính ngũ hành tương đồng với cung được gọi
là “Ta”, dùng Huynh Đệ để biểu thị, cái sinh ta thì dùng Phụ Mẫu để
biểu thị, cái khắc ta thì dùng Quan Quỷ để biểu thị, cái ta sinh thì
dùng Tử Tơn để biểu thị, cái ta khắc thì dùng Thê Tài để biểu thị. Trong
ứng dụng thực tế, người ta thường viết tắt Huynh Đệ là Huynh, Phụ Mẫu
là Phụ, Quan Quỷ là Quan hoặc Quỷ, Tử Tôn là Tử, Thê Tài là Tài.
Muốn an lục thân cho một quẻ thì trước tiên phải biết quẻ đó thuộc về
cung gì. Nếu như nắm được “hào biến pháp an Thế Ứng tầm cung
quyết” thì chúng ta có thể dễ dàng tìm được cung của một quẻ nào đó,
sau khi tìm được cung của quẻ chính thì chúng ta có thể dựa vào mối
quan hệ sinh khắc giữa thuộc tính ngũ hành của cung và ngũ hành của
địa chi nạp hào để an lục thân.
Ví dụ quẻ Thủy Phong Tỉnh. Thuộc cung Chấn, thuộc tính ngũ hành của
nó là mộc. Lấy cung là “Ta”, hào sơ Sửu thổ là cái ta khắc, vì vậy phối
Thê Tài; hào 2 là Hợi thủy, là cái sinh ta, phối Phụ Mẫu; hào 3 Dậu
kim, là cái khắc ta, phối Quan Quỷ; hào 4 Thân kim, cũng là cái khắc
ta, phối Quan Quỷ; hào 5 Tuất thổ, là cái ta khắc, phối Thê Tài; hào 6
Tý thủy, là cái sinh ta, phối Phụ Mẫu. Sau khi phối lục thân thì được quẻ
như sau.

Nếu như một quẻ vừa có quẻ chính vừa có quẻ biến, thì thuộc tính ngũ
hành của lục thân quẻ biến cũng tương đồng với thuộc tính ngũ hành
của lục thân quẻ chính, trong quẻ chính kim là Phụ Mẫu thì trong quẻ
biến kim cũng là Phụ Mẫu, trong quẻ chính kim là Quan Quỷ thì trong
quẻ biến kim cũng là Quan Quỷ. Bất kể là quẻ biến có thuộc cung nào
thì khi phối lục thân cho nó cũng đều phải dựa vào thuộc tính của cung

quẻ chính.


Ví dụ quẻ Thủy Trạch Tiết biến quẻ Thủy Địa Tỷ, quẻ chính Thủy Trạch
Tiết thuộc cung Khảm, thuộc tính ngũ hành là thủy. Hào sơ Tị hỏa là
cái ta khắc, phối Thê Tài; hào 2 Mão mộc, là cái ta sinh, phối Tử Tôn;
hào 3 Sửu thổ, là cái khắc ta, phối Quan Quỷ; hào 4 Thân kim, là cái
sinh ta, phối Phụ Mẫu; hào 5 Tuất thổ, là cái khắc ta, phối Quan Quỷ,
hào 6 Tý thủy, là cái tỷ hịa, phối Huynh Đệ. Nội qi Đồi biến Khôn,
hào sơ và hào 2 phát động. Hào sơ Tị hỏa phát động biến ra Mùi thổ, là
cái khắc ta, phối Quan Quỷ, hào 2 Mão mộc phát động biến ra Tị hỏa
là cái ta khắc, phối Thê Tài. Sau khi phối lục thân thì được quẻ chính
và quẻ biến như sau.

Trong dự đốn lục hào, thơng thường chỉ coi trọng tác dụng sinh khắc
của hào biến đối với hào bản vị (tức là hào động). Do đó, Thế Ứng và
các hào khác của quẻ biến có thể được lược bớt, chỉ cần ghi ra hào biến
là được.

IV. AN LỤC THẦN
Lục thần cũng gọi là lục thú, là chỉ Thanh Long, Chu Tước, Câu Trần,
Đằng Xà, Bạch Hổ, Huyền Vũ. Trong đó, Đằng Xà cịn được gọi là Trình
Xà, Huyền Vũ cịn được gọi là Ngun Vũ. Trong dự đốn lục hào, lục
thần là một căn cứ dùng để phán đốn ngun nhân và tính chất của
sự vật, khơng tham gia vào phán đoán cát hung. Bản thân lục thần
cũng có thuộc tính ngũ hành, Thanh Long thuộc mộc, Chu Tước thuộc
hỏa, Câu Trần và Đằng Xà thuộc thổ, Bạch Hổ thuộc kim, Huyền Vũ
thuộc thủy, tuy nhiên giữa chúng không cần xem sinh khắc.
Lục thần được phối theo thiên can của ngày được dự đoán, theo thứ tự
từ hào sơ đến hào 6. Phương pháp cụ thể như sau: Nếu như thiên can



của ngày được dự đoán là Giáp hoặc Ất, Giáp Ất thuộc mộc, Thanh
Long cũng thuộc mộc, phối Thanh Long từ hào sơ, theo thứ tự hào 2
phối Chu Tước, hào 3 phối Câu Trần, hào 4 phối Đằng Xà, hào 5 phối
Bạch Hổ, hào 6 phối Huyền Vũ. Nếu là ngày Bính Đinh dự đốn thì khởi
Chu Tước từ hào sơ, ngày Mậu dự đốn thì khởi Câu Trần từ hào sơ,
ngày Kỷ thì khởi Đằng Xà từ hào sơ, ngày Canh Tân thì khởi Bạch Hổ
từ hào sơ, ngày Nhâm quý thì khởi Huyền Vũ từ hào sơ.

Lục thần cũng thường được viết tắt, Thanh Long là Long, Chu Tước là
Tước, Câu Trần là Câu, Đằng Xà là Xà, Bạch Hổ là Hổ, Huyền Vũ là Vũ.

CHƯƠNG 6 TÁC DỤNG CỦA LỤC THÂN, LỤC
THẦN, THẾ ỨNG
I. Ý NGHĨA CỦA LỤC THÂN
Trong một quẻ thì có nhiều lục thân. Khi phán đốn cát hung của sự
vật, thơng thường chúng ta phải chọn một lục thân có chứa ý nghĩa
tương đồng với nội dung dự đoán để triển khai suy đoán quẻ. Lục thân
này được gọi là Dụng thần.
Lục thân là căn cứ để trích xuất Dụng thần, đồng thời cũng là ký hiệu để
triển khai quái tượng và phân tích nội dung của sự vật. Nếu như khơng
có lục thân thì khơng thể chọn Dụng thần, khơng thể đưa ra phán đoán
cụ thể về sự vật phát sinh.


Mỗi lục thân thể hiện rất nhiều ý nghĩa, chỉ khi hiểu được ý nghĩa của
các lục thân thì chúng ta mới có thể chọn Dụng thần và đưa ra phán
đốn cát hung một cách chính xác.
1. Ý nghĩa của Phụ Mẫu

Phụ Mẫu thể hiện cha mẹ, ông nội, bà nội, bà ngoại, ơng ngoại, cơ,
chồng của cơ, dì, chồng của dì, mợ, cậu, thầy cơ giáo, cha ni, mẹ
ni, cha vợ, mẹ vợ, trưởng bối, người già; trời đất, đất đai, mồ mả,
thành trì, tường bao, phịng ốc, kiến trúc, cơng trình, xe đạp, xe hơi,
xe lửa, thuyền, máy bay, mưa, tuyết, áo mưa, dù, quần áo, giày mũ,
vải vóc, khăn đội đầu, khẩu trang, báo cáo, văn chương, văn kiện, sách
vở, giấy báo, thư tín, hợp đồng, thơng tin, tin tức, tín hiệu, trường học,
bệnh viện, đầu, phần mặt, ngực, lưng, bụng, mơng, phịng điều trị, đệm
chăn, ra giường, đơn vị công tác, nha môn,…
2. Ý nghĩa của Quan Quỷ
Quan Quỷ thể hiện chồng, đàn ông, công danh, thứ bậc, tên, quan
phủ, công an, kiện tụng, nhà nước, ngành tư pháp, lãnh đạo cấp trên,
sấm sét, sương mù, khói, quỷ thần, đạo tặc, kẻ xấu, tù trốn trại, loạn
đảng, tai họa, ưu sầu, quan vị, công việc, lên lớp, nghề nghiệp, chủ
nhân, bệnh tật, thi thể, người chết, vùng nhiễm bệnh, virus, tạp niệm,
phiền não,…
3. Ý nghĩa của Huynh Đệ
Huynh Đệ thể hiện anh em, chị em gái, bạn bè, đồng nghiệp, cản trở,
cạnh tranh, phá tài, phá hao, gió mây, cửa ngõ, nhà vệ sinh, vách
tường, tham của, đánh bạc, cướp đoạt, tranh giành, cánh tay, chân,
bàn chân, răng, dạ dày, vai, bàng quang, ăn uống không vào, rối loạn
tiêu hóa,…
4. Ý nghĩa của Thê Tài
Thê Tài thể hiện vợ, người yêu, phụ nữ, đối tượng yêu đương, bạn gái,
nô bộc, bảo mẫu, người giúp việc, nhân viên tùy tùng, người làm thuê,
tài sản, tiền vốn, kinh tế, giá cả, tiền tệ, dụng cụ, nhà kho, lương thực,
bếp, phịng bếp, thực vật, hàng hóa, quần áo cưới, bổng lộc, tiền lương,
thu nhập, thù lao, chi phí, đạo lý, vật bẩn thỉu, hàng vận chuyển, châu
báu, đồ trang sức, đồ dùng hàng ngày, trời nắng, lơng tóc, ẩm thực,



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×