Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
GVHD: Th.S. Tô Thị Thiên Hương
LỜI MỞ ĐẦU
Những năm gần đây, công cuộc đổi mới của Chính phủ với việc chuyển nền
kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường đã mở ra cơ hội kinh doanh,
làm ăn lớn cho các nhà đầu tư nước ngồi và góp phần đẩy nhanh tiến trình tư nhân
hố tại Việt Nam. Một trong những vấn đề đang được các doanh nghiệp thuộc mọi
thành phần kinh tế quan tâm là bảo hiểm nói chung và bảo hiểm tài sản nói riêng do
vai trị quan trọng của chúng trong việc bảo tồn vốn, hình thành tâm lý ổn định, an
tâm cho người được bảo hiểm trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh.
Đây cũng là mối quan tâm lớn đối với các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam,
nhất là từ khi thị trường bảo hiểm đã chuyển từ "thị trường của người bán" thành
"thị trường của người mua". Vấn đề nghiên cứu, cải tiến, áp dụng và triển khai các
loại hình bảo hiểm mới đang trở thành một trong những chiến lược quan trọng mà
các công ty bảo hiểm sử dụng để cạnh tranh trên thị trường.
Đối với những cán bộ bảo hiểm cũng như những ai đang nghiên cứu, học tập
trên lĩnh vực này, nghiệp vụ Bảo hiểm Cháy nổ đã khơng cịn xa lạ. Mấy năm gần
đây Chính phủ và Bộ Tài chính đã đưa vào áp dụng chế độ bảo hiểm cháy nổ bắt
buộc. Tuy nhiên, làm thế nào để hiểu thấu đáo, tường tận cơ sở lý luận và thực tế
triển khai loại hình này cho phù hợp với điều kiện Việt Nam mà vẫn đáp ứng được
với nhu cầu ngày càng đa dạng và phức tạp của các doanh nghiệp đang là câu hỏi
lớn đặt ra với tất cả các công ty bảo hiểm hoạt động tại Việt nam. Chính vì vậy, em
đã chọn đề tài “Tình hình kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm cháy nổ bắt buộc tại
công ty cổ phần bảo hiểm Hùng Vương chi nhánh Hà Nội giai đoạn 2010-2014”
làm nội dung nghiên cứu.
Mục đích của đề tài nhằm tập hợp, hệ thống hoá các nguyên tắc lý luận
được áp dụng chung trong loại hình Bảo hiểm Hoả hoạn, các đặc điểm riêng biệt
của loại hình, cũng như những công tác cần thiết trong việc triển khai nghiệp vụ.
Ngoài ra, đề tài cũng dành một phần đề cập đến thực tế tình hình triển khai nghiệp
vụ tại cơng ty cổ phần bảo hiểm Hùng Vương Chi nhánh Hà Nội.
SV: Nguyễn Thị Anh Phương
Lớp: Bảo hiểm 54
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
GVHD: Th.S. Tô Thị Thiên Hương
Trong q trình xây dựng và hồn thiện đề tài này, em đã nhận được sự giúp
đỡ tận tình thiết thực của cô giáo hướng dẫn Thạc sỹ Tô Thị Thiên Hương và một số
cán bộ cơng tác tại Phịng Bảo hiểm cháy nổ và rủi ro hỗn hợp thuộc Công ty cổ
phần bảo hiểm Hùng Vương chi nhánh Hà Nội. Xin chân thành bày tỏ lòng cảm ơn
về sự giúp đỡ quý báu đó.
Bản chuyên đề này chắc chắn sẽ không thể tránh khỏi những khiếm khuyết
trong biên tập và trình bày. Rất mong được sự góp ý và phê bình của Cơ giáo và
các bạn đồng nghiệp.
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Thị Anh Phương
SV: Nguyễn Thị Anh Phương
Lớp: Bảo hiểm 54
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
GVHD: Th.S. Tô Thị Thiên Hương
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO HIỂM CHÁY NỔ
1.1. Sự cần thiết của bảo hiểm cháy nổ
1.1.1. Sự cần thiết và tác dụng của bảo hiểm cháy nổ bắt buộc
Điều 8, Luật kinh doanh bảo hiểm có ghi rõ: “ …Bảo hiểm bắt buộc chỉ áp
dụng đối với một số loại bảo hiểm nhằm mục đích bảo vệ lợi ích cơng cộng và an
tồn xã hội”. Theo quy định này thì chỉ những thiệt hại gây hậu quả cho lợi ích của
người khác hoặc của xã hội mới thuộc phạm vi bảo hiểm bắt buộc. Do đó loại bảo
hiểm này chủ yếu là bảo hiểm trách nhiệm dân sự. Thực hiện bắt buộc loại bảo hiểm
này giúp giải quyết tốt các tranh chấp khi xảy ra tai nạn làm thiệt hại cho người
khác hoặc của Nhà nước. Nó đáp ứng được nhu cầu hội nhập khi văn hóa khiếu nại
sẽ là phương pháp chủ yếu giải quyết tranh chấp giữa các bên. Tuy nhiên, hiện nay
Việt Nam đã ban hành nghị định 130/CP-NĐ quy định các doanh nghiệp, cơ sở có
nguy cơ cháy nổ bắt buộc phải tham gia bảo hiểm cháy… Vì sao lại có quy định này
khi mà đối tượng của bảo hiểm cháy nổ là tài sản riêng của một số cá nhân, đơn vị,
và nếu họ khơng gây thiệt hại cho ai khác ngồi bản thân thì họ khơng phát sinh
trách nhiệm gì với xã hội. Trên thực tế các nước chủ yếu áp dụng bảo hiểm cháy nổ
dưới dạng tự nguyện, nhưng đối với những cơ sở kinh tế trọng điểm, tập trung như
nhà máy điện, lọc dầu, ciment… thường áp dụng bảo hiểm bắt buộc. Bởi chẳng may
gặp rủi ro và xảy ra tổn thất lớn sẽ có ảnh hưởng đáng kể đến nền kinh tế quốc dân.
Do đó tham gia bảo hiểm cháy nổ như một hình thức đảm bảo an tồn xã hội. Hiện
nay, các quốc gia duy trì qui trình bảo hiểm cháy nổ bắt buộc tại khu vực Châu Á là
Thái Lan, Malaysia, Ấn Độ, Trung Quốc. Ở Hong Kong, Đài Loan, Philipin,
Singapore không bắt buộc. Tại Việt Nam, tất cả các cơ sở được coi là có nguy cơ
cháy nổ, như đã quy định tại Nghị định 35/NĐ-CP của Chính Phủ về PCCC, đều là
đối tượng tham gia bảo hiểm cháy nổ bắt buộc. Những đối tượng này tập trung vào
bắt buộc nhóm lớn :
Nhóm có sản xuất, chế biến, vận chuyển, tang trữ, xuất nhập khí, chất nổ,
khí đốt, xăng dầu…
SV: Nguyễn Thị Anh Phương
Lớp: Bảo hiểm 54
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
GVHD: Th.S. Tô Thị Thiên Hương
Nhóm nhà máy điện, trạm biến áp từ 110KV trở lên.
Nhóm địa điểm cơng cộng, tập trung dân cư cao…( chợ, trung tâm thương
mại, nhà tập thể, chung cư, rạp hát, rạp chiếu phim, nhà ga…).
Vậy đối tượng của bảo hiểm cháy nổ không chỉ là những cơ sở có nguy cơ
cháy nổ cao mà cịn có khả năng gây thiệt hại mang tính thảm hỏa đối với xã hội.
Chính từ đặc điểm này đã giải thích phần nào về ý nghĩa của sự bắt buộc trong bảo
hiểm cháy nổ. Cháy xảy ra tại các cơ sở sản xuất vật liệu cháy nổ, tại các cơ sở khai
thác chế biến dầu mỏ, hay kho vật liệu nổ… đều có khả năng cháy rộng và cháy lớn
rất cao. Hơn nữa, do các cơ sở trên là những cơ sở có vai trị quan trọng hàng đầu
với các nghành kinh tế, nên rủi ro xảy ra dẫn tới sự trì trệ khơng chỉ của riêng
nghành đó mà cịn có thể ảnh hưởng đến các nghành khác có liên quan.
Do đó thực hiện bảo hiểm cháy nổ bắt buộc xuất phát từ mục đích bảo hiểm vệ
lợi ích cơng cộng và an toàn cho xã hội. Bởi vậy ngày nay với sự phát triển không
ngừng của nền kinh tế, cơ sở kinh doanh, trụ sở của các doanh nghiệp không ngừng
lớn mạnh, hơn nữa với tốc độ đơ thị hóa cao mật độ nhà cửa, dân cư trên mỗi m2
ngày càng dày đặc. Theo số liệu thống kê mà Tổng cục thống kê công bố vào tháng
7 năm 2002, đến năm 1995 bình qn mỗi Km2 có 6,2 cơ sở kinh tế, năm 2002 là
8,8 cơ sở; đến nay con số này có thề là 11 cơ sở. Vì vậy, cháy nổ xảy ra sẽ là thảm
họa chung của cả xã hội, khơng cịn là vấn đề riêng của mỗi cá nhân doanh nghiệp.
Thực hiện quy định bảo hiểm cháy nổ bắt buộc sẽ mang lại rất nhiều lợi ích
đối với nhà nước, với doanh nghiệp nói chung, doanh nghiệp bảo hiểm nói riêng:
Thứ nhất, đối với nhà nước và xã hội thực hiện cháy nổ bắt buộc tạo ra những
lợi ích sau:
Quy định bảo hiểm cháy nổ bắt buộc gián tiếp nâng cao tinh thần trách
nhiệm phòng cháy chữa cháy trong xã hội. Trước khi tham gia bảo hiểm cháy nổ bắt
buộc, cơ sở và doanh nghiệp buộc phải sở hữu giấy chứng nhận đạt tiêu chuẩn
phòng cháy chữa cháy. Do vậy, đây là cơ hội để chấn chỉnh và thực hiện nghiêm túc
một lần nữa công tác PCCC.
SV: Nguyễn Thị Anh Phương
Lớp: Bảo hiểm 54
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
GVHD: Th.S. Tô Thị Thiên Hương
Đem lại đời sống tốt đẹp, tiến tới xã hội văn minh, phát triển hạnh phúc.
Tăng thu ngân sách: Do doanh nghiệp bảo hiểm tăng doanh thu từ chi phí
bảo hiểm cháy nổ, lợi nhuận tăng, kết quả là thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp
nhiều hơn.
Bảo hộ nghành kinh tế bảo hiểm trước tác động của hội nhập kinh tế quốc
tế. Hiện nay, tại Luật kinh doanh bảo hiểm bắt buộc phải xin phê duyệt của cơ quan
quản lý là Bộ Tài chính. Luật cũng quy định các doanh nghiệp bảo hiểm và mơi giới
bảo hiểm nước ngồi được phép bán sản phẩm bảo hiểm trách nhiệm nói chung, chứ
khơng nói rõ là trong lĩnh vực nào. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có doanh nghiệp
bảo hiểm nào trong khối này ( có vốn đầu tư nước ngồi ) được phép bán bảo hiểm
bắt buộc. Như vậy, rõ ràng quy định chế độ bảo hiểm cháy nổ bắt buộc đã tạo ra lợi
thế cho các doanh nghiệp trong nước. Nó tạo ra sự giới hạn sân chơi cho các doanh
nghiệp bảo hiểm nước ngoài trước thị trường bảo hiểm cháy nổ đầy hấp dẫn. Đây sẽ
là bước đệm để tăng cường hơn nữa nội lực của các doanh nghiệp, tạo ra vị thế
vững chắc cho các doanh nghiệp trước thời điểm hiệp định thương mại Việt- Mỹ và
các cam kết quốc tế, cam kết WTO về lĩnh vực bảo hiểm chính thức được dỡ bỏ.
Giảm chi ngân sách cho hoạt động chi PCCC. Để PCCC hàng năm, ngân
sách nhà nước dành cho công tác này là khá lớn. Số tiền đó được chi cho các hoạt
động như tuyên truyền, quảng bá về sự cần thiết của PCCC, hoặc tài trợ cho cơ
quan PCCC thực hiện các dự án xây dựng các cơng trình như bể chứa nước ngầm,
tăng cường trạm bơm công cộng…; tăng cường trang thiết bị cho lực lượng PCCC;
đầu tư cho giáo dục tại các trường đại học và cao đẳng về PCCC… Doanh nghiệp
bảo hiểm khi thực hiện bảo hiểm cháy nổ cho các đối tượng có nguy cơ cháy nổ, vì
lợi ích của chính mình cũng sẽ thực hiện những biện pháp trên, phần nào đó đã
giảm bớt gánh nặng cho nhà nước. Ngồi ra với nghĩa vụ phải trích một quỹ khá lớn
cho các khoản chi PCCC, như vậy ngân sách dành cho cơng tác PCCC có thể cắt
giảm…
SV: Nguyễn Thị Anh Phương
Lớp: Bảo hiểm 54
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
GVHD: Th.S. Tô Thị Thiên Hương
Giảm nguy cơ cháy nổ, từ đó gián tiếp bảo hiểm vệ mơi trường sống: Do
nhà bảo hiểm có những chuyên gia trong lĩnh vực tư vấn về quản trị rủi ro, nên khi
tham gia bảo hiểm, các cơ sở và doanh nghiệp sẽ nhận được những ý kiến hữu ích
nhất cho cơng tác PCCC. Để xảy ra tình trạng cháy sẽ gây tác hại không lường tới
chủ doanh nghiệp, xã hội, và công ty bảo hiểm (do bồi thường). Do đó, vì ích lợi
của chính mình, doanh nghiệp bảo hiểm luôn luôn phải chủ động trong công tác
PCCC tại các cơ sở. Biện pháp mà các doanh nghiệp áp dụng ngồi tư vấn cịn có
cử cán bộ thường xun xuống cơ sở thực hiện kiểm tra giám sát hoạt động… Hạn
chế được số vụ cháy, nổ tức là hạn chế lượng khí độc hại CO2 thải ra mơi trường,
như vậy đã góp phần giảm bớt sự ơ nhiễm.
Sự bắt buộc sẽ tạo ra một xã hội an toàn hơn, bởi tất cả các cơ sở doanh
nghiệp tham gia bảo hiểm, khi bị tổn thất sẽ nhanh chóng nhận được tiền bồi thường
đầy đủ, từ đó khơi phục nhanh chóng hoạt động của chính mình. Nếu khơng có bảo
hiểm cháy nổ bắt buộc, sẽ có rất nhiều người khơng nhận thức hết sự nghiêm trọng
của vấn đề…
Thứ hai: Ích lợi của sự bắt buộc tham gia bảo hiểm cháy nổ đối với doanh
nghiệp và cơ sở:
Tạo ra động lực mạnh hơn khi tham gia bảo hiểm. Vì bắt buộc, doanh
nghiệp để tránh những phiền phức nhất định, sẽ đặt biệt chú ý đến việc tham gia bảo
hiểm cháy nổ. Không có sự bắt buộc, chủ doanh nghiệp có thể vì những lý do khác
nhau trì hỗn việc mua bảo hiểm …
Hồn thiện hành lang pháp lý cho cơng tác thực hiện nghiệp vụ bảo hiểm
cháy nổ, từ đó tạo ra sự minh bạch hơn nữa trong thực hiện bảo hiểm cháy nổ…
Trước khi có nghị định 130/NĐ-CP, nghiệp vụ này đã được qui định bắt buộc tại
Luật PCCC và Luật bảo hiểm, song các quy định và chế tài trong áp dụng cịn rất sơ
sài. Hiệu quả áp dụng khơng cao, do vậy sau văn bản quy phạm pháp luật này, hệ
thống các văn bản về cháy nổ, bảo hiểm cháy nổ đã đầy đủ hơn, góp phần bảo vệ tốt
nhất quyền lợi cho người tham gia. Có đầy đủ cơ sở cho khiếu kiện hơn…
SV: Nguyễn Thị Anh Phương
Lớp: Bảo hiểm 54
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
GVHD: Th.S. Tô Thị Thiên Hương
Tạo điều kiện cho DN được tiếp cần với tất cả những tác dụng của bảo
hiểm cháy, như đã trình bày…
Thứ ba, đối với doanh nghiệp bảo hiểm
Tốc độ tăng doanh thu phí lớn hơn tốc độ tăng chi phí kinh doanh:
Không chỉ doanh nghiệp bảo hiểm cần tới sự tham gia bảo hiểm của doanh nghiệp,
cơ sở mà chính những đối tượng này, để tránh bọ phạt hành chính, tước giấy phép
hoạt động… sẽ phải tìm tới các doanh nghiệp bảo hiểm… Như vậy, khách hàng
tăng, trong khi chi phí cho khai thác có thể khơng tăng hoặc tăng không nhiều.
Sự bắt buộc tạo ra lợi thế hơn hẳn của các doanh nghiệp bảo hiểm trong
nước đối với doanh nghiệp bảo hiểm nước ngồi. Cho đến nay, chưa có doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi nào được cấp phép kinh doanh bảo hiểm bắt buộc,
trong khi đó thị trường bảo hiểm cháy nổ rất tiềm năng.
Ngoài các doanh nghiệp bảo hiểm, cịn có các cơ quan hữu quan khác
tham gia vào thực hiện giám sát việc thực hiện bảo hiểm cháy nổ, như công an, cơ
quan PCCC, địa phương… Như vậy gánh nặng của doanh nghiệp bảo hiểm đã được
chia nhỏ và san sẻ.
1.1.2. Sự ra đời và phát triển của bảo hiểm cháy nổ
Trong cuộc sống và sinh hoạt hằng ngày, cũng như các hoạt động sản xuất,
con người luôn luôn phải đối mặt với những rủi ro tiềm ẩn không lường trước được,
một khi rủi ro xảy ra thì việc giải quyết hậu quả là vơ cùng tốn kém và khó khăn,
gây ra những xáo trộn trong cuộc sống. Chính vì thế, bảo hiểm ra đời như một tất
yếu khách quan nhằm san sẻ những rủi ro trong xã hội, sự san sẻ giữa con người với
con người, giúp ổn định cuộc sống cũng như sản xuất kinh doanh khi rủi ro ập đến.
Quá trình tồn tại và phát triển lồi người ln phải đối mặt với những rủi ro,
thảm họa xảy ra bất ngờ trong đó cháy được coi là một trong những rủi ro nguy
hiểm nhất. Nó thường mang tính chất thảm họa và khi xảy ra hậu quả để lại rất nặng
nề. Việc khắc phục nó địi hỏi phải có nguồn tài chính khổng lồ.
SV: Nguyễn Thị Anh Phương
Lớp: Bảo hiểm 54
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
GVHD: Th.S. Tô Thị Thiên Hương
Theo lịch sử để lại từ thời Phục Hưng, ở Châu Âu vẫn chưa có một hệ thống
phịng cháy hữu hiệu nào hơn hệ thống sử dụng từ thời các hồng đế La Mã trị vì. Ở
các thành phố lớn và thị trấn, nhà nào cũng phải dự trữ các xô đầy nước. Vào ban
đêm đội tuần tra đi dọc các phố hễ thấy nhà nào có nguy cơ cháy là họ báo ngay cho
chủ nhà. Nếu có hỏa hoạn xảy ra thì thiệt hại từ cháy có thể được phường hội giúp
đỡ với điều kiện họ phải là hội viên. Tuy nhiên khoản trợ giúp này chỉ mang tính
chất động viên khích lệ chứ chưa thể coi là một khoản bồi thường thực sự. Phường
hội đầu tiên theo kiểu này do các nhà buôn thành phố Rowen (Pháp) thành lập năm
1374 trong nhà thờ Saint Ptree. Nhưng thời bấy giờ dân chúng vẫn có tư tưởng xem
hỏa hoạn là rủi ro khơng thể tránh khỏi cũng như nạn đói, chiến tranh và các bệnh
dịch khác…
Sự xuất hiện của bảo hiểm cháy nổ được đánh dấu bằng vụ cháy thảm khốc ở
Luôn Đôn nước Anh ngày 2/9/1666 hủy diệt 13.000 căn nhà trong đó có hơn 100
nhà thờ trong 4 ngày để lại một sự thiệt hại quá lớn không thể cứu trợ được, lúc này
người ta mới ý thức được tầm quan trọng của việc thiết lập hệ thống phòng cháy,
chữa cháy và bồi thường cho người bị thiệt hại. Sau đó những nhà khinh doanh ở
nước Anh đã nghĩ ra việc cộng đồng chia sẻ rủi ro hỏa hoạn bằng cách đứng ra
thành lập những Công ty bảo hiểm hỏa hoạn như : Một số văn phòng cung cấp dịch
vụ phòng cháy, chữa cháy và bảo hiểm cháy “ Fire Office ” (năm 1667) , năm 1684
công ty bảo hiểm hỏa hoạn đầu tiên ra đời là công ty “ Friendly Society ” sau đó
hang loạt các cơng ty bảo hiểm khác đã ra đời: “ Hand and Hand ” năm 1696, “
Lom Bard House ” năm 1704… Nước Pháp do ảnh hưởng của vụ hỏa hoạn ở Luân
Đôn, nên năm 1786 công ty bảo hiểm hỏa hoạn đầu tiên mới được thành lập là “
Company L’assurance Centree L’incendie” và “ Company Royade” và dần lan rộng
sang các nước khác trên lục địa châu Âu. Ngày nay nghiệp vụ bảo hiểm hỏa hoạn
được tiến hành ở hầu hết các nước trên thế giới và ngày càng phát triển.
Ở Việt Nam trước năm 1945 đã có một cơng ty BH cháy của Pháp hoạt động.
Tuy nhiên do cơ chế bao cấp, Nhà nước đứng ra bù đắp mọi thiệt hại nhằm đảm bảo
SV: Nguyễn Thị Anh Phương
Lớp: Bảo hiểm 54
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
GVHD: Th.S. Tô Thị Thiên Hương
tài chính cho các doanh nghiệp khi họ khơng may gặp rủi ro. Vì vậy BH nói chung
và BH cháy nói riêng khơng có điều kiện phát triển.
Sau một thời gian thực hiện để phù hợp với tình hình thực tế, Bộ Tài Chính
ban hành thêm một số quyết định khác đối với nghiệp vụ BH cháy: quyết định số
142/TCQĐ về quy tắc và biểu phí mới, quyết định 212/TCQĐ ngày 12/4/1993 thay
thế biểu phí quyết định 142 và mới nhất là quyết định số 28/2007/QĐ-BTC ngày
24/4/2007 về quy tắc và biểu phí bảo hiểm cháy bắt buộc. Việc Chính Phủ ban hành
nghị định 130/2006/NĐ- CP ngày 8/11/2006 quy định về chế độ BH cháy nổ bắt
buộc kèm theo quyết định số 28 của Bộ Tài Chính về quy tắc và biểu phí bảo hiểm
cháy nổ bắt buộc đã tạo cơ sở pháp lý đầu tiên để các công ty bảo hiểm triển khai
nghiệp vụ cháy.
Từ năm 1990, nước ta đã có 16 cơng ty triển khai nghiệp vụ bảo hiểm cháy
với giá trị tham gia bảo hiểm lên đến 6.200 tỷ đồng. Đến năm 1994 bảo hiểm cháy
được thực hiện ở hầu hết 53 tỉnh thành phố, thêm nhiều công ty triển khai như :
PJICO, PVI, Bảo Minh… với tổng giá trị bảo hiểm là gần 28.000 tỷ đồng. Năm
2000 doanh thu phí bảo hiểm đạt 16.200.000 USD tăng 16% so với năm 1999.
Ngày càng có nhiều cơng ty tham gia cung cấp các sản phẩm bảo hiểm hỏa hoạn,
gần đây có các cơng ty như: AAA, BIC, bảo hiểm Hùng Vương… làm cho thị
trường bảo hiểm hỏa hoạn đa dạng và phong phú, tăng tính chất cạnh tranh từ đó
nâng cao được chất lượng sản phẩm.
Như vậy, nghiệp vụ bảo hiểm hỏa hoạn ngày càng được triển khai rộng khắp,
mọi người dân và doanh nghiệp đều có thể dễ dàng tiếp cận, tìm hiểu nghiệp vụ này.
Đáp ứng tốt nhu cầu cần thiết của nền kinh tế xã hội.
1.2. Nội dung cơ bản của bảo hiểm cháy nổ bắt buộc
1.2.1. Cơ sở pháp lý
Luật dân sự quy định chung về hoạt động bảo hiểm, hợp đồng bảo hiểm
doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm … đây cũng là cơ sở của hoạt động
bảo hiểm cháy, nổ.
SV: Nguyễn Thị Anh Phương
Lớp: Bảo hiểm 54
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
GVHD: Th.S. Tô Thị Thiên Hương
Luật phịng cháy chữa cháy có hiệu lực từ ngày 29/06/2001 tại điều 9 – Bảo
hiểm cháy nổ quy định “Cơ quan, tổ chức và cá nhân có cơ sở nguy hiểm về cháy,
nổ phải thực hiện bảo hiểm cháy nổ bắt buộc đối với tài sản của cơ sở đó…”
Luật kinh doanh bảo hiểm Việt Nam ngày 09/12/có quy định “ Bảo hiểm bắt
buộc là loại bảo hiểm do pháp luật quy định về phí bảo hiểm, mức phí bảo hiểm, số
tiền bảo hiểm tối thiểu mà tổ chức, cá nhân tham gia bảo hiểm và doanh nghiệp bảo
hiểm có nghĩa vụ thực hiện.
Bảo hiểm bắt buộc chỉ áp dụng bởi một số loại bảo hiểm nhằm mục đích bảo
vệ lợi ích cơng cộng và an tồn xã hội.
Bảo hiểm bắt buộc bao gồm:
a) Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới, bảo hiểm trách nhiệm
của người vận chuyển hàng không đối với khách.
b) Bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp đối với hoạt động tư vấn pháp luật.
c) Bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của doanh nghiệp môi giới bảo hiểm.
d) Bảo hiểm cháy nổ.
Căn cứ vào nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội từng thời kỳ, Chính Phủ trình
Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định loại bảo hiểm bắt buộc khác.” ( Điều 8 – Luật
Bảo hiểm)
Nghị định số 130/2006/NĐ-CP ngày 18/11/2006 quy định chi tiết thi hành
chế độ bảo hiểm cháy nổ bắt buộc theo Luật PCCC và Luật kinh doanh Bảo hiểm.
Thông tư liên tịch số 41/2007/TTLT-BTC-BCA ngày 24/04/2007 hướng
dẫn chi tiết về chế độ bảo hiểm cháy nổ bắt buộc đối với tài sản của cơ sở phải mua
bảo hiểm cháy nổ bắt buộc, trách nhiệm của doanh nghiệp bảo hiểm trong việc trích
lập kinh phí cho hoạt động PCCC và cơ chế quản lý, cấp phát, thanh tốn quyết tốn
nguồn kinh phí này.
Quyết định số 28/2007/QĐ-BTC ngày 24/04/2007 ban hành Quy tắc và
Biểu phí bảo hiểm hiểm cháy nổ bắt buộc.
SV: Nguyễn Thị Anh Phương
Lớp: Bảo hiểm 54
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
GVHD: Th.S. Tô Thị Thiên Hương
1.2.2. Đối tượng bảo hiểm
Doanh nghiệp bảo hiểm, cơ quan, tổ chức, và cá nhân có cơ sở nguy hiểm về
cháy, nổ có nghĩa vụ thực hiện chế độ bảo hiểm cháy, nổ bắt buộc theo quy định.
Chế độ bảo hiểm cháy, nổ bắt buộc theo quy định là bảo hiểm tài sản đối với
các rủi ro về cháy, nổ của:
a) Nhà, cơng trình kiến trúc và các trang thiết bị kèm theo.
b) Máy móc thiết bị.
c) Hàng hóa, vật tư, tài sản khác.
Những tài sản này chỉ thực sự được bảo hiểm khi giá trị của chúng tính được
thành tiền và được ghi trong Giấy chứng nhận bảo hiểm.
Bên cạnh đó Nhà Nước cũng khuyến khích các cơ quan, tổ chức và các cá
nhân không thuộc đối tượng phải tham gia bảo hiểm cháy, nổ bắt buộc theo quy
định mua bảo hiểm cháy, nổ trên cơ sở tự nguyện và phù hợp với các quy định pháp
luật có liên quan.
1.2.3. Phạm vi bảo hiểm
Đơn bảo hiểm bồi thường cho thiệt hại của tài sản được bảo hiểm do hai rủi ro
được bảo hiểm là Cháy và Nổ gây ra. Doanh nghiệp bảo hiểm khơng có nghĩa vụ
bồi thường thiệt hại do một trong những nguyên nhân sau đây:
a) Động đất, núi lửa phun hay những biến động khác của thiên nhiên.
b) Tài sản tự lên men hoặc tỏa nhiệt.
c) Tài sản chịu tác động của tác động của một q trình xử lý có dung nhiệt.
d) Sét đánh trực tiếp vào tài sản được bảo hiểm nhưng không gây Cháy, Nổ.
e) Thiệt hại xảy ra đối với máy móc, thiết bị điện hay các bộ phận của thiết
bị điện do chạy quá tải, quá áp lực, đoản mạch, tự đốt nóng, hồ quang điện hay rị
điện do bất kỳ nguyên nhân nào, kể cả do sét đánh.
SV: Nguyễn Thị Anh Phương
Lớp: Bảo hiểm 54
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
GVHD: Th.S. Tô Thị Thiên Hương
f) Những thiệt hại do hành động cố ý gây cháy nổ của người được bảo hiểm
nhằm mục đích địi bồi thường thiệt hại theo hợp đồng bảo hiểm.
g) Những thiệt hại do cố ý vi phạm các quy định về phòng cháy và chữa cháy
để xảy ra cháy, nổ.
h) Hàng hóa nhận ủy thác hay ký gửi trừ khi những hàng hóa đó được xác
nhận trong giấy chứng nhận bảo hiểm là được bảo hiểm và Người được bảo hiểm
trả thêm phí bảo hiểm theo quy định.
i)
Nguyên liệu vũ khí hạt nhân gây cháy nổ.
j)
Tiền, kim loại quý, đá quý, chứng khoán, thư bảo lãnh, tài liệu, bản thảo,
sổ sách kinh doanh, tài liệu lưu trữ trong máy tính điện tử, bản mẫu, văn bằng,
khuôn mẫu, bản vẽ, tài liệu thiết kế, trừ khi những hạng mục này được xác nhận
trong Giấy chứng nhận bảo hiểm.
k) Chất nổ, trừ khi được xác nhận là được bảo hiểm trong Giấy chứng nhận
bảo hiểm.
l)
Những tài sản mà vào thời điểm xảy ra tổn thất, được bảo hiểm theo đơn
bảo hiểm hàng hải hoặc thuộc trách nhiệm bảo hiểm theo đơn bảo hiểm hàng hải,
trừ phần thiệt hại vượt quá.
m) Những thiệt hại do cháy, nổ cho bên thứ bắt buộc.
n) Những thiệt hại đối với dữ liệu, phần mềm và các chương trình máy tính.
o) Những thiệt hại do những biến cố chính trị, an ninh và trật tự an tồn xã
hội gây ra.
1.2.4. Giá trị bảo hiểm, số tiền bảo hiểm
Số tiền bảo hiểm cháy, nổ bắt buộc tối thiểu là giá trị tính thành tiền theo giá
thị trường của tài sản phải tham gia bảo hiểm cháy, nổ bắt buộc tại thời điểm tham
gia bảo hiểm. Cần lưu ý là bên mua bảo hiểm liệt kê số tiền bảo hiểm riêng rẽ của
từng hạng mục tài sản bảo hiểm và tính tổng cộng số tiền bảo hiểm (gọi là Tổng Số
tiền bảo hiểm). Theo luật định, trong mọi trường hợp, trách nhiệm bồi thường của
SV: Nguyễn Thị Anh Phương
Lớp: Bảo hiểm 54
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
GVHD: Th.S. Tô Thị Thiên Hương
công ty bảo hiểm sẽ không vượt quá Số tiền bảo hiểm của từng hạng mục và tổng
cộng sẽ không vượt quá Tổng số tiền bảo hiểm.
Trường hợp không xác định được giá thị trường của tài sản thì số tiền bảo
hiểm cháy, nổ bắt buộc do các bên thỏa thuận.
1.2.5. Phí bảo hiểm
Phí bảo hiểm là số tiền mà bên tham gia bảo hiểm có nghĩa vụ phải đóng cho
nhà bảo hiểm để hình thành một quỹ độc lập, quỹ này được dùng để chi trả bồi
thường khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra. Phí bảo hiểm là yếu tố tiên quyết đến sự lựa
chọn của khách hàng, ảnh hưởng đến sự cạnh tranh giữa các công ty bảo hiểm khi
cùng kinh doanh một loại nghiệp vụ. Phí bảo hiểm là một khoản tiền mà chủ hợp
đồng phải nộp cho nhà bảo hiểm để hình thành một quỹ tiền tệ độc lập, tập trung đủ
lớn để bồi thường thiệt hại xảy ra trong năm nghiệp vụ theo phạm vi bảo hiểm và
hạn mức trách nhiệm mà người tham gia đã ký với nhà bảo hiểm trong hợp đồng
bảo hiểm . Phí bảo hiểm cháy nổ bắt buộc là mức phí bảo hiểm được tính trên cơ sở
1 năm. Trường hợp thời gian bảo hiểm khác 1 năm, phí bảo hiểm được tính tương
ứng theo tỷ lệ của thời gian bảo hiểm.
Việc xác định mức phí bảo hiểm nhìn chung là rất khó khăn, bởi vì phí bảo
hiểm là nguồn thu chủ yếu của các công ty bảo hiểm nên mức phí tối thiểu phải thỏa
mãn nhu cầu thanh tốn bồi thường và cơng tác đề phịng hạn chế tổn thất đồng thời
phải đảm bảo cho cơng ty có được khoản lợi nhất định. Cùng với sự phát triển mạnh
mẽ của thị trường bảo hiểm, ngày càng có nhiều các công ty bảo hiểm gia nhập làm
cho thị trường ngày càng trở nên cạnh tranh gay gắt. Chính vì vậy việc đưa ra một
mức phí thích hợp là một vấn đề không dễ dàng đối với các công ty bảo hiểm
Phí bảo hiểm phải là một mức phí cạnh tranh, khơng q cao, khơng q thấp
so với mức phí của bộ tài chính quy định. Mức phí này phải đảm bảo được ngun
tắc số đơng bù số ít và đảm bảo được sự cân đối thu chi trong hoạt động kinh doanh
của cơng ty bảo hiểm.
Mức phí của hợp đồng bảo hiểm nghiệp vụ cháy nổ được xác định bằng tỉ lệ
SV: Nguyễn Thị Anh Phương
Lớp: Bảo hiểm 54
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
GVHD: Th.S. Tô Thị Thiên Hương
phí bảo hiểm nhân với số tiền bảo hiểm. Tỷ lệ phí cơ bản được xác định dựa trên
phương pháp thống kê, kết quả tính tốn về tần suất xảy ra tổn thất và thiệt hại bình
quân các năm trước, cùng với các khoản chi cho việc quản lí, giám định và đề
phòng tổn thất.
Đối với số tiền bảo hiểm được xác định theo giá trị tối đa thì phí bảo hiểm
được tính tốn cụ thể như sau:
a) Khi giao kết hợp đồng bảo hiểm, phí bảo hiểm được tính trên cơ sở giá trị
tối đa theo thông báo của bên mua bảo hiểm. Doanh nghiệp bảo hiểm chỉ được thu
trước 75% số phí bảo hiểm tính trên cơ sở giá trị tối đa này.
b) Cuối thời hạn bảo hiểm, căn cứ các giá trị tối đa được thông báo doanh
nghiệp bảo hiểm tính giá trị tài sản tối đa bình qn của cả thời hạn bảo hiểm và
tính lại phí bảo hiểm trên cơ sở giá trị tối đa bình qn này. Nếu phí bảo hiểm được
tính lại nhiều hơn phí bảo hiểm đã nộp thì bên mua bảo hiểm phải trả thêm cho
doanh nghiệp bảo hiểm số phí cịn thiếu. Nếu số phí bảo hiểm được tính lại này thấp
hơn số phí bảo hiểm đã nộp thì doanh nghiệp bảo hiểm phải hoàn trả số chênh lệch
cho bên mua bảo hiểm. Tuy nhiên, số phí bảo hiểm chính thức phải nộp khơng được
thấp hơn 2/3 số phí bảo hiểm đã nộp.
c) Nếu trong thời gian bảo hiểm đã có tổn thất dược doanh nghiệp bảo hiểm
bồi thường và số tiền bồi thường vượt quá giá trị tối đa bình qn tính đến thời điểm
xảy ra tổn thất thì số tiền bảo hiểm đã bồi thường được coi là số tiền bảo hiểm và
phí bảo hiểm được tính trên cơ sở số tiền bảo hiểm này.
1.2.6. Quy trình triển khai bảo hiểm cháy nổ
Cũng giống như bất cứ một nghiệp vụ bảo hiểm nào, nghiệp vụ bảo hiểm Hoả
hoạn gồm các bước cơ bản sau:
- Khai thác
- Giám định
- Bồi thường
SV: Nguyễn Thị Anh Phương
Lớp: Bảo hiểm 54
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
GVHD: Th.S. Tô Thị Thiên Hương
- Đề phòng và hạn chế tổn thất
Các bước này có mối liên hệ rất chặt chẽ với nhau. Kết quả của bước này ảnh
hưởng trực tiếp tới kết quả của các bước tiếp sau nó và làm thành một chu trình hoạt
động của một nghiệp vụ.
1.2.6.1. Cơng tác khai thác bảo hiểm
Đây là bước đầu tiên và không thể thiếu trong nghiệp vụ bảo hiểm. Cơng tác
khai thác đóng một vai trò quyết định trong sự phát triển một công ty. Khách hàng
sẽ không mua bảo hiểm nếu họ không biết rằng mua bảo hiểm họ sẽ được lợi gì. Do
đó mà cơng việc tun truyền, quảng cáo trong bước này là cần thiết và nó càng trở
nên đặc biệt quan trọng đồi với nghiệp vụ bảo hiểm cháy nổ.
Sơ đồ 1: Quy trình khai thác bảo hiểm cháy nổ
Tuyên truyền, quảng cáo, chủ động tiếp cận
khách hàng
Đánh giá rủi ro
Cấp giấy chứng nhận bảo hiểm (đơn bảo
hiểm)
Bổ sung tài sản được bảo hiểm và theo dõi
tình hình thu phí
Tính hoa hồng
Tuyên truyền, quảng cáo, chủ động tiếp cận khách hàng
SV: Nguyễn Thị Anh Phương
Lớp: Bảo hiểm 54
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
GVHD: Th.S. Tô Thị Thiên Hương
Hàng năm bảo hiểm Hùng Vương kết hợp với các cơ quan, ban ngành có liên
quan như: cảnh sát PCCC, đài truyền thanh, truyền hình, báo chí, các Bộ, nghành để
tuyên truyền về ý nghĩa, tác dụng của bảo hiểm cháy nổ. Qua đó mới có thể thuyết
phục được khách hàng mua bảo hiểm.
Mặt khác, công ty cử cán bộ xuống từng xí nghiệp, đơn vị kinh doanh để giải
thích, vận động mua bảo hiểm chứ không thụ động ngồi chờ khách hàng hoặc chỉ
gửi các công văn, quy tắc cho họ trả lời vì khách hàng rất ngại đọc. Một phần vì
khó hiểu, một phần vì khơng nhận thức được hết ý nghĩa, tác dụng của bảo hiểm.
Cán bộ bảo hiểm cần chủ động đến gặp khách hàng, cùng họ đi thăm cơ sở sản
xuất, nghiên cứu quy trình sản xuất của họ..., chỉ cho họ thấy những rủi ro mà họ có
thể gặp phải và những hậu quả của nó. Cán bộ bảo hiểm giải thích rõ cho khách
hàng khi tham gia bảo hiểm họ được gì và mất gì, ước tính số phí mà họ phải trả,
giải đáp những vấn đề mà họ còn thắc mắc, chưa hiểu rõ, gây cho họ lòng tin và nhu
cầu tham gia bảo hiểm. Kinh nghiệm cho thấy rằng, hướng tuyên truyền vận động
nên tập trung vào những đối tượng "ăn nên làm ra ", có của ăn của để. Vì thế, Bảo
Hiểm Hùng Vương đã chú ý đến các đơn vị, doanh nghiệp lớn có khả năng tài
chính khai thác như: Công ty liên doanh về các thiết bị viễn thông COMVIK đã
mua bảo hiểm với số tiến bảo hiểm là 19000000 $, mức phí là 47500 $ ; cơng ty liên
doanh INDOCHINA CERAMIC sản xuất vật liệu xây dựng, trang thiết bị nội thất
đã mua với số tiền bảo hiểm là 12250000 $, mức phí là 20825 $.
Để tìm ra các doanh nghiệp "ăn nên làm ra" không phải là khó, cán bộ khai
thác nên chú ý theo dõi quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng (báo
chí, phát thanh, truyền hình...) đồng thời phải có sự phối hợp với các ngân hàng, cơ
quan khác để nắm bắt được đối tượng.
Đánh giá rủi ro
Công tác đánh giá rủi ro được tiến hành sau khi khách hàng gửi giấy yêu cầu
bảo hiểm với mục đích giá chính xác các rủi ro có thể xảy ra với các đối tượng bảo
SV: Nguyễn Thị Anh Phương
Lớp: Bảo hiểm 54
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
GVHD: Th.S. Tô Thị Thiên Hương
hiểm. Qua đó xác định tỷ lệ phí bảo hiểm thích hợp tương ứng với các rủi ro mà
cơng ty bảo hiểm nhận bảo hiểm.
Để có cơ sở đáng giá đúng rủi ro, thông thường công ty bảo hiểm sẽ gửi cho
khách hàng bản phiếu điều tra các rủi ro (bảng câu hỏi). Qua phần trả lời khách
hàng trong phiếu điều tra, các công ty bảo hiểm sẽ xác định được bậc chịu lửa của
cơng trình, loại PCCC (các thiết bị PCCC được trang bị, đội cứu hoả, bảo vệ...),
hạng sản xuất (với đơn vị sản xuất), loại kinh doanh dịch vụ (với đơn vị kinh doanh
dịch vụ ), mức độ nguy hiểm với các tài sản để trong kho, cửa hàng, từ đó xác định
mức phí thích hợp.
Tuy nhiên trên thực tế, để đảm bảo sự chính xác, trung thực khi đánh giá rủi
ro, ngoài việc gửi phiếu điều tra rủi ro, các cán bộ khai thác bảo hiểm sẽ đến làm
việc trực tiếp với khách hàng, nghiên cứu và khảo sát thực tế kỹ hơn, hướng dẫn
khách hàng trả lời các câu hỏi trong phiếu điều tra, cùng cộng tác với cảnh sát
PCCC đánh giá thực tế về công tác PCCC, phương tiện chuyên môn ( khách hàng
cần những phương tiện PCCC nào, bố trí ở đâu, với số lượng là bao nhiêu...). Cuối
cùng trên cơ sở đánh giá rủi ro, cán bộ khai thác sẽ thoả thuân với khách hàng về tỷ
lệ phí sẽ áp dụng.
Như vậy cơng tác đánh giá rủi ro có ý nghĩa vơ cùng quan trọng. Nó u cầu
cán bộ bảo hiểm khơng những phải giỏi chun mơn mà cịn phải có sự năng động,
tận tình và cẩn thận.Trong bảo hiểm Hoả hoạn, khâu đánh giá rủi ro là khâu quyết
định trong việc cấp đơn bảo hiểm cũng như việc đưa ra mức phí phù hợp.
Cấp giấy chứng nhận bảo hiểm (đơn bảo hiểm)
Đối với nghiệp vụ bảo hiểm cháy nổ, công ty bảo hiẻm sẽ cấp giấy chứng
nhận bảo hiểm cho khách hàng sau khi họ đã chấp nhận mức phí. Giấy chứng nhận
bảo hiểm cháy nổ bao gồm:
- Số đơn bảo hiểm
- Tên, địa chỉ người được bảo hiểm
- Ngành sản xuất kinh doanh
SV: Nguyễn Thị Anh Phương
Lớp: Bảo hiểm 54
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
GVHD: Th.S. Tô Thị Thiên Hương
- Những rủi ro được bảo hiểm
- Tài sản dược bảo hiểm
- Tổng giá trị tài sản
- Số tiền bảo hiểm
- Chi phí dọn dẹp hiện trường
- Mức miễn thường
- Thời hạn bảo hiểm
- Phí bảo hiểm cả năm
Thơng thường tài sản được bảo hiểm của khách hàng có nhiều loại không thể
hiện được chi tiết trong Giấy yêu cầu bảo hiểm . Vì vậy, kèm theo Giấy chứng nhận
bảo hiểm cịn có bản danh mục tài sản. Bản này được coi như một bộ phận của Giấy
chứng nhận bảo hiểm và có giá trị pháp lý, nó thể hiện từng hạng mục tài sản, số
lượng, đơn giá, giá trị, số tiền bảo hiểm của từng loại đó:
Giấy chứng nhận bảo hiểm cần được lập thành bốn bản: Một bản trao cho
khách hàng, một bản cho tài vụ, một bản lưu và một bản cho Tổng công ty.Hiện nay
Bảo Việt cũng quy định phạm vi mức phân cấp khai thác cho từng cơng ty. Nếu đối
tượng bảo hiểm có số tiền bảo hiểm trong phạm vi đó thì cơng ty chỉ cần gửi một
bản giấy chứng nhận. Nếu vượt quá mức phân cấp, trước khi cấp giấy chứng nhận
cho khách hàng, các công ty cần gửi hồ sơ cho Tổng công ty xem xét và quyết định.
Bổ sung tài sản được bảo hiểm và theo dõi tình hình thu phí
Trên thực tế, có nhiều khách hàng yêu cầu sửa đổi, bổ sung tài sản được bảo
hiểm sau khi đã được cấp giấy chứng nhận bảo hiểm. Các công ty cần xem xét kỹ
yêu cầu thay đổi như: giá trị bảo hiểm, các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ phí để từ đó
tính tốn, điều chỉnh lại tỷ lệ phí, phí bảo hiểm cho thích hợp. Bản bổ sung sửa đổi
cũng được lập thành bốn bản trao cho các bộ phận nói trên.
Ngồi ra các cán bộ khai thác cũng cần định kỳ xuống thăm các đối tượng bảo
hiểm, kiểm tra các công tác PCCC, nêu ra các đề xuất để tăng cường công tác này.
SV: Nguyễn Thị Anh Phương
Lớp: Bảo hiểm 54
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
GVHD: Th.S. Tô Thị Thiên Hương
Đồng thời phải phối hợp với các bộ phận tài vụ để theo dõi việc đóng phí của khách
hàng, nhắc nhở họ tái tục bảo hiểm khi thời hạn bảo hiểm sắp hết.
Hoa hồng
Trong công tác khai thác không thể khơng nói đến vấn đề hoa hồng. Đây là
một khoản chi được tính theo tỷ lệ phần trăm so với số phí bảo hiểm. Khoản hoa
hồng này, cơng ty trả cho người trực tiếp đứng ra tham gia bảo hiểm hoặc trả cho
người mơi giới nhằm động viên khuyến khích họ nhiệt tình cơng tác, thu hút thêm
nhiều khách hàng tham gia bảo hiểm. Đây cũng là một hình thức tạo dựng mối quan
hệ lâu dài với khách hàng.Từ năm 1995, để tạo tính chủ động, linh hoạt trong hoạt
động, khoản chi hoa hồng được tính vào chi quản lý nghiệp vụ.
Có thể nói cơng tác khai thác có một vai trò quan trọng trong hoạt động kinh
doanh bảo hiểm. Thực hiện tốt khâu này sẽ tạo tiền đề cho các công ty bảo hiểm mở
rộng và chiếm lĩnh thị trường.
1.2.6.2. Công tác giám định tổn thất
Khâu giám định tổn thất có vị trí quan trọng đối với cơng tác bồi thường. Các
giám định viên bảo hiểm có nhiệm vụ xác định: nguyên nhân rủi ro có thuộc phạm
vi bảo hiểm hay không, giá trị thiệt hại thực tế là bao nhiêu…
Khi xảy ra tổn thất, công ty bảo hiểm hoặc người được công ty bảo hiểm ủy
quyền sẽ tiến hành giám định các tổn thất về tài sản với sự có mặt các bên có liên
quan hoặc người đại diện hợp pháp của các bên có liên quan nhằm xác định nguyên
nhân mức độ tổn thất. Kết quả giám định phải lập thành văn bản có chữ kí của các
bên liên quan. Bên công ty bảo hiểm chịu trách nhiệm về chi phí giám định.
Trong trường hợp, chủ hợp đồng không thống nhất về nguyên nhân và mức độ
thiệt hại mà bên công ty xác định, hai bên sẽ thỏa thuận chọn cơ quan giám định
độc lập thực hiện việc giám định.
Trường hợp kết luận của giám định độc lập khác với kết luận giám định độc
lập của công ty thì một trong các bên có quyền khởi kiện tại tòa án nơi xảy ra tổn
thất. Việc giám định của công ty bảo hiểm, doanh nghiệp phải trả chi phí giám định
độc lập. Trường hợp kết luận của giám định độc lập trùng với kết luận giám định
SV: Nguyễn Thị Anh Phương
Lớp: Bảo hiểm 54
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
GVHD: Th.S. Tô Thị Thiên Hương
của cơng ty bảo hiểm thì chủ hợp đồng phải trả chi phí giám định độc lập.
Trong trường hợp đặc biệt, doanh nghiệp bảo hiểm không thể thực hiện được
việc giám định thì doanh nghiệp có trách nhiệm hướng dẫn chủ hợp đồng thu thập
đầy đủ thông tin chi tiết về nguyên nhân, diễn biến, mức độ thiệt hại cùng các
chứng từ, ảnh chụp thiệt hại liên quan đến làm căn cứ xác định bồi thường.
Sơ đồ 2 : Quy trình giám định bảo hiểm cháy nổ
Điều tra tai nạn
Xác định tổn thất
Tính tốn tổn thất
Đề xuất biện pháp hạn chế tổn thất
Điều tra tai nạn
Nhận được thông báo tai nạn, giám định viên bảo hiểm sẽ xuống ngay hiện
trường để nắm tình hình và điều tra tai nạn. Mục đích của việc điều tra tai nạn là thu
nhập các bằng chứng và sự kiện. Trên cơ sở đó giải đáp các câu hỏi: tai nạn đã xảy
ra như thế nào, ở đâu, khi nào, vì sao. Muốn vậy trong quá trình điều tra, giám định
viên phải thu thập hai loại thông tin: các tang vật và lời khai của nhân chứng.
- Tang vật: Là bất cứ một việc gì có liên quan giúp cho việc xác định những sự
việc liên quan đến tai nạn. Hầu hết các tang vật đều có thể tìm thấy ở hiện trường
hay cũng có thể tìm thấy ở nơi sửa chữa bị hư hại.
SV: Nguyễn Thị Anh Phương
Lớp: Bảo hiểm 54
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
GVHD: Th.S. Tô Thị Thiên Hương
- Lời khai của nhân chứng: Là những lời kể, những câu trả lời của các nhân
chứng thường là những người có mặt ở nơi hiện trường khi xảy ra tai nạn. Lời khai
của nhân chứng cũng giúp cho việc xác định những vấn đề có liên quan đến tai nạn.
Người bảo hiểm cần có những khả năng phân tích tìm ra những lời khai xác thực vì
các lời khai của nhân chứng thường khác nhau và có khi mâu thuẫn với nhau.
Ngoài việc tiếp xúc, trao đổi, hỏi chuyện với các nhân chứng, giám định viên
cần gặp gỡ, trao đổi với người được bảo hiểm, với công an PCCC. Qua đó, nguyên
nhân cháy nổ, đánh giá sơ bộ và khái quát mức độ thiệt hại.
Xác định tổn thất
Khi nhận được thông báo tổn thất của người được bảo hiểm, trong vịng 24
giờ cơng ty sẽ cử cán bộ tới hiện trường thực hiện giám định sơ bộ, xác nhận tổn
thất. Và xác nhận bằng văn bản trong vòng 72 giờ kể từ khi nhận được thông báo
tổn thất của người được bảo hiểm.
Giám định và tính tốn tổn thất.
Tùy thuộc vào mức độ tổn thất về độ lớn và tính phức tạp mà cơng ty và
người được bảo hiểm sẽ thỏa thuận mời một công ty giám định chuyên nghiệp
trong nước hay quốc tế tiến hành giám định tìm ra nguyên nhân và mức độ thiệt
hại. Biên bản giám định của cơ quan này sẽ là cơ sở cho việc giải quyết bồi
thường.
Trong trường hợp có khiếu nại trách nhiệm, cơng ty bảo hiểm sẽ trợ giúp tồn
bộ trong việc chuẩn bị hồ sơ và đàm phán với bên thứ ba.
Đề xuất các biện pháp hạn chế tổn thất
Thông thường sau khi gặp cháy nổ, người được bảo hiểm rất hoang mang và
lúng túng khơng biết phải làm gì. Vì vậy trên cơ sở xem xét hiện trường và song
song với việc điều tra tai nạn, giám định viên bảo hiểm phải góp ý kiến với người
được bảo hiểm các biện pháp hạn chế tổn thất như sau:
- Cách ly khu vực và tài sản bị thiệt hại.
SV: Nguyễn Thị Anh Phương
Lớp: Bảo hiểm 54
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
GVHD: Th.S. Tô Thị Thiên Hương
- Rào kín những nơi mà người ngồi có thể đột nhập vào.
- Bơm rút nước cứu hoả còn đọng lại ra khỏi những nơi chứa tài sản
để
tránh tài sản hư hỏng thêm.
- Di chuyển các mảnh đổ vỡ, tro than để cứu tài sản,
Qua quá trình điều tra, các giám định viên phải tìm ra được nguyên nhân gây
cháy nổ. Chú ý rằng đó phải là những nguyên nhân trực tiấp dẫn đến hoả hoạn. Cuối
cùng các giám định viên bảo hiểm sẽ xác định mức độ thiệt hại và lập biên bản
giám định. Biên bản giám định sẽ được trình lên cơng ty một bản và Tổng cơng ty
một bản.
1.2.6.3. Công tác bồi thường
Một trong những yêu cầu và cũng là một trong những phẩm chất quan trọng
đối với người làm công tác bảo hiểm là phải quan tâm và cảm thông sâu sắc tới các
nhu cầu và nguyện vọng của khách hàng. Phẩm chất đó phải được thể hiện đặc biệt
rõ nét trong khâu trong khâu giải quyết bồi thường. Giải quyết bồi thường tốt có
nghĩa là giải quyết nhanh và đúng - đây là nhiệm vụ số một của người làm công tác
bồi thường và là một trong những biện pháp tuyên truyền có hiệu quả nhất, làm tăng
uy tín của cơng ty và có ảnh hưởng tích cực tới khâu khai thác bảo hiểm.
Sơ đồ 3 : Quy trình bồi thường bảo hiểm cháy nổ
Phịng kinh doanh số 3
Phòng kinh doanh số 2
Phòng kinh doanh số 1
Ban giám đốc điều hành
Đảm bảo được mục đích, ý nghĩa, nhiệm vụ của công tác bồi thường,
cán bộ công ty cần thực hiện tốt những bước sau:
Kiểm tra hồ sơ khiếu nại và xác định trách nhiệm bảo hiểm
SV: Nguyễn Thị Anh Phương
Lớp: Bảo hiểm 54
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
GVHD: Th.S. Tô Thị Thiên Hương
Nhận được hồ sơ đòi bồi thường, người bảo hiểm phải kiểm tra, xem xét hồ sơ
có đầy đủ và hợp lệ không. Trường hợp hồ sơ thuộc trách nhiệm bảo hiểm nhưng
chưa đầy đủ thì phải yêu cầu khách hàng bổ sung kịp thời và ngày trả lời khách
hàng. Sau đó, cán bộ bồi thường xem xét đối chiếu với quy tắc bảo hiểm và văn
bằng hướng dẫn của Tổng công ty để xác định trách nhiệm bảo hiểm. Cụ thể: khiếu
nại có nằm trong phạm vi thoả thuận bảo hiểm khơng; có điểm loại trừ nào tác động
và ảnh hưởng đến khiếu nại đó khơng; có điều kiện bảo hiểm nào bị vi phạm làm vơ
hiệu hố hoặc thu hẹp phạm vi được bảo hiểm của khiếu nại khơng?
Xác định mức độ thiệt hại
Chức năng chính của cơng tác bảo hiểm là bồi thường những thiệt hại thực tế
xảy ra cho người tham gia bảo hiểm nhằm đảm bảo sản xuất kinh doanh cho người
được bảo hiểm. Xác định đúng giá trị thiệt hại mới đảm bảo việc bồi thường thực sự
đem lại hiệu quả cho người được bảo hiểm.Việc xác định giá trị thiệt hại được tiến
hành trên nguyên tắc: phải xác định ngay tại thời điểm và địa điểm xảy ra tổn thất.
Trên cơ sở biên bản giám định về mức độ thiệt hại cùng các biên lai, chứng từ xác
minh kèm theo các hồ sơ khiếu nại, cán bộ bồi thường sẽ xác định được mức thiệt
hại thực tế của từng đối tượng bảo hiểm.
Xác định số tiền bồi thường
Nếu hồ sơ khiếu nại đã hợp lệ, đầy đủ, tổn thất đã được xác định là thuộc
phạm vi bảo hiểm và tính tốn được số tiền thiệt hại thì ta có thể tiến hành xác định
số tiền bồi thường.
Số tiền bồi thường xác định dựa trên các cơ sở sau:
- Giá trị thiệt hại thực tế
- Số tiền bồi thường (là giới hạn trên của số tiền bồi thường)
- Mức miễn thường: sẽ không phải bồi thường nếu tổn thất bằng hoặc nhỏ hơn
mức miễn thường. Nếu tổn thất lớn hơn mức miễn thường thì phải trừ đi mức miễn
thường (trong trường hợp áp dụng mức miễn thường có khấu trừ t).
SV: Nguyễn Thị Anh Phương
Lớp: Bảo hiểm 54
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
GVHD: Th.S. Tô Thị Thiên Hương
Trước khi tính tốn số tiền bồi thường, người được bảo hiểm cần xem xét số
tiền khách hàng đòi bồi thường là bao nhiêu. Nếu số tiền đó bằng hoặc nhỏ hơn
mức miễn thường thì khơng cần tính tốn mà có thể trả lời ngay cho khách hàng là
tổn thất khơng được bồi thường vì nằm trong phạm vi mức miễn thường. Nếu tổn
thất lớn hơn mức miễn thường thì phải tính chi tiết mức độ thiệt hại.
Cụ thể:
* Đối với bảo hiểm cháy nổ:
Số tiền bảo hiểm
Số tiền bồi thường = Giá trị thiệt hại
Giá trị bảo hiểm
Lập hồ sơ bồi thường, giải quyết bồi thường và khiếu nại
Trên cơ sở tính tốn được số tiền bồi thường như trên, cán bộ bồi thường sẽ
lập hồ sơ bồi thường và trình lên lãnh đạo Tổng cơng ty xét duyệt bồi thường. Sau
khi có quyết định của lãnh đạo, cán bộ bồi thường sẽ thông báo cho khách hàng cụ
thể về mức bồi thường, thời gian, địa điểm công ty bảo hiểm chi trả số tiến đó cũng
như các giấy tờ cần thiết mà họ phải có. Nếu khách hàng chấp nhận thì việc bồi
thường sẽ được chuyển cho phịng kế tốn - tài vụ.
Trong thực tế, khâu bồi thường là khâu dễ phát sinh các tranh chấp, khiếu nại
khi khách hàng cho rằng số tiền bồi thường là chưa hợp lý. Bởi vậy, cần xem xét
nghiên cứu các ý kiến khiếu nại một cách khách quan. Cũng cần lưu ý là trước khi
chính thức bồi thường, trên cơ sở những thông tin nhận được và đánh giá chung,
cán bộ bồi thường sớm ước tính số tiền bồi thường và thông báo cho khách hàng
biết trước để cho họ khơng bị bất ngờ khi cơng bố số tiền chính thức. Cần chú ý
lắng nghe nguyện vọng của khách hàng, nhẹ nhàng và kiên nhẫn giải thích kỹ
những thắc mắc của họ ngay cả khi từ chối bồi thường.
1.2.6.4. Các biện pháp đề phòng cháy nổ
SV: Nguyễn Thị Anh Phương
Lớp: Bảo hiểm 54
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
GVHD: Th.S. Tô Thị Thiên Hương
Mục tiêu của cơng tác phịng chống cháy nổ là đề phịng hoả hoạn phát sinh và
khơng cho đám cháy lan rộng. Hiện nay có hai biện pháp phịng cháy nổ là phòng
cháy nổ bằng thiết kế xây dựng và sử dụng các biện pháp quản lý.
+ Phòng cháy nổ bằng thiết kế xây dựng: nhằm cách ly các vật dễ cháy nổ với
nguồn lửa. Các nguồn lửa có thể phát sinh từ các thiết bị toả nhiệt, bếp, lò sấy, lò
sưởi, các thiết bị điện... Do vậy, việc thiết kế xây dựng cần lưu ý tới việc bố trí các
phòng ban, kho, phân xưởng cũng như các thiết bị nội thất một cách hợp lý, đảm
bảo độ an toàn cao.
+ Các biện pháp quản lý: Thực hiện các biện pháp quản lý là trách nhiệm của
người tham gia bảo hiểm. Dựa vào các quy định phòng cháy nổ và chữa cháy nổ
của Nhà nước và địa phương, các giám đốc, thủ trưởng đơn vị cần đề ra nội quy,
biện pháp PCCC cho cơ sở mình đồng thời có kế hoạch giáo dục, đôn đốc, theo dõi,
kiểm tra việc chấp hành nội quy, biện pháp đó. Các cán bộ, cơng nhân phải triệt để
chấp hành các nội quy PCCC cũng như các tiêu chuẩn về an tồn trong hoạt động
cơng tác, sản xuất… Cùng với cảnh sát PCCC, các công ty bảo hiểm sẽ hướng dẫn
người tham gia bảo hiểm thực hiện tốt công tác PCCC ở các khu vực dễ xảy ra rủi
ro, đề nghị họ có các biện pháp ngăn ngừa kịp thời và hợp lý.
SV: Nguyễn Thị Anh Phương
Lớp: Bảo hiểm 54