Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

NHẬN THỨC VỀ THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI GIỮA CƯƠNG LĨNH 1991 VÀ CƯƠNG LĨNH 2011

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (77.4 KB, 10 trang )

NHẬN THỨC VỀ THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
GIỮA CƯƠNG LĨNH 1991 VÀ CƯƠNG LĨNH 2011

1. Đặt vấn đề
Với thắng lợi của Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975 toàn
thắng, miền Nam đã được giải phóng, Tổ quốc đã được thống nhất. Trong 10 năm
khi cả nước bước vào thời kỳ đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, đất nước đã gặt hái
được nhiều thành tựu. Đáng kể đến đó là thống nhất đất nước về mặt lãnh thổ và
chính trị, khắc phục những hậu quả nặng nề của chiến tranh, từng bước xây dựng
và phát triển các quan hệ sản xuất mới, những cơ sở vật chất – kỹ thuật mới, bảo vệ
vững chắc Tổ quốc. Nhưng đồng thời, bên cạnh đó cũng phạm phải nhiều sai lầm,
khuyết điểm nghiêm trọng do giáo điều, chủ quan duy ý chí, nóng vội trong quá
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, duy trì chế độ kinh tế bao cấp trong một thời gian
dài, … đã dẫn đến những bước thụt lùi đáng kể.
Trước tình hình đó, Đại hội VI của Đảng với phương châm nhìn thẳng vào
sự thật, đánh giá sự thật, nói đúng sự thật đã chỉ ra những sai lầm, khuyết điểm
trong công tác lãnh đạo của Đảng. Đồng thời, cũng tại Đại hội VI, cùng với việc
vạch ra đường lối Đổi mới, Đảng đã đề ra việc cần thiết phải hồn chỉnh một
cương lĩnh cho cơng cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong thời kỳ quá
độ. Đại hội VI nhấn mạnh “Thảo ra một cương lĩnh cách mạng hoàn chỉnh và chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội là sự kiến chính trị có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối
với sự chỉ đạo cách mạng trong một thời kỳ tương đối dài, đặt nền tảng chính trị, tư
tưởng cho mọi hoạt động của Đảng, Nhà nước và xã hội”1.

1 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX), Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội,
2005, tr.41.


Các sự kiện Đông Âu và Liên Xô từng bước tan rã vào đầu những năm 1990
đã cho thấy sự hỗn loạn về hệ tư tưởng Xã hội chủ nghĩa trong phong trào cộng sản
và công nhân quốc tế. Ra đời trong bối cảnh đấy, Cương lĩnh Xây dựng đất nước


trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 đã thực sự trở thành ngọn cờ
chiến đấu của Đảng ta. Cương lĩnh được trình bày bằng một hệ thống quan điểm cơ
bản về một xã hội mới, xã hội xã hội chủ nghĩa trong tương lai mà chúng ta đang
hướng tới với các mục tiêu cơ bản và những nhiệm vụ cơ bản đã được đề ra. Trong
đó Đảng ta đã thay đổi quan điểm, nhận thức của mình về con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta từ một nền sản xuất nhỏ, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa
(quá độ gián tiếp) sẽ phải là một cơng việc khó khăn và lâu dài, điều này cũng đánh
dấu sự chấm dứt cả một thời kỳ chúng ta quan niệm rằng có thể dựa vào nền công
nghiệp nặng của Liên Xô và các nước Xã hội chủ nghĩa mà có thể quá độ lên chủ
nghĩa xã hội với tốc độ cao. Cương lĩnh 1991 chính là ánh sáng soi đường giúp
Đảng ta vượt qua thời kỳ đen tối đó, và cũng là bước ngoặt quan trọng trong sự
phát triển của cách mạng Việt Nam.
2. Những nhận thức của Đảng về con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội
ở nước ta tại Cương lĩnh 1991 và được bổ sung làm rõ thêm từ Đại hội VIII,
IX, X, XI
2.1 Nhận thức về đặc điểm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam
Cương lĩnh năm 1991 đã xác định: “Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ
qua chế độ tư bản, từ một xã hội vốn là thuộc địa, nửa phong kiến, lực lượng sản
xuất rất thấp. Đất nước trãi qua hàng chục năm chiến tranh, hậu quả để lại cịn
nặng nề. Các thế lực thù địch thường xun tìm cách phá hoại”2.
2 Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam,
ngày 22/2/2017.


Khác với những nhận thức tại Đại hội lần thứ III của Đảng Lao động Việt
Nam năm 1960 khi nhận thức con đường quá độ ở nước ta là bỏ qua giai đoạn tư
bản chủ nghĩa (nửa trực tiếp), có thể dựa vào nền đại công nghiệp của các nước Xã
hội chủ nghĩa anh em mà tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, thì tại Đại hội VII lần
này, chúng ta xác định con đường quá độ ở nước ta chỉ là bỏ qua chế độ tư bản chủ

nghĩa (gián tiếp), tức con đường ở một mức độ thấp hơn, bỏ qua việc xác lập vị trí
thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tần Tư bản chủ nghĩa và áp dụng
những thành tựu tiến bộ của nhân loại, trong đó có cả thành tựu của chủ nghĩa tư
bản về khoa học kỹ thuật để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền
kinh tế phát triển. Chính sự nhận thức này sẽ dẫn đến những phương pháp, cách
thức thực hiện cách mạng ở nước ta trong thời kỳ quá độ từ Đại hội VII sẽ phải
khác với phương pháp, cách thức thực hiện như hồi Đại hội III, IV, V đã làm.
Như vậy, thay vì trước đây chúng ta nhận thức rằng thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội là thời kỳ có thể làm nhanh, tương đối ngắn nếu dựa vào sức mạnh
của nền đại công nghiệp các nước xã hội chủ nghĩa anh em quốc tế, thì ngày nay
chúng ta phải nhận thức đúng rằng, sự nghiệp đó là sự nghiệp rất lâu dài, khó khăn
và đầy phức tạp. Đặc biệt, kể từ khi các nước xã hội chủ nghĩa Liên Xô và Đơng
Âu tan rã, thì q trình q độ ở nước ta cịn phải khó khăn, phức tạp, và lâu dài
hơn nữa vì sự hỗ trợ to lớn đó đã khơng cịn nữa. Do đó, Cương lĩnh 1991 là bước
ngoặt quan trọng trong sự nhận thức về đặc điểm thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội ở nước ta, là cơ sở cho phương hướng phát triển của công cuộc Đổi mới.
2.2 Nhận thức về đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây
dựng.
Xác định đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa khơng phải là nói đến xã hội
trong tương lai như thế nào, mà là nói đến những định hướng để chúng ta xây dựng
một xã hội mới trong tương lai. Những định hướng đó chính là mục tiêu mà chúng


ta hướng tới, và quá trình thực hiện mục tiêu đó chính là cơng cuộc xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Do đó, nói đến đặc trưng của xã
hội xã hội chủ nghĩa, tức là nói đến những mục tiêu mà chúng ta sẽ từng bước thực
hiện trong xuyên suốt thời kỳ quá độ.
Những định hướng về xã hội xã hội chủ nghĩa được đặt ra trong Cương lĩnh
19913 là: Do nhân dân lao động làm chủ; có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên
lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu; có

nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp
bức, bóc lột, bất cơng, làm theo năng lực hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm
no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển tồn diện cá nhân; các dân tộc trong
nước bình đẳng, đồn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ; có quan hệ hữu nghị và
hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới.
Qua các kỳ Đại hội VIII, IX, X và các Nghị quyết Trung ương, thì nhận thức
về các đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa ở nước ta ngày càng được làm rõ.
Trong văn kiện của Đại hội X thì nhận thức về xã hội xã hội chủ nghĩa được quan
niệm là: xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh; do nhân dân
làm chủ; có nền kinh tế phát triển dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ
sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nền văn hóa
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp bức, bất
cơng, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện; các dân tộc trong
cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đồn kết tương trợ, và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến
bộ; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân
dân các nước trên thế giới.
Những nhận thức mới được biểu thị tại Đại hội X đó là:
3 Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam,
ngày 22/2/2017.


- Đặt ra các tiêu chí cho xã hội mới đó: dân giàu, nước mạnh, cơng bằng,
dân chủ, văn minh. So với Đại hội VII thì tiêu chí này làm sáng tỏ hơn đối với mục
tiêu mà chúng ta hướng tới trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội.
- Đặt “nhân dân” làm chủ thay cho “nhân dân lao động” làm chủ. Điều này
càng làm sáng tỏ hơn, vì đối tượng phục vụ của chúng ta là nhân dân, của dân, do
dân và vì dân. Cho nên đối tượng không thể nào bị thu hẹp lại chỉ còn “nhân dân
lao động”, thực tế, trong xã hội xã hội chủ nghĩa khơng chỉ có mỗi nhân dân lao
động mà còn nhiều tầng lớp nhân dân khác nữa.

- Bổ sung thêm đặc trưng: có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
nhân dân, do dân, vì dân. Trước đây, quan niệm về Nhà nước chun chính vơ sản,
vốn chỉ xem Nhà nước là cơng cụ chính trị, để thực hiện quyền lực chính trị của
một giai cấp nhằm cải biến xã hội, trong đó thực hiện sự trấn áp chính trị là một xu
hướng tất yếu. Thời kỳ đó đã lùi xa trong quá khứ, thời kỳ hiện nay đó là thời kỳ
tồn cầu hóa, thời kỳ của sự hợp tác quốc tế, của sự đa dạng hóa kinh tế, do đó tính
chất trấn áp chính trị đó nhất định phải thay đổi. Sự pháp chế hóa là cơ sở tốt nhất
để từng bước loại bỏ tính chất đó, đồng thời giúp Nhà nước xã hội chủ nghĩa không
ngừng củng cố, từng bước loại bỏ sự quan liêu, tham nhũng của một số phần tử
biến chất trong Đảng và Nhà nước.
Những thay đổi trên đã được Đảng ta hoàn chỉnh và bổ sung vào Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ (chỉnh sửa bổ sung) năm 2011.
2.3 Nhận thức về phương hướng cơ bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã
hội.
Cương lĩnh 1991 đã nêu ra một số phương hướng cơ bản cho quá trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta đó là 4: Xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa của
4 Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam,
ngày 22/2/2017


dân, do dân, vì dân, thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân; Phát triển lực
lượng sản xuất, cơng nghiệp hóa đất nước theo hướng hiện đại là nhiệm vụ trung
tâm; Thiết lập từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa từ thấp đến cao với sự
đa dạng về hình thức sở hữu; Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo
định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước; Tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng và văn
hóa.
Đến Đại hội X, trên cơ sở tổng kết lý luận và thực tiễn sau 20 năm Đổi mới
đã khái quát các phương hướng phát triển chủ nghĩa xã hội ở nước ta5:
- Tiếp tục khẳng định phương hướng phát triển nền kinh tế thị trường định

hướng xã hội chủ nghĩa.
- Đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
- Xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì
dân.
- Thay đổi từ “cách mạng xã hội chủ nghĩa trong văn hóa, tư tưởng” thành
“Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc làm nền tảng tinh thần
của xã hội”.
- Thêm yếu tố xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đồn
kết dân tộc.
Có thể thấy từ Đại hội VII đến Đại hội X, Đảng ta đã từng bước củng cố và
hoàn thiện về phương hướng xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong
thời kỳ q độ.

5 Nguyễn Đình Hịa, Về đặc trưng của chủ nghĩa xã hội qua Cương lĩnh 1991 và Cương lĩnh 2011 của Đảng Cộng sản
Việt Nam, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, ngày 30/9/2015.


Đến Đại hội XI, trên cơ sở những phương hướng đã nêu trong Cương lĩnh
1991 và quá trình bổ sung. Thì Đại hội XI đã hồn thiện phương hướng này. Cụ thể
là xác định những nội dụng: đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước gắn
với “phát triển kinh tế tri thức”; thay “Phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần” bằng “Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”; làm rõ
thêm nội dung “Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”; làm rõ
“Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và
vì nhân dân”.
2.4 Nhận thức về phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định
hướng xã hội chủ nghĩa và việc thiết lập từng bước các quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa.
Trong Cương lĩnh 1991, Đảng ta đã xác định một cách tổng quát mô hình
phát triển của nền kinh tế nước ta trong thời kỳ quá độ, đó là nền kinh tế hàng hóa

nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, có sự quản lý của Nhà nước.
Mơ hình này khơng mới, nó đã có từ năm 1921, dựa theo chính sách Kinh tế mới
của Lenin. Nói một cách rõ ràng hơn, đó là nền kinh tế nhiều thành phần được vận
hành bởi Nhà nước chun chính vơ sản. Nhưng khác với nước Nga Xơ viết, khi
đã có những cơ sở cơng nghiệp nặng và trình độ khoa học kỹ thuật khá tương đối,
cho nên bước đường kinh tế xã hội chủ nghĩa của họ được tiến hành với tốc độ cao
hơn và ngắn hơn so với một nước còn đang lạc hậu về mặt kinh tế, thuần thúy nơng
nghiệp, chưa có nền đại cơng nghiệp kim khí như Việt Nam.
Qua các kỳ Đại hội, chúng ta từng bước phát triển các quan điểm về nền
kinh tế này. Từ “Phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ
chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước” sang “Phát triển kinh tế thị trường theo
định hướng xã hội chủ nghĩa”. Điều này không chỉ làm rõ hơn về mặt nội dung, mà
còn chỉ rõ về mặt phương hướng cụ thể của nền kinh tế, đó là phát triển theo hướng


xã hội chủ nghĩa hay chính xác đó là: củng cố nền kinh tế quốc doanh và tập thể
dựa trên sự phát triển của các đa thành phần kinh tế. Đại hội IX cịn khẳng định mơ
hình kinh tế này là mơ hình kinh tế tổng qt của nước ta trong xuyên suốt thời kỳ
quá độ.
Điều này có một ý nghĩa quan trọng, trước mắt cần phải thừa nhận rằng nền
kinh tế của nước ta hiện nay muốn phát triển đi lên chủ nghĩa xã hội nhất thiết phải
là nền kinh tế đa thành phần vì căn bản trình độ sản xuất và quản lý của nước ta
trong một số khâu còn kém phát triển mà nguồn lực Nhà nước lại có hạn nên chỉ có
thể con đường thực hiện lối làm ăn tư bản, tư nhân, kinh tế hộ, kinh tế tiểu chủ, thì
mới có thể phát triển được. Song không phải thừa nhận và để cho các thành phần
kinh tế đó phát triển thì phủ định chủ nghĩa xã hội, mà ngược lại, cho các thành
phần kinh tế đó phát triển trong một khơng gian, giới hạn nào đó cụ thể để tạo
những đà phát triển mà có thể đóng góp cho sự phát triển của nền kinh tế quốc
doanh và tập thể trong tương lai.
Cương lĩnh 1991 còn xác định quan hệ sản xuất phải phù hợp với sự phát

triển của lực lượng sản xuất, và từng bước xác lập quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa từ thấp đến cao với sự đa dạng về hình thức sở hữu. Quan niệm trước đây về
thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa nhấn
mạnh rằng có thể phát triển ở một mức độ nhất định nào đó quan hệ sản xuất đi
trước tạo tiều để để phát triển lực lượng sản xuất. Điều đó trong một khoảng thời
gian nhất định cũng có những tác dụng hữu ích, như là thời kỳ đẩy mạnh kháng
chiến chống Mỹ từ 1960 – 1975, với việc cải tạo nhanh chóng quan hệ sản xuất
chủ nghĩa xã hội đã đưa miền Bắc trở thành hậu phương vững chắc để ủng hộ miền
Nam đánh Mỹ. Song, không phải lúc nào việc đẩy trước quan hệ sản xuất cũng sẽ
dẫn đến lực lượng phát triển, mà có khi ngược lại, trong điều kiện thiếu hụt các
nguyên vật liệu, cơ sở vật chất được viện trợ thì quan hệ sản xuất đó trở nên mâu


thuẫn và đối lập với lực lượng sản xuất làm tình hình sản xuất và kinh tế lâm vào
khủng hoảng ngày càng nghiêm trọng hơn.
Điểm mấu chốt của cả thời kỳ từ 1960 – 1985 chính là ở chỗ chúng ta dựa
vào nền đại cơng nghiệp kim khí của các nước Xã hội chủ nghĩa anh em mà cơng
nghiệp hóa và cải tạo xã hội chủ nghĩa với tốc độ cao. Do đó, trong một trình độ
nhất định chúng ta đã đi vượt và thiết lập quan hệ sản xuất đi trước, điều đó là trái
với lý luận thơng thường. Chính sự giảm bớt ngày càng nhiều của các nguồn viện
trợ nước ngồi làm q trình sản xuất thiếu hụt đi một khối lượng lớn nguồn,
nguyên, nhiên, vật liệu trong sản xuất làm tình trạng sản xuất và kinh tế kế hoạch
của chúng ta dần trở nên mất cân đối và thiếu khả năng tự đảm nhận công tác vận
hành và tổ chức trong sản xuất gây nên tình trạng sản xuất khó khăn, nền kinh tế
lâm vào tình trạng khủng hoảng, sự thiếu hụt của hàng hóa. Chính lúc này quan hệ
sản xuất dần trở nên kìm hãm lực lượng sản xuất và xơ cứng hóa nó, thủ tiêu triệt
để các động lực của q trình sản xuất.
Chính sự nhận thức về thời kỳ quá độ ở nước ta là quá độ bỏ qua chế độ tư
bản chủ nghĩa, tức là xác lập quan hệ kinh tế tự lực đã dẫn đến sự thay đổi trong tư
duy về cách thức vận hành và thiết lập quan hệ sản xuất trong nền kinh tế ở nước

ta. Từ chỗ trước coi quan hệ sản xuất có thể đi trước lực lượng sản xuất tiến bộ, thì
ngày nay chúng ta phải khẳng định rõ ràng rằng quan hệ sản xuất phải phù hợp với
lực lượng sản xuất. Từ chỗ coi nền kinh tế chỉ có một thành phần duy nhất là chủ
nghĩa xã hội thì phải thay đổi rằng nền kinh tế sẽ có nhiều thành phần, và việc
khuyến khích các thành phần kinh tế khác phát triển nhằm hoàn thiện từng bước
quan hệ sản xuất. Đại hội VIII xác định cần phải khuyến khích sự phát triển các
thành phần kinh tế và hình thức tổ chức kinh tế 6. Đại hội IX đã xác định: Tiêu chí
căn bản để đánh giá hiệu quả xây dựng quan hệ sản xuất theo định hướng xã hội
6 Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Báo cáo Tổng kết 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991-2011), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2010, tr.44.


chủ nghĩa là thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất, cải thiện đời sống nhân dân,
thực hiện công bằng xã hội7.
3. Kết luận

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. bối cảnh
Chưa nhận thức được các giai đoạn khác nhau về sự phát triển của cách mạng xã hội – LX Đâu (2)
2. tính chất
CL91 đề cập đến quá độ gián tiếp, CL11 khơng nhắc tới (1)
Hình thành rõ ràng định hướng về một xã hội đang hướng tới, CL91 phác họa, CL11 hồn thiện (1)
Chưa làm rõ các chặng đường đó như thế nào, theo hướng nào (2)
3. Mục tiêu tổng quát
CL91 có nêu cụ thể, làm sáng tỏ tính nhiều giai đoạn và mục tiêu của giai đoạn đầu tiên (1)
4. Phương hướng cơ bản

7 Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Báo cáo Tổng kết 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991-2011), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2010, tr.44.




×