Tải bản đầy đủ (.doc) (3 trang)

GIÁO dục và nỗi sợ hãi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (39.29 KB, 3 trang )

GIÁO DỤC VÀ NỖI SỢ HÃI
Lê Văn Tích
Đã có rất nhiều ý kiến, diễn đàn đề cập đến những bất cập về nội dung,
phương pháp giáo dục của chúng ta hiện nay. Quả thật, nếu đem chương trình,
phương pháp của ta so sánh với các nước phát triển thì khơng những là rất hạn chế
mà có nhiều vấn đề đối với người trong cuộc đã trở thành nỗi sợ hãi, đặc biệt là
học sinh. Là người trực tiếp tham gia dạy học ở bậc phổ thông, đang chứng kiến
từng ngày, từng giờ, từng diễn biến của HS, nhà trường mới thấy lời nhận xét của
nhà giáo Phạm Toàn trên các trang mạng là không ngoa ngoắt.
Trước hết, xin đề cập đến thời lượng của chương trình và thời gian học tập
của học sinh THCS. Thời gian học của HS lớp 6 (12 tuổi) ở một trường THCS
vùng đồng bằng duyên hải: Một tuần có 6 buổi học, trừ ngày thứ 3 là 4 tiết còn lại
các buổi khác là 5 tiết. 5 tiết x 45 phút = 225 phút. Giữa các tiết ra chơi 5 phút. Để
có thể kịp thời gian trong buổi học, nhà trường tổ chức học cho ca buổi chiều từ
1315p đến 1740p. Thời gian này bao gồm cả sinh hoạt 15 phút đầu giờ và hoạt động
ngoài giờ lên lớp vào giữa buổi (chủ yếu là tập thể dục). Một HS 12 tuổi mà ngồi
học có thể nói là từ trưa nhưng đến trời mờ tối mới tan tầm (mùa đông chúng tôi
dạy xong tiết 5 đi xe máy về phải đỏ đèn) thử hỏi rằng các em có đủ sức ngồi một
cách chán nản chứ đừng nói là để tiếp thu bài? Đối với người lớn khi đi học
chuyên đề hay học hàm thụ, căng lắm cũng chỉ ngồi được từ 3-4 tiết, hay với giáo
viên lên lớp nếu nhiều lắm cũng chỉ 3-4 tiết trên buổi thế mà chúng ta bắt đứa trẻ
con ngồi suốt 5 tiết học. Đây là một sự vô lý đến mức khó hiểu. Tơi đang hết sức lo
lắng cho đứa con sắp tuổi đến trường của mình! Nếu bây giờ bắt tơi ngồi học giống
như HS của mình thì đó thật sự là nỗi kinh hồng và tơi sẽ bỏ học.
Số lượng tiết học phụ thuộc vào nội dung chương trình. Hai mơn Văn Tốn
là 5 tiết trên tuần, các mơn cịn lại kể cả mơn tự chọn là từ 1 – 2 tiết, tổng cộng 29
tiết. So với độ tuổi mà tôi đang đề cập mà phải “hấp thụ” với thời lượng và nội
dung như thế, đó quả là một sự khủng khiếp.
Nếu học nhiều như thế mà các em khá lên thì khơng nói làm gì, điều cay
đắng là trong khi học rất nhiều nhưng kết quả thảm hại. Trong đợt thi khảo sát chất
lượng cho toàn cấp THCS đầu năm do 1 Phòng Giáo dục ở huyện đồng bằng tổ


chức với 3 mơn thì số em đạt từ điểm 5 trở lên như sau: Văn (51%); Tốn (5,2%);
Tiếng anh (3,7%). Tơi chưa có điều kiện để điều tra về mức độ hứng thú của các
em đối với 2 mơn Tốn và tiếng anh, song với những con số có thật ở trên cho thấy
việc ngồi học của đa số học sinh trên lớp là một nỗi kinh hồng cho dù các em
khơng nói ra. Hầu hết giáo viên dạy 2 mơn Tốn và Tiếng Anh đều khẳng định:
“một lớp học như vậy chỉ có khoảng từ 3 – 5 em là học bài và hiểu bài, số cịn lại
khơng biết gì”. Đối với mơn Tốn, một tuần 5 tiết theo phân phối chương trình và
mỗi lớp học thêm ít nhất là hai buổi, vị chi là hơn 10 tiết trên tuần nhưng đa số các
em lại khơng “thu lượm” được gì từ 10 tiết học ấy?
Vì học yếu, không tiếp thu được cho nên lớp học trở thành nỗi kinh hoàng
với nhiều học sinh. Ở lớp thì sợ thầy cơ gọi bài, thậm chí bị thầy cô sĩ nhục do học


kém, sợ bạn bè coi thường, về nhà bị bố mẹ la mắng thậm chí đánh đập. Chính vì
những áp lực đó đã làm cho nhiều em ngồi học thiếu tự tin, thay vì nhìn lên bảng,
nhìn vào giáo viên để theo dõi bài thì các em lại tìm cách nhìn đi chỗ khác một
cách khổ sở. Mất hết tự tin khi đối diện với giáo viên, với bạn bè trong lớp, các em
trở thành những đứa trẻ tự kỷ, trầm cảm, ngày ngày đến trường để chứng kiến một
tương lai vô vọng, mịt mù. Điều này đã làm cho nhiều em chán nản, quậy phá, trở
thành HS cá biệt và rồi bỏ học lúc nào không biết.
Từ lớp 6 đến lớp 12, theo cách tính của tơi thì các em phải học hơn 1000 tiết
Toán (chưa kể học thêm cịn nhiều hơn học chính). Trong khi đó, cơng việc thực tế,
khơng phải việc gì cũng cần đến trình độ toán học từ lớp 6 đến lớp 12, chỉ một bộ
phận lao động rất nhỏ là cần kiến thức này, cịn đại đa số là vơ dụng. Tơi là một
giáo viên dạy môn lịch sử, tôi cũng đã học đại học, cũng đi dạy trên chục năm…
nhưng trong hàng chục năm học tập và làm việc đó chưa khi nào tơi cần áp dụng 7
hằng đẳng thức, phương trình 1,2,3; hay tích phân, đạo hàm… làm gì cả, khơng có
1 quy luật nào để tôi áp dụng vào công việc cũng như sinh hoạt, nó cũng chẳng bồi
bổ cho tơi về tư tưởng, tâm hồn, tôi chỉ cần kiến thức tốn ở bậc tiểu học là q đủ.
Vậy mà tơi đã phải khổ sở, học thêm học bớt đến hàng nghìn tiết tốn ở bậc phổ

thơng? Đây là sự lảng phí vơ lý.
Thực trạng này đã tồn tại từ hàng chục năm nay. Chính mơn tốn và một số
mơn khác nữa đang là nỗi kinh hồng của học sinh. Nói rằng các em dốt không
theo kịp nhưng trên thực tế học như thế cũng chẳng ích gì. Và chính cái đã khơng
giúp gì cho cuộc sống các em sau này lại đang làm các em khổ sở. Sự hồn nhiên
vui chơi của tuổi thơ đã bị mơn tốn đánh mất ngay ở nơi mà đáng ra chúng phải
được thụ hưởng một cách vơ tư thỏa thích.
Thiết nghĩ, ngành giáo dục nên làm một cuộc điều tra xã hội học về mức độ
mong muốn học mơn tốn của học sinh để có những điều chỉnh về thời lượng cho
phù hợp, khơng nên để tình trạng lãng phí cứ kéo dài mãi.
Theo nhận định của tơi, chương trình học phổ thơng của Việt Nam hiện nay
quá chú trọng các vấn đề về lý thuyết mà xem nhẹ đến những kiến thức thực tế,
những cái phục vụ sát sườn cho cuộc sống. Chúng ta bố trí quá ít các buổi hoạt
động tập thể để rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh, và dường như là các trường
không tổ chức được nội dung ra trò trống cho hoạt động này. Phải học cách xếp
hàng và chờ đợi nếu mình đến sau; phải học cách nhường đường cho những
phương tiện, con người yếu thế hơn khi tham gia giao thông; phải học cách cúi đầu
biết ơn khi nhận sự giúp đỡ của người khác; phải học cách để tự sống sót trong hỏa
hoạn, thiên tai... và rất nhiều kĩ năng tồn tại khác đã khơng được dạy dỗ kỹ lưỡng.
Thay vào đó, chúng ta bố trí hàng nghìn tiết tốn để làm gì? Xã hội này cần quái gì
nghề nghiên cứu, cứ làm theo cái mà loài người đã phát minh cũng đủ để sống tử tế
và văn minh rồi. Hai môn tiếng anh và tin học lại quá ít tiết, trong khi hai môn học
này đang đáp ứng một nhu cầu tối thiểu của thời kỹ nghệ thơng tin, của thời đại
tồn cầu hóa.
Hội nhập đang trở thành mệnh lệnh tất yếu để mọi quốc gia, cá nhân có thể
tồn tại và phát triển. Chúng ta đang kêu gọi nông dân mua và sử dụng máy tính,
intenet trong khi đó người nơng dân và nhiều tầng lớp xã hội khác chẳng biết một
tí gì về tiếng anh và tin học? Chúng ta ký hết công ước này, nghị quyết nọ về



quyền trẻ em về quyền con người nhưng chúng ta lại không tạo ra được môi
trường, điều kiện tối thiểu nào cho trẻ em thực hiện trong khi đó chúng ta lại ra sức
nhồi nhét không biết bao nhiêu là lý thuyết, định luật vào những bộ não còn rất non
nớt của trẻ con?
Trên đây là những chứng kiến đang diễn ra hàng ngày ở trường phổ thông
của một người đang trực tiếp đứng lớp ghi lại. Thiển nghĩ, nhà nước cần phải làm
một cuộc cách mạng trong giáo dục để có thể giải phóng nỗi sợ hãi khơng đáng có
cho những đứa trẻ thơ ngây đáng tội nghiệp, những đứa trẻ mà đáng lý ra đến
trường là được vui chơi, học hành đúng nghĩa chứ khơng phải bị gị ép như một kẻ
tội phạm hiện nay.
LÊ VĂN TÍCH
ĐCLL: Lê Văn Tích- Diễn Bích, Diễn Châu, Nghệ An
ĐTDĐ: 0989965054



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×