Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Phân tích chế tài tạm ngừng, đình chỉ, hủy bỏ trong thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (101.56 KB, 15 trang )

KHOA LUẬT
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

BÀI TẬP NHĨM MƠN LUẬT THƯƠNG MẠI 2
MÃ LỚP HỌC PHẦN: BSL2002 2
Đề bài: Chế tài tạm ngừng, đình chỉ, hủy bỏ trong thương mại
Giảng viên: TS. Hồ Ngọc Hiển
Trình bày: Nhóm

Hà Nội, tháng 4 năm 2022


2

I. Chế tài tạm ngừng trong hợp đồng thương mại
1. Khái niệm tạm ngừng hợp đồng
Tạm ngừng thực hiện hợp đồng là việc một bên tạm thời không thực hiện
nghĩa vụ trong hợp đồng. Khi hợp đồng trong thương mại bị tạm ngừng thực
hiện thì hợp đồng vẫn cịn hiệu lực
Tạm ngừng hợp đồng được quy định tại điều 308 Luật thương mại năm
2005 quy định:
"Trừ các trường hợp miễn trách nhiệm quy định tại Điều 294 của Luật
thương mại năm 2005, tạm ngừng thực hiện hợp đồng là việc một bên tạm thời
không thực hiện nghĩa vụ trong thuộc một trong các các trường hợp sau đây:
Xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thỏa thuận là điều kiện để tạm ngừng
thực hiện hợp đồng
Một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng”.
Khi hợp đồng bị tạm ngừng thực hiện thì hợp đồng vẫn cịn hiệu lực, bên bị
vi phạm có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại theo quy định của Luật Thương
mại năm 2005.
Về bản chất, tạm ngừng thực hiện hợp đồng là một loại chế tài trong thương


mại, cụ thể là tạm ngừng thực hiện hợp đồng là việc tạm thời không thực hiện
nghĩa vụ trong hợp đồng theo quyết định của một bên khi có hành vi vi phạm
hợp đồng.
2. Điều kiện phát sinh Tạm ngừng hợp đồng
Tạm ngừng hợp đồng xảy ra trong trường hợp


3

Đầu tiên, trừ các trường hợp miễn trách nhiệm quy định tại Điều 294 của
Luật này, chế tài tạm ngừng thực hiện hợp đồng/đình chỉ thực hiện hợp đồng
được áp dụng trong các trường hợp sau:
Xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thoả thuận là điều kiện để tạm ngừng
thực hiện hợp đồng/đình chỉ thực hiện hợp đồng;
Một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng.
Thứ hai, khi tiến hành áp dụng chế tài thì bên u cầu phải thơng báo ngay
cho bên cịn lại biết về tạm ngừng/đình chỉ thực hiện hợp đồng.
Trong trường hợp không thông báo mà gây ra thiệt hại cho bên cịn lại thì
bên u cầu phải bồi thường thiệt hại.
Vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng là sự vi phạm hợp đồng của một bên
gây thiệt hại cho bên kia đến mức làm cho bên kia không đạt được mục đích của
việc giao kết hợp đồng - theo Điều 3 Luật thương mại năm 2005. Vi phạm cơ
bản nghĩa vụ hợp đồng có thể hiểu là việc một bên giao kết hợp đồng không thực
hiện nghĩa vụ mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng hoặc thực hiện không hết
nghĩa vụ hợp đồng hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ hợp đồng.
3. Mục đích chế tài
Tạm ngừng hợp đồng được áp dụng nhằm mục đích ngừng lại việc vi phạm
hợp đồng, không để cho việc thực hiện tiếp tục gây ảnh hưởng đến quyền lợi của
chủ thể bị vi phạm hay nói cách khác là nhằm mục đích bảo vệ chủ thể tham gia
hợp đồng

Mặc dù việc vi phạm có thể có hoặc khơng gây ra thiệt hại, chỉ cần có vi
phạm là chủ thể bị vi phạm có quyền yêu cầu bên vi phạm bồi thường do “thất
hứa” hợp đồng.


4

Bảo toàn tối đa giá trị hợp đồng 4 Tạm ngừng hợp đồng chỉ là bước nghỉ
khi mà có vi phạm xảy ra, các bên chủ thể cùng giải quyết vấn đề vi phạm,
không ảnh hưởng đến hiệu lực của hợp đồng, hợp đồng vẫn tiếp tục được thực
hiện khi mà chế tài tạm ngừng chấm dứt.
4. Hậu quả pháp lý
Hệ quả pháp lý của tạm ngừng thực hiện hợp đồng :
a/ Các trường hợp tạm ngừng thực hiện hợp đồng: Theo điều 308 luât
thương mại 2020
Trừ các trường hợp miễn trách nhiệm quy định tại Điều 294 của Luật này,
tạm ngừng thực hiện hợp đồng là việc một bên tạm thời không thực hiện nghĩa
vụ trong hợp đồng thuộc một trong các trường hợp sau đây:
1. Xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thỏa thuận là điều kiện để tạm
ngừng thực hiện hợp đồng;
2. Một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng.
b/ Khi hợp đồng bị tạm ngừng thực hiện thì hợp đồng vẫn còn hiệu lực. Các
hành vi vi phạm nghĩa vụ theo thỏa thuận hợp đồng vẫn bị xử lý như bình
thường.
c/ Khi hợp đồng bị tạm ngừng thì các nghĩa vụ phải thực hiện theo hợp
đồng sẽ được tạm ngừng. Do đó nếu lý do tạm ngừng trái thỏa thuận hoặc trái
luật thì việc phát sinh nghĩa vụ bồi thường thiệt hại là rất cao.
Khi hợp đồng bị tạm ngừng bên không đồng ý với việc đối tác tạm ngừng
hợp đồng có quyền:
- Thơng báo khơng đồng ý cho tạm ngừng hợp đồng và yêu cầu đối tác tiếp

tục thực hiện hợp đồng.


5

- Yêu cầu phạt vi phạm hợp đồng, bồi thường thiệt hại nếu có thiệt hại xảy
ra.
d/ Việc tạm ngừng thực hiện hợp đồng liên quan đến việc tạm ngừng thực
hiện các nghĩa vụ theo hợp đồng, do đó thơng báo tạm ngừng thực hiện hợp đồng
rất quang trọng. Khi thông báo tạm ngừng thực hiện hợp đồng bên tạm ngừng
phải đảm bảo các điều kiện sau:
- Thời gian bắt đầu tạm ngừng phải hợp lý tránh gây thiệt hại cho bên đối
tác.
- Lý do tạm ngừng phải đúng thỏa thuận hợp đồng hoặc đúng quy định pháp
luật nếu các bên không thỏa thuận.
- Thời gian tạm ngừng phải cụ thể, ghi rõ ngày kết thúc nếu có, hoặc ghi rõ
điều kiện sẽ thực hiện tiếp hợp đồng nếu có.
5. Vấn đề khác
Chế tài Tạm ngừng chính là tạm hỗn thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng
song vụ được quy định trong bộ luật dân sự. Hai thuật ngữ này có cùng ý nghĩa;
Có thể áp dụng đồng thời tạm ngừng với buộc thực hiện nghĩa vụ hợp đồng
và buộc thực hiện vẫn được áp dụng tạm ngừng thanh toán.
II. Chế tài đình chỉ trong thương mại
1. Khái niệm
Đình chỉ hoạt động trong thực hiện hợp đồng là việc một bên chấm dứt thực
hiện nghĩa vụ hợp đồng khi mà xảy ra trường hợp mà các bên thỏa thuận là điều
kiện để đình chỉ hợp đồng hoặc một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng (trừ
trường hợp miễn trách nhiệm do thỏa thuận hoặc pháp luật quy định) theo điều
310 của LTM 2005.



6

2. Bản chất của đình chỉ hợp đồng
Là việc chấm dứt quan hệ hợp đồng tại thời điểm một bên đưa ra quyết định
đình chỉ hợp đồng. Nó là một hành vi làm chấm dứt quan hệ hợp đồng giữa các
bên. Các bên ngừng hẳn không bên nào phải thực hiện nghĩa vụ của mình nữa và
hợp đồng giữa các bên được kết thúc.
3.Điều kiện áp dụng:
Theo Điều 310 về đình chỉ thực hiện hợp đồng Luật TM năm 2005: Thứ
nhất, trừ các trường hợp miễn trách nhiệm quy định tại Điều 294 của Luật này,
chế tài tạm ngừng thực hiện hợp đồng/đình chỉ thực hiện hợp đồng được áp dụng
trong các trường hợp sau:


Xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thoả thuận là điều kiện để tạm
ngừng thực hiện hợp đồng/đình chỉ thực hiện hợp đồng;



Một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng.
Thứ hai, khi tiến hành áp dụng chế tài thì bên yêu cầu phải thơng báo ngay

cho bên cịn lại biết về tạm ngừng/đình chỉ thực hiện hợp đồng.
Trong trường hợp khơng thơng báo mà gây ra thiệt hại cho bên cịn lại thì
bên yêu cầu phải bồi thường thiệt hại.
Trong giao lưu dân sự, một bên tham gia hợp đồng có quyền đơn phương
đình chỉ thực hiện hợp đồng và khơng phải bồi thường thiệt hại khi bên kia vi
phạm hợp đồng mà sự vi phạm này là điều kiện đình chỉ đã được các bên thỏa
thuận hoặc pháp luật có quy định. Bên vi phạm hợp đồng phải bồi thường thiệt

hại. Bên đơn phương đình chỉ hợp đồng phải thơng báo ngay cho bên kia biết về
việc đình chỉ hợp đồng; nếu khơng thơng báo mà gây thiệt hại thì phải bồi
thường. Khi hợp đồng bị đơn phương đình chỉ thực hiện thì hợp đồng chấm dứt
từ thời điểm bên kia nhận được thơng báo đình chỉ và các bên không phải tiếp


7

tục thực hiện nghĩa vụ, bên đã thực hiện nghĩa vụ có quyền u cầu bên kia
thanh tốn phần nghĩa vụ đã thực hiện.
Trong lĩnh vực kinh doanh, thương mại, khi một bên thừa nhận hoặc đã có
kết luận của trọng tài là có vi phạm hợp đồng thì bên bị vi phạm có quyền đơn
phương đình chỉ thực hiện hợp đồng đó, nếu việc tiếp tục thực hiện hợp đồng
khơng có lợi cho mình. Thơng báo đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng phải
bằng văn bản và được gửi cho bên vi phạm trong thời hạn mười ngày, kể từ ngày
bên vì phạm thừa nhận hoặc có kết luận của trọng tài kinh tế. Nếu hợp đồng có
làm chứng thư hoặc đăng kí thì bên bị vi phạm phải gửi thơng báo đơn phương
đình chỉ thực hiện hợp đồng đến cơ quan đã làm chứng thư hoặc đăng kí hợp
đồng cùng ngày gửi đến cho bên vi phạm. Khi một bên đơn phương đình chỉ hợp
đồng kinh tế khơng đúng với quy định của pháp luật thì bên đơn phương đình chỉ
thực hiện hợp đồng bị phạt vi phạm hợp đồng và bồi thường thiệt hại như trường
hợp khơng thực hiện hợp đồng.
4. Đặc điểm:


Hợp đồng bị đình chỉ thì hiệu lực của nó chấm dứt từ khi một bên quyết
định đình chỉ hợp đồng và thơng báo cho bên kia về việc đình chỉ hợp
đồng.




Chấm dứt hợp đồng bằng việc đình chỉ hợp đồng khơng đưa các bên quay
trở lại tình trạng ban đầu khi thiết lập hợp đồng, phần hợp đồng đã thực
hiện trước đó vẫn có hiệu lực pháp luật



Khi quyết định chấm dứt hợp đồng thì bên đình chỉ phải thơng báo cho
bên kia biết về việc hợp đồng bị đình chỉ, nếu khơng thông báo mà tự
động chấm dứt sẽ bị coi là vi phạm nghĩa vụ hợp đồng.
5. Hậu quả pháp lý:


8

Theo Điều 311. về Hậu quả pháp lý của việc đình chỉ thực hiện hợp đồng
Luật TM năm 2005 quy định:
1. Khi hợp đồng bị đình chỉ thực hiện thì hợp đồng chấm dứt từ thời điểm
một bên nhận được thơng báo đình chỉ. Các bên khơng phải tiếp tục thực hiện
nghĩa vụ hợp đồng. Bên đã thực hiện nghĩa vụ có quyền u cầu bên kia thanh
tốn hoặc thực hiện nghĩa vụ đối ứng.
2. Bên bị vi phạm có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại theo quy định của
Luật này.
Đình chỉ hợp đồng làm cho hợp đồng chấm dứt như hủy hợp đồng nhưng
hợp đồng chỉ chấm hết hiệu lực tại thời điểm đình chỉ, cịn phần vẫn thực hiện về
trước vẫn tồn tại hợp đồng, nó khơng đưa các bên trở lại với tình trạng như khi
chưa có quan hệ hợp đồng mà tình trạng những gì đã thực hiện của hợp đồng
được giữ nguyên hiệu lực, các bên khơng phải hồn trả cho nhau những gì đã
nhận vì hợp đồng là có hiệu lực trước khi hủy.
5. Đình chỉ trong các bộ luật liên quan

Hiện nay, pháp luật Việt Nam có quy định thuật ngữ khác nhau nhưng lại
cùng một ý nghĩa. Ví dụ như chế tài đình chỉ trong thương mại có cùng nghĩa với
điều 428 Trong bộ luật dân sự 2015 chính là đơn phương chấm dứt thực hiện hợp
đồng.
Ngồi ra Đình chỉ hợp đồng trái pháp luật thì hợp đồng khơng bị chấm dứt
mà thay vào đó các bên chủ thể có thể thỏa thuận về bồi thường thiệt hại
II. Chế tài hủy bỏ trong thương mại
1. Khái niệm


9

Chế tài hủy bỏ được làm rõ và quy định tại các điều 312,313,314,315
của Luật Thương mại 2005 qua đó ta có thể hiểu chế tài hủy bỏ có khái
niệm như sau:


Chế tài hủy bỏ trong thương mại là sự kiện pháp lý mà hậu quả của nó làm
cho nội dung hợp đồng bị hủy bỏ không hiệu lực từ thời điểm giao kết.
Hủy bỏ hợp đồng có thể hủy bỏ một phần hoặc hủy bỏ tồn bộ hợp đồng.



Trong đó, hủy bỏ một phần hợp đồng là việc bãi bỏ thực hiện một phần
nghĩa vụ hợp đồng, các phần cịn lại trong hợp đồng vẫn cịn hiệu lực.



Hủy bỏ toàn bộ hợp đồng là việc bãi bỏ hoàn toàn việc thực hiện tất cả các
nghĩa vụ của hợp đồng đối với toàn bộ hợp đồng. Khi một hợp đồng trong

thương mại bị hủy bỏ toàn bộ, hợp đồng được coi là khơng có hiệu lực kể
từ thời điểm giao kết. Các bên không phải tiếp tục thực hiện các nghĩa vụ
đã thỏa thuận trong hợp đồng, trừ thỏa thuận về quyền và nghĩa vụ sau khi
hủy bỏ hợp đồng và về giải quyết tranh chấp.
2. Điều kiện phát sinh chế tài hủy bỏ
Theo quy định tại điều 312 Luật Thương mại 2005 các trường hợp áp dụng

chế tài hủy bỏ là :
Trừ các trường hợp miễn trách nhiệm quy định tại Điều 294 của Luật này,
chế tài hủy bỏ hợp đồng được áp dụng trong các trường hợp sau đây:
a) Xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thoả thuận là điều kiện để hủy bỏ
hợp đồng;
b) Một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng.
Như vậy là để có thể áp dụng chế tài huỷ bỏ hợp đồng, bên huỷ bỏ cần
chứng minh là đã xảy ra hành vi vi phạm mà đã quy định trong hợp đồng hoặc
chứng minh là bên kia vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng.


10

Theo quy đinh Luật Thương mại 2005 tại khoản 13 điều 3 quy định “Vi
phạm cơ bản là sự vi phạm hợp đồng của một bên gây thiệt hại cho bên kia đến
mức làm cho bên kia không đạt được mục đích của việc giao kết hợp đồng.”
Vi phạm cơ bản trước hết phải là vi phạm hợp đồng; đồng thời, phải xác
định các yếu tố: thiệt hại xảy ra, mục đích giao kết hợp đồng và mức độ ảnh
hưởng của thiệt hại đến mục đích giao kết hợp đồng. Tuy nhiên, làm rõ các yếu
tố trên để xác định vi phạm cơ bản là vấn đề không dễ dàng.Điều khó khăn lớn
nhất là dựa vào tiêu chí nào để xác định “đến mức làm cho bên kia không đạt
được mục đích của việc giao kết hợp đồng”, quy định này mang tính định tính
hơn là định lượng. Về cơ bản, thiệt hại có nghĩa là mục đích mà bên bị vi phạm

chờ đợi trên cơ sở hợp đồng đã khơng cịn; mức độ thiệt hại được xem xét dựa
trên sự tương quan giữa mục đích giao kết hợp đồng và thiệt hại do hành vi vi
phạm gây ra. Tuy nhiên, ngay cả khi thiệt hại thấp hơn mục đích thì cũng chưa
thể kết luận rằng khơng có hành vi vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng mà còn
tùy vào từng tranh chấp cụ thể.
Để hiểu rõ hơn khái niệm vi phạm cơ bản hợp đồng, ta sẽ phân tích
một số căn cứ xác định vi phạm cơ bản hợp đồng theo Công ước của Liên
Hợp Quốc năm 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế (CISG)
Khái niệm vi phạm cơ bản hợp đồng được quy định tại Điều 25 CISG, theo
đó “Một sự vi phạm hợp đồng do một bên gây ra là vi phạm cơ bản nếu sự vi
phạm đó làm cho bên kia bị thiệt hại mà người bị thiệt hại, trong một chừng mực
đáng kể bị mất cái mà họ có quyền chờ đợi trên cơ sở hợp đồng, trừ phi bên vi
phạm khơng tiên liệu được hậu quả đó và một người có lý trí minh mẫn cũng sẽ
khơng tiên liệu được nếu họ cũng ở vào hoàn cảnh tương tự.”
Vậy, để xác định vi phạm cơ bản cần ba yếu tố, cụ thể: (i) có sự vi phạm
hợp đồng, (ii) vi phạm của một bên làm mất khả năng nhận được những lợi ích


11

mà bên kia mong đợi từ việc thực hiện hợp đồng và (iii) có xem xét tới khả năng
tiên liệu được hậu quả.
So với định nghĩa trong LTM 2005 thì quy định trên trong CISG có điểm
tiến bộ hơn khi tính đến cả lợi ích của người bị thiệt hại và người gây thiệt hại
bởi có tính đến các yếu tố khách quan làm họ không thể tiên liệu được việc sẽ
gây ra thiệt hại. Theo quy định của LTM 2005 thì khi xét một vi phạm cơ bản chỉ
cần xem xét một cách chủ quan, dựa vào mức độ nghiêm trọng của thiệt hại gây
ra cho người bị thiệt hại mà khơng tính đến hồn cảnh, lợi ích của bên vi phạm
Ngoài ra, vi phạm hợp đồng phải là nguyên nhân dẫn đến thiệt hại đáng kể
cho bên bị vi phạm. Thế nào là thiệt hại đáng kể?. Công ước cho rằng thiệt hại

đáng kể là những thiệt hại làm cho bên bị vi phạm mất đi cái mà họ chờ đợi
(mong muốn có được) từ hợp đồng. Cơng ước khơng giải thích rõ cái mà người
này chờ đợi là gì. Vì vậy, việc xác định mức độ thiệt hại là đáng kể hay khơng
đáng kể sẽ do tịa án (hoặc cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp) quyết
định căn cứ vào từng trường hợp, từng vụ tranh chấp cụ thể. Ví dụ, phải căn cứ
vào giá trị kinh tế của hợp đồng, sự tổn hại về mặt tiền bạc do hành vi vi phạm
hợp đồng hoặc mức độ mà hành vi vi phạm hợp đồng gây cản trở đến các hoạt
động khác của bên bị vi phạm.
Tuy nhiên, mặc dù hành vi vi phạm hợp đồng dẫn đến thiệt hại cho bên bị
vi phạm nhưng hành vi vi phạm hợp đồng đó sẽ khơng bị coi là vi phạm cơ bản
hợp đồng nếu bên vi phạm “khơng thể nhìn thấy trước hậu quả của hành vi vi
phạm đó và người ở vào hồn cảnh tương tự cũng khơng thể tiên liệu được”.
Chính xác hơn, khả năng nhìn thấy trước hậu quả của hành vi vi phạm hợp đồng
là yếu tố cần thiết để xác định hành vi vi phạm đó có phải là một sự vi phạm cơ
bản hợp đồng hay không. Khả năng tiên liệu trước được những thiệt hại do hành
vi vi phạm hợp đồng gây ra sẽ phụ thuộc vào kiến thức của bên vi phạm về


12

những sự kiện xoay quanh giao dịch như kinh nghiệm, mức độ tinh tế và khả
năng tổ chức của bên vi phạm
Trên thực tế, việc xác định vi phạm cơ bản trong CISG cũng phụ thuộc
nhiều vào quan điểm của cơ quan giải quyết. Khi đó, thơng thường, những tiêu
chí dùng để xác định vi phạm cơ bản đối với hàng hóa đã giao khơng phù hợp
với hợp đồng là thỏa thuận của các bên trong hợp đồng về vi phạm cơ bản; hậu
quả do hành vi vi phạm hợp đồng gây nên là nghiêm trọng; khả năng bán được
của hàng hóa khơng phù hợp hợp đồng; và khả năng sử dụng được của hàng hóa
khơng phù hợp với hợp đồng
Ngồi ra trong Luật Thương mại 2005 cịn có 1 quy định riêng về chế tài

hủy bỏ đối với trường hợp giao hàng, cung ứng dịch vụ từng phần.
Điều 313. Huỷ bỏ hợp đồng trong trường hợp giao hàng, cung ứng dịch vụ
từng phần
1. Trường hợp có thoả thuận về giao hàng, cung ứng dịch vụ từng phần,
nếu một bên khơng thực hiện nghĩa vụ của mình trong việc giao hàng, cung ứng
dịch vụ và việc này cấu thành một vi phạm cơ bản đối với lần giao hàng, cung
ứng dịch vụ đó thì bên kia có quyền tun bố huỷ bỏ hợp đồng đối với lần giao
hàng, cung ứng dịch vụ.
2. Trường hợp một bên không thực hiện nghĩa vụ đối với một lần giao hàng,
cung ứng dịch vụ là cơ sở để bên kia kết luận rằng vi phạm cơ bản sẽ xảy ra đối
với những lần giao hàng, cung ứng dịch vụ sau đó thì bên bị vi phạm có quyền
tuyên bố huỷ bỏ hợp đồng đối với những lần giao hàng, cung ứng dịch vụ sau
đó, với điều kiện là bên đó phải thực hiện quyền này trong thời gian hợp lý.
3. Trường hợp một bên đã tuyên bố huỷ bỏ hợp đồng đối với một lần giao
hàng, cung ứng dịch vụ thì bên đó vẫn có quyền tuyên bố huỷ bỏ hợp đồng đối


13

với những lần giao hàng, cung ứng dịch vụ đã thực hiện hoặc sẽ thực hiện sau
đó nếu mối quan hệ qua lại giữa các lần giao hàng dẫn đến việc hàng hóa đã
giao, dịch vụ đã cung ứng khơng thể được sử dụng theo đúng mục đích mà các
bên đã dự kiến vào thời điểm giao kết hợp đồng.
3. Hệ quả pháp lý
Sau khi hủy bỏ hợp đồng, hợp đồng khơng có hiệu lực từ thời điểm giao
kết, các bên không phải tiếp tục thực hiện các nghĩa vụ đã thỏa thuận trong hợp
đồng, trừ thỏa thuận đối với vấn đề giải quyết tranh chấp và quyền và nghĩa vụ
của các bên sau khi hủy bỏ hợp đồng.
Khi có đủ căn cứ áp dụng hủy bỏ hợp đồng thì cũng có nghĩa là các bên
tham gia giao kết hợp đồng đã đạt được thỏa thuận về việc không tiếp tục thực

hiện hợp đồng nữa hoặc nếu tiếp tục thực hiện thì khơng cịn ý nghĩa do việc vi
phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng của một bên đã gây ra thiệt hại cho bên cịn lại
và khơng đạt được mục đích của việc giao kết hợp đồng, điều này đã được pháp
luật Việt Nam hay pháp luật Thương mại thống nhất quan điểm này.
Các bên trong hợp đồng có quyền địi lại lợi ích do mình đã thực hiện phần
nghĩa vụ theo hợp đồng. Nếu các bên có nghĩa vụ hồn trả thì nghĩa vụ của họ
phải được thực hiện đồng thời. Chẳng hạn như hai bên ký hợp đồng mua bán
hàng hóa, bên bán đã giao một phần hàng hóa, bên mua đã trả phần tiền tương
ứng với phần hàng hóa đó. Khi hủy hợp đồng các bên sẽ hồn trả cho nhau
những gì đã nhận, bên bán hồn lại tiền, bên mua hồn lại hàng hóa. Nếu trong
trường hợp bên mua khơng hồn lại được hàng hóa thì phải có nghĩa vụ hồn trả
bằng tiền.
Nếu khơng thể hồn trả được bằng chính lợi ích đã nhận thì phải hoàn trả lại
bằng tiền, việc hoàn lại bằng tiền thường áp dụng đối với các loại hợp đồng có
đối tượng của hợp đồng không phải là vật chất, điển hình như hợp đồng cung


14

ứng dịch vụ. Và pháp luật thương mại cũng chưa quy định căn cứ định giá cũng
như thời điểm định giá đối với lợi ích của các bên đã nhận.
Thể hiện được ý chí của các bên về việc cơng nhận giá trị lợi ích của hàng
hóa đó đem lại hay dịch vụ mà họ nhận được thì dựa vào căn cứ là giá trị hàng
hóa và dịch vụ được thỏa thuận trong hợp đồng của mối quan hệ giao kết hợp
đồng giữa các bên là thương nhân.
Vẫn chưa có quy định về thời điểm thực hiện nghĩa vụ hoàn trả nên chỉ yêu
cầu các bên đều có nghĩa vụ hồn trả thì nghĩa vụ của họ phải được thực hiện
đồng thời.
Bên bị vi phạm có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại theo quy định của
pháp luật.

4. Mục đích
Đối với chế tài hủy bỏ hợp đồng trong luật thương mại thì mục đích của chế
tài này chủ yếu là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên trong quan hệ
hợp đồng thương mại, trong trường hợp này là hủy bỏ hợp đồng thương mại.
Nếu bên nào bị vi phạm hợp đồng, bên đó có quyền yêu cầu bên vi phạm khơi
phục quyền và lợi ích hợp pháp hoặc bù đắp những thiệt hại mà bên vi phạm đã
gây ra do hành vi vi phạm hợp đồng của mình.
Đây là mục đích được thiết lập dựa trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi giữa
các bên liên quan.
Bởi vì hợp đồng thương mại bị vi phạm mà quyền và lợi ích của bên bị ảnh
hưởng sẽ khơng được đảm bảo nên chế tài được đặt ra chủ yếu nhằm hướng tới
khơi phục các quyền và lợi ích bị vi phạm, bù đắp những thiệt hại đã xảy ra.


15

Hủy bỏ hợp đồng là một trong các cách mà các bên khi giao kết nhận thấy
rằng quyền lợi của họ không được bảo đảm như khi thỏa thuận sẽ thực hiện chế
tài này nhằm chấm dứt các quyền và nghĩa vụ đối với bên vi phạm.
Chính vì vậy mà chế tài trong hợp đồng thương mại không hướng đến mục
đích chính trừng phạt bên vi phạm mà hướng đến sự đền bù cho bên bị vi phạm
nhiều hơn. Pháp luật sẽ tạo ra các hành lang pháp lý nhằm can thiệp và đảm bảo
được những quyền và lợi ích hợp pháp dành cho bên bị hại. Nếu bên vi phạm
khơng có những hành động hay động thái tự nguyện thi hành thì ta vẫn sẽ có cơ
chế cưỡng chế thi hành khác đến từ phía các cơ quan nhà nước dựa trên cơ sở mà
pháp luật quy định.




×