Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

(Luận văn thạc sĩ) Ảnh hưởng của các tỷ lệ protein trong khẩu phần đến khả năng sản xuất của gà lông xước bố mẹ giai đoạn 24 40 tuần tuổi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.02 MB, 85 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
––––––––––––––––––––

ĐÀO PHƯƠNG TUẤN

ẢNH HƯỞNG CỦA CÁC TỶ LỆ PROTEIN
TRONG KHẨU PHẦN ĐẾN KHẢ NĂNG SẢN XUẤT
CỦA GÀ LÔNG XƯỚC BỐ MẸ GIAI ĐOẠN 24 – 40
TUẦN TUỔI

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHĂN NUÔI

THÁI NGUYÊN - 2021


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
---------------------

ĐÀO PHƯƠNG TUẤN

ẢNH HƯỞNG CỦA CÁC TỶ LỆ PROTEIN
TRONG KHẨU PHẦN ĐẾN KHẢ NĂNG SẢN XUẤT
CỦA GÀ LÔNG XƯỚC BỐ MẸ GIAI ĐOẠN 24 – 40
TUẦN TUỔI
Ngành: Chăn nuôi
Mã ngành: 8 62 01 05

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHĂN NUÔI
Người hướng dẫn khoa học: TS. Hồ Thị Bích Ngọc


PHỊNG ĐÀO TẠO

KHOA CHĂN NI THÚ Y

THÁI NGUYÊN - 2021

GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN


i
LỜI CAM ĐOAN
Đề tài “Ảnh hưởng của các tỷ lệ protein trong khẩu phần đến khả năng sản
xuất của gà lông Xước bố mẹ giai đoạn 24 - 40 tuần tuổi” được triển khai tại trung
tâm Đào tạo, Nghiên cứu Giống cây trồng và vật nuôi – Trường Đại học Nông Lâm
Thái Nguyên.
Các số liệu công bố trong luận văn là trung thực, chính xác và có trích dẫn rõ
ràng. Tác giả xin chịu trách nhiệm về nội dung và các công bố trong luận văn.
Tác giả

Đào Phương Tuấn


ii
LỜI CẢM ƠN
Được sự nhất trí của Ban Giám hiệu nhà trường, Bộ phận Sau Đại học -phòng
Đào tạo, khoa Chăn nuôi Thú y và giảng viên hướng dẫn tôi đã hồn thành luận văn
này.
Nhân dịp này tơi xin trân trọng cảm ơn tới Ban Giám hiệu, các thầy cô giáo
trong khoa Chăn nuôi Thú y, bộ phận Sau Đại học trường Đại học Nông Lâm - Đại
học Thái Nguyên đã quan tâm giúp đỡ và tạo mọi điều kiện thuận lợi để tơi hồn

thành luận văn này.
Tơi xin cảm ơn sự giúp đỡ của PGS.TS. Lê Minh đã cộng tác, tạo điều kiện
để bố trí thí nghiệm, tiến hành đề tài thuận lợi và các em sinh viên K48 Chăn ni và
Thú y, giúp đỡ trong q trình tiến hành, theo dõi các thí nghiệm.
Đặc biệt, tơi xin trân trọng cảm ơn giảng viên hướng dẫn TS. Hồ Thị Bích
Ngọc đã tận tình, giúp đỡ tơi trong suốt q trình thực hiện và hồn thiện luận văn.
Nhân dịp này, tơi cũng xin được bày tỏ lịng biết ơn chân thành đối với gia
đình, bạn bè, đồng nghiệp đã tạo điều kiện, động viên, khuyến khích tơi trong suốt
q trình học tập, thực hiện để tơi hồn thành luận văn này.
Xin chân thành cảm ơn!
Thái Nguyên, tháng 11 năm 2021
Tác giả

Đào Phương Tuấn


iii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................... i
LỜI CẢM ƠN ............................................................................................... ii
MỤC LỤC ................................................................................................... iii
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT ................................................................ v
DANH MỤC CÁC BẢNG ............................................................................ vi
MỞ ĐẦU...................................................................................................... 1

1. Đặt vấn đề................................................................................................ 1
2. Mục tiêu của đề tài .................................................................................. 2
3. Ý nghĩa của đề tài .................................................................................... 2
Chương 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU .......................................................... 3


1.1.

Cơ sở khoa học của đề tài ................................................................. 3

1.1.1. Khả năng sinh sản của gia cầm ......................................................... 3
1.1.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến năng suất và chất lượng trứng của gia cầm
sinh sản .............................................................................................. 5
1.1.3. Protein trong chăn nuôi gia cầm sinh sản ....................................... 15
1.2. Một số thông tin về gà Lơng Xước .................................................... 18
1.3. Tình hình nghiên cứu trong và ngồi nước ........................................ 19
1.3.1. Tình hình nghiên cứu trong nước .................................................... 19
1.3.2. Tình hình nghiên cứu ngồi nước ................................................... 20
Chương 2: ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU24

2.1. Đối tượng ........................................................................................... 24
2.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu ...................................................... 24
2.2.1. Địa điểm nghiên cứu ....................................................................... 24
2.2.2. Thời gian nghiên cứu ...................................................................... 24
2.3. Nội dung nghiên cứu .......................................................................... 24
2.4. Phương pháp nghiên cứu .................................................................... 24
2.4.1. Bố trí thí nghiệm ...................................................................................... 24


iv

2.4.2. Phương pháp và các chỉ tiêu theo dõi ............................................. 26
2.5. Phương pháp xử lý số liệu.................................................................. 29
Chương 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN ......................... 31

3.1. Ảnh hưởng của các tỷ lệ protein trong khẩu phần đến tỷ lệ loại thải và

khối lượng của gà lông Xước bố mẹ ............................................... 31
3.2. Ảnh hưởng của các tỷ lệ protein trong khẩu phần đến năng suất sinh
sản của gà lông Xước bố mẹ giai đoạn 24 -40 tuần tuổi ................ 33
3.2.1. Tỷ lệ đẻ ............................................................................................ 33
3.2.2. Năng suất trứng ............................................................................... 35
3.2.3. Khối lượng trứng ............................................................................. 38
3.2.4. Tỷ lệ trứng giống ............................................................................. 40
3.2.5. Hiệu quả sử dụng thức ăn của gà lông Xước bố mẹ giai đoạn 24-40
tuần tuổi........................................................................................... 41
3.3. Ảnh hưởng của các tỷ lệ protein trong khẩu phần đến chất lượng trứng
của gà lông Xước bố mẹ ................................................................. 46
3.4. Ảnh hưởng của các tỷ lệ protein trong khẩu phần đến kết quả ấp nở
trứng gà lông Xước bố mẹ giai đoạn 24-40 tuần tuổi ..................... 56
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ ........................................................................ 62

1. Kết luận ................................................................................................. 62
2. Đề nghị .................................................................................................. 62
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................... 63
PHỤ LỤC .................................................. Error! Bookmark not defined.


v
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
cs

Cộng sự

CP
ME
Nxb


Nhà xuất bản

TA

Thức ăn

TTTA

Tiêu tốn thức ăn


vi
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1.

Sơ đồ bố trí thí nghiệm ............................................................... 25

Bảng 2.2.

Khẩu phần thức ăn cho gà lông Xước thí nghiệm ...................... 25

Bảng 3.1.

Tỷ lệ loại thải và khối lượng gà thí nghiệm ............................... 31

Bảng 3.2.

Tỷ lệ đẻ của gà thí nghiệm giai đoạn 24-40 tuần tuổi ................ 34


Bảng 3.3.

Năng suất trứng của gà thí nghiệm giai đoạn 24-40 tuần tuổi
(quả/mái/tuần) ............................................................................ 36

Bảng 3.4.

Khối lượng trứng của gà thí nghiệm giai đoạn 24-40 tuần tuổi...... 38

Bảng 3.5.

Tỷ lệ trứng giống (%) của gà thí nghiệm giai đoạn 24-40 tuần
tuổi .............................................................................................. 40

Bảng 3.6.

Tiêu tốn thức ăn cho 10 trứng của gà thí nghiệm giai đoạn 24-40
tuần tuổi ...................................................................................... 42

Bảng 3.7.

Tiêu tốn thức ăn cho 10 trứng giống của gà thí nghiệm giai đoạn
24-40 tuần tuổi ........................................................................... 44

Bảng 3.8a.

Ảnh hưởng của các tỷ lệ protein trong khẩu phần đến chất lượng
trứng của gà thí nghiệm ở 28 tuần tuổi ...................................... 47

Bảng 3.8b.


Ảnh hưởng của các tỷ lệ protein trong khẩu phần đến chất lượng
trứng của gà thí nghiệm ở 32 tuần tuổi ...................................... 49

Bảng 3.8c.

Ảnh hưởng của các tỷ lệ protein trong khẩu phần đến chất lượng
trứng của gà thí nghiệm ở 38 tuần tuổi ...................................... 51

Bảng 3.9a.

Kết quả phân tích thành phần hóa học của trứng gà thí nghiệm ở
28 tuần tuổi ................................................................................. 52

Bảng 3.9b.

Kết quả phân tích thành phần hóa học của trứng gà thí nghiệm ở
32 tuần tuổi ................................................................................. 53

Bảng 3.9c.

Kết quả phân tích thành phần hóa học của trứng gà thí nghiệm ở
38 tuần tuổi ................................................................................. 55

Bảng 3.10a. Ảnh hưởng của tỷ lệ protein đến tỷ lệ trứng có phơi/trứng ấp của
trứng gà thí nghiệm giai đoạn 24-40 tuần tuổi. .......................... 56
Bảng 3.10b. Ảnh hưởng của tỷ lệ protein đến tỷ lệ nở/trứng có phơi của gà thí
nghiệm giai đoạn 24-40 tuần tuổi............................................... 57



vii
Bảng 3.10c. Ảnh hưởng của tỷ lệ protein đến tỷ lệ gà loại 1/trứng ấp của gà thí
nghiệm giai đoạn 24-40 tuần tuổi............................................... 60


1
MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
Chăn nuôi gia cầm ngày càng phát triển khơng chỉ ở Việt Nam mà cịn trên
tồn thế giới. Chúng ta biết rằng, bên cạnh việc chọn lọc và cải tạo giống, thức ăn và
nuôi dưỡng là yếu tố môi trường tác động lớn trong việc cải thiện chất lượng vật ni.
Thức ăn ảnh hưởng đến tồn bộ sự sống và sức sản xuất, mức độ hoàn hảo của thức ăn
tác động trực tiếp đến quá trình sinh trưởng và khả năng sản xuất của vật nuôi. Số
lượng, chủng loại và chất lượng thức ăn đặc biệt là thức ăn giàu protein, là một trong
những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến năng suất, chất lượng và giá thành sản phẩm
của ngành chăn nuôi.
Protein là thành phần dinh dưỡng quan trọng nhất trong thức ăn của gia súc
gia cầm, vì đó là chất chủ yếu trong thành phần các chất tạo nên tế bào và mơ, nó
cung cấp một phần năng lượng cho cơ thể, có tác dụng phát huy hiệu lực dinh dưỡng
của các chất khác. Vai trò của các protein trong cơ thể gia cầm rất to lớn và đa dạng,
chúng là phần chức năng cấu trúc trước nhất của các mô khung và bảo vệ: của xương,
sụn, da, lơng… Khơng có các protein - enzyme làm tăng nhanh tất cả các q trình
chuyển hóa sinh học trong cơ thể thì quá trình trao đổi chất sẽ khơng thể diễn ra bình
thường. Sự tiêu hóa thức ăn, sự hấp thu chất dinh dưỡng từ đường tiêu hóa và việc sử
dụng chúng tiếp theo được thực hiện trong sự tham gia nhất thiết của nhiều enzyme.
Trong cơ thể có tạo ra các protein bảo vệ đặc biệt hoặc là các protein miễn dịch, ngăn
ngừa tác động của các protein lạ hoặc vi sinh vật xâm nhập vào bên trong cơ thể. Hiện
tượng này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong sự đấu tranh của cơ thể gia cầm chống
lại các vi sinh vật và virut gây bệnh.
Trong cơ thể gia cầm, phần protein chiếm gần 18 - 22% khối lượng của tất cả

các chất trong cơ thể, các protein chỉ có thể được tổng hợp khi nào trong thức ăn gia
cầm chứa đầy đủ số lượng và chất lượng nhất định. Trong các sản phẩm chăn nuôi
gia cầm: thịt, trứng, lông vũ…hàm lượng protein đạt tới 50% trở lên khối lượng chất
khô. Trong cơ thể, khi khơng có đủ các protein trong thức ăn thì trao đổi chất bị phá
hủy, sinh trưởng chậm lại, sản lượng cũng như khả năng chống chịu bệnh đều giảm.
Thức ăn quá thừa protein cũng thể hiện xấu ở sức khỏe gia cầm. Điều này được giải
thích là khi thừa protein trong khẩu phần thì trong cơ thể tích lũy một lượng đáng kể


2
các sản phẩm độc như amoniac, các muối amon, axit uric, ure, các amin và các chất
khác.
Trong những năm qua, thành phần của khẩu phần ăn cho gà mái đẻ có nhiều
thay đổi. Khẩu phần ăn có thể thay đổi tùy thuộc vào các yếu tố như dòng giống, sản
lượng, độ tuổi và điều kiện thời tiết (Shim và cs., 2013). Mức độ protein trong khẩu
phần ăn gà mái là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến sản xuất trứng và khối
lượng trứng. Một số nhà nghiên cứu báo cáo xu hướng chung là tăng sản lượng trứng
và khối lượng trứng với sự tăng tỷ lệ protein trong khẩu phần ăn (Mohiti-Asli và cs.,
2012; Shim và cs., 2013). Gà mái đẻ sử dụng các chất dinh dưỡng trong khẩu phần
ăn để tạo ra trứng nên chất lượng khẩu phần ăn hợp lý rất quan trọng đối với chăn
nuôi gia cầm đẻ, đặc biệt khi 65 đến 75% chi phí để sản xuất trứng là do chi phí thức
ăn (Bell và Weaver, 2002). Vì vậy, nó ngày càng trở nên quan trọng để các nhà chăn
ni tìm ra lượng dinh dưỡng thích hợp trong khẩu phần để cân bằng giữa thức ăn và
chi phí ít nhất trong suốt chu kỳ đẻ của chúng để tối đa hóa lợi nhuận (Shim và cs.,
2013).
Xuất phát từ thực tế đó chúng tơi tiến hành thực hiện đề tài: “Ảnh hưởng của
các tỷ lệ protein trong khẩu phần đến khả năng sản xuất của gà lông Xước bố mẹ
giai đoạn 24 - 40 tuần tuổi”
2. Mục tiêu của đề tài
- Xác định được tỷ lệ protein thích hợp trong khẩu phần đến năng suất và chất

lượng trứng của gà lông Xước bố mẹ giai đoạn 24 – 40 tuần tuổi.
3. Ý nghĩa của đề tài
3.1.Ý nghĩa khoa học
- Kết quả nghiên cứu làm cơ sở cho việc xây dựng công thức thức ăn cho gà
đẻ bố mẹ lông Xước.
- Kết quả của đề tài có thể làm tài liệu tham khảo để phục vụ giảng dạy và các
nghiên cứu tiếp theo.
3.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Hồn thiện, quy trình chăm sóc ni dưỡng gà lơng Xước bố mẹ.
- Góp phần nâng cao hiệu quả chăn nuôi gà lông Xước bố mẹ và phát triển
vùng sản xuất gà lông Xước chất lượng cao.


3
Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Cơ sở khoa học của đề tài
1.1.1. Khả năng sinh sản của gia cầm
1.1.1.1. Cơ sở khoa học của năng suất trứng
Sinh sản là một quá trình để tạo ra thế hệ sau, sự phát triển hay hủy diệt của
một loài, trước tiên phụ thuộc vào khả năng sinh sản của lồi đó. Khả năng sinh sản
của gia cầm được thể hiện bởi các chỉ tiêu về năng suất trứng, khối lượng, hình dạng,
chất lượng trứng, khả năng thụ tinh và ấp nở. Đối với các giống gia cầm khác nhau
thì khả năng sinh sản của chúng cũng rất khác nhau.
Năng suất trứng là số lượng trứng đẻ ra của một gia cầm mái trong một đơn vị
thời gian. Đối với gia cầm đẻ trứng thì đây là chỉ tiêu năng suất quan trọng nhất, nó
phản ánh trạng thái sinh lý và khả năng hoạt động của hệ sinh dục. Năng suất trứng
là một tính trạng số lượng nên nó phụ thuộc nhiều vào điều kiện ngoại cảnh và cũng
phụ thuộc nhiều vào loài, giống, hướng sản xuất, mùa vụ, điều kiện dinh dưỡng, chăm
sóc và đặc điểm của cá thể.

Năng suất trứng là một tính trạng số lượng có mối tương quan nghịch chặt chẽ
với tốc độ sinh trưởng sớm, do đó trong chăn nuôi gà sinh sản người ta thường quan
tâm đến việc cho gà ăn hạn chế trong các giai đoạn cuối gà con, giai đoạn gà dò - hậu
bị để đảm bảo cho năng suất trứng cao trong giai đoạn đẻ trứng. Theo Bùi Thị Oanh,
(1996) thì năng suất trứng cịn phụ thuộc nhiều vào số lượng và chất lượng của thức
ăn, đặc biệt là mức năng lượng trao đổi, hàm lượng protein và các axit amin thiết yếu
trong khẩu phần thức ăn của gia cầm sinh sản. Năng suất trứng có hệ số di truyền
khơng cao, nhưng lại dao động lớn. Nguyễn Văn Thiện, (1995) cho biết hệ số di
truyền năng suất trứng của gà là 0,12 - 0,3. Đối với tính trạng năng suất trứng, để cải
thiện năng suất cần áp dụng phương pháp lai, kết hợp với chọn lọc cá thể, nếu chỉ áp
dụng chọn lọc thì việc nâng cao năng suất trứng ít có hiệu quả.
Tỷ lệ đẻ và năng suất trứng có liên quan chặt chẽ với nhau, tỷ lệ đẻ trứng được
tính theo tuần, tháng, năm, đó cũng thể hiện cường độ đẻ trứng là sức đẻ trứng trong
một thời gian. Cường độ đẻ trứng phụ thuộc vào độ dài của chu kỳ đẻ trứng, chu kỳ


4
đẻ trứng chính là thời gian gia cầm đẻ liên tục khơng bỏ ngắt qng cịn được gọi là
trật đẻ. Cường độ đẻ trứng có tương quan dương và chặt chẽ với sản lượng trứng ấy
là tính trạng có hệ số di truyền cao, thường được sử dụng để chọn lọc nâng cao năng
suất trứng. (Wegner, 1980) cho biết hệ số di truyền về cường độ đẻ trứng của gà vào
loại cao h2 = 0,66.
1.1.1.2. Chất lượng trứng
Trứng gia cầm gồm 3 phần cơ bản đó là vỏ trứng, lịng đỏ và lòng trắng. Vương
Đống, (1968) cho biết tỷ lệ các phần so với khối lượng trứng thì vỏ chiếm 10 - 11,6%;
lòng trắng 57- 60%; lòng đỏ 30 - 32%. Thành phần hóa học của trứng khơng vỏ: nước
chiếm 73,5 - 74,4% ; protein 12,5 - 13%; mỡ 11 - 12%; khống 0,8 - 1,0%.
- Chỉ số hình thái: Trong chăn ni gia cầm sinh sản, chỉ số hình thái của trứng
là một chỉ tiêu để xem xét chất lượng của trứng, đặc biệt là trứng ấp, những quả trứng
dài hoặc quá tròn đều cho tỷ lệ ấp nở thấp. Trứng của mỗi giống gia cầm đều có chỉ số

hình thái riêng. Chỉ số hình thái của trứng gà biến thiên từ 1,34 - 1,36; chỉ số này ở gà
Ri là 1,30 và gà Ri lai (Ri x Sasso x Lương Phượng) là 1,32 (Nguyễn Bá Mùi và Phạm
Kim Đăng, 2016), gà Đông Tảo là 1,31 và gà F1 (Đơng Tảo x Lương Phượng) là 1,34.
Trứng gà Tam Hồng có chỉ số hình thái trứng trung bình 1,24 - 1,39 cho kết quả ấp
nở cao hơn so với nhóm trứng có chỉ số hình thái nằm ngồi biên độ này (Nguyễn Văn
Duy và cs, 2020); (Nguyễn Quý Khiêm, 2003).
- Độ dày và độ bền vỏ trứng: độ dày, độ bền hay độ chịu lực của vỏ trứng là
một trong những chỉ tiêu quan trọng đối với trứng gia cầm, có ảnh hưởng tới kết quả
ấp nở và bao gói vận chuyển, nó phụ thuộc vào giống, tuổi, điều kiện chăm sóc, ni
dưỡng và nhiệt độ chuồng ni, tuổi già hay stress đều làm giảm độ dày và sức bền
vỏ trứng.
Độ dày vỏ trứng được xác định bằng thước đo độ dày khi đã bóc lớp
màng vỏ dai trắng. Độ dày vỏ trứng có tương quan dương với độ bền và ảnh hưởng
đến kết quả ấp nở, thường trứng có vỏ quá dày hoặc quá mỏng đều cho tỷ lệ nở kém.
Vỏ trứng quá dày làm hạn chế sự bốc hơi nước của trứng, cản trở quá trình phát triển
của phơi, gia cầm con khó đạp vỡ vỏ khi nở. Nếu vỏ trứng quá mỏng làm quá trình
bay hơi nước diễn ra nhanh, khối lượng trứng giảm nhanh, dễ chết phôi, sát vỏ, gia
cầm con nở ra yếu và tỷ lệ chết cao, độ dày lý tưởng của vỏ trứng từ 0,26 - 0,34 mm.


5
Ngồi ra độ dày vỏ trứng cịn chịu ảnh hưởng của môi trường như thức ăn, tuổi gà,
nhiệt độ xung quanh, stress và nhiều yếu tố khác.
- Chỉ số lòng đỏ, lòng trắng và đơn vị Haugh: Khi đánh giá chất lượng trứng
giống cũng như trứng thương phẩm người ta đặc biệt quan tâm đến chỉ tiêu này, các
chỉ tiêu này càng cao thì chất lượng trứng càng tốt và tỷ lệ nở càng cao. Chỉ số lòng
đỏ: chất lượng lòng đỏ được xác định bởi chỉ số lòng đỏ, mà chỉ số này là tỷ số giữa
chiều cao lòng đỏ với đường kính của nó. Chỉ số lịng đỏ của trứng gà tươi nằm giữa
0,4 - 0,42. Trứng có chỉ số lịng đỏ càng lớn thì chất lượng trứng càng tốt.
Chỉ số lòng trắng là chỉ tiêu đánh giá chất lượng lịng trắng, chỉ số này được

tính bằng tỷ lệ giữa chiều cao lòng trắng đặc so với trung bình cộng đường kính lớn
và đường kính nhỏ của nó, chỉ số này lớn thì chất lượng lịng trắng càng cao. Chỉ số
lòng trắng bị ảnh hưởng bởi giống, tuổi và chế độ nuôi dưỡng.
Đơn vị Haugh được sử dụng để đánh giá chất lượng trứng, phụ thuộc vào khối
lượng và chiều cao lòng trắng đặc. Đơn vị Haugh càng cao thì chất lượng trứng càng
tốt, đơn vị Haugh chịu ảnh hưởng bởi thời gian bảo quản trứng, tuổi gia cầm mái (gà
càng già trứng có đơn vị Haugh càng thấp) bệnh tật, nhiệt độ, thay lông (sau thay lông
đơn vị Haugh cao hơn trước khi thay lông) và giống gia cầm. Chất lượng trứng rất tốt
có đơn vị Haugh 80 – 100; tốt: 65 – 79; trung bình: 55 - 64 và xấu là dưới 55.
Nguyễn Bá Mùi và Phạm Kim Đăng, (2016) nghiên cứu chất lượng của trứng
gà Ri và gà Ri lai (Ri x Sasso x Lương Phượng) thu được kết quả lúc 38 tuần tuổi có
chỉ số Haugh là 80,90 và 81,56. Trương Văn Phước, (2021) nghiên cứu trên trứng gà
Ác ở tỷ lệ axit amin khác nhau trong khẩu phần có chỉ số Haugh dao động từ 71,0276,95.
1.1.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến năng suất và chất lượng trứng của gia cầm sinh sản
1.1.2.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến sản lượng trứng
Sản lượng trứng có thể bị ảnh hưởng bởi các yếu tố như chất lượng và số lượng
của thức ăn, lượng nước uống vào, cường độ và thời gian chiếu sáng, sự xâm nhập của ký
sinh trùng, bệnh tật, và nhiều yếu tố sinh lý, quản lý và môi trường khác....
* Ảnh hưởng của tuổi thành thục về tính


6
Tuổi thành thục về tính của gia cầm có ảnh hưởng rõ ràng đến sản lượng trứng
trong chu kỳ đẻ đầu và các chu kỳ đẻ tiếp theo. Đồ thị đẻ trứng của gia cầm đạt đến
đỉnh cao nhanh chủ yếu là do tuổi thành thục về tính của từng cá thể trong đàn sớm.
Gà thành thục về tính sớm sẽ đẻ nhiều trứng hơn trong một năm sinh học. Nhưng nếu
gà thành thục về tính quá sớm sẽ đẻ trứng nhỏ kéo dài. Tuổi và năm đẻ của gia cầm
có liên quan đến sản lượng trứng/năm. Chu kỳ đẻ của gà thường khoảng 12
tháng. Quá trình sản xuất trứng bắt đầu khi gà đạt khoảng 18–22 tuần tuổi, tùy thuộc
vào giống và mùa vụ. Sản lượng trứng tăng mạnh và đạt đỉnh cao khoảng 90% sau

6–8 tuần. Sản xuất trứng giảm dần xuống còn khoảng 65% sau 12 tháng. Gà có thể
sống nhiều năm và tiếp tục đẻ trứng trong nhiều năm. Tuy nhiên, sau hai hoặc ba năm
nhiều gà mái giảm năng suất đáng kể. Khi gia cầm đẻ năm thứ hai thì sản lượng trứng
giảm 10-20% (Jacqueline Jacob, 2014).
* Ảnh hưởng của sự thay lông đến sản lượng trứng
Gà mái đẻ tốt trong khoảng 50 đến 60 tuần và sau đó có một khoảng thời gian
thay lơng. Gà đẻ kém và gà mái già sẽ thay lông thường xuyên và đẻ ít hơn (Jacqueline
Jacob, 2014). Sự thay lơng là một q trình sinh lý học tự nhiên. Ở gia cầm hoang thì
thời gian thay lơng thường phụ thuộc vào mùa. Thông thường, chúng thay lông vào
mùa thu. Thời gian thay lơng càng dài thì sản lượng trứng càng thấp. Sự thay lông là
kết quả hoạt động tương tác phức hợp của các hormone gonadotropin. Các hormone
khác như thyroxine và prolactin cũng hoạt động tương tác với hormone gonadotropin
(Rose, 1997). Sức đẻ trứng giảm ngay khi gà rụng lơng. Thời gian rụng lơng kéo dài
trong vịng 10 ngày và sau khoảng 15 ngày thì lơng mới được mọc ra. Gia cầm có thể
đẻ trở lại trước khi bộ lông mới mọc đầy đủ.
* Ảnh hưởng của bệnh đến sản lượng trứng
Nội ký sinh trùng có thể gây ra tình trạng sử dụng thức ăn kém hiệu quả, sinh
trưởng kém, giảm sản lượng trứng và chết khi nhiễm bệnh nặng. Gà bị nhiễm bệnh
cũng có thể dễ mắc các bệnh kế phát. Bệnh cầu trùng khiến cho gà gầy hốc hác, giảm
rõ rệt lượng thức ăn tiêu thụ, gà bị tiêu chảy và giảm sản lượng trứng, tỷ lệ chết cao.
Gà đẻ mắc bệnh CRD có các triệu chứng đặc trưng như thở hổn hển, hắt hơi, ho và
sản lượng trứng giảm rõ rệt. Chất lượng trứng cũng ảnh hưởng xấu. Chất lượng trứng


7
thấp và vỏ không đều, vỏ mềm hoặc sai lệch hình dạng. Bệnh Newcastle gây nên hiện
tượng bỏ ăn, giảm tiêu thụ nước và sự sụt giảm đáng kể sản lượng trứng. Như vậy,
tình trạng bệnh tật ở gia cầm làm giảm đầu con, giảm khả năng đẻ trứng (Jacqueline
Jacob, 2014).
* Ảnh hưởng của nhiệt độ và ẩm độ đến sản lượng trứng

Chỉ số nhiệt độ-độ ẩm (THI) được sử dụng để đánh giá ảnh hưởng của điều
kiện môi trường đối với cơ chế điều hòa nhiệt độ của động vật và để ngăn ngừa stress
nhiệt độ. Cả nhiệt độ môi trường và độ ẩm tương đối (RH) đều được sử dụng làm
biến số để tính tốn các giá trị THI, trong đó nhiệt độ được coi là đóng góp nhiều hơn
vào giá trị THI so với độ ẩm (Da-Hye Kim và cs., 2021).
Gia cầm trưởng thành chịu đựng nhiệt độ thấp tốt hơn với nhiệt độ cao. Sự
thay đổi nhiệt độ có ảnh hưởng trực tiếp đến tiêu tốn thức ăn. Khi gia cầm được nuôi
trong điều kiện nhiệt độ trung bình (200C) thì nhu cầu về năng lượng là thấp nhất. Sự
thay đổi nhiệt độ môi trường sẽ ảnh hưởng đến việc chuyển hóa thức ăn liên quan đến
sự thay đổi hoạt động của tuyến giáp trạng.
Nhiệt độ cao hoặc thấp ảnh hưởng đến sản lượng trứng thông qua mức độ tiêu
tốn thức ăn. Ở nhiệt độ thấp, mức tiêu thụ thức ăn cao, lượng thức ăn này được sử
dụng cho việc sưởi ấm của cơ thể, do vậy tiêu tốn thức ăn cho việc sản xuất ra một
quả trứng là cao. Trong khi đó nhiệt độ cao sẽ làm giảm mức tiêu thụ thức ăn, lượng
thức ăn ăn vào không đáp ứng đủ nhu cầu sản xuất và như vậy sản lượng trứng sẽ bị
giảm đi.
Môi trường là nền tảng cho quá trình trao đổi chất, sinh lý và các hoạt động
nội tiết kết nối với toàn bộ q trình sản xuất trứng. Nhiệt độ mơi trường ảnh hưởng
lớn đến chức năng sinh lý của gia cầm đẻ trứng. Sản lượng trứng giảm khi nhiệt độ
môi trường cao hơn nhiệt độ cơ thể gà. Nhiệt độ môi trường từ 90 °F (32,2 °C) trở
lên, cơ chế điều chỉnh nhiệt độ của gia cầm khơng thể kiểm sốt nhiệt độ cơ thể trong
phạm vi bình thường và do vậy nó tăng lên. Sự gia tăng này tạo ra sự tăng thân nhiệt,
làm rối loạn sinh lý bình thường gây ra sự suy giảm hoặc ngừng sản xuất trứng
(Oguntunji và Alabi, 2010). Nhiệt độ gây stress nhiệt ảnh hưởng đến năng suất và
sinh lý của gà đẻ (Yahav và cs., 2000). Gà đẻ được ni ở 30 °C có năng suất kém


8
hơn và thể hiện khả năng tiêu hóa chất dinh dưỡng bị thay đổi so với gà mái được
nuôi ở 24 °C (Cai và cs., 2020). Tương tự, Kim và cs., (2020) cũng cho biết ảnh

hưởng tiêu cực của stress nhiệt đối với gà đẻ khi chúng tiếp xúc với nhiệt độ 32 °C
so với 27 °C.
Cơ chế điều tiết nhiệt liên quan đến giảm hiệu quả sinh sản của gà mái. Gà mái
tăng thân nhiệt làm suy giảm chức năng buồng trứng như giảm đáng kể khối lượng
buồng trứng và số lượng lớn nang trứng ở gà mái Leghorn bị stress (42°C) so với nhiệt
độ mơi trường ơn hịa (24 đến 26°C). (Rozenboim và cs., 2007). Nhiệt độ môi trường
cao làm suy giảm sản lượng trứng và chất lượng vỏ trứng, dẫn đến thiệt hại kinh tế
đáng kể trong ngành cơng nghiệp trứng tồn cầu (Wang và cs., 2019).
Khi độ ẩm quá cao làm cho chất độn chuồng bị ướt, tạo thành một lớp hơi
nước bao phủ không gian của chuồng ni. Nếu tình trạng này kéo dài sẽ ảnh hưởng
đến sự hô hấp của gia cầm và làm ảnh hưởng đến năng suất và tiêu tốn thức ăn. Độ
ẩm quá thấp sẽ làm cho gia cầm mổ lông và rỉa thịt nhau, ảnh hưởng đến tỷ lệ hao hụt
và khả năng sản xuất.
* Ảnh hưởng của mùa vụ và ánh sáng đến sản lượng trứng
Trong tất cả các yếu tố bên ngoài ảnh hưởng đến sản lượng trứng thì yếu tố về
thời gian chiếu sáng đóng một vai trị quan trọng. Đối với gia cầm đẻ thì chế độ chiếu
sáng có ảnh hưởng rất lớn đến tuổi thành thục về tính.
Ánh sáng ảnh hưởng đến bộ máy sinh dục của gia cầm theo cơ chế sau: ánh
sáng tác động lên mắt, thông qua dây thần kinh lên não bộ từ đó tác động lên vùng
dưới đồi giải phóng hormone LH đồng thời kích thích sự giải phóng hormone
gonandotropin. Một mặt các hormone này kích thích sự phát triển của nang trứng, mặt
khác cịn điều tiết q trình rụng trứng. Lợi dụng ảnh hưởng của ánh sáng, người ta đã
áp dụng các chương trình chiếu sáng thích hợp để nhằm các mục đích sau:
+ Đạt được tuổi thành thục về tính theo yêu cầu (đây là một chỉ tiêu có ý nghĩa
kinh tế lớn).
+ Làm tăng cường độ đẻ trứng
+ Kéo dài thời gian đẻ trứng


9

Quá trình hình thành trứng trong ống dẫn trứng do các hormone điều khiển
trong chu kỳ 24 giờ sáng/tối. Khoảng cách giữa 2 lần rụng trứng thường dài hơn một
chút chính vì vậy nếu gà đẻ vào sáng sớm hơm trước thì hơm sau sẽ đẻ muộn hơn
một chút và cứ như vậy hôm sau lại muộn hơn hôm trước và cuối cùng sẽ có một
ngày gà sẽ khơng đẻ trứng sau đó lại tiếp tục như vậy. Nếu gà đẻ hơm sau khơng
muộn hơn hơm trước thì nó sẽ đẻ 365 trứng/năm theo lịch đúng với tiềm năng di
truyền tối đa của chúng. Bằng phương pháp chọn lọc, ngày nay người ta đã tạo ra
được những đàn gà thương phẩm có sản lượng trứng lên đến 300 trứng/năm hoặc có
khi cịn cao hơn nữa trong những điều kiện ni dưỡng tốt và mơi trường thích hợp.
Từ những đánh giá trên, người ta thấy có hai khả năng để làm tăng sản lượng trứng ở
gia cầm là kéo dài chu kỳ đẻ trứng thông thường hoặc sử dụng gà mái qua 2, 3 hoặc
4 chu kỳ đẻ trứng và phá vỡ điểm giới hạn đẻ 1 trứng/ngày. Kéo dài chu kỳ đẻ trứng
hoặc sử dụng gà đẻ nhiều chu kỳ sẽ kéo dài khoảng cách thế hệ.
Để phá vỡ giới hạn hình thành trứng trong vịng 24 giờ u cầu cần thiết là
làm thay đổi môi trường, chú trọng đến chế độ chiếu sáng. Thơng thường có 4 chế độ
chiếu sáng có thể sử dụng để làm thay đổi nhịp đẻ (khoảng cách giữa hai trứng): đó
là chế độ chiếu sáng đơn giản (14 giờ sáng, 10 giờ tối), chế độ chiếu sáng liên tục,
chế độ tối liên tục và chế độ luân phiên tối sáng. Theo Hiệp hội Kỹ thuật Bắc Mỹ
(IESNA), một ngày khoảng thời gian chiếu sáng là 14 giờ để sản xuất trứng tối ưu và
nếu hơn 17 giờ ánh sáng sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến sản xuất trứng. Vì hệ thống thị
giác của gà phản ứng với bức xạ ánh sáng trong quang phổ ở phạm vi 664-740 nm,
đèn được sử dụng nên phát ra ánh sáng trong phạm vi này. IESNA cũng khuyến nghị
10 lux là cường độ ánh sáng tối thiểu cho sản xuất trứng. Cường độ ánh sáng cao hơn
10 lux khơng mang lại bất kỳ lợi ích nào và trên thực tế có thể có tác động tiêu cực
đến sản xuất trứng vì chúng có thể có hành vi hung hăng, hiếu động thái quá và cắn
mổ đồng loại giữa những con gà mái (Jácome và cs., 2014).
* Ảnh hưởng của yếu tố dinh dưỡng đến sản lượng trứng
Cơ sở để xây dựng khẩu phần ăn cho gia cầm đẻ phải căn cứ vào khẩu phần
ăn của tất cả các giai đoạn chăn ni trước đó. Để cải thiện sản lượng trứng, chế độ
cho ăn và khẩu phần ăn là rất quan trọng. Lượng thức ăn trong giai đoạn nuôi dưỡng



10
không chỉ ảnh hưởng đến khối lượng cơ thể, tỷ lệ hao hụt trong giai đoạn ni dưỡng
mà cịn ảnh hưởng đến tuổi đẻ quả trứng đầu tiên cũng như sản lượng trứng, khối
lượng trứng, chất lượng trứng, khối lượng cơ thể và tỷ lệ hao hụt trong giai đoạn gia
cầm đẻ (Simeneh, 2019).
Làm thế nào để có một khẩu phần ăn thích hợp đáp ứng đủ các yêu cầu trên đã
được đặt ra cho các nhà chăn nuôi. Đối với gà chăn thả (gà nội) chỉ đẻ 25-30
trứng/năm thì ảnh hưởng của yếu tố dinh dưỡng là không lớn lắm nhưng đối với gà
ni nhốt thì nhu cầu dinh dưỡng lại cần được quan tâm chú ý. Nhu cầu dinh dưỡng
của gà nuôi nhốt phải tăng gấp đôi về protein, cacbonhydrate, lipit và phải bổ sung
thêm khoáng so với gà chăn thả. Hàm lượng protein, Ca, P và lipit trong máu gà đang
đẻ trứng cao gấp 2,3, thậm chí đến 4 lần so với trong máu gà không đẻ trứng. Sự tăng
lên về hàm lượng các chất này trong máu chứng tỏ gà cần protein để tạo nỗn hồng
và lòng trắng; cần Ca, P để tạo vỏ trứng; cần lipit để tạo nỗn hồng. Khi gà ngừng
đẻ thì hàm lượng các chất này trong máu lại giảm đi.
Dinh dưỡng đóng một vai trị quan trọng trong việc duy trì sức khỏe của gà
con, năng suất và chất lượng trứng của gà đẻ và sự phát triển cơ thể của gà thịt (Wang
và cs., 2017). Trong chăn nuôi gia cầm sinh sản thì protein, năng lượng, axit amin,
vitamin, khống vi lượng cần được chú ý quan tâm vì chúng là một trong những yếu
tố ngoại cảnh quan trọng ảnh hưởng đến sản lượng trứng.
- Ảnh hưởng của năng lượng trong thức ăn đến sản lượng trứng
Gia cầm đẻ cần năng lượng để duy trì các hoạt động của cơ thể và tạo trứng,
ngồi ra cịn cần để phát triển. Năng lượng, một chất dinh dưỡng quan trọng trong
khẩu phần ăn của gà đẻ, thường được cung cấp bởi ngũ cốc, nguồn protein và chất
béo bổ sung. Mức năng lượng khẩu phần có thể ảnh hưởng đáng kể đến chi phí sản
xuất, bởi vì việc tăng mức năng lượng bằng cách bổ sung chất béo có thể làm giảm
đáng kể lượng thức ăn ăn vào, tăng khối lượng trứng và cải thiện chuyển hóa thức ăn
(Grobas và cs., 1999). Mức năng lượng trong khẩu phần ăn không phải là yếu tố quyết

định đầu tiên ảnh hưởng đến năng suất đẻ nhưng mức năng lượng cao hơn có thể làm
tăng khối lượng cơ thể khi bắt đầu đẻ (Babiker và cs., 2011). Sự dư thừa năng lượng
ăn vào do thay đổi khẩu phần ăn chủ yếu dẫn đến tăng khối lượng cơ thể hơn là tăng


11
sản lượng trứng. Xu hướng tiêu thụ quá nhiều năng lượng có tác động tích cực đến
lượng thức ăn và hệ số chuyển hóa thức ăn nhưng khơng ảnh hưởng đến sản lượng
trứng và khối lượng trứng (Hwan Ku Kang và cs., 2018). Khi cho gà đẻ trứng ăn
không giới hạn dẫn đến tiêu thụ quá nhiều năng lượng làm tăng tích tụ quá mức các
lớp mỡ bụng, gà trở nên béo phì, dễ gây stress nhiệt, tỷ lệ què và tỷ lệ tử vong cao do
rối loạn hệ xương (Oyedeji và cs., 2007).
Trong chăn nuôi gia cầm đẻ trứng, nếu thiếu năng lượng thì giảm tốc độ phát
triển, giảm sản lượng trứng và ảnh hưởng đến khối lượng trứng. Nhu cầu về năng lượng
tùy thuộc vào từng giai đoạn phát triển của cá thể và tuỳ thuộc từng giai đoạn đẻ.
- Ảnh hưởng của protein trong thức ăn đến sản lượng trứng
Gia cầm đẻ cần protein để duy trì hoạt động, sản xuất trứng và tăng khối lượng,
đặc biệt là trong việc hình thành trứng. Khác với nhu cầu về năng lượng, nhu cầu về
protein không thay đổi trong suốt giai đoạn đẻ. Thiếu protein thì gia cầm sẽ huy động
protein của cơ thể để đáp ứng quá trình sản xuất dẫn đến ảnh hưởng đến quá trình
hình thành trứng. Bên cạnh việc đáp ứng đầy đủ và hợp lý các nhu cầu về năng lượng
và protein thì việc thiếu các axit béo no và khơng no cũng có ảnh hưởng đến sản
lượng trứng của gia cầm.
Gia cầm nhận được chất dinh dưỡng thông qua việc tiêu thụ thức ăn tự nhiên,
nhưng một số axit amin thiết yếu chính (lysine, methionin, threonin và tryptophan)
thường được cung cấp dưới dạng chất bổ sung tổng hợp (Ravindran, 2010). Axit amin
như là chất dinh dưỡng sẽ cải thiện năng suất chăn nuôi gia cầm, bảo vệ sức khỏe của
gia cầm và tăng cường khả năng miễn dịch. Cung cấp khẩu phần ăn giàu protein và giàu
năng lượng cho gà đẻ trứng cho thấy những tác động tích cực đến khối lượng trứng và
khối lượng lòng đỏ (Babiker và cs., 2011).

- Ảnh hưởng của vitamin trong thức ăn đến sản lượng trứng
Vitamin là chất dinh dưỡng cần thiết cho sức khỏe như phát triển, tăng trưởng,
duy trì và sinh sản. Vitamin có chức năng xúc tác tạo điều kiện tổng hợp chất dinh
dưỡng, do đó kiểm sốt q trình trao đổi chất và ảnh hưởng đến năng suất và sức
khỏe của gia cầm. Vitamin trong thức ăn gia cầm có hai nguồn có sẵn trong nguyên
liệu của thức ăn hoặc có thể được thêm vào như một chất bổ sung


12
(Whitehead, 2002). Có nhiều loại vitamin: vitamin tan trong chất béo: A, D, E và K;
và vitamin tan trong nước: B1 , B2 , B6 , B12 , axit folic, axit pantothenic, biotin, niacin
và vitamin C… cần thiết cho sức khỏe gia cầm.
Tỷ lệ thích hợp của các vitamin tan trong chất béo và sự kết hợp của bốn loại
vitamin - A, D, E và C, như một dạng vitamin nhũ tương ảnh hưởng tích cực đến
năng suất của gà thịt (Kamalzadeh và cs., 2009). Là một vi chất dinh dưỡng quan
trọng, vitamin E tối ưu hóa q trình sinh sản và năng suất của vật ni. Hơn nữa, nó
bảo vệ các nang buồng trứng khỏi bị tổn thương do oxy hóa và cũng có một chức
năng quan trọng trong sản xuất trứng bằng cách tạo điều kiện thuận lợi cho việc giải
phóng tiền chất trong lịng đỏ (vitellogenin) từ gan (Weber, 2009). Vì vậy, vitamin E
hoạt động như chất chống oxy hóa, cải thiện khả năng miễn dịch, khả năng sinh sản,
tăng trưởng và phát triển ở gia cầm.
Vitamin D3 là một chất dinh dưỡng quan trọng cho sự phát triển của xương và
có vai trị sinh học quan trọng như chức năng miễn dịch, cân bằng nội môi canxi (Ca),
tăng sinh và biệt hóa tế bào (Holick, 2004). Ngồi ra, vitamin D có liên quan đến các
q trình sinh lý khác nhau, bao gồm hình thành xương và khống hóa, hấp thụ phốt
pho (P) và canxi (Garcia và cs., 2013). Ở gà đẻ, vitamin D có vai trị trong chức năng
tối ưu của hệ xương, giúp móng, mỏ và xương chắc khỏe. Nó cũng có tác động tích
cực đến chất lượng vỏ trứng.
Vitamin A cần thiết cho sự phát triển thị giác, tăng trưởng, sinh lý sinh sản và
duy trì sự tồn vẹn của biểu mơ và khung xương. Vitamin A trong khẩu phần đã cải

thiện sự phát triển và tăng trưởng của hệ thống sinh sản, kích thích nang trứng
(Weber, 2009). Abd El-Hack và cs. (2017) nhấn mạnh hiệu quả của vitamin A ở mức
16.000 IU/kg khẩu phần trong việc cải thiện các chỉ số năng suất.
Các vitamin nhóm B có chức năng rất quan trọng trong quá trình trao đổi chất
của gia cầm, vì hầu hết chúng đại diện cho các coenzyme kết hợp với các phân tử
enzyme lớn hơn để đẩy nhanh nhiều quá trình trao đổi chất. Vitamin B1, B2, B6, biotin,
axit pantothenic và niacin tham gia vào q trình chuyển hóa năng lượng, nhưng axit
folic và vitamin B12 phát huy hoạt động của chúng trong tế bào và duy trì tăng trưởng
(Weber 2009). Trong khẩu phần ăn nếu thiếu thiamin (vitamin B1) sẽ xuất hiện một


13
số triệu chứng như giảm cân và biếng ăn, suy nhược, suy tim (hội chứng đột tử), thối
hóa mỡ ở gan, viêm niêm mạc, buồng trứng teo và giảm sản lượng trứng (Weber,
2009).
- Ảnh hưởng của khoáng chất trong thức ăn đến sản lượng trứng
Khoáng chất là chất dinh dưỡng quan trọng cần thiết cho sức khỏe và chức
năng sinh lý của gia cầm. Các nguyên tố vi lượng có tầm quan trọng trong quá trình
sinh sản và miễn dịch của gia cầm. (Saripinar-Aksu và cs., 2012). Ở gia cầm, khống
chất được u cầu như một phần của chất kích hoạt hormone và enzym, để hình thành
và thay thế bộ xương và vỏ trứng, để duy trì sự cân bằng axit-bazơ (natri (Na), kali
(K) và clorua (Cl) và cân bằng nội mơi thẩm thấu (Ravindran, 2010).
Gia cầm địi hỏi các khoáng đa lượng cũng như vi lượng trong khẩu phần. Các
khoáng chất đa lượng như canxi (Ca) và phốt pho (P) là những nguyên tố có nhiều nhất
trong cơ thể. Nhóm này cũng bao gồm clorua (Cl), magiê (Mg), kali (K), natri (Na) và lưu
huỳnh (S). Các nguyên tố vi lượng như Zn, Cu, Mn, Co và Cr. Các chất khoáng tham gia
vào các chức năng sinh lý cần thiết để duy trì sự sống, bao gồm sinh trưởng, sinh sản, chức
năng miễn dịch, chuyển hóa năng lượng và hình thành xương (Bao và cs., 2007; Dibner
và cs., 2007).
Canxi (Ca) là một nguyên tố chính trong dinh dưỡng gia cầm. Nó là một thành

phần quan trọng để khống hóa xương và vỏ, hình thành cục máu đơng và co cơ
(Talpur và cs., 2012). Phốt pho là một khoáng chất cần thiết cho gia cầm và đóng một
vai trị quan trọng trong các mô cứng và mềm của cơ thể (Underwood và
Suttle, 1999). Trong các yếu tố khống thì nhu cầu về P và Ca rất cao để tạo vỏ trứng.
Thiếu P và Ca thì gia cầm sẽ ngừng đẻ và thay lơng. Nhu cầu của nó ở gia cầm bị ảnh
hưởng bởi nhiều yếu tố khác nhau, bao gồm cả mức độ canxi trong khẩu phần. Tỷ lệ
Ca/P thích hợp ở gà là: 5: 1.
Ngoài các yếu tố ảnh hưởng trên thì phương thức chăn ni khác nhau cũng
cho sản lượng trứng khác nhau. Gà ni chuồng lồng thì sản lượng trứng đạt 223
quả/năm, trong khi đó đối với gà ni nền chỉ đạt 201 trứng/năm, cịn gà ni chăn
thả chỉ đạt 170 trứng/năm
1.1.2.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng trứng


14
* Chỉ số hình thái của trứng
Trứng gia cầm thường có hình oval, hoặc hình e-lip: một đầu lớn và một đầu
nhỏ. Hình dạng trứng thường mang đặc điểm của từng cá thể. Chỉ số hình thái của
trứng có ý nghĩa kinh tế trong vận chuyển, đóng gói. Trứng càng dài càng dễ vỡ.
Chỉ số hình thái có ý nghĩa quan trọng khơng chỉ trong việc đóng gói, vận
chuyển mà còn liên quan đến tỷ lệ ấp nở của trứng gia cầm. Những trứng quá dài
hoặc quá tròn đều cho tỷ lệ ấp nở kém (Nguyễn Quý Khiêm và cs., 1999).
* Chất lượng vỏ trứng
Chất lượng vỏ trứng bị ảnh hưởng bởi một loạt các yếu tố bên trong và bên
ngồi như thời gian đẻ trứng, tuổi, kiểu gen, khí hậu và dinh dưỡng... Tất cả những
yếu tố này được biết đến là ảnh hưởng chất lượng của vỏ trứng và sự tương tác giữa
một số yếu tố này có thể hiệu quả hơn các yếu tố riêng lẻ. Chất lượng vỏ trứng là một
chỉ tiêu quan trọng không chỉ trong vận chuyển, bảo quản và đóng gói mà cịn ảnh
hưởng đến tỷ lệ ấp nở.
Thời gian rụng trứng đóng một vai trò sinh lý quan trọng trong việc xác định

các đặc điểm của vỏ trứng. Thời gian đẻ trứng ở gà đẻ bị giới hạn trong khoảng thời
gian 8 giờ trong ngày từ 7:30 đến 16:00 giờ dưới điều kiện ánh sáng tiêu chuẩn
(Campo và cs., 2007). Thời gian rụng trứng cũng có thể ảnh hưởng đến độ dày vỏ
trứng như một chỉ số quan trọng cho chất lượng vỏ trứng. Yannakopoulos và
cs. (1994) cho rằng chất lượng vỏ trứng đẻ buổi chiều cao hơn so với buổi sáng. Hơn
nữa, chất lượng vỏ trứng có thể bị ảnh hưởng bởi hàm lượng khoáng chất trong vỏ
trứng. Tumova và cs. (2014) cho biết ảnh hưởng của thời gian rụng trứng đối với sự
hình thành khống chất vỏ: hàm lượng Ca cao nhất là 352 g/kg trong trứng đẻ lúc 7
giờ 30 phút so với 342 g/kg của những đẻt lúc 15 giờ 30 phút. Mặt khác, hàm lượng
P và Mg vỏ tăng lên theo thời gian trứng rụng muộn với giá trị lần lượt là 1,20 và
3,56 g/kg. Độ dày của vỏ trứng có liên quan đến chiều dài của trứng và bị ảnh hưởng
nhiều hơn bởi kiểu gen so với khối lượng vỏ trứng.
Hệ thống nhà ở là một trong những các yếu tố bên ngoài ảnh hưởng đến chất
lượng vỏ trứng. Một số nghiên cứu đã được thực hiện để đánh giá hiệu quả của hệ
thống chuồng nuôi về các thông số chất lượng vỏ trứng bao gồm như lồng, chuồng,


15
chất độn chuồng và các hệ thống chăn thả. Số lượng trứng bị nứt ít hơn sản xuất trong
lồng (Kontecka và cs. 2014).
Hàm lượng canxi trong khẩu phần có ảnh hưởng lớn đến chất lượng vỏ trứng.
Tuy nhiên, hàm lượng canxi trong thức ăn khơng thể tăng q cao vì nó cịn phụ thuộc
vào tỷ lệ Ca/P trong khẩu phần. Đối với gà đẻ hàm lượng canxi là 2,75%-3,5% và P:
0,45% - 0,70% là thích hợp. Sự hấp thu canxi trong thức ăn còn chịu tác động của
hàm lượng vitamin D trong khẩu phần.
Thành phần hóa học của trứng
Trứng gia cầm nói chung và trứng gà nói riêng là một loại thực phẩm rất giàu
dinh dưỡng, đặc biệt là lòng đỏ cung cấp khoảng 50% protein. Thành phần dinh
dưỡng của trứng các loại gia cầm khác nhau thì khác nhau. Protein trong trứng thường
là những protein dễ tiêu hóa. Hàm lượng mỡ trong trứng ở dạng nhũ hóa và dễ tiêu

hóa và có chứa hàm lượng acid béo khơng no rất cao, hàm lượng khoáng cao, đặc
biệt là hàm lượng sắt và phospho. Thành phần khống trong trứng có thể thay đổi
thông qua khẩu phần ăn của gia cầm đẻ (Rose, 1997).
1.1.3. Protein trong chăn nuôi gia cầm sinh sản
1.1.3.1. Vai trò của protein đối với gà đẻ
Protein hay còn gọi là chất đạm là chất cần thiết nhất trong mọi sinh vật và thực
vật với vai trò tham gia vào thành phần của nguyên sinh chất trong tế bào sống. Ngồi
cấu trúc cơ thể, protein cịn tham gia vào các nhóm chất có hoạt tính sinh học cao như
enzym, hormone để điều khiển quá trình trao đổi chất và quá trình sống, đồng thời tham
gia vào hệ thống bảo vệ cơ thể như tế bào bạch huyết, kháng thể… Protein cịn đóng vai
trị quan trọng trong sinh sản, tạo tinh trùng và trứng. Protein rất cần thiết cho sinh trưởng,
tăng khả năng sản xuất và sử dụng thức ăn (Panda và cs., 2011).
Protein là một chất dinh dưỡng quan trọng trong thức ăn gia súc và gia cầm và
cùng với các thành phần chính khác như chất béo, carbohydrate, khoáng chất, vitamin
và nước, rất cần thiết cho sự sống (Beski và cs., 2015).
Protein cũng là một thành phần quan trọng của trứng gà và một quả trứng bình
thường chứa khoảng 6,5 đến 7 gram protein. Do đó, protein trong khẩu phần có ảnh
hưởng lớn đến hiệu suất sản xuất của gà đẻ (Rama Rao và cs., 2007). Trên cơ sở khối


16
lượng sống, cơ thể của một gà thịt trưởng thành chiếm hơn 65%protein. Thành phần
của một quả trứng có khoảng 50% protein. Theo dõi trên gà mái đẻ cho thấy: gà đẻ một
quả trứng cần 6,3 - 6,7g protein cho sản xuất và 3,7g protein cho duy trì. Như vậy cần 10g
protein cho một quả trứng.
Gia cầm đẻ cần protein để duy trì hoạt động, sản xuất trứng và tăng khối lượng,
đặc biệt là trong việc hình thành trứng. Khác với nhu cầu về năng lượng, nhu cầu về
protein không thay đổi trong suốt giai đoạn đẻ. Thiếu protein thì gia cầm sẽ huy động
protein của cơ thể để đáp ứng quá trình sản xuất dẫn đến ảnh hưởng đến q trình
hình thành trứng. Kích thước cơ thể, tốc độ tăng trưởng và sản lượng trứng của gia

cầm được xác định bởi di truyền của chúng. Các khác biệt di truyền về nhu cầu axit
amin cũng có thể xảy ra do khác biệt về hiệu quả tiêu hóa, hấp thu chất dưỡng chất
và trao đổi của các dưỡng chất được hấp thu.
Nhu cầu protein và axit amin thay đổi đáng kể tùy theo trình trạng sản xuất
của gia cầm, đó là tốc độ tăng khối lượng hoặc sản lượng trứng. Tỷ lệ một số axit
amin của gà mái đẻ là: 0,75 - 0,85 % đối với lyzin; 0,38 - 0,4% đối với methionin;
0,95% đối với arginin; 1,2% đối với leucin; 0,75% đối với isoleucin; 0,22% đối với
histidin; 0,50% đối với threonin; 0,55% đối với valin; 0,50% đối với threonin; 0,4%
đối với phenylalanin. Đối với các loại axit amin thay thế cơ thể gia cầm có thể tự tổng
hợp được từ sản phẩm trung gian trong quá trình trao đổi axit amin, axit béo và từ
hợp chất chứa nhóm amino.
1.1.3.2. Ảnh hưởng của protein đến khả năng sinh sản của gà
Sử dụng thức ăn để cung cấp protein thực chất là cung cấp axit amin cho cơ
thể theo nhu cầu duy trì và thay thế những tế bào thối hóa, nhu cầu cho sự tăng
trưởng, sự sinh sản, đẻ trứng. Đối với gia cầm, trong số các axit amin thiết yếu có
một số axit amin giới hạn thường chứa ít trong nguyên liệu như methionin, lysin,
tryptophan, threonin, arginin... thường được bổ sung vào thức ăn vừa đủ (khoảng 0,1
- 0,2%) để thay thế cho các đạm động vật và đạm thực vật để giảm giá thành sản xuất
thịt và trứng mà vẫn đảm bảo sự phát triển của gia cầm.
Mức protein thơ (CP) có ảnh hưởng đáng kể đến năng suất và chất lượng trứng
(Li và cs., 2013). Sản lượng trứng và khối lượng trứng tăng lên đáng kể với mức
protein thô (CP) 16 và 18% so với mức thấp 14,3% (McDonald, 1979). Saxena và


×