Tải bản đầy đủ (.doc) (65 trang)

chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi để phát triển nông nghiệp hàng hóa ở thái bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (373.78 KB, 65 trang )

Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nông nghiệp là một ngành kinh tế quan trọng trong quá trình phát triển
của mỗi Quốc gia. Nớc ta đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nớc nông nghiệp lạc
hậu, gần 80% dân số ở nông thôn. Vì vậy, phát triển nông nghiệp - nông thôn
là vấn đề có tầm chiến lợc quan trọng cả về kinh tế, chính trị, xã hội và môi tr-
ờng sinh thái.
Sau hai mơi năm thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xớng và
lãnh đạo, đất nớc ta đạt đợc nhiều thành tựu to lớn có ý nghĩa rất quan trọng,
đa đất nớc thoát khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội; nền kinh tế liên tục phát
triển, đạt đợc mức tăng trởng cao, đời sống nhân dân đợc cải thiện. Trong sự
chuyển biến tích cực chung đó, có sự chuyển biến rõ nét của nông nghiệp và
nông thôn; từ chỗ thiếu lơng thực phải nhập khẩu, đến nay nớc ta đảm bảo đợc an
toàn, an ninh lơng thực, sản phẩm nông nghiệp ngày càng đa dạng và phong phú,
đáp ứng yêu cầu tiêu dùng của xã hội và xuất khẩu
Tuy nhiên trong nông nghiệp - nông thôn nớc ta hiện nay vẫn còn nhiều vấn
đề tồn tại cần phải đợc giải quyết. Đó là sản xuất nông nghiệp vẫn còn phân tán,
cơ cấu kinh tế nông nghiêp và nông thôn chuyển dịch chậm, cha theo sát với thị
trờng. Một bộ phận nông dân đời sống còn gặp nhiều khó khăn.
Là một tỉnh đồng bằng Bắc Bộ, Thái Bình có nhiều tiềm năng, lợi thế để
phát triển sản xuất nông nghiệp cả trồng trọt, chăn nuôi, và hải sản Song sản
xuất nông nghiệp của tỉnh Thái Bình vẫn còn mang nặng tính tự cấp, tự túc,
chế độ canh tác lạc hậu, nhỏ lẻ, manh mún, cha chuyển mạnh sang sản xuất
hàng hóa gắn với thị trờng. Thu nhập từ sản xuất nông nghiệp còn thấp, đời
sống của ngời nông dân còn gặp nhiều khó khăn.
Cùng với công cuộc đổi mới chung của cả nớc, cơ cấu kinh tế nông
nghiệp tỉnh Thái Bình có những bớc phát triển nhất định, đã xây dựng đợc
nhiều vùng chuyên canh, cây cảnh, cây dợc liệu, khai thác mặt nớc để nuô
1
itrồng thủy, hải sản. Sự chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi gắn liền với thị
trờng đã mang lại hiệu quả kinh tế đáng kể. Tuy nhiên, cha tạo đợc sự cân đối


giữa trồng trọt và chăn nuôi, sự chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi còn
mang tính tự phát, đôi khi gây ra lãng phí lao động, lãng phí vốn. Từ đó đặt ra
yêu cầu bức thiết phải tìm phơng hớng đúng và giải pháp khả thi để tiếp tục
chuyển đổi cơ cấu cây trồng,vật nuôi mạnh mẽ hơn.
Vì lý do trên, "Chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi để phát triển nông
nghiệp hàng hóa ở Thái Bình" đợc chọn làm đề tài luận văn thạc sĩ này.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Cho đến nay đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu vấn đề này dới
nhiều góc độ khác nhau, đợc công bố dới dạng chuyên đề, luận văn thạc sĩ,
luận án tiến sĩ, các kỷ yếu đề tài cấp bộ, các bài viết đăng trên các báo, Tạp
chí ví dụ nh :
- Lê Quốc Sử (chủ biên) - Chuyển dịch cơ cấu và xu hớng phát triển của
kinh tế nông nghiệp Việt Nam theo hớng công nghiệp hóa, hiện đại hóa từ thế kỷ
XX đến thế kỷ XXI trong thời đại kinh tế tri thức" NXB Thống kê - 2001.
- Luận án Tiến sĩ - Nguyễn Đăng Bằng - Chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông thôn Bắc Trung Bộ theo hớng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - 2001.
- Luận án Tiến sĩ - Phạm Ngọc Dũng - Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế
ngành nông nghiệp ở vùng lãnh thổ đồng bằng Sông Hồng - thực trạng và giải
pháp - Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - 2002.
- Luận văn thạc sĩ - Phí Ngọc Tiếp - Một số vấn đề trong việc chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hớng công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở n-
ớc ta hiện nay - Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - 1995.
- Nhâm Gia Quân - chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Thái Bình - Tạp chí
Cộng sản, 2002.
2
- Nguyễn Sinh Cúc - chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn
sau 2 năm thực hiện nghị quyết TW5- Con số và sự kiện số 6-2004.
- Cùng một số bài viết của các tác giả. PGS. TS Nguyễn Đình Kháng,
PGS. TS Vũ Văn Phúc, Tạ Đình Thi, Nguyễn Quang Thái.

Các công trình nghiên cứu nêu trên đã đi sâu phân tích những đặc điểm,
vai trò, thực trạng, tính chất của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đề xuất
những giải pháp chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nớc ta. Song, có thể nói cho đến
nay cha có công trình khoa học nào đi sâu nghiên cứu một cách có hệ thống
về quá trình chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi để phát triển nông nghiệp
hàng hóa ở Thái Bình.
Vì vậy, trên cơ sở kế thừa có chọn lọc các kết quả nghiên cứu đã đợc
công bố, luận văn này góp phần làm sáng tỏ hơn quá trình chuyển đổi cơ cấu
cây trồng, vật nuôi để phát triển nông nghiệp hàng hóa ở Thái Bình.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích:
Từ nghiên cứu lý luận về sự biến đổi cơ cấu kinh tế ngành trong nông
nghiệp h ng hóa khảo sát thực trạng biến đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi ở tỉnh
Thái Bình, để đề xuất phơng hớng và các giải pháp đẩy mạnh chuyển đổi cơ
cấu cây trồng vật nuôi nhằm phát triển nông nghiệp hàng hóa của tỉnh.
* Nhiệm vụ của luận văn:
Một là, phân tích lý luận về chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi trong
nông nghiệp
Hai là, khảo sát thực trạng biến đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi trong nông
nghiệp của tỉnh Thái Bình, đánh giá những điểm tích cực, những điểm hạn chế
của cơ cấu cây trồng, vật nuôi hiện nay.
Ba là, đề xuất phơng hớng và giải pháp thúc đẩy chuyển đổi cơ cấu cây
trồng, vật nuôi trong nông nghiệp của tỉnh thời gian tới.
3
4. Cơ sở lý luận và phơng pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận:
Luận văn vận dụng những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, t tởng
Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về phát triển nông
nghiệp vào tình hình cụ thể của tỉnh Thái Bình.
* Phơng pháp nghiên cứu:

Luận văn sử dụng các phơng pháp của khoa học kinh tế chính trị Mác-
Lênin, đặc biệt coi trọng phơng pháp gắn lý luận với thực tiễn, phân tích tổng
hợp, thống kê, điều tra, so sánh.
5. Đối tợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tợng nghiên cứu là sự chuyển đổi cơ cấu cây, con chủ yếu trong sản
xuất nông nghiệp của tỉnh Thái Bình (từ năm 2000 đến nay).
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn.
Phân tích những xu hớng khách quan của sự chuyển đổi cơ cấu cây trồng,
vật nuôi trong quá trình phát triển nông nghiệp hàng hóa.
- Đánh giá đúng thực trạng chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi để phát
triển nông nghiệp hàng hóa ở tỉnh Thái Bình, trên cơ sở đó đề xuất những giải
pháp có tính khả thi nhằm phát huy những lợi thế, tiềm năng của nông nghiệp
trong tỉnh.
- Luận văn góp phần luận giải cơ sở khoa học về phát triển nông nghiệp
hàng hóa, có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc hoạch định chính sách
và chỉ đạo thực hiện chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi để phát triển nông
nghiệp hàng hóa ở tỉnh Thái Bình hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chơng 6 tiết.
4
Chơng 1
Nông nghiệp hàng hóa và sự biến đổi cơ cấu
cây trồng, vật nuôi trong quá trình phát triển
nông nghiệp hàng hóa
1.1. Đặc điểm và tính u việt của nông nghiệp hàng hóa
1.1.1. Đặc điểm của nông nghiệp hàng hóa
Nền kinh tế nông nghiệp mang tính chất tự cung tự cấp do những đơn vị
kinh tế thuần nhất hợp thành, mỗi đơn vị ấy làm đủ mọi công việc kinh tế, từ
trồng trọt, chăn nuôi đến tự chế biến những nguyên liệu thành sản phẩm tiêu

dùng. V.I.Lênin đã chỉ rõ:
Nhân khẩu của một nớc mà kinh tế hàng hóa ít phát triển (hoặc
hoàn toàn không phát triển) thì hầu nh hoàn toàn chỉ là nhân khẩu
nông nghiệp; tuy nhiên điều đó không có nghĩa là dân c chỉ chuyên
làm nghề nông, mà chỉ có nghĩa là dân c làm nghề nông đã tự mình
chế biến lấy nông sản, là trong dân c đó sự trao đổi và sự phân công
hầu nh không có [15, tr.25].
Trong nền nông nghiệp ấy những ngời nông dân phải sống hoàn toàn
biệt lập với thế giới bên ngoài làng xóm của mình. Sản xuất nông nghiệp gắn
với chế độ kinh tế dựa trên lao dịch và kinh tế nông dân gia trởng, đều dựa
trên cơ sở kỹ thuật thủ cựu, lạc hậu, năng suất lao động rất thấp.
Dần dần năng suất lao động tăng lên, xuất hiện sản phẩm thừa và do
những điều kiện tự nhiên, truyền thống sản xuất khác nhau dẫn tới cần trao
đổi những sản phẩm thừa với nhau. Trao đổi tác động trở lại sản xuất, thúc đẩy
phân công xã hội và chuyên môn hóa lao động. Do phân công xã hội phát
triển, mỗi ngời lao động chỉ chuyên sản xuất một hoặc vài loại sản phẩm và
cung cấp loại sản phẩm đó ra thị trờng, đồng thời họ có nhu cầu về những loại
5
sản phẩm khác, gồm cả nhu cầu về những t liệu sản xuất, nên thúc đẩy lu
thông hàng hóa phát triển và mở rộng thị trờng. V.I.Lênin đã nhấn mạnh:
Khái niệm thị trờng hoàn toàn không thể tách rời khái niệm
phân công lao động xã hội, sự phân công này là cơ sở chung của mọi
nền sản xuất hàng hóa. Một động tác đặc biệt nào đó trong quá trình
lao động, hôm qua còn là một trong rất nhiều chức năng của cùng một
ngời sản xuất hàng hóa, thì có thể hôm nay đã tách ra khỏi quá trình đó,
đứng riêng ra, và chính nhờ vậy mà đem đợc cái sản phẩm bộ phận của
nó ra thị trờng làm một hàng hóa độc lập [14, tr. 114-115].
Nh vậy, sự phân công xã hội tách nền sản xuất nói chung, nông nghiệp
nói riêng, thành những ngành riêng biệt, mỗi ngành đó lại chia thành nhiều
ngành nhỏ và phân ngành nhỏ; chúng sản xuất ra, dới hình thức hàng hóa,

những sản phẩm riêng và đem trao đổi với nhau. Phân công lao động xã hội
càng sâu rộng thì sự phân chia ngành nghề càng chi tiết. Xu hớng của sự phát
triển này là nhằm biến việc sản xuất không những từng sản phẩm riêng, mà cả
việc sản xuất từng bộ phận riêng của sản phẩm, thậm chí cả từng thao tác
trong việc chế biến sản phẩm, thành một ngành riêng biệt.
Từ những điểm trên đây có thể rút ra đặc điểm cơ bản của kinh tế hàng
hóa nói chung và nông nghiệp hàng hóa nói riêng là:
Thứ nhất, hình thành những đơn vị kinh tế không thuần nhất, số lợng
những đơn vị kinh tế thực hiện một chức năng kinh tế giống nhau giảm xuống,
số lợng những ngành kinh tế riêng biệt tăng lên.
Công nghiệp tách ra khỏi nông nghiệp, sản xuất và trao đổi hàng hóa
trở thành phổ biến, các ngành kinh tế mới trong nội bộ nông nghiệp mới có
điều kiện phát triển mạnh. Kinh tế hàng hóa phát triển mạnh, thị trờng từng b-
ớc đợc mở rộng đa đến chỗ ngày càng tăng thêm những ngành công nghiệp
riêng biệt tách khỏi nông nghiệp. Xu hớng phát triển này không những biến
việc sản xuất mang tính chuyên biệt tạo ra từng sản phẩm riêng, mà còn sản
6
xuất từng bộ phận riêng của sản phẩm, thậm chí cả từng thao tác trong việc
chế biến sản phẩm thành một ngành công nghiệp hoặc dịch vụ riêng. Quá
trình này cũng diễn ra trong nội bộ ngành nông nghiệp làm nảy sinh những
khu vực nông nghiệp chuyên môn hóa, dẫn đến không những diễn ra sự trao
đổi sản phẩm nông nghiệp lấy sản phẩm công nghiệp mà còn cả trao đổi giữa
các sản phẩm nông nghiệp với nhau nữa.
Thứ hai, sự phân công xã hội ngày càng phát triển, nên lu thông hàng
hóa cũng không ngừng phát triển dẫn đến sự ra đời của thơng nghiệp. Lúc đầu
thơng nghiệp chỉ đón lấy sản phẩm thừa ra, về sau nó tác động vào nền sản
xuất, hớng sản xuất vốn nhằm vào nhu cầu tiêu dùng trực tiếp chuyển sang sản
xuất nhằm vào thị trờng và từng bớc sát nhập lu thông thành một khâu của quá
trình tái sản xuất và thị trờng ngày càng mở rộng. Sự phát triển của sản xuất
hàng hóa sẽ chấm dứt tình trạng phân tán của những đơn vị kinh tế nhỏ (trong

kinh tế tự nhiên) và sẽ tập hợp các thị trờng nhỏ địa phơng thành một thị trờng
lớn trong toàn quốc và sau đó trên toàn thế giới.
Theo tiến độ đó xu hớng phát triển tất yếu của sản xuất xã hội là kinh tế
tự nhiên sẽ chuyển thành kinh tế hàng hóa, các ngành kinh tế chuyên môn hóa
gắn bó mật thiết với nhau hơn.
Kinh tế hàng hóa là kiểu tổ chức kinh tế dựa trên cơ sở phân công xã
hội, trong đó sản phẩm đợc làm ra nhằm để trao đổi, hay để bán trên thị trờng.
Hễ ở đâu và khi nào có phân công xã hội và sản xuất hàng hóa thì ở đó và khi
ấy có thị trờng. Quy mô của thị trờng phù hợp với trình độ chuyên môn hóa
của lao động xã hội. Nhng không phải hễ có thị trờng là có kinh tế thị trờng.
Kinh tế thị trờng là trình độ phát triển cao của kinh tế hàng hóa, trong đó toàn
bộ hoặc tuyệt đại bộ phận các yếu tố "đầu vào" và "đầu ra" của sản xuất đều
thông qua thị trờng. So sánh ngời Phéc-mi-ê t bản chủ nghĩa và ngời tiểu
nông. Ngời Phéc-mi-ê bán toàn bộ sản phẩm của mình, và vì vậy trên thị trờng
phải hoàn lại tất cả các yếu tố sản xuất của anh ta, cho đến cả hạt giống nữa;
7
còn ngời tiểu nông thì tiêu dùng trực tiếp đại bộ phận sản phẩm của mình, anh
ta mua và bán càng ít càng tốt, và trong chừng mực có thể anh ta còn tự chế
tạo lấy công cụ lao động, quần áo v.v [17, tr.176].
Kinh tế hàng hóa thúc đẩy việc tích tụ, tập trung sản xuất, mở rộng quy
mô sản xuất. Thúc đẩy việc không ngừng cải tiến kỹ thuật, đổi mới công nghệ,
đổi mới tổ chức sản xuất để vừa nâng cao năng suất, chất lợng sản phẩm; vừa
giảm chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm. Sản xuất hàng hóa đòi hỏi phải
áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ vào sản xuất, làm cho
năng suất lao động cá nhân và xã hội tăng dần, cải tạo phơng pháp, tập quán
sản xuất, làm cho sản phẩm làm ra đợc dồi dào, phong phú và đa dạng. Tiến
bộ kỹ thuật áp dụng vào sản xuất sẽ thúc đẩy phân công lao động xã hội, phát
triển ngành nghề, chuyên môn sản xuất từ đó thúc đẩy việc trao đổi hàng
hóa, mở rộng thị trờng.
Kinh tế hàng hóa phát huy tính năng động, sáng tạo của mỗi ngời lao

động, mỗi đơn vị kinh tế; tạo điều kiện cho sự phát triển tự do, toàn diện của
cá nhân; tạo ra cơ chế phân bổ và sử dụng các nguồn lực của xã hội. Kinh tế
hàng hóa phát triển sẽ thúc đẩy và mở rộng việc giao lu kinh tế, văn hóa giữa
các địa phơng trong cả nớc và các quốc gia trên thế giới trên cơ sở tôn trọng,
hợp tác lẫn nhau và cùng phát triển.
1.1.2. Tính u việt của nông nghiệp hàng hóa
Nông nghiệp hàng hóa (và kinh tế hàng hóa nói chung) có những u
điểm sau:
Một là, thúc đẩy lực lợng sản xuất phát triển nhanh, không ngừng tăng
năng suất lao động. Nền nông nghiệp tự nhiên chỉ hớng vào giá trị sử dụng
nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trực tiếp của chính ngời sản xuất, không có
trao đổi sản phẩm, nên thiếu động lực kích thích lực lợng sản xuất phát triển.
Trái lại, trong kinh tế hàng hóa, muốn bán đợc sản phẩm trên thị trờng ngời
sản xuất phải quan tâm đến nhu cầu và thị hiếu của ngời mua, phải ra sức ứng
8
dụng kỹ thuật mới để nâng cao chất lợng và hạ giá thành sản phẩm, nâng cao
sức cạnh tranh của hàng hóa của mình nhằm thu đợc lợi nhuận siêu ngạch và
đứng vững trên thị trờng, do đó mà năng suất lao động không ngừng tăng lên,
quy mô sản xuất và lu thông hàng hóa ngày càng mở rộng. So sánh kinh tế tự
nhiên với kinh tế hàng hóa t bản chủ nghĩa V.I.Lênin đã chỉ rõ:
Quy luật của những phơng thức sản xuất trớc chủ nghĩa t bản là
tái diễn quá trình sản xuất theo một quy mô nh cũ, trên một cơ sở kỹ
thuật nh cũ; kinh tế diêu dịch của địa chủ, kinh tế tự nhiên của nông
dân, sản xuất thủ công của những ngời làm công nghiệp đều nh thế
cả. Trái lại, quy luật của sản xuất t bản chủ nghĩa là không ngừng
cải tạo phơng thức sản xuất và mở rộng vô hạn độ quy mô sản xuất.
Với những phơng thức sản xuất cũ thì các đơn vị kinh tế có thể tồn
tại hàng thế kỷ mà không hề thay đổi tính chất và phạm vi, không
hề vợt ra ngoài giới hạn của lãnh địa địa chủ, của xóm làng hay của
cái chợ lân cận nhỏ bé dành cho những thợ thủ công nông thôn và

những ngời tiểu chủ (gọi là thợ thủ công làm ở nhà). Trái lại, xí
nghiệp t bản chủ nghĩa thì tất nhiên là vợt ra ngoài giới hạn của làng
xã, của cái chợ địa phơng, của từng vùng rồi vợt ra ngoài cả giới hạn
quốc gia nữa [15, tr. 62 - 63].
Nông nghiệp hàng hóa phát triển tất yếu sẽ ra đời các trang trại lớn, các
vùng chuyên canh sản xuất những khối lợng nông sản hàng hóa lớn, không
những đáp ứng nhu cầu của thị trờng trong nớc mà còn tăng xuất khẩu.
Hai là, nông nghiệp hàng hóa đẩy mạnh quá trình xã hội hóa lực lợng
sản xuất. Lao động sản xuất hàng hóa mang tính chất hai mặt: lao động cụ thể
và lao động trừu tợng. Lao động cụ thể mang tính chất t nhân, vì chọn nghề gì,
sản xuất mặt hàng gì là quyền của mỗi ngời lao động, của mỗi đơn vị kinh tế.
Nhng mỗi lao động cụ thể, t nhân đó lại là một bộ phận của lao động xã hội
mà sản phẩm là hàng hóa nhằm đáp ứng nhu cầu của ngời khác, chứ không
9
phải đáp ứng nhu cầu của bản thân ngời sản xuất, tức là đáp ứng nhu cầu xã
hội. Sản xuất hàng hóa lôi cuốn những ngời sản xuất riêng lẻ hay những đơn vị
sản xuất tự chủ, độc lập vào một hệ thống phân công xã hội. Chỉ khi bán đợc
hàng hóa thì lao động t nhân, độc lập mới đợc xã hội thừa nhận, và mâu thuẫn
giữa lao động t nhân với lao động xã hội mới đợc giải quyết, sản xuất và lu
thông hàng hóa mới diễn ra trôi chảy.
Tính chất xã hội hóa lao động trong nông nghiệp hàng hóa thể hiện ở
chỗ: 1) sản xuất cho mình biến thành sản xuất cho xã hội; 2) thay vào tình
trạng phân tán, manh mún trớc kia, đã hình thành sự tập trung sản xuất cha
từng thấy, cả trong nông nghiệp và trong công nghiệp; 3) Diễn ra tình trạng lu
động dân c, chuyển bớt lao động từ trồng cây lơng thực sang trồng các cây
khác hay sang chăn nuôi, rút bớt lao động trực tiếp làm nông nghiệp sang làm
công nghiệp chế biến hay dịch vụ; 4) làm thay đổi bộ mặt tinh thần của dân c
nông thôn, thay đổi ngay cả tính chất của những ngời sản xuất.
Ba là, nông nghiệp hàng hóa thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung sản
xuất, thúc đẩy mở rộng thị trờng hàng tiêu dùng, thị trờng lao động và thị tr-

ờng t liệu sản xuất. Những ngời làm ăn giỏi sẽ thu đợc nhiều lợi nhuận cho
phép tích tụ vốn, mở rộng quy mô kinh tế hộ gia đình thành kinh tế trang trại
chuyên doanh hoặc kinh doanh tổng hợp.
Đồng thời quá trình cạnh tranh dẫn đến tập trung sản xuất, những đơn
vị đạt hiệu quả kinh tế cao sẽ tăng quy mô ngày càng lớn, loại bỏ những đơn
vị yếu kém, những đơn vị này sẽ bị phá sản, bị những doanh nghiệp thắng
cuộc thôn tính hoặc phải liên hiệp với nhau thành những doanh nghiệp lớn để
tồn tại và đứng vững trên thị trờng. Những ngời bị phá sản sẽ trở thành ngời
làm thuê, thành ngời bán sức lao động, tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế
t bản chủ nghĩa trong nông nghiệp. Điều quan trọng đối với kinh tế hàng hóa
không phải là mức sinh hoạt của ngời sản xuất mà là khoản thu nhập bằng tiền
của họ. Ngời làm thuê trong nông nghiệp có thể có mức sống thấp hơn trớc
10
đây nhng lại phải dùng tiền công mua t liệu sinh hoạt nhiều hơn trớc, nên lại
làm cho thị trờng mở rộng hơn. Mặt khác, những ngời giàu lên, không những
tiêu dùng nhiều hơn mà còn phải thuê nhiều công nhân và mua nhiều t liệu
sản xuất hơn, nên mở rộng cả thị trờng hàng tiêu dùng, cả thị trờng lao động
và thị trờng t liệu sản xuất.
Khi kinh tế thị trờng phát triển, cạnh tranh gay gắt, thì những đơn vị kinh tế
quy mô nhỏ, canh tác trên những mảnh đất nhỏ sẽ bị làm vào tình trạng suy đồi.
Các xí nghiệp chế biến nông sản đòi hỏi khối lợng nguyên liệu lớn với chất lợng
theo những tiêu chuẩn nhất định và gạt ra khỏi thị trờng những ngời sản xuất nhỏ
không đảm bảo đợc những tiêu chuẩn trên, đồng thời ngời ta quy định giá nông
sản theo chất lợng của nó. Khi nói về các kho chứa ngũ cốc thúc đẩy mạnh mẽ
việc sản xuất lúa mì hàng hóa và đẩy nhanh sự phát triển kỹ thuật của nó bằng
cách cũng quy định giá cả theo chất lợng, V.I.Lênin viết:
Những chế độ đó đánh vào ngời sản xuất nhỏ hai vố một lúc.
Một là, những cơ quan đó quy định tiêu chuẩn, công nhận chất lợng
tốt của lúa mì của những nhà sản xuất lớn và do đó làm cho lúa mì
chất lợng kém của nông dân nghèo hoàn toàn bị giảm giá. Hai là, bằng

cách tổ chức theo kiểu công nghiệp lớn TBCN việc phân loại và cất chứa
ngũ cốc, các chế độ đó giảm bớt chi phí của ngời sản xuất lớn về ngũ
cốc, làm cho ngời sản xuất lớn bán lúa mì của họ đợc dễ dàng và đơn
giản, và do đó làm cho ngời sản xuất nhỏ với lối bán lúa mì từng bao,
theo lối gia trởng và thô sơ trên thị trờng, phải hoàn toàn chịu lệ thuộc
vào bọn cụ lắc và bọn cho vay nặng lãi [15, tr.330].
1.2. Sự biến đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi trong quá
trình phát triển nông nghiệp hàng hóa
1.2.1 Cơ cấu ngành kinh tế
Phân công xã hội dẫn đến phân chia nền sản xuất xã hội thành những
ngành lớn nh nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ, mỗi ngành lớn lại chia
11
thành những phân ngành, và mỗi phân ngành lại chia thành những ngành nhỏ
hơn. Sản phẩm của các ngành đã đợc phân chia ra nh vậy đợc trao đổi lẫn cho
nhau, không những trao đổi sản phẩm nông nghiệp lấy sản phẩm công nghiệp
mà còn trao đổi các sản phẩm nông nghiệp với nhau nên thị trờng ngày càng
mở rộng. V.I.Lênin đã nhấn mạnh: "Giới hạn phát triển của thị trờng trong xã
hội t bản chủ nghĩa là do giới hạn chuyên môn hóa lao động xã hội quyết
định. Mà sự chuyên môn hóa đó, xét về bản chất của nó là vô cùng tận, cũng
nh sự tiến bộ kỹ thuật vậy" [14, tr.115].
Giữa các ngành nói trên có mối quan hệ với nhau hình thành cơ cấu
ngành kinh tế. Một nền kinh tế lành mạnh, có nhịp độ tăng trởng ổn định, phải
có một cơ cấu phù hợp. Đó là cơ cấu đảm bảo đợc sự hài hòa giữa các yếu tố
(bộ phận) thành một hệ thống. Mối quan hệ giữa các bộ phận với hệ thống đợc
đo lờng bằng tỷ trọng của mỗi bộ phận đó trong từng phân ngành, trong từng
ngành hay trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Trong nội bộ ngành nông
nghiệp gồm có trồng trọt và chăn nuôi, trong trồng trọt lại có trồng cây lơng
thực, trồng cây công nghiệp, trồng cây ăn quả, trồng rau, trồng hoa, trồng
cỏ Trong trồng cây l ơng thực có trồng lúa, trồng màu, trong trồng màu lại
gồm khoai, ngô, sắn Trong ngành chăn nuôi cũng phân chia thành chăn

nuôi gia cầm, chăn nuôi gia súc, nuôi thủy sản v.v Chăn nuôi gia súc gồm
nuôi trâu, nuôi bò, nuôi cừu, nuôi dê Nuôi bò lại có nuôi bò lấy sữa, nuôi bò
lấy thịt
Để hiểu rõ cơ cấu ngành kinh tế nói chung và cơ cấu ngành trong kinh
tế nông nghiệp nói riêng ngời ta sử dụng nhiều chỉ tiêu đo lờng khác nhau, nh
cơ cấu diện tích các loại cây trồng; cơ cấu về hiện vật và giá trị sản phẩm chủ
yếu; cơ cấu lợi nhuận và thu nhập, cơ cấu lao động v.v
* Cơ cấu cây trồng, vật nuôi:
Cơ cấu cây trồng, vật nuôi là thành phần các giống và loài cây, con đợc
bố trí theo không gian và thời gian trong một hệ sinh thái nông nghiệp nhằm
tận dụng hợp lý các nguồn lợi về tự nhiên, kinh tế xã hội sẵn có của vùng. Cơ
12
cấu cây trồng vật nuôi là bộ phận chủ yếu của cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nó
còn là một nội dung chủ yếu của hệ thống canh tác nông nghiệp. Cơ cấu cây
trồng còn đợc hình thành từ nhiều nhóm cây khác nhau nh: Nhóm cây lơng
thực (lúa, hoa màu), cây nông nghiệp ngắn ngày (khoai, lạc, mía, đậu) và cây
công nghiệp dài ngày (cao su, điều ). Cơ cấu con vật nuôi đ ợc hình thành từ
nhiều nhóm con khác nhau nh: Đại gia súc (trâu, bò, ngựa), gia súc (lợn, dê),
gia cầm, thủy cầm (gà, vịt, ngan, ngỗng) và con đặc sản (tôm, cua, ốc, ếch, ba
ba )
Định nghĩa chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi tập trung vào chuyển
đổi từ cây trồng có giá trị kinh tế thấp sang cây có giá trị cao hơn, sang chăn
nuôi, nuôi trồng thủy sản. mặc dù cây có giá trị thấp đôi khi đợc xác định
bằng giá trị của nó trên một đơn vị trọng lợng tuy nhiên hợp lý hơn cả có thể
xác định đó là những cây trồng mang lại lợi ích kinh tế trên một đơn vị ruộng
đất hay lao động cao.
Nh vậy, có thể hiểu: Chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi là chuyển từ
trạng thái cây trồng, vật nuôi cũ sang trạng thái cây trồng, vật nuôi mới để
nâng cao năng suất lao động và hiệu quả kinh tế, phát triển những cây trồng,
vật nuôi có triển vọng về thị trờng, có giá trị gia tăng cao.

Việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi phải gắn liền với thị trờng
tiêu thụ và chế biến. Chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi cũng đợc hiểu là
sự thay đổi mối quan hệ số lợng vật nuôi, sự thay đổi về diện tích, phần trăm
tỷ trọng trong cơ cấu, sự thay đổi về giá trị sản xuất và giá trị gia tăng của toàn
ngành dới sự tác động của điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội, môi trờng và
con ngời.
1.2.2. Xu hớng chủ yếu trong chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
nông nghiệp
Sự phát triển mạnh mẽ của lực lợng sản xuất đã thúc đẩy quá trình biến
đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp - công nghiệp - dịch vụ. Sự tăng năng suất lao
13
động trớc hết là nông nghiệp đã tạo tiền đề vật chất cho chuyển dịch nông
nghiệp thuần nông tự cấp tự túc, năng suất lao động thấp sang nền nông
nghiệp năng suất cao. Nó có vai trò quyết định đối với việc thúc đẩy quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp. Thực chất của nó là phát triển nông
nghiệp từ chiều rộng, hiệu quả thấp sang phát triển sản xuất nông nghiệp theo
chiều sâu, hiệu quả cao. Sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong nông
nghiệp diễn ra tùy tình hình cụ thể của từng vùng, từng nớc, nhng theo đà phát
triển của nông nghiệp hàng hóa, xu hớng chủ yếu nói chung trong chuyển
dịch cơ cấu ngành kinh tế diễn ra nh sau:
Thứ nhất, là tỷ trọng lao động và giá trị sản lợng nông nghiệp ngày càng
giảm, lao động nông nghiệp đợc rút bớt để chuyển sang công nghiệp và dịch vụ.
Cơ cấu ngành nông nghiệp biến đổi phải nằm trong xu hớng phát triển
kinh tế nông thôn tổng hợp bao gồm cả công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ.
Phân công lao động ở nông thôn diễn ra theo hớng giảm lao động trồng
lúa chuyển sang trồng các cây khác và phát triển chăn nuôi, mở rộng ngành
nghề tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ, với sự chuyển dịch lao động ra thành thị
phục vụ cho nhu cầu phát triển công nghiệp, thơng nghiệp và các ngành dịch vụ
khác.
Nếu nông nghiệp không gắn với công nghiệp chế biến và dịch vụ sẽ

kém hiệu quả. Thâm canh tăng vụ, tăng năng suất cây trồng, vật nuôi dẫn
đến tăng sản lợng mà không có công nghiệp chế biến và dịch vụ tiêu thụ
hàng hóa thì dẫn đến thua lỗ, hàng nông sản ế thừa, h hỏng. Phải kết hợp
liên hoàn giữa các khâu từ sản xuất, chế biến, bảo quản và tiêu thụ ( trên cả
thị trờng trong nớc và thị trờng ngoài nớc ) để giảm tỷ lệ hao hụt, tăng
doanh thu, tăng lợi nhuận.
Các dịch vụ ở nông thôn nh khâu tới tiêu, khâu làm đất, khâu cung ứng
vốn, cung cấp đầu vào và tiêu thụ đầu ra cho nông nghiệp, các dịch vụ cho
sinh hoạt nh cung cấp hàng tiêu dùng; cũng là nhân tố thúc đẩy chuyển dịch
14
ngành nông nghiệp hợp lý. Sự biến đổi cơ cấu ngành công - nông nghiệp -
dịch vụ là xu hớng tất yếu của phân công lao động xã hội, dẫn đến tăng năng
suất lao động nông nghiệp, tạo điều kiện rút bớt lao động khỏi lĩnh vực nông
nghiệp chuyển sang công nghiệp và dịch vụ. Đây là một vấn đề cấp thiết và
nan giải nhất của nớc ta hiện nay. Theo chiến lợc phát triển kinh tế 2001
2010 thì đến năm 2010 tỷ lệ lao động nông nghiệp ở nớc ta phải giảm xuống
còn 50% tổng số lao động của cả nớc. Song đạt đợc chỉ tiêu này rất khó. Từ
năm 1996 2000 tỷ trọng lao động nông nghiệp chỉ giảm đợc 3% (từ 71,2%
xuống còn 68,2%), nên trong 10 năm khó có thể giảm đợc 18,2%. Điều khó
khăn là phần lớn lao động nông nghiệp nớc ta là lao động giản đơn, trong khi
lao động công nghiệp và dịch vụ lại đòi hỏi lao động có nghề.
Thứ hai, tỷ trọng giá trị sản phẩm trồng trọt giảm xuống và tỷ trọng giá
trị sản phẩm chăn nuôi tăng lên.
Tình trạng độc canh là đặc trng của nền sản xuất nhỏ, tự cấp, tự túc.
Chuyển nền nông nghiệp độc canh sang đa canh, phát triển toàn diện phù hợp
với hệ sinh thái, liên kết, bổ sung cho nhau sẽ tạo ra đợc một nền nông nghiệp
hàng hóa phát triển bền vững. Việc hình thành một cơ cấu ngành nông nghiệp
hợp lý cho phép khai thác tốt nhất các nguồn lực tạo ra sức bật mới trong nông
thôn. Xu hớng chung là phải phát triển cả nông nghiệp (theo nghĩa hẹp), lâm
nghiệp, ng nghiệp; phải phát triển cả trồng trọt và chăn nuôi, đa chăn nuôi trở

thành một ngành sản xuất chính. Sản xuất thức ăn gia súc, chăn nuôi phát triển
nhanh hơn và tỷ trọng của nó lớn dần lên và đến mức lớn hơn tỷ trọng trồng
trọt để đáp ứng nhu cầu ăn ngày càng ngon và đủ dinh dỡng của con ngời và
cũng tơng ứng với nhu cầu ngày càng cao của ngành chăn nuôi về kỹ thuật và
vốn đầu t.
ứng dụng công nghệ sinh học lựa chọn một cơ cấu cây trồng, vật nuôi,
đa dạng, thích hợp với điều kiện thổ nhỡng, khí hậu, thời tiết của từng vùng
nhằm đạt đợc một năng suất, hiệu quả cao nhất trên một đơn vị diện tích.
15
Thứ ba, tỷ trọng giá trị sản lợng lơng thực giảm (nhng sản lợng tuyệt
đối thì tăng lên do năng suất lao động và nâng suất cây trồng tăng cao); tỷ
trọng các loại cây công nghiệp và rau quả tăng lên.
Trong xu hớng toàn cầu hóa và khu vực hóa nớc ta chủ động hội nhập
vào các tổ chức kinh tế khu vực và sắp tới sẽ vào WTO, thì hàng hóa nói
chung và hàng nông sản nói riêng sẽ phải cạnh tranh với các nớc khác không
chỉ trên thị trờng ngoài nớc mà cả thị trờng trong nớc. Bởi vậy, phải giảm dần
những cây, con cho năng suất và hiệu quả kinh tế thấp, tăng dần sản lợng cây
con có giá trị gia tăng cao, có thị trờng tiêu thụ và có sức cạnh tranh mạnh mẽ,
xu hớng chung ở nớc ta hiện nay là giảm tỷ trọng cây lơng thực, tăng giá trị
cây thực phẩm, cây ăn quả, cây công nghiệp; giảm tỷ trọng và giá trị sản phẩm
thô, tăng tỷ trọng giá trị sản phẩm chế biến trong tổng giá trị sản l ợng nông
nghiệp. Điều đó cho phép khai thác tiềm năng và lợi thế các vùng khác nhau,
kết hợp hợp lý nông lâm ng nghiệp đem lại hiệu quả kinh tế cao hơn.
Trên cơ sở phát triển cây lơng thực, việc sản xuất các loại rau đậu các cấp, cây
ăn quả và cây công nghiệp đợc phát triển trở thành ngành nông nghiệp hàng
hóa, trong đó có loại sản phẩm trở thành hàng xuất khẩu quan trọng. Tỷ trọng
các ngành đó không ngừng lớn lên, còn tỷ trọng giá trị sản lợng lơng thực thì
giảm tơng ứng.
1.2.3. Những nhân tố ảnh hởng đến cơ cấu ngành kinh tế trong
nông nghiệp

Cơ cấu ngành kinh tế trong nông nghiệp chịu ảnh hởng của nhiều nhân
tố, trong đó có những nhân tố chủ yếu sau đây:
Một là, năng suất lao động trong nông nghiệp, nhất là năng suất lao
động trong trồng cây lơng thực.
Trừ trờng hợp đặc biệt có những nớc không trồng đợc cây lơng thực mà
phải nhập khẩu, còn nói chung, tính quy luật là năng suất lao động nông
nghiệp, mà trớc hết là năng suất lao động trong trồng cây lơng thực phải đạt
16
tới một mức nhất định sao cho ngời sản xuất trực tiếp có thể thực hiện đợc lao
động thặng d thì mới có thể rút lao động đi trồng các cây khác, sang chăn nuôi
và ra khỏi nông nghiệp. C.Mác đã chỉ rõ:
Suy rộng ra nữa, toàn bộ lao động nông nghiệp - lao động cần
thiết và lao động thặng d - của một bộ phận xã hội phải đủ để sản
xuất ra t liệu sinh hoạt cần thiết cho toàn thể xã hội và do đó, cho cả
những ngời lao động phi nông nghiệp; do đó, để cho sự phân công
lớn giữa những ngời làm nông nghiệp, và những ngời làm công
nghiệp, cũng nh sự phân công giữa những ngời làm nông nghiệp sản
xuất lơng thực và những ngời làm nông nghiệp sản xuất nguyên liệu,
có thể thực hiện đợc. Nh vậy, mặc dù đối với bản thân những ngời sản
xuất trực tiếp ra lơng thực, lao động của họ cũng chia ra thành lao động
cần thiết và lao động thặng d, nhng đứng trên quan điểm xã hội mà
xét, thì lao động của họ là thứ lao động tất yếu, cần thiết để sản xuất
ra t liệu sinh hoạt [18, tr.271].
Năng suất lao động và năng suất cây trồng trong ngành lơng thực tăng
cao, một mặt, vừa có thể rút bớt lao động từ ngành trồng cây lơng thực chuyển
sang ngành khác (trồng cây công nghiệp, trồng cây ăn quả, trồng rau, trồng
hoa, chăn nuôi ) vừa có thể rút bớt diện tích ruộng đất trồng cây l ơng thực để
tăng thêm diện tích cho các ngành đó, kể cả diện tích trồng cỏ để chăn nuôi.
Mặt khác, năng suất lao động và sản lợng của ngành lơng thực tăng lên, cung
lớn hơn cầu, làm cho giá cả lơng thực rẻ, ít lợi nhuận sẽ thúc đẩy ngời sản

xuất lơng thực chuyển sang các ngành khác có lợi nhuận cao hơn, thúc đẩy
chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong nông nghiệp.
Hai là, điều kiện thổ nhỡng và khí hậu.
Đối tợng của sản xuất nông nghiệp là cơ thể sống của cây trồng, vật
nuôi, việc sinh trởng và phát triển của chúng thờng xuyên bị ảnh hởng bởi các
yếu tố của tự nhiên tác động. Do vậy cơ cấu kinh tế nông nghiệp, trớc hết là cơ
17
cấu ngành thờng xuyên phụ thuộc vào sự tác động của điều kiện thổ nhỡng,
khí hậu có vị trí đặc biệt quan trọng, chúng vừa mang lại nguồn lợi cho con
ngời, vừa đe dọa gây nên những rủi ro trong sản xuất nông nghiệp. Không
những độ phì của ruộng đất ảnh hởng đến năng suất cây trồng, năng suất lao
động mà tính đa dạng về thổ nhỡng mới là nhân tố quan trọng tác động đến
việc bố trí cây trồng, vật nuôi. Khí hậu liên quan đến mùa vụ cũng tạo điều
kiện cho việc đa dạng hóa cây trồng và vật nuôi.
Điều kiện thổ nhỡng và khí hậu tạo tiền đề để hình thành những vùng
chuyên canh, những vùng nông nghiệp thơng phẩm (chuyên trồng cây lợng
thực, chuyên trồng cây công nghiệp, chuyên chăn nuôi gia súc, chuyên nuôi
thủy sản v.v ).
Ví dụ, Diện tích đất nông nghiệp Thái Bình hiện có 104,2 nghìn ha,
trong đó đất trồng cây hàng năm có 91.424 ha. Do sự bồi tụ phù sa của: hệ
thống sông Hồng, sông Thái Bình và sản phẩm cồn cát biển, nên điều kiện thổ
nhỡng của Thái Bình rất đa dạng và phong phú về địa hình và thành phần cơ
giới. Toàn tỉnh có trên 15.000ha đất có địa hình cao và vàn cao thuộc nhóm
đất cát và cát pha, rất thích hợp với các cây rau màu, cây công nghiệp ngắn
ngày, cây dợc liệu hàng năm và có khoảng 45.000 ha đất có thành phần cơ
giới thịt nhẹ và thịt trung bình trên địa hình vàn và vàn cao. Đây là u thế để có
thể đa dạng hóa các lại cây trồng khác nhau [33, tr. 8].
Mỗi một điều kiện tự nhiên cho phép hình thành một cơ cấu sản xuất
nhất định. Vì vậy, sản xuất nông nghiệp chỉ thực sự có hiệu quả khi bố trí hệ
thống cây trồng, vật nuôi phù hợp với điều kiện thổ nhỡng và khí hậu. Do sự

phụ thuộc vào điều kiện thổ nhỡng, khí hậu nên mỗi quốc gia, mỗi vùng, mỗi
địa phơng có cơ cấu kinh tế nông nghiệp khác nhau và sự chuyển đổi cơ cấu
kinh tế nông nghiệp cũng có nét riêng biệt mang tính đặc thù. Ngày nay trình
độ phát triển của khoa học và công nghệ càng cao, một số nhân tố tự nhiên
không còn là yếu tố bất biến bởi con ngời đã tao ra giống cây, giống con mới
18
có năng suất cao và thích ứng với điều kiện thổ nhỡng và khí hậu từng vùng.
Để có một cơ cấu kinh tế nông nghiệp mang lại hiệu quả cao nhất, nhất thiết
phải tôn trọng các quy luật phát triển của tự nhiên. Đồng thời khuyến khích sự
sáng tạo của con ngời nhằm tranh thủ tốt nhất tự nhiên để phát triển kinh tế. Vì
thế, muốn bố trí cơ cấu kinh tế hợp lý, trớc hết phải điều tra, nắm chắc điều kiện
thổ nhỡng, khí hậu của mỗi vùng. Đồng thời, nắm chắc đặc điểm sinh học của
từng loại cây trồng, vật nuôi trong sản xuất hoặc dự kiến sản xuất.
Ba là, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nhất là giao thông vận tải
Nhờ sự phát triển kết cấu hạ tầng, nhất là giao thông vận tải và thủy
lợi Ng ời ta có thể khai khẩn những vùng đất hoang hóa ở những nơi xa xôi,
hẻo lánh, biến thành những diện tích trồng trọt có tính chất thơng phẩm, phát
triển những vùng chuyên canh hay những đồng cỏ chăn nuôi mà sản phẩm
không những đợc tiêu thụ trên thị trờng trong nớc mà còn xuất khẩu.
Thái Bình đợc bao bọc bởi các con sông lớn và biển cả, là tỉnh duy nhất
không có đồi núi, đất đai màu mỡ phì nhiêu. Trớc đây địa phơng này đợc ví
nh một ốc đảo nhng từ năm 2000 đến nay sau khi quốc lộ 10 và quốc lộ 39
đợc nâng cấp thì Thái Bình trở thành tỉnh có mạng lới giao thông thủy bộ khá
phát triển. Tuyến quốc lộ 10 đã nối Thái Bình với Nam Định - Ninh Bình, Hải
Phòng - Quảng Ninh; tuyến quốc lộ 39 đã nối Thái Bình với các tỉnh đồng
bằng Bắc Bộ với Hà Nội và các tỉnh phía Bắc; cảng Diêm Điền đợc đầu t trở
thành một trong những cảng lớn của quốc gia. Mạng lới giao thông thuỷ phát
triển sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động giao lu kinh tế, thúc đẩy lu thông
hàng hóa phát triển.
Giao thông vận tải phát triển còn tạo điều kiện cho việc vận chuyển nguyên

liệu nông sản về các xí nghiệp chế biến, nhờ đó thúc đẩy nông nghiệp hàng hóa.
Bốn là, sự phát triển công nghiệp chế biến nông sản
Khi nghiên cứu sự phát triển nông nghiệp thơng phẩm ở Nga, V.I.Lênin
đã rút ra kết luận:
19
Sự phát triển của các ngành công nghiệp chế biến nông sản có
một ý nghĩa rất lớn đối với sự phát triển nông nghiệp: Một là, nó
biểu hiện rõ nông nghiệp đã chuyển biến thành một ngành công
nghiệp; Hai là, sự phát triển của việc chế biến về mặt kỹ thuật các
nông sản thờng gắn liền với sự tiến bộ kỹ thuật trong nông nghiệp,
vì bản thân việc sản xuất nguyên liệu để chế biến thờng thờng đòi
hỏi phải cải tiến nông nghiệp, mặt khác, những phế liệu trong khi
chế biến thờng đem dùng vào nông nghiệp, làm cho sản lợng nông
nghiệp tăng lên và ít ra cũng khôi phục một phần sự thăng bằng và
sự phụ thuộc lẫn nhau giữa nông nghiệp và công nghiệp; sự thăng
bằng và sự phụ thuộc bị phá hoại vốn là một trong những mâu thuẫn
sâu sắc nhất của chủ nghĩa t bản [15, tr.353-354].
1.2.4. Một số kinh nghiệm về chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi
theo hớng sản xuất hàng hóa ở nớc ta
Dựa trên tài liệu của tổng cục thống kê, nghiên cứu thực trạng chuyển đổi
cơ cấu cây trồng, vật nuôi ở tỉnh Thái Bình có điều kiện tơng đồng với Nam
Định, Hải Dơng, Hng Yên và rút ra một số nhận xét sau:
Một là, quá trình chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi ở các tỉnh, mặc
dù điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội còn có những điểm khác nhau, nhng cái
chung nhất là dựa trên tiềm năng thế mạnh của mình, phát triển theo cơ chế
thị trờng, mỗi tỉnh từng bớc xác định cho mình một cơ cấu kinh tế hợp lý.
Hai là, trong quá trình chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi các tỉnh đều
xác định ngành kinh tế mũi nhọn để tập trung đầu t, nhằm mang lại hiệu quả
cao nh Nam Định là trồng trọt, Hải Dơng là chăn nuôi, Hng Yên phát triển cả
trồng trọt và chăn nuôi.

Ba là, Tập trung đấu t xây dựng kết cấu hạ tầng, cơ sở vật chất, thiết bị,
nguồn nhân lực bằng mọi nguồn vốn, khuyến khích các thành phần kinh tế
tham gia.
20
Bốn là, Để chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, khi bố trí cơ cấu kinh
tế hợp lý luôn chú ý tới các vùng miền lãnh thổ, vùng sâu vùng xa, phù hợp
với điều kiện sinh thái thổ nhỡng của từng vùng.
Năm là, cụ thể hóa các chủ trơng chiến lợc bằng quy hoạch kế hoạch, chơng
trình và biện pháp cụ thể, rõ ràng, phối hợp giữa các ngành, địa phơng.
Tóm lại, theo đà phát triển lực lợng sản xuất, nông nghiệp mang tính
chất tự cung tự cấp tất yếu chuyển lên nông nghiệp hàng hóa do phân công xã
hội ngày càng phát triển. Nông nghiệp hàng hóa thúc đẩy lực lợng sản xuất
phát triển nhanh hơn, không ngừng tăng năng suất lao động; đẩy mạnh quá
trình xã hội hóa sản xuất và tích tụ, tập trung sản xuất, mở rộng thị trờng hàng
tiêu dùng, thị trờng lao động, thị trờng t liệu sản xuất
Phân công xã hội ngày càng sâu rộng cũng làm biến đổi cơ cấu cây
trồng, vật nuôi, chuyển nền nông nghiệp độc canh thành nền nông nghiệp phát
triển toàn diện. Xu hớng chuyển dịch cơ cấu ngành trong nông nghiệp chịu
ảnh hởng của nhiều nhân tố, trong đó có những nhân tố chủ yếu, nh tăng năng
suất lao động, nhất là năng suất lao động trong trồng cây lơng thực; điều kiện
thổ nhỡng, khí hậu; kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội và sự phát triển công
nghiệp chế biến nông sản.
21
Chuơng 2
Tình hình chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi
để phát triển nông nghiệp hàng hóa ở Thái Bình
2.1. Những điều kiện thuận lợi, khó khăn ảnh hởng tới
phát triển nông nghiệp hàng hóa và chuyển đổi cơ cấu cây
trồng, vật nuôi ở Thái Bình
2.1.1. Vị trí địa lý và khí hậu của Thái Bình thuận lợi cho phát triển

nông nghiệp nhng xa trung tâm thơng mại lớn nên khó tiêu thụ nông sản
Thái Bình là một tỉnh đồng bằng ven biển, nằm ở phía nam châu thổ sông
Hồng; ở vị trí có tọa độ địa lý: 20
0
17 đến 22
0
44 vĩ độ bắc và 106
0
06 đến 106
O
39
kinh độ đông. Phía Đông giáp vịnh Bắc Bộ, phía Tây và Tây Nam giáp tỉnh Nam
Định và tỉnh Hà Nam, phía Bắc giáp tỉnh Hải Dơng, Hng Yên và thành phố Hải
Phòng. Thái Bình có địa hình tơng đối bằng phẳng, đợc bao quanh bởi hệ thống
sông, khép kín từ Tây sang Đông dài 54km, từ Bắc xuống Nam dài 49km, có gần
50km bờ biển (huyện Thái Thụy 21,52km và huyện Tiền Hải 27,37km).
Địa hình Thái Bình tơng đối bằng phẳng, với độ dốc nhỏ hơn 1%, độ cao trung
bình từ 1 - 2m so với mặt nớc biển và thấp dần từ Bắc xuống Nam. Thuận lợi cho
phát triển nông nghiệp, nhng không mấy thuận lợi cho sự phát triển kinh tế trong
điều kiện kinh tế thị trờng, vì nằm xa các trung tâm công nghiệp - thơng mại lớn
nên việc tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp tơi sống gặp nhiều khó khăn.
Thái Bình nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa. Nhiệt độ trung
bình hàng năm từ 23 24
o
C. Số giờ nắng trong năm từ 1600 giờ đến 1800
giờ; lợng ma trung bình từ 1540mm đến 1900mm/năm, độ ẩm tơng đối trung
bình nhiều năm từ 85-90%. Nhìn chung, khí hậu thuận lợi cho phát triển nông
nghiệp đa dạng, với nhiều loại cây trồng, vật nuôi có nguồn gốc nhiệt đới và
ôn đới. Điều này cho phép Thái Bình đẩy mạnh sản xuất vụ đông, tạo ra nhiều
hàng hóa nông sản, tăng tỷ lệ thời gian đợc sử dụng ở nông nghiệp.

22
2.1.2. Đất ở Thái Bình khá tốt nhng chất lợng không đều và bình
quân diện tích trên một nhân khẩu thấp
Đất đai của Thái Bình chủ yếu là đất bồi tụ phù sa của sông Hồng và
sông Thái Bình nên khá tốt, độ mùn cao, thuận lợi cho việc phát triển cây lúa
nớc, rau màu và cây công nghiệp ngắn ngày. Song chất lợng đất đai không
đồng đều; đất ở 2 huyện ven biển bị chua mặn nhiều, đòi hỏi phải lựa chọn
giống cây trồng và kỹ thuật canh tác phù hợp với điều kiện sinh thái từng vùng
thì mới cho năng suất và hiệu quả cao. Tổng diện tích đất tự nhiên của tỉnh
năm 2002 là 154,4 nghìn ha, trong đó đất đã khai thác và sử dụng vào sản xuất
nông nghiệp chiếm 67,4%; đất lâm nghiệp chiếm 1,6%; đất chuyên dùng
chiếm 16,8%; đất ở dân c chiếm 8,0%, còn lại là đất bãi bồi ven biển, bị ngập
mặn, đang đợc cải tạo sử dụng vào nuôi trồng thủy sản. Diện tích đất nông
nghiệp bình quân nhân khẩu ở nông thôn chỉ có 608,7 m
2
/ngời, gần bằng mức
bình quân của đồng bằng sông Hồng và thấp hơn rất nhiều so với mức bình
quân chung của cả nớc (xem bảng 2.1). Cùng với sự gia tăng dân số, phát triển
công nghiệp và kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, diện tích đất nông nghiệp bình
quân nhân khẩu ở nông thôn Thái Bình ngày càng giảm.
Bảng 2.1: Diện tích đất nông nghiệp bình quân nhân khẩu ở nông thôn
Thái Bình, năm 2002 [29, tr. 43]
Diện tích đất
nông nghiệp
(nghìn ha)
Số nhân khẩu
ở nông thôn
(nghìn ngời)
Đất nông nghiệp/
khẩu nông thôn

(m
2
/nguời)
Cả nớc 9406,8 59705,3 1575,5
Đồng bằng sông Hồng 8552 13756,6 621,7
Thái Bình
- % so với cả nớc
- % so với ĐBSH
104,2
1,11
12,18
1718,1
2,88
12,49
608,7
38,64
97,91
2.1.3. Nguồn nớc dồi dào và nguồn lợi thủy sản phong phú, đa dạng
nhng trữ lợng hải sản thấp
23
Nguồn nớc tơng đối dồi dào, đủ khả năng đáp ứng nhu cầu sản xuất nông
nghiệp, dịch vụ và đời sống nhân dân. Sông Trà Lý vừa là nguồn cung cấp nớc
và lợng phù sa lớn phục vụ sản xuất nông nghiệp, vừa là đờng giao thông thủy
rất quan trọng, cho phép Thái Bình phát triển vận tải cả đờng sông và đờng
biển.
Thái Bình có 5 cửa sông lớn đổ ra biển (Văn úc, Diêm Điền, Ba Lạt,
Trà Lý, Lân), tạo điều kiện thuận lợi để phát triển các phơng tiện vận tải biển,
vận tải pha sông biển, nối liền thị trờng Thái Bình với thị trờng Trung Quốc,
Quảng Ninh và nội địa.
Thái Bình có nguồn lợi thủy sản phong phú và đa dạng. Với 10.258 ha

mặt nớc nội đồng, gần 50 km bờ biển, hàng chục ngàn ha bãi triều ven biển
thuận cho phát triển nuôi trồng thủy sản nớc ngọt, nớc lợ và khai thác hải sản.
Tuy nhiên, trữ lợng hải sản của Thái Bình không đáng kể, không đủ để đánh
bắt công nghiệp, quy mô lớn. Vùng biển Thái Bình có trữ lợng cá ớc khoảng
22 - 25 ngàn tấn, tôm 600 - 1000 tấn và mực khoảng 700 - 800 tấn [32, tr.8].
Vì vậy, nếu chỉ khai thác tiềm năng hải sản bằng con đờng đánh bắt tự nhiên
thì kinh tế biển khó có thể phát triển thành ngành kinh tế mũi nhọn, tạo ra
nhiều việc làm cho ngời lao động.
2.1.4. Tỷ lệ lao động trong ngành nông nghiệp cao và phần lớn là lao
động giản đơn
Số lợng lao động ở Thái Bình năm 2005 là 1.014.841 ngời, trong độ tuổi
lao động 933.202, trên độ tuổi lao động 81.639. Số lao động trong ngành nông
nghiệp là: 657.948 ngời chiếm 68%, đại bộ phận lao động của tỉnh làm việc
trong ngành nông - lâm nghiệp, sau đó là công nghiệp chế biến, thơng nghiệp
và xây dựng. Thái Bình có tới 12/19 ngành có tỷ trọng lao động dới 1%. Đáng
chú ý là lao động trong các ngành hoạt động khoa học công nghệ, kinh
doanh tài sản và t vấn chiếm tỷ trọng rất thấp. Nhìn chung trình độ học vấn
của lực lợng lao động ở Thái Bình cao hơn mức bình quân chung của cả nớc.
24
Số ngời cha biết chữ chiếm tỷ lệ thấp 0,74%, hơn 2/3 số ngời trong lực lợng
lao động đã tốt nghiệp phổ thông cơ sở. Nhng tỷ lệ lao động đã tốt nghiệp phổ
thông trung học trong tổng số lực lợng lao động của tỉnh chỉ đạt 14,32%, thấp
nhất khu vực đồng bằng sông Hồng và thấp hơn mức bình quân chung của cả
nớc.
Sự chênh lệch về học vấn của lực lợng lao động giữa nông thôn và thành
thị ở Thái Bình là rất lớn. ở nông thôn, tỷ lệ lao động không biết chữ còn
0,78%; tỷ lệ đã tốt nghiệp phổ thông trung học chỉ chiếm 11,96% tổng số lực
lợng lao động nông thôn.
Tỷ lệ lao động không có chuyên môn kỹ thuật ở Thái Bình rất cao, chiếm
trên 80%; Tỷ lệ lao động có trình độ từ sơ cấp học nghề trở lên chỉ chiếm từ

11,64% (năm 1995) và tăng lên 18,86% (năm 2005). Trong đó, tỷ lệ lao động
có trình độ từ công nhân kỹ thuật có bằng trở lên chiếm 9%. So với lao động
nông thôn, tỷ lệ lao động ở thành thị có trình độ công nhân kỹ thuật gấp 2,9
lần, có trình độ trung học chuyên nghiệp gấp 3,9 lần và trình độ cao đẳng trở
lên gấp 17 lần. Trình độ chuyên môn kỹ thuật của lực lợng lao động nông thôn
quá thấp đang là trở ngại rất lớn cho phát triển kinh tế và quá trình chuyển đổi
cơ cấu cây trồng vật nuôi ở tỉnh.
2.1.5. Đờng bộ nội tỉnh phát triển khá, nhng không có đờng sắt và cảng
biển chỉ đón đợc tàu nhỏ nên gặp khó khăn về vận tải ra ngoài tỉnh
Ngay từ những năm đầu của thập niên 90 của thế kỷ trớc, Thái Bình đã
phát triển mạnh phong trào Nhà nớc và nhân dân cùng đầu t làm điện, đờng, tr-
ờng, trạm y tế nông thôn. Hệ thống điện đợc xây dựng từ những năm 1992 đến
1994. Đến cuối năm 1994 đã có 100% số xã, 91,7% số hộ sử dụng điện phục vụ
cho sản xuất và đời sống.
Toàn tỉnh hiện có 10 tuyến đờng chính. Trong đó: có 2 tuyến quốc lộ là đ-
ờng 10 và đờng 39 với tổng chiều dài 173 km chạy qua các huyện Quỳnh Phụ,
25

×