Tải bản đầy đủ (.doc) (76 trang)

đẩy mạnh xuất khẩu lao động của nước ta trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (380.49 KB, 76 trang )

Lời mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Giải quyết thất nghiệp, tạo việc làm, tăng thu nhập và nâng cao dần
đời sống của nhân dân luôn là vấn đề nóng bỏng, là mối quan tâm hàng đầu
của Đảng, Nhà nớc và mọi thành viên trong xã hội ta.
Nớc ta có dân số trẻ, số lợng ngời trong độ tuổi lao động năm 2000
là gần 40 triệu mà đa số ở nông thôn, trong khi bình quân ruộng đất đầu ng-
ời thấp, ngành nghề cha phát triển, tỷ lệ tăng dân số cao Do vậy, số ngời
lao động cha đủ hoặc cha có việc làm ngày càng nhiều.
Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân, việc
sử dụng máy móc và ứng dụng những thành tựu của cách mạng khoa học
công nghệ, cải tiến tổ chức sản xuất tuy có tạo thêm nhiều chỗ làm việc nh-
ng cầu về lao động vẫn nhỏ hơn cung, đồng thời xuất hiện tình trạng thừa
lao động giản đơn, lao động lành nghề sử dụng cha phù hợp.
Để tạo việc làm, nớc ta đã có nhiều giải pháp tích cực, trong đó xuất
khẩu lao động là một trong những giải pháp quan trọng. Tuy nhiên, quá
trình hợp tác quốc tế về lao động (cách gọi trớc đây) hay xuất khẩu lao
động (cách gọi hiện nay) đang còn nhiều nhợc điểm, thiếu sót nh: việc quản
lý xuất khẩu lao động cha tốt; quyền lợi của ngời lao động của ta ở nớc
ngoài cha đợc quan tâm đầy đủ (cả về vật chất và tinh thần), chất lợng lao
động kém, trình độ ngoại ngữ thấp, ý thức kỷ luật lao động của ngời Việt
Nam ở nớc ngoài cha cao
Chính vì vậy, chỉnh đốn và đẩy mạnh công tác xuất khẩu lao động,
mở rộng thị trờng lao động, đặc biệt là ở những thị trờng có điều kiện lao
động tốt, thu nhập cao, là một trong những vấn đề có tình thời sự nhằm giải
quyết việc làm, nâng cao thu nhập, thúc đẩy sự hội nhập của Việt Nam vào
1
nền kinh tế thế giới trong điều kiện phân công lao động quốc tế và quá trình
toàn cầu hóa đang diễn ra ngày càng sâu rộng. Vì thế, "Đẩy mạnh xuất
khẩu lao động của nớc ta trong giai đoạn hiện nay" đợc chọn làm đề tài
luận văn thạc sĩ.


2. Nhiệm vụ của luận văn
2.1. Làm rõ sự cần thiết phải đẩy mạnh xuất khẩu lao động ở nớc ta.
2.2. Tìm hiểu tình hình xuất khẩu lao động của một số nớc nh
Philipin, Thái Lan, Bănglađét.
2.3. Phân tích tình hình xuất khẩu lao động ở nớc ta qua hai giai
đoạn 1980 - 1989 và 1990 đến nay.
2.4. Đề xuất một số giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu lao động của
Việt Nam trong thời gian tới.
3. Tình hình nghiên cứu
Vấn đề này đã có nhiều tác giả nghiên cứu, nh:
Phạm Nhật Tân: Sự Hội nhập khu vực về xuất khẩu lao động của
Việt Nam.
Trơng Quang Oánh: Tạo vị thế để mở rộng xuất khẩu lao động.
Trần Đình Chính: Mở rộng xuất khẩu lao động - một hớng tích cực
giải quyết việc làm.
Nguyễn Quang Hiển: Xu hớng vận động thị trờng lao động của nớc
ta.
Nguyễn Lơng Trào: Một số vấn đề về xuất khẩu lao động ở nớc ta
trong giai đoạn mới.
Trần Văn Hằng: Thị trờng lao động Việt Nam và cơ chế giải quyết
việc làm ngoài nớc.
2
Minh Đức: Đánh giá hợp tác lao động 10 năm 1985 - 1995 và ph-
ơng hớng 1996 - 2000.
Tuy nhiên, phần lớn các công trình trên chỉ là những bài báo về từng
mặt của xuất khẩu lao động:
- Đánh giá hiệu quả kinh tế của chơng trình hợp tác lao động quốc
tế và XKLĐ.
- Phân tích một số thị trờng lao động trên thế giới và trong khu vực.
- Đa ra một số giải pháp nhằm đẩy mạnh XKLĐ ở nớc ta.

Còn có ít công trình phân tích một cách tơng đối toàn diện công tác
XKLĐ của ta.
4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Hiện nay, ở nớc ta còn có những cách hiểu khác nhau về nội dung
của phạm trù XKLĐ. Luận văn này chỉ sử dụng phạm trù "xuất khẩu lao
động" theo nghĩa hẹp, nghĩa là chỉ xét những ngời lao động Việt Nam đợc
đa đi làm việc tại các nớc và các vùng ngoài lãnh thổ Việt Nam.
5. Những đóng góp của luận văn
Tìm hiểu tình hình XKLĐ của một số nớc từ đó rút ra những kinh
nghiệm có thể vận dụng vào hoàn cảnh cụ thể của nớc ta.
Khái quát đợc những thành tựu, những thiếu sót chủ yếu và nguyên
nhân trong công tác XKLĐ ở nớc ta những năm qua.
Đề xuất một số giải pháp khả thi đẩy mạnh XKLĐ trong thời gian tới.
6. ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho các nhà nghiên cứu, các
giảng viên, các nhà hoạch định chính sách kinh tế - xã hội trong lĩnh vực
hợp tác lao động quốc tế và những độc giả quan tâm đến lĩnh vực này.
3
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm có lời mở đầu, 3 chơng và kết luận.
Chơng 1: Sự cần thiết phải xuất khẩu lao động của nớc ta hiện nay
và kinh nghiệm XKLĐ của một số nớc.
Chơng 2: Tình hình XKLĐ của nớc ta những thập kỷ qua.
Chơng 3: Những phơng hớng và giải pháp chủ yếu để đẩy mạnh
XKLĐ của nớc ta trong thời gian tới.
4
Chơng 1
Sự cần thiết xuất khẩu lao động của nớc ta và kinh
nghiệm xuất khẩu lao động của một số nớc
1.1. Xuất khẩu lao động và thị trờng lao động

1.1.1. Xuất khẩu lao động
Bằng Quyết định 46CP ngày 01/02/1980 của Hội đồng Chính phủ,
nớc ta bắt đầu thực hiện XKLĐ vào những năm 80. Tuy nhiên, trong giai
đoạn đó, một mặt cha thừa nhận sự tồn tại của kinh tế thị trờng và hàng hóa
sức lao động trong CNXH, mặt khác, do đề cao quan hệ thân thiện giúp đỡ
lẫn nhau giữa nớc ta với các nớc XHCN nên gọi là Hợp tác quốc tế về lao
động.
Sau khi CNXH sụp đổ ở Liên Xô và các nớc XHCN ở Đông Âu, nền
kinh tế nớc ta chuyển từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung bao cấp sang cơ chế
thị trờng thì thuật ngữ XKLĐ đợc sử dụng thay cho thuật ngữ Hợp tác quốc
tế về lao động.
Trớc khi có Luật Doanh nghiệp thì XKLĐ đợc hiểu là XKLĐ tại
chỗ và XKLĐ trực tiếp. XKLĐ tại chỗ là ngời lao động bán sức lao động
cho các công ty nớc ngoài và làm việc cho họ ở ngay trên lãnh thổ của
mình. Chẳng hạn, ngời lao động Việt Nam làm cho các công ty nớc ngoài
trong các khu chế xuất ngay trên lãnh thổ Việt Nam. Còn XKLĐ trực tiếp là
ngời lao động đợc đa sang các nớc khác làm thuê.
Từ ngày 4/5 đến ngày 12/6 năm 1999, kỳ họp thứ 5 Quốc hội khóa
X Nớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Luật Doanh
nghiệp. Điều 2 Luật Doanh nghiệp xác định: "Việc thành lập, tổ chức quản
5
lý và hoạt động của doanh nghiệp trên lãnh thổ Việt Nam áp dụng theo quy
định của luật này và các quy định luật pháp khác có liên quan.
Trờng hợp có sự khác nhau giữa quy định của luật này và quy định
của luật chuyên ngành về cùng một vấn đề, thì áp dụng theo quy định của
luật chuyên ngành" [21, tr. 7].
Căn cứ vào luật này đã xuất hiện ý kiến cho rằng mọi doanh nghiệp
nằm trên lãnh thổ Việt Nam đều chịu sự điều chỉnh của Luật Doanh nghiệp
Việt Nam. Do vậy, quan niệm nh trên về XKLĐ không còn phù hợp.
XKLĐ hiện nay đợc hiểu là việc đa ngời lao động từ nớc xuất khẩu

đến làm việc ở các nớc có nhu cầu nhập khẩu lao động. Theo cách hiểu này
thì XKLĐ chỉ bao gồm trờng hợp thứ hai của quan niệm trớc, và đây cũng
là cách hiểu đợc sử dụng trong luận văn này.
Theo lý luận trừu tợng thì những ngời lao động đi làm việc ở nớc
ngoài có thể dới hình thức bán hàng hóa sức lao động hoặc dới hình thức
làm dịch vụ (nh làm việc nội trợ). Luận văn này không tách biệt mà gộp
chung lại khi tính cung cầu trên thị trờng lao động.
1.1.2. Thị trờng lao động
Thị trờng lao động theo đúng nghĩa chỉ là mua bán hàng hóa sức lao
động. ở đây tính cả việc thuê ngời làm dịch vụ. Thị trờng lao động cũng bị
chi phối bởi các quy luật của kinh tế hàng hóa, nhất là quy luật cung cầu.
Việc hình thành thị trờng lao động quốc tế do các nguyên nhân chủ yếu
sau:
- Do sự mất cân đối về cung cầu lao động nói chung trên thị trờng
lao động các nớc. Nhiều nớc có nhu cầu lớn về lao động nh Nhật Bản, Hàn
Quốc, Đài Loan, các nớc thuộc khu vực Trung Đông mà cung về lao động
trong nớc không đáp ứng đủ, trong khi nhiều nớc lại thừa lao động nh
6
Philipin, ấn Độ, Trung Quốc, Việt Nam, Bănglađét Từ đó dẫn đến sự
XKLĐ từ các nớc thừa sang các nớc có nhu cầu sử dụng lao động ngoài n-
ớc.
- Do sự mất cân đối trong từng loại lao động khác nhau: nhiều nớc
thiếu lao động có trình độ cao, đặc biệt là những nớc đang phát triển, nhng
thừa lao động giản đơn, trong khi đó, ở các nớc phát triển thì những lao
động 3D (nặng nhọc, độc hại, bẩn) ngời dân bản xứ không thích làm nên
phải nhập khẩu lao động.
- Do giá cả lao động ở các nớc có sự chênh lệch nhau. Thái Lan là
một điển hình: vào những năm 90, quá trình công nghiệp hóa đất nớc đã mở
rộng nhiều ngành nghề sản xuất thu hút nhiều lao động, cả lao động có
trình độ cao và lao động giản đơn. Lao động của nhiều nớc láng giềng với

Thái Lan đã đổ xô vào các nhà máy, xí nghiệp mà chính phủ Thái Lan đã
cho di chuyển đến sát biên giới để tìm nguồn lao động rẻ. Nhng đồng thời
Thái Lan vẫn khuyến khích XKLĐ vì giá của sức lao động trong nớc thấp
hơn giá của sức lao động ở nớc ngoài và giá nhân công nớc ngoài làm việc
ở Thái Lan tơng đối rẻ, chỉ bằng một nửa so với lơng của công nhân ở địa
phơng [1, tr. 8]. Bằng chính sách này, chính phủ Thái Lan đã đem lại những
nguồn lợi to lớn cho ngời lao động và cho đất nớc.
ở nớc ta, mức cung lao động lớn nhng khả năng giải quyết việc làm
trong nớc còn hạn chế, đồng thời giá cả của sức lao động trong nớc thấp (do
nền kinh tế kém phát triển và thu nhập bình quân đầu ngời thấp) do vậy
XKLĐ là cấp thiết, phù hợp với quy luật hình thành thị trờng lao động quốc
tế. Tuy nhiên, lao động của ta chỉ có thể hội nhập vào thị trờng lao động
quốc tế khi chất lợng của nó đáp ứng đợc đòi hỏi của thị trờng.
1.2. Sự cần thiết phải đẩy mạnh xuất khẩu lao động ở n-
ớc ta
7
Ngày nay, di chuyển lao động trên phạm vi toàn cầu là một hiện t-
ợng kinh tế - xã hội phổ biến. Do vậy, thuật ngữ "xuất khẩu lao động" cũng
đợc sử dụng một cách rộng rãi hơn và đợc coi nh một phơng thức thực hiện
phân công lao động quốc tế.
Hiện nay, với sự phát triển mạnh mẽ nh vũ bão của cuộc cách mạng
khoa học - công nghệ, lực lợng sản xuất đã phát triển tới một trình độ cao
cha từng có. Sự phát triển của nó đã vợt ra khỏi phạm vi của mỗi quốc gia.
Mỗi một quốc gia đã trở thành một khâu gắn kết chặt chẽ và không thể tách
rời khỏi nền kinh tế thế giới. Muốn phát triển và đạt hiệu quả về kinh tế phải
có sự mở rộng quan hệ và tham gia vào sự phân công lao động quốc tế.
Mặt khác, cùng với sự phát triển chung là sự phát triển không đều
về kinh tế - chính trị - xã hội cũng nh sự phân bố không đồng đều về tài
nguyên và các nguồn lực khác. Điều đó dẫn đến tình trạng không có quốc
gia nào có lợi thế so sánh tuyệt đối và tơng đối trên mọi lĩnh vực, nên tất

yếu phải tham gia thị trờng quốc tế, trong đó có thị trờng lao động. XKLĐ
đã trở thành một hoạt động kinh tế quan trọng trong nhiều thập kỷ qua và
còn có vai trò lớn trong hiện tại cũng nh trong tơng lai.
1.2.1. Cung về lao động của nớc ta hiện nay lớn hơn cầu và việc
làm trở thành vấn đề cấp bách
Nghiên cứu về cộng đồng dân c tùy theo mục đích nghiên cứu mà
các nhà xã hội học có thể phân chia cộng đồng theo những tiêu thức khác
khau (lứa tuổi, giới tính, tôn giáo, tín ngỡng ). Dới góc độ kinh tế và xã hội
học lao động thì việc làm là một tiêu chuẩn quan trọng. Pierre Naville - một
trong những chuyên gia xuất sắc về xã hội học lao động đã nhận định "sự
phân biệt đầu tiên trong mọi sự mô tả về dân c hoạt động là sự phân biệt
giữa những ngời có việc làm và những ngời không có việc làm" [36, tr. 8].
8
Trải qua các giai đoạn của lịch sử xã hội đã xuất hiện nhiều lý
thuyết khác nhau về thất nghiệp - việc làm. Các nhà kinh tế cổ điển, sống
trong thời kỳ khoa học - công nghệ cha phát triển, lao động thủ công là
chính, mức cầu về lao động rất lớn, nên họ cho rằng thất nghiệp chỉ là hiện
tợng tạm thời, có thất nghiệp là do lời biếng, không chăm chỉ các nhà
kinh tế thời kỳ này cho rằng thất nghiệp (tức sự lời biếng) tỷ lệ thuận với
mức tiền công. Nếu tiền lơng cao sẽ khiến công nhân thích ăn chơi, nhậu
nhẹt, không muốn lao động.
Khi khoa học - kỹ thuật phát triển, sự ra đời của máy móc đã dẫn tới
nạn "nhân khẩu thừa" thì lý thuyết của Thomas Robert Malthus cho rằng
thất nghiệp trong xã hội chỉ do con ngời sinh đẻ quá nhiều.
Karl Marx (1818 - 1883) không phân tích việc làm nói chung mà
tìm hiểu nó trong phơng thức sản xuất TBCN. Trong tác phẩm "T bản"
(1867), K.Marx đã phát hiện ra quy luật nhân khẩu thừa tơng đối trong
CNTB. Marx cho rằng cầu về lao động xã hội không quan hệ trực tiếp với
tổng số t bản mà nó chỉ liên quan trực tiếp đến bộ phận t bản khả biến. Do
sự phát triển của khoa học công nghệ và do quy luật tích lũy TBCN đã làm

cho cấu tạo hữu cơ t bản ngày càng tăng, bộ phận t bản khả biến có xu hớng
giảm tơng đối trong tổng số t bản là nguyên nhân gây ra hiện tợng thất
nghiệp.
ở nớc ta, dân số - lao động - việc làm đang trở thành vấn đề nhức
nhối. Giải quyết sự mất cân đối về cung cầu lao động, tạo việc làm không chỉ
đơn thuần là vấn đề kinh tế hay xã hội mà còn là vấn đề chính trị. Trên diện
tích 330.991 km
2
trải dài theo mảnh đất hình chữ S là một lợng dân c 76,3
triệu ngời. Về dân số, nớc ta đứng thứ 13 trên thế giới. Mật độ dân số cao,
năm 1930 là 30 ngời/km
2
năm 1960 là 91 ngời/km
2
, đến năm 1975 là 144 ng-
ời/km
2
, năm 1997 là 232 ngời/km
2
, và năm 1999 là 236 ngời/km
2
. Mặt khác,
9
nớc ta là một quốc gia dân số trẻ, tỷ lệ tăng dân số cao, vì vậy số dân trong
độ tuổi lao động lớn.
Bảng 1: Tỷ lệ tăng dân số và mức sinh ở Việt Nam
Năm 1960 1989 1996 1999
Tỷ lệ tăng dân số 3,4% 2,29% 1,87% 1,7%
Tỷ lệ sinh con của một phụ nữ trong tuổi đẻ 6,3 con 3,8 con 2,7 con 2,3 con
Những năm gần đây tỷ lệ gia tăng dân số và mức sinh con đã giảm

dần nhng số ngời đến độ tuổi lao động vẫn tăng nhanh do hậu quả của tỷ lệ
sinh cao trong mấy thập niên trớc. Số lợng dân c mỗi năm tăng lên khoảng
1,5 triệu ngời, tơng đơng với dân số của một tỉnh nh Hà Nam hay Vĩnh
Phúc. Do vậy, số ngời trong độ tuổi lao động vẫn tăng cả về tuyệt đối và t-
ơng đối (so với tổng dân số).
Bảng 2: Cơ cấu lực lợng lao động Việt Nam năm 1999
(Chia theo nhóm tuổi)
Đơn vị: ngàn ngời
Lứa tuổi Số lợng lao động
Tỷ lệ % trọng
lực lợng
15 - 24 8.577,6 22,70
25 - 34 10.600,8 28,06
35 - 44 10.393,9 27,51
45 - 54 5.565,2 14,73
55 - 59 1.267,1 3,35
60 tuổi trở lên 1.379,1 3,65
Tổng cộng 37.783,7 100%
[37, tr. 26]
Năm 2000, ớc tính dân số Việt Nam trong độ tuổi lao động đạt
gần 40 triệu và dự báo đến năm 2015 con số này sẽ lên đến 62 triệu. So với
10
năm 1990, năm 2015 sẽ có thêm 26 triệu ngời, bổ sung vào lực lợng lao
động [5, tr. 43].
Tỷ lệ tăng dân số trong độ tuổi lao động cao vợt quá khả năng tạo ra
việc làm hàng năm.
Thời kỳ 1976 - 1980 tỷ lệ tăng nguồn lao động bình quân hàng năm
là 3,25%, nhng tỷ lệ tăng việc làm chỉ là 2,80%. Con số tơng ứng của thời
kỳ 1981 - 1985 là 2,87% và 2,67%. Thời kỳ 1986 - 1990 là 3,06% và
2,54%. Trong giai đoạn 1991 - 1996 ta đã giải quyết đợc trên 6 triệu việc

làm. Năm 1997 tạo đợc 1,2 triệu chỗ làm. Năm 1998 là 1,4 triệu. Tuy nhiên,
tốc độ tăng việc làm luôn thấp hơn tốc độ tăng của nguồn lao động, do vậy
tỷ lệ thất nghiệp của ta vẫn cao [11, tr. 43].
Ngày 22-9-1999 Ban chỉ đạo điều tra lao động, việc làm trung ơng
đã tổ chức công bố kết quả điều tra lao động, việc làm ở khu vực thành thị.
Theo ông Nguyễn Lơng Trào - Thứ trởng Bộ Lao động Thơng binh và Xã hội,
trởng ban chỉ đạo thì tính chung cả nớc tỷ lệ thất nghiệp của lực lợng lao động
là 7,4% (nữ là 8,2%) tăng 0,55% và vẫn đang tiếp tục tăng, đã dẫn đến tình
trạng thừa cung thiếu cầu trên thị trờng lao động, và đang gây sức ép lớn cho
chính sách kinh tế - xã hội của quốc gia về giải quyết việc làm. Cung lớn hơn
cầu trên thị trờng lao động là do những nhân tố sau:
Một là: Lực lợng lao động tăng nhanh do tốc độ tăng dân số cao từ
mấy thập kỷ trớc để lại. Mỗi năm dân số của ta tăng khoảng 1,5 triệu và
cung cấp vào thị trờng một lực lợng lao động vào khoảng 1,3 triệu ngời.
Hai là: Do việc áp dụng những thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến
trong lĩnh vực sản xuất, nhất là trong nông nghiệp, mà "máy móc chèn lấn
ngời" làm cho nhân lực trong các ngành sản xuất nói chung và ở trong nông
nghiệp nói riêng dôi ra đáng kể (thời gian nhàn rỗi ở nông thôn trung bình
khoảng 28%). Lực lợng lao động dôi ra này chủ yếu là lao động giản đơn.
11
Ba là: Do cải cách các DNNN, năm 1990 ta có khoảng 12.000
doanh nghiệp nhà nớc thì đầu năm 1996 còn khoảng 6.000 [10, tr. 41] và
đến năm 2000 dự kiến sẽ chỉ còn 4.066 DNNN [5, tr. 37]. Theo ông Nguyễn
Văn Khang - chuyên viên Vụ Lao động văn hóa - xã hội - Bộ Kế hoạch và
đầu t thì số lao động không bố trí đợc việc làm tại các DNNN đang tăng cao
ở hầu hết các ngành xây dựng, giao thông vận tải, công nghiệp, nông
nghiệp
Theo báo cáo gần đây của 3.639 DNNN cho thấy: có 1.546 DNNN
có số lao động không bố trí đợc việc làm là 92.274 ngời chiếm khoảng 9%
tổng số lao động. Tuy nhiên, con số trên sẽ không dừng lại ở đó bởi theo dự

kiến số DNNN sẽ tiếp tục giảm xuống còn 2.756 và số ngời cần sắp xếp lại
việc làm là 200.000. Số lợng lao động dôi d ở đây hầu hết là lao động trẻ và
có nghề. Kết quả điều tra cho thấy số lao động dôi ra do sắp xếp lại doanh
nghiệp có độ tuổi dới 40 và có trình độ chuyên môn kỹ thuật chiếm tới 2/3
tổng số lao động dôi d [27, tr. 10].
Bảng 3: Tỷ lệ thất nghiệp của lực lợng lao động trong độ tuổi lao động
(Khu vực thành thị)
Đơn vị tính: %
Năm
Vùng
1996 1997 1998 1999
Đồng Bằng 7,57 7,56 8,25 9,34
Đông Bắc 6,42 6,34 6,60 8,72
Tây Bắc 4,51 4,73 5,92 6,58
Bắc Trung Bộ 6,96 6,68 7,26 8,62
Duyên Hải Nam
Trung Bộ 5,57 5,42 6,67 7,07
Tây Nguyên 4,24 4,99 5,88 5,95
Đông Nam Bộ 5,43 5,89 6,44 6,52
12
Đồng bằng sông Cửu Long 4,73 4,72 6,35 6,53
Theo tính toán để giải quyết số lao động dôi ra ở các DNNN do sắp
xếp lại đòi hỏi phải tốn kém khoảng 2.000 tỷ đồng, trong đó Nhà nớc phải
chịu 1.000 tỷ, 1.000 tỷ còn lại do các doanh nghiệp trang trải.
Nh vậy nớc ta không những dôi d về lao động giản đơn mà trong
một chừng mực cụ thể còn d thừa cả lao động kỹ thuật, lao động có nghề.
Tìm lời giải bài toán tạo việc làm cho những ngời lao động nói trên
là việc làm vô cùng khó khăn đối với những nhà hoạch định chính sách.
Đây là điểm nút quan trọng gỡ những khó khăn của tình hình kinh tế - xã
hội trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên, để tạo đợc một việc làm tốt trong

các ngành công nghiệp nặng đòi hỏi phải đầu t khoảng 100 triệu đồng. Một
việc làm trung bình ở đó phải tốn 30 - 50 triệu, còn trong các ngành tiểu thủ
công nghiệp thì số tiền phải đầu t từ 10 - 15 triệu [4, tr. 21]. Với lực lợng
lao động hàng năm gia tăng trên 1 triệu ngời, lợng kinh phí chi cho tạo việc
làm là rất lớn (khoảng 20 - 30 ngàn tỷ). Điều này là một khó khăn lớn trong
điều kiện nền kinh tế còn yếu kém và ngân sách Nhà nớc còn eo hẹp.
1.2.2. Vai trò của xuất khẩu lao động trong việc giải quyết việc
làm, tăng thu nhập và cải thiện đời sống của ngời lao động
Những năm gần đây, bằng sự nỗ lực vợt bậc của Đảng, Nhà nớc
cũng nh các cơ quan chức năng ở mọi cấp, mọi ngành, nền kinh tế nớc ta đã
thoát khỏi tình trạng "khủng hoảng trầm trọng kéo dài" và thu đợc những
thắng lợi bớc đầu hết sức quan trọng.
Cùng với phát triển kinh tế, Chính phủ đã đề ra nhiều chơng trình về
xã hội nh: chơng trình xóa đói giảm nghèo, chơng trình quốc gia về giải
quyết việc làm Cho đến nay, những chơng trình này đã đa lại những kết
quả rất đáng khích lệ. Tuy nhiên, nớc ta về cơ bản vẫn là nớc nông nghiệp,
đại bộ phận nhân dân sống ở nông thôn, nông nghiệp chiếm tỉ trọng lớn.
13
Tốc độ tăng dân số nhanh trong khi diện tích đất nông nghiệp tăng không
đáng kể, nên bình quân ruộng đất trên đầu ngời thấp. Diện tích đất nông
nghiệp từ 1943 đến 1997 tăng từ 5,6 triệu ha lên 7,7 triệu ha (gấp 1,36 lần)
[28, tr. 34], trong khi đó dân số nớc ta tăng từ 22 triệu ngời lên 76,3 triệu
ngời (gấp 3,5 lần). Tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm cao, hàng năm lại có
thêm trên 1 triệu ngời bớc vào độ tuổi lao động. Bên cạnh đó, quá trình đổi
mới đòi hỏi phải sắp xếp lại sản xuất dẫn đến nhiều lao động bị dôi d. Vì
vậy sức ép về giải quyết việc làm rất gay gắt, Đảng và Nhà nớc đã xác định
cùng với các giải pháp giải quyết việc làm trong nớc là chính, XKLĐ và
chuyên gia là một chiến lợc quan trọng trớc mắt và lâu dài. Quan điểm này
đã đợc thể hiện rõ trong chỉ thị số 41 CT/TW ngày 22/9/1998 của Bộ Chính
trị về XKLĐ và chuyên gia, trong đó nêu rõ: "xuất khẩu lao động và chuyên

gia là một hoạt động kinh tế - xã hội góp phần phát triển nguồn nhân lực,
giải quyết việc làm, tạo thu nhập và nâng cao trình độ tay nghề cho ngời lao
động, tăng nguồn thu ngoại tệ cho đất nớc và tăng cờng quan hệ hợp tác
quốc tế giữa nớc ta với các nớc". Chủ trơng này đợc cụ thể hóa trong Nghị
định số 152/1999/NĐ-CP ngày 20/9/1999 của Chính phủ quy định việc đa
ngời lao động và chuyên gia Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nớc ngoài.
ở nớc ta, những năm qua xuất khẩu lao động đã có vai trò quan
trọng thể hiện cụ thể trên một số mặt chính nh sau:
Xuất khẩu lao động góp phần đắc lực vào giải quyết việc làm, qua
đó nâng cao chất lợng nhân lực, tạo nhân tố quan trọng bền vững cho công
cuộc phát triển đất nớc.
Thời kỳ bùng nổ dân số đã qua đi. Tốc độ tăng dân số đã chững lại
và đợc kiểm soát nhng tốc độ gia tăng nguồn lao động vẫn ở mức độ cao,
trung bình từ năm 1981 đến năm 2000 là 2,75%. Dự kiến từ năm 2005 trở
đi tốc độ tăng lao động sẽ là 2,2%. Cầu lao động trong nớc thấp hơn cung,
không sử dụng hết lao động trong nớc là một khả năng thực tế. Theo thống
14
kê và dự báo trong 15 năm từ năm 1991 đến 2005, dân số trong độ tuổi lao
động sẽ tăng thêm 15,9 triệu, mỗi năm bình quân tăng thêm trên 1 triệu
thanh niên bớc vào tuổi lao động. Đến năm 2005 nớc ta có thêm 23,5 triệu
lao động cần đợc giải quyết việc làm. Số lao động trẻ (từ 16-35 tuổi) tăng từ
25 triệu vào năm 1990 lên 26,8 triệu vào năm 1995 và 30,4 triệu vào năm
2005. Do khả năng tạo thêm việc làm có hạn nên bộ phận ngời lao động cha
có việc làm, hoặc có việc làm không đầy đủ, không những không giảm mà
lại tăng lên. Điều đó đòi hỏi phải có một chơng trình quốc gia về việc làm
hoàn chỉnh bao gồm cả tạo việc làm trong nớc và đa lao động đi làm việc ở
nớc ngoài.
Trong 10 năm thực hiện các hiệp định về hợp tác lao động (1980 -
1989) Việt Nam đã đa đi làm việc ở 9 nớc đợc 277.183 lao động, trong đó
có 92.000 nữ (chiếm 33%). Ngoài lợi ích kinh tế thì việc tạo ra một khối l-

ợng lớn việc làm là lợi ích xã hội quan trọng. Bằng XKLĐ, hàng năm ta đã
tạo ra việc làm tạm thời cho 3% số lao động đến tuổi. Trong đó có 60% lao
động cha có nghề, 4 vạn lao động khi hết nghĩa vụ quân sự
Từ năm 1990 đến nay XKLĐ của ta đợc chuyển sang cơ chế thị tr-
ờng. Thị trờng lao động đợc mở rộng sang những khu vực mới. Lao động
của ta hiện có mặt ở hơn 30 nớc và lãnh thổ khác nhau trên thế giới, theo
đánh giá của Bộ Lao động thơng binh và xã hội tính đến năm 1999 đã đa đi
đợc 89.140 ngời với nhiều ngành nghề, trong đó có gần 15.000 sĩ quan thủy
thủ và lao động đánh bắt hải sản, 1500 chuyên gia các lĩnh vực, số còn lại là
lao động kỹ thuật và lao động phổ thông, năm 1992: 810 ngời; 1993: 3.960
ngời; 1994: 9230 ngời; 1995: 10.050 ngời; 1996: 12.661; 1997: 18.470;
1998: 12.240; 1999: 20.700 ngời. Trong đó lao động có nghề từ 25% năm
1993 tăng lên 40% năm 1995 và hiện nay đạt 70%.
Khi hết hạn lao động ở nớc ngoài hầu hết ngời lao động Việt Nam
có nghề nghiệp, thông thạo ngoại ngữ và có tác phong sản xuất công
15
nghiệp. Đây là một kết quả, một thành tựu không nhỏ của công tác XKLĐ,
góp phần vào sự phát triển nguồn nhân lực, một nhân tố quan trọng cho sự
phát triển lâu dài của đất nớc.
Xuất khẩu lao động góp phần tăng thu nhập, cải thiện đời sống của
ngời lao động. Theo báo cáo của Bộ Lao động Thơng binh và Xã hội, gần
đây hàng năm ngời lao động Việt Nam đang làm việc ở nớc ngoài gửi về n-
ớc hơn 1 tỷ USD. Đây là một nguồn thu lớn vì hiện nay nền kinh tế nớc ta
mới có một số ít ngành sản xuất đạt trên 1 tỷ USD.
Về thu nhập cá nhân: ngời lao động đi làm việc ở nớc ngoài có thu
nhập cao, mức thu nhập cầm tay bình quân hàng tháng cao hơn từ 4-6 lần
thu nhập của ngời có việc làm trong nớc. Hiện thực cho thấy hầu nh gia
đình nào có ngời đi XKLĐ thì mức sống và điều kiện sinh hoạt của
gia đình đó đợc nâng lên rõ rệt. Vì vậy XKLĐ đang trở thành một phong
trào rộ lên ở khắp mọi nơi. Bình quân một ngời lao động ở nớc ngoài

có mức thu nhập không ít hơn 300 USD/tháng, sau khi đã trừ đi các khoản
chi phí. So với thu nhập của Việt Nam (GDP bình quân đầu ngời) khoảng
hơn 300 USD một năm thì mức thu nhập của ngời lao động xuất khẩu
quả là không nhỏ. Ước tính mỗi năm ngời lao động sẽ dành dụm đợc 3.600
USD, sau ba năm lao động trở về nớc họ sẽ có một lng vốn khoảng 11.000
USD. Quy đổi tỷ giá hối đoái hiện hành thì khi về nớc họ có không ít hơn
160 triệu. Đó là cha kể tiền làm thêm giờ và tiền thởng, có khi bằng số lơng
của họ. Với những khoản thu nhập trên họ có điều kiện tích lũy vốn, cải
thiện đời sống của gia đình và mua sắm phơng tiện sản xuất để tự tạo việc
làm.
1.3. Tình hình xuất khẩu lao động của một số nớc
trong khu vực
1.3.1. Philipin
16
Vợt lên cả những nớc có dân số đông gấp hơn 10 lần là ấn Độ và
Trung Quốc, Philipin nổi lên là một trong những nớc cung ứng lao động lớn
nhất trên thị trờng quốc tế. Chỉ với dân số 72,9 triệu ngời, Philipin đã có
980 doanh nghiệp đợc cấp giấy phép XKLĐ. Lao động Philipin ở nớc ngoài
nói chung và XKLĐ nói riêng đã trở thành trụ cột chống đỡ cho nền kinh tế
trong nớc. Thành tựu ấy có thể khái quát trên một số mặt chính nh sau:
- Lao động ở nớc ngoài của Philipin đã giải quyết đợc phần lớn lao
động d thừa trong nớc, góp phần quan trọng thực hiện chiến lợc giải quyết
việc làm của chính phủ Philipin.
Vào những năm 80, thế giới đã ghi nhận một sự gia tăng lao động
mạnh mẽ trên thị trờng lao động quốc tế từ phía Philipin. Năm 1984, Nhà n-
ớc Philipin đã chính thức chuẩn y chơng trình xuất khẩu lao động. Sau một
số năm hoạt động có tính thử nghiệm, Philipin đã vơn lên trở thành nớc
XKLĐ lớn nhất trong khu vực và trên thế giới. Mỗi năm trong thập kỷ này,
Philipin đã đa đi XKLĐ hơn 40 vạn lao động.
Bảng 4: Tình hình xuất khẩu lao động của Philipin

từ năm 1986 đến năm 1989
Năm 1986 1987 1988 1989
Số lao động đợc đa đi (ngời) 378.214 449.271 417.030 500.000
Số ngoại tệ lao động gửi về (triệu USD) 640 791,9 856,8 1.000
[35, tr.19]
Bớc sang thập kỷ 90, Philipin đã có bớc chuyển mạnh mẽ trong
công tác XKLĐ. Theo POEA (Cục lao động nớc ngoài Philipin) trong những
năm gần đây mỗi năm Philipin đa đi XKLĐ khoảng 700.000 ngời bao gồm
cả lao động trên đất liền và trên biển. Hiện nay, Philipin có gần 7 triệu lao
động làm việc ở 181 nớc và các điểm trên thế giới, chiếm 10% số dân cả n-
ớc và 20% dân số trong độ tuổi lao động. Trong số đó có 4,2 triệu ngời lao
động hợp đồng có thời hạn từ 6 tháng đến 2 năm.
17
Bảng 5: Xuất khẩu lao động của Philipin 1990 - 1998
(Đơn vị tính: ngời)
Năm 1990 1991 1998
Số lao động đợc đa đi 446.095 615.019 756.000
[8, tr.3]
Cũng theo đánh giá của POEA năm 1995, tỷ lệ thiếu việc làm ở
Philipin khoảng 69%, đến năm 1998 tỷ lệ này là 75%. Tình hình đó đã làm
cho Philipin có tỷ lệ thất nghiệp tăng từ 3% ở những năm trớc lên 5%. Nền
kinh tế của Philipin đang phải đối đầu với 4,2 triệu ngời cần việc làm. Đây
là nguyên nhân thôi thúc chính phủ và ngời lao động đi tìm việc ở thị trờng
lao động quốc tế. Thực tế công tác XKLĐ của Philipin đã góp phần đắc lực
thực hiện chính sách giải quyết việc làm của chính phủ.
- Việc làm ngoài nớc cứu vãn nền tài chính Philipin
Chỉ tính riêng năm 1997 lao động ở nớc ngoài của Philipin đã
chuyển về nớc 5 tỷ USD. Nếu tính cả lợng tiền đợc gửi về qua các kênh
không chính thức, không qua hệ thống ngân hàng thì con số này sẽ lên tới
10 tỷ USD. Lao động ở nớc ngoài của Philipin đã trở thành một ngành kinh

tế mũi nhọn. Thu nhập từ lĩnh vực này đứng thứ 3 trong nền kinh tế quốc
dân - chỉ sau sản phẩm của cây dừa và ngành điện tử. Con số này chiếm
18% sản phẩm quốc nội và gần bằng toàn bộ sự đóng góp của khu vực nông
nghiệp
Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu to lớn thì chiến lợc XKLĐ của
Philipin cũng để lại những hậu quả nghiêm trọng cho nền kinh tế - xã hội.
Sau 20 năm lao vào chơng trình XKLĐ, Philipin đã phải đầu t vào đây một
khoản ngân sách khá lớn. Mặt khác, do XKLĐ ồ ạt, không quản lý và kiểm
soát hết nên điều kiện việc làm không đảm bảo, ngời lao động bị lạm dụng
và bóc lột, an toàn lao động không tốt, an ninh cho ngời lao động bị đe dọa
đã làm cho cuộc sống của một bộ phận lớn lao động ở nớc ngoài của
18
Philipin cực kỳ khó khăn, gian khổ. Sức ép về tâm lý, giá trị con ngời đang
biến đổi, sự li tán kéo dài đã làm cho nhiều gia đình ở Philipin tan vỡ. Tội
phạm trong thanh thiếu niên tăng nhanh. Chính phủ không kiểm soát hết
tình hình mà "chỉ còn cách là cung cấp dịch vụ và bảo đảm làm nhẹ chi phí
xã hội của di c và làm thuận lợi cho việc tái hòa nhập của lao động di c trở
về" [20, tr. 24].
Sự ra đi ồ ạt và đột ngột của một lực lợng lớn lao động Philipin cho
thấy tình hình kinh tế của đất nớc không bền vững. Đặc biệt ảnh hởng của
cuộc khủng hoảng tài chính châu á và tốc độ phát triển chậm lại của nền kinh
tế toàn cầu đã làm cho ngời lao động của Philipin ở nớc ngoài thất nghiệp
tăng đáng kể. Lực lợng này trở về đã và đang gây nên những trở ngại không
nhỏ cho nền kinh tế vốn đã không mấy bền vững của Philipin.
1.3.2. Thái Lan
Với hơn 60 triệu dân, Vơng quốc Thái Lan có hơn 300 doanh
nghiệp đợc phép XKLĐ.
Trong thập niên 70, Thái Lan bắt đầu thực hiện chính sách XKLĐ
sang các nớc, đầu tiên là sang Anh và lao động Thái Lan làm việc tại các
ngành dịch vụ. Khi thế giới bùng nổ sự thiếu hụt về dầu mỏ thì khu vực

Trung đông - nơi sản xuất dầu mỏ lớn nhất thế giới đã đầu t khai thác và thu
hút nhiều lao động từ khắp các châu lục. XKLĐ của Thái Lan cũng tập trung
phần lớn lực lợng của mình vào thị trờng này.
Bảng 6: Tình hình XKLĐ của Thái Lan qua một số năm trớc đây
Năm 1976 1978 1980 1982 1984 1986
Số lao động đợc đa đi 15.000 10.000 30.000 112.000 78.000 85.000
[35, tr.19]
19
Bớc vào thập kỷ 90, là một nớc có nền kinh tế mạnh trong ASEAN,
Thái Lan đã phát triển nhiều ngành công nghiệp và các ngành dịch vụ kỹ thuật
cao cần sử dụng nhiều lao động lành nghề nhng Thái Lan không đào tạo kịp.
Các ngành lao động cần sử dụng lao động giản đơn vẫn gia tăng và thu hút
nhiều lao động. Thái Lan đã phải nhập khẩu lao động có trình độ và thực
hiện việc di chuyển nhà máy tới biên giới để thu hút lực lợng lao động giản
đơn từ các nớc láng giềng nh Miama, Lào, Campuchia Tuy nhiên, trong
điều kiện thiếu lao động đó Chính phủ Thái Lan vẫn khuyến khích và duy trì
chính sách XKLĐ bởi chính sách này đã đem lại cho cả Nhà nớc và ngời lao
động Thái Lan nhiều lợi ích kinh tế.
Năm 1995, Thái Lan có khoảng 450.000 ngời lao động đang làm
việc ở nớc ngoài. Từ đó đến năm 1997 lực lợng lao động xuất khẩu của Thái
Lan có xu hớng giảm do tình hình kinh tế thế giới, tuy nhiên thu nhập của
ngời lao động từ nớc ngoài gửi về Thái Lan không ngừng gia tăng.
Bảng 7: Tình hình XKLĐ của Thái Lan qua một số năm của thập kỷ 90
Năm 1995 1996 1997
Số lao động đợc đa đi 202.00 185.000 152.000
[9, tr.39]
Năm 1998, số lao động xuất khẩu đã tăng nhanh do tình hình khủng
hoảng kinh tế. Chỉ riêng thị trờng Mỹ, Nhật, Ixraen - Thái Lan đã xuất khẩu
sang 200.000 lao động.
Bảng 8: Thu nhập do lao động của Thái Lan ở ngoài nớc gửi về

Năm 1994 1995 1996
Tiền gửi về (tỷ USD) 1,00 1,15 1,30
[9, tr.39]
20
Với nhận thức XKLĐ sẽ góp phần làm giảm tình hình thất nghiệp
trong nớc, tháo gỡ những khó khăn của nền kinh tế - xã hội, Chính phủ Thái
Lan đã có chính sách khuyết khích XKLĐ:
- Bộ lao động xã hội Thái Lan đã thành lập các trung tâm t vấn về
pháp lý và thu xếp việc vay nợ cho những ngời Thái Lan đi lao động ở nớc
ngoài.
- Nhà nớc đào tạo nghề và ngoại ngữ cho ngời lao động trớc khi đi
làm việc ở các nớc.
- Việc tuyển ngời đợc đặt dới sự quản lý chặt chẽ của Bộ lao động
xã hội. Mặc dù có tới hơn 300 doanh nghiệp tham gia XKLĐ song Bộ lao
động luôn giữ quyền can thiệp vào hoạt động của các doanh nghiệp để giúp
các tổ chức này luôn đi đúng hớng.
1.3.3. Bănglađét
ở Bănglađét, XKLĐ đợc xác định là một chiến lợc và là một lĩnh
vực kinh tế mũi nhọn trong nền kinh tế quốc dân. Với dân số 136,8 triệu,
Chính phủ Bănglađét đã cho phép khoảng 250 doanh nghiệp đợc phép tham
gia XKLĐ.
Theo tin từ "Thị trờng lao động ngoài nớc", số lợng XKLĐ của
Bănglađét trong những năm gần đây đã đạt kỷ lục trên 1 triệu lao
động/năm. Mỗi năm Bănglađét thu đợc khoảng 1,34 tỷ USD.
Thị trờng lao động mà Bănglađét xuất khẩu sang chủ yếu là các nớc
Malaixia, arậpxêut và Hàn Quốc. Hiện nay, chỉ riêng ở arậpxêut đã có
khoảng 1 triệu lao động và công nhân của Bănglađét đang làm việc trong
nhiều ngành và trên nhiều cơng vị khác nhau. Phần lớn tiền từ nớc ngoài gửi
về Banglađet là tiền của công nhân nớc này làm việc ở arậpxêut.
1.3.4. Một số vấn đề rút ra qua công tác xuất khẩu lao động của

các nớc Philippin, Thái Lan và Banglađet
21
Nghiên cứu chính sách XKLĐ của một số nớc trong khu vực có
điều kiện hoàn cảnh tơng đối giống và gần gũi với hoàn cảnh Việt Nam, có
thể rút ra một số điểm chính sau:
- Các nớc này đều coi XKLĐ là một chiến lợc kinh tế - xã hội, và
khai thác có hiệu quả nguồn nhân lực dồi dào của mình bằng XKLĐ.
- XKLĐ đã đem lại những thành quả đáng kể cả về kinh tế và xã hội.
+ Về kinh tế: Thu nhập từ XKLĐ của các nớc này đều đạt trên 1 tỷ
USD/năm, trong những năm cuối của thế kỷ. Đây là khoản tiền mà chỉ có
một số ít ngành của họ đạt đợc.
+ Về xã hội: Bằng chiến lợc XKLĐ các nớc này đã giải quyết đợc
một số lợng lớn việc làm, đồng thời tạo ra một số ngành dịch vụ mới phục
vụ công tác XKLĐ.
Để khuyến khích và thúc đẩy XKLĐ, chính phủ các nớc ấy đã đề ra
những chính sách đúng đắn: Đầu t thích đáng; Cho phép nhiều doanh nghiệp
tham gia khai thác thị trờng và XKLĐ; Có chính sách tài chính phù hợp tạo
điều kiện cho ngời lao động vay vốn tham gia XKLĐ.
Bảng 9: Số lợng doanh nghiệp tham gia XKLĐ ở một số nớc
Nớc Dân số (triệu) Số DN đợc cấp phép XKLĐ
Thái Lan 61,4 300
Philipin 72,9 980
Inđonexia 210,4 70
Bănglađet 136,8 250
Srilanca 18,9 155
ấn Độ 978 120
Pakistan 145,6 285
[30, tr.10]
22
- Hoạt động XKLĐ đợc đặt dới sự quản lý về mặt nhà nớc của Bộ

lao động. Bộ lao động có quyền chi phối, điều chỉnh để các doanh nghiệp
hoạt động đúng hớng, có hiệu quả.
- Có các tổ chức đại diện của chính phủ ở những nớc có lao động
của nớc mình làm việc để bảo vệ quyền lợi cho ngời lao động và can thiệp
kịp thời khi có mâu thuẫn xảy ra.
Tuy nhiên việc xuất khẩu lao động ồ ạt không kiểm soát chu đáo
cũng phát sinh nhiều tiêu cực và đem lại những hậu quả xấu. XKLĐ cũng
phụ thuộc vào tình hình kinh tế nớc ngoài. Nếu đặt nhiều kỳ vọng vào
XKLĐ thì khi nền kinh tế có biến động, việc nhập lao động của các nớc bị
chững lại hoặc có sự sa thải hàng loạt lao động nớc ngoài sẽ là một hiểm
họa. Do vậy việc nắm chắc thị trờng lao động đề ra các giải pháp phù hợp
cho từng giai đoạn khác nhau trong quá trình XKLĐ sẽ là những yếu tố quan
trọng trong việc thực hiện tốt công tácXKLĐ trong hiện tại và tơng lai.
Kết luận chơng 1
Nớc ta có gần 40 triệu lao động, đó là một tiềm năng to lớn. Tuy
nhiên nguồn lao động phân bố không đều và tập trung ở nông thôn là chủ
yếu, trong khi diện tích đất nông nghiệp ngày một giảm Đất chật ngời
đông, ngành nghề kém phát triển đã làm nảy sinh mâu thuẫn gay gắt giữa
cung và cầu lao động, đồng thời việc áp dụng những thành tựu khoa học
công nghệ và tổ chức sắp xếp lại sản xuất càng làm cho lực lợng lao động
dôi ra đáng kể. Thất nghiệp, thiếu việc làm đã và đang gây áp lực mạnh mẽ
cho chơng trình quốc gia về việc làm và thực hiện các chính sách kinh tế xã
hội khác. Thực tiễn nớc ta những năm qua cũng nh kinh nghiệm của các n-
ớc trong khu vực và trên thế giới cho thấy đẩy mạnh xuất khẩu lao động là
một chính sách kinh tế đối ngoại hoàn toàn đúng đắn phù hợp với sự phát
triển của lực lợng sản xuất, quá trình toàn cầu hóa và sự phân công lao động
quốc tế diễn ra ngày càng sâu sắc. Xuất khẩu lao động là một trong những
23
giải pháp hữu hiệu góp phần giải quyết tình trạng thất nghiệp, tạo việc làm,
tăng thu nhập, cải thiện đời sống của nhân dân. Hoạt động này cũng góp

phần quan trọng vào quá trình đào tạo nguồn nhân lực cho công cuộc công
nghiệp hóa đất nớc, và tăng cờng tính đoàn kết hữu nghị, giúp đỡ lẫn nhau
giữa nớc ta với các nớc khác. Chính vì vậy việc nghiên cứu, đẩy mạnh công
tác xuất khẩu lao động trong những năm tới là việc làm cấp thiết góp phần
quan trọng thúc đẩy sự phát triển chung của nền kinh tế
24
Chơng 2
Tình hình xuất khẩu lao động
của nớc ta những thập kỷ qua
2.1. Tình hình xuất khẩu lao động của nớc ta thời kỳ 1980
- 1990
Sau năm 1975, nớc ta hoàn toàn độc lập bớc sang một kỷ nguyên
mới - Kỷ nguyên khôi phục và phát triển kinh tế, xây dựng CNXH và bảo
vệ vững chắc thành quả cách mạng.
Mặc dù đã đạt đợc nhiều thành tựu quan trọng trên lĩnh vực kinh tế,
xã hội nhng chúng ta cũng vấp phải không ít khó khăn mà một trong những
khó khăn gay gắt nhất là sự mất cân đối về cung cầu lao động, lực lợng lao
động d thừa lớn, số ngời cha đủ việc làm hoặc cha có việc làm rất đông. Để
giải quyết vấn đề trên "đa công nhân và cán bộ đi bồi dỡng nâng cao trình độ
và làm việc ở các nớc XHCN" lúc này đợc coi là một trong những giải pháp
quan trọng và có tính thời sự. Quyết định của Hội đồng Chính phủ số 46CP
ngày 01/02/1980 chỉ rõ: "Trớc yêu cầu nhiệm vụ mới của cách mạng nớc ta,
đòi hỏi phải nhanh chóng xây dựng một đội ngũ công nhân lành nghề và cán
bộ kỹ thuật, nghiệp vụ, quản lý giỏi phù hợp với nhiệm vụ xây dựng và phát
triển kinh tế, văn hóa của đất nớc. Để thực hiện nhiệm vụ quan trọng này đi
đôi với việc tăng cờng công tác đào tạo và bồi dỡng trong nớc, Hội đồng
Chính phủ chủ trơng đa một bộ phận công nhân và cán bộ đang công tác ở các
xí nghiệp, cơ quan nhà nớc sang các nớc XHCN nhằm mục đích bồi dỡng,
nâng cao tay nghề, nâng cao trình độ kỹ thuật, nghiệp vụ quản lý đồng thời
làm việc có thời hạn trong các cơ sở kinh tế của các nớc đó nhằm đáp ứng tốt

yêu cầu đào tạo lao động của nớc ta, vừa giúp các nớc anh em khắc phục
một phần khó khăn về lao động, trên tinh thần hợp tác XHCN giữa các
thành viên trong Hội đồng tơng trợ kinh tế".
25

×