Tải bản đầy đủ (.pdf) (35 trang)

Tìm hiểu các quốc gia ấn độ la mã hy lạp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.02 MB, 35 trang )

Chương 1: Các quốc gia cô đại phương Đông
1 .1 Ấn Độ
1.1.1 Vị trí địa lý và các giai cấp
Sự hình thành ở Ấn Độ thời kỳ đầu là một vùng đất có sự đa dạng địa lý tuyệt vời. Các dãy núi gồ
ghề, sa mạc khô cằn, rừng nhiệt đới ẩm, và các đồng bằng màu mỡ chia sẻ tiểu lục địa. Người ấn
Độ ban đầu dựa vào thức ăn và lao động dựa vào các loài động vật mạnh có thể sống sót những
thách thức địa lý của khu vực. Cho dù được chăn thả qua các dãy núi cheo leo hoặc chăn thả trên
đồng cỏ đồng bằng, gia súc là một nguồn tài nguyên quý giá.
Sữa bò là một yếu tố của chế độ ăn sớm của Ấn Độ. Những người nông dân đầu tiên đã sử dụng
gia súc để kéo xe ngựa và cày. Gia súc đã trở nên có giá trị như vậy đối với nền văn minh Ấn Độ
thời kỳ đầu. Rằng chúng được dùng như tiền và đã được sử dụng được xem như thánh thần.
Những di tích của người Homo được tìm thấy tại Hasnola trong lưu vực Narmada ở miền trung
Ấn Độ cho thấy rằng Ấn Độ đã có người sinh sống ít nhất là sớm nhất vào thế kỷ Pleistocen giữa,
khoảng 200.000 đến 500.000 năm trước. Thời kỳ đồ đá cũ của tiểu lục địa Ấn Độ bao gồm
khoảng thời gian khoảng 250.000 năm, bắt đầu khoảng 300.000 năm trước. Con người hiện đại
dường như đã định cư ở tiểu lục địa trước khi kết thúc kỷ băng hà cuối cùng khoảng 12.000 năm
trước. Khu định cư lâu dài đầu tiên được xác nhận đã xuất hiện cách đây 9.000 năm tại Hang
động Bhimbetka ở khu vực ngày nay là Madhya Pradesh. Việc phát hiện ra Mehrgarh (7000 trước
Công nguyên hoặc sớm hơn) là biểu tượng của nền văn hóa đồ đá mới ở Balochistan, Pakistan
ngày nay. Dấu tích của nền văn hóa đồ đá mới đã được tìm thấy ở Vịnh Cambat, với niên đại
carbon có niên đại khoảng 7500 năm trước Công nguyên.
Nền văn minh sông Hằng đã đưa con người ra khỏi thời kỳ đồ đá. Mọi người phát triển vai trị gia
đình và niềm tin tơn giáo liên quan đến văn hóa nơng trại của họ.
Việc dùng Kim loại. Hơn 6.000 năm trước, người dân ở cả sông Nile và thung lũng sông TigrisEuphrates đều dùng đồng để làm dụng cụ và đồ trang sức. Theo thời gian, người ta học được cách
chế tạo đồng Kim loại hữu ích hơn. Một hỗn hợp đồng và thiếc, đồng cứng hơn đồng. Người dân
ở sông Nin và thung lũng sông Tigris-Euphrates làm đồ đồng như Carly cách đây 5.000 năm.
Người dân ở Ấn Độ và Trung Quốc cũng sử dụng đồng thau từ rất sớm. Việc phát minh ra các
công cụ bằng đồng đã đánh dấu sự kết thúc của thời đại đồ đá và sự khởi đầu của thời đại đồ
đồng.
Sắt mạnh hơn đồng. Làm sắt là một q trình dài và khó khăn. Chúng ta khơng biết khi nào con
người phát hiện ra cách sử dụng sắt. Nó có thể đã được phát hiện riêng biệt trong nhiều khu vực


khác nhau. Tuy nhiên, chúng ta biết rằng cách đây khoảng 3.200 năm người dân ở tây Nam Á đã
học làm sắt. Thời đại đồ sắt đã bắt đầu.
Ấn Độ là một đất nước đa dạng về mọi mặt: văn hóa, tơn giáo, chủng tộc, ngơn ngữ ... Ấn Độ
giáo là tôn giáo lớn nhất ở Ấn Độ (hiện có 966 triệu tín đồ) và lớn thứ ba trên thế giới (1,03 tỷ tín
đồ) đóng vai trị chủ đạo. trong việc định hình cơ cấu xã hội của Ấn Độ.Nhìn từ ngồi vào trong,
các xã hội Ấn Độ chồng chéo lên nhau về đẳng cấp, giai cấp, tôn giáo, ngôn ngữ, vùng miền ...
nhưng nếu hệ thống đẳng cấp được định vị là xương sống của toàn bộ cơ cấu xã hội Ấn Độ thì


mọi thứ sẽ có nề nếp. Varna có nghĩa là màu sắc và là khuôn khổ đầu tiên cho sự phân chia xã hội
trong thời kỳ Vệ Đà. Bốn đẳng cấp ở Varna là Bà-la-mơn (đẳng cấp tu sĩ, cịn được gọi là đẳng
cấp Bà-la-mơn), Kshatriya (cịn được gọi là Rajanya, đẳng cấp của các hoàng tử và chiến binh
quý tộc), Vaishya (thợ thủ công, thương gia, nông dân) và Sudra (giai cấp nô lệ, làm việc chăm
chỉ Mọi người).
Tuy vậy, vẫn còn một đẳng cấp thứ năm trong hệ thống varna vốn khơng được cơng nhận chính
thức trong các kinh sách, là đẳng cấp Dalit (tiện dân). Những người thuộc đẳng cấp này bị coi là
"nằm ngoài xã hội" và phải làm các công việc bị cho là hạ tiện như đổ phân, nhặt rác…Người
thuộc đẳng cấp thấp không được có quyền kết hơn với những người thuộc đẳng cấp cao hơn.
Những người ở đẳng cấp trên có quyền lấy người ở cấp dưới làm vợ. Nếu người đàn ông lớp dưới
dám lấy một phụ nữ ở đẳng cấp trên, thì con cái họ sẽ bị xếp vào hạng tiện dân.Ngày nay, mặc dù
khơng cịn được chính thức cơng nhận nhưng chế độ phân biệt đẳng cấp vẫn có ảnh hưởng sâu
đậm đến xã hội Ấn Độ, đặc biệt là tại các khu vực nông thôn.
1.1.2 Điều kiện tự nhiên
Tầm quan trọng của địa lý và khí hậu
Nền văn minh Ấn Độ đầu tiên phát triển tại thung lũng sông Ấn, ở phần tây bắc của tiểu lục địa
Ấn Độ, khoảng 4.500 năm trước đây. Địa lý và khí hậu đóng vai trị quan trọng trong sự phát triển
của nền văn minh trên tiểu lục địa. Địa lý tự nhiên. Tiểu lục địa Ấn Độ kéo dài về phía nam từ
Trung Á đến Ấn Độ Dương. Nó được ngăn cách ở phía bắc với phần cịn lại của châu Á bởi các
dãy núi cao chót vót. Phần lớn nhất trong số các dãy núi này là dãy Himalaya, bao gồm các đỉnh
cao nhất trên thế giới. Những ngọn núi này gây khó khăn cho những người nhập cư và xâm lược

đến Ấn Độ bằng đường bộ. Đèo Khyber nổi tiếng là một trong số ít các con đường cho phép
người dân vượt qua các ngọn núi để vào Ấn Độ.
Gió mùa là dấu hiệu của các mùa ở Ấn Độ. Thông thường từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau, gió
mùa thổi từ phía bắc và đơng bắc. Bất kỳ độ ẩm nào chúng mang theo đều rơi xuống các sườn
phía bắc của dãy Himalaya. Mưa Lttle tại Ấn Độ trong mùa này.Mùa mưa, được gọi là gió mùa
Tây nam, xảy ra từ giữa tháng 6 đến tháng 10, khi gió tây nam mang khơng khí ấm và ẩm từ Ấn
Độ Dương.
Hơi nước trong khơng khí ngưng tụ để tạo thành các dôi và mưa. Mưa lớn rơi dọc theo đồng bằng
ven biển, nhưng lượng mưa thưa thớt là điển hình của vùng đất phía sau Ghat Tây. Hạ thung lũng
Ganges và đơng Himalaya có lượng mưa lớn nhất. Những vùng này nằm ngay trên đường gió
mùa. Tại hầu hết Ấn Độ, phần lớn lượng mưa của Vear đến từ gió mùa Tây nam.Thời gian của
gió mùa rất quan trọng. Nếu trời đến muộn hoặc ít mưa, mùa màng bị hư. Nếu gió mùa gây mưa
nhiều, lũ lụt có thể tràn qua vùng nơng thơn.
Khó khăn: Ấn Độ giao lưu văn hóa với thế giới bên ngồi cịn hạn chế nên văn hóa Ấn Độ mang
đậm bản sắc dân tộc, lũ lụt, thủy lợi gây ra nhiều khó khăn.


Ảnh 1.1
Phía bắc là núi cao như bức tường thành, phía đơng nam và tây nam giáp biển, có sơng lớn: sông
Ấn, sông Hằng và sa mạc rộng lớn. Nam Cực và cả hai bên eo biển. Đại dương màu mỡ và sự
hợp lưu của sông Ấn và sông Hằng tạo thành một vùng châu thổ màu mỡ.Địa hình phía Bắc, phía
Đơng Nam và Tây Nam có biển bao bọc, núi non hiểm trở => cư dân Ấn Độ cổ hạn chế tầm nhìn
của các thế lực ngoại bang, góp phần bảo vệ các đặc trưng văn hóa truyền thống.
Các con sơng lớn đóng vai trị quan trọng trong đời sống và sản xuất của cư dân Ấn Độ: Cung cấp
nguồn nước dồi dào, nguồn lợi thủy sản dồi dào. Chúng là huyết mạch giao thông kết nối các
vùng, miền trên cả nước. Sơng Indus và sơng Hằng có một vị trí vơ cùng linh thiêng trong lịng
người dân Ấn Độ bởi họ tin rằng những con sông này từ trên trời rơi xuống, những con sơng này
có khả năng thanh lọc tâm hồn và gột rửa mọi tội lỗi của con người.
1.1.3 Thời kỳ Maurya
1.1.3.1 Giai đoạn mở đầu, phát triển và suy tàn

Đế quốc Maurya là một thể lực hùng mạnh trên một diện tích rộng lớn vào thời Ấn Độ cổ đại, do
vương triều Maurya cai trị từ năm 321 đến 185 TCN. Để quốc Maurya bắt nguồn từ vùng
Magadha tại đồng bằng hạ du sông Hằng (nay là Bihar, phía đơng Uttar Baradesh và Bengal) ở
mặt phía đơng của tiểu lục địa Ấn Độ, đế quốc có kinh đơ đặt tại Pataliputra (nay là Patna). Đế
quốc được Chandragupta Maurya thành lập vào năm 322 TCN, ông đã lật đổ vương triều Nanda
và nhanh chóng mở rộng thế lực của mình về phía tây đến vùng trung và tây Ấn Độ do tận dụng
được lợi thế là các thế lực địa phương ở các vùng này đang xâu xé lẫn nhau sau khi các đội quân
Hy Lạp và Ba Tư của Alexandros đại để rút lui về phía tây. Năm 320 TCN, đế quốc đã hồn tồn
kiểm soát được vùng tây bắc bắc Ấn Độ, đánh bại và chinh phục các satrap do Alexandros để lại.
Dưới thời vua Ashoka, lãnh thổ miền Bắc và Trung Ấn Độ lần đầu tiên được thống nhất lại thành
một quốc gia rộng lớn, nền kinh tế phát triển mạnh, tình hình chính trị - xã hội ổn định, văn hóa
đạt được nhiều thành tựu. Để củng cố và mở rộng lãnh thổ của vương quốc, vua Ashoka đã cho
quân đánh chiếm Kalinga. Trong cuộc chiến này, hàng vạn người đã bị giết hoặc bị bắt. Cảnh tang


thương của chiến tranh đã khiến ông rất hối hận. Từ đó, ơng tun bố từ bỏ các cuộc chinh phạt
bằng vũ trang, tự nguyện trở thành một Phật tử, một vị hồng đế của hịa bình.
Về đối nơi, Ashoka thi hành nhiều chính sách tiến bộ như giảm bớt nhà ngục, bỏ cực hình, mở
nhiều bệnh xá, nhà an dưỡng phục vụ người già và phụ nữ, làm đường có trồng cây bóng mát,
đào giếng, giúp nâng cao đời sống của nhân dân. Ông chủ trương thuyết phục và khuyến khích
dân chúng hơn 1 ép buộc và sử dụng luật pháp. Luật lệ và lệnh cấm chỉ đem ra thực thi trong một
số trường hợp không thể giải quyết được bằng sự tự nguyện. Về đối ngoại, nhà vua đã thực hiện
chính sách giao hảo với các nước láng giềng, cử các sứ thần đặt quan hệ ngoại giao với nhiều
nước như Syri, Ai Cập, Macedonia và tiếp tục duy trì quan hệ thân hữu với vương triều Seleukos
ở Iran, quan tâm khuyến khích việc giao thương giữa Ấn Độ với các nước ngoài, mở mang đường
sá, bến cảng. Ashoka đã thực hiện chính sách tơn trọng và bảo đảm tự do cho mọi tơn giáo, cho
phép tín đồ các tơn giáo được hồn tồn sống theo các ngun tắc và đức tin. của riêng họ, đồng
thời đề cao Phật giáo, tơn làm quốc giáo và khuyến khích văn hóa Phật giáo phát triển
Asoka mất vào khoảng năm 232 trước Công nguyên và sức mạnh của Đế chế Mauryan bắt đầu
suy giảm chậm. Các con trai của ông chiến đấu với nhau để giành quyền kiểm soát ngai vàng, và

những kẻ xâm lược từ phía bắc và phía đơng tấn cơng các tỉnh phía bắc của để chế. Cuối cùng,
vào năm 184 trước Cơng ngun, Hồng đế Mauryan cuối cùng đã bị giết bởi một trong những vị
tướng Bà-la-môn của ông ta, người đã tuyên bố sự khởi đầu của một triều đại mới. Sau khoảng
140 năm, Mauryan hùng mạnh một thời sụp đổ, tiếp nối là Đế chế Shunga.
1.1.3.2 Thành tựu về kinh tế
Dưới sự lãnh đạo của Chandragupta Maurya và những người kế nhiệm, các hoạt động thương
mại, nơng nghiệp và kinh tế trong và ngồi nước của Ấn Độ đã phát triển mạnh mẽ và mở rộng
do việc thiết lập các hệ thống tài chính, hành chính, quản lý và các đảm bảo an ninh hiệu quả và
độc đáo. Được mô tả trong một số văn bản như một mơ hình quản lý kinh tế hiệu quả, sự giàu có
của Maurya được hình thành từ hoạt động thương mại trên bộ và đường biển với Trung Quốc và
Sumatra ở phía đơng, Ceylon ở phía nam, Ba Tư và Địa Trung Hải ở phía tây. Mạng lưới thương
mại quốc tế về các mặt hàng như lụa, dệt, thổ cẩm, thảm, nước hoa, đá quý, ngà voi và vàng đã
được trao đổi trong nội địa Ấn Độ trên các con đường nối với Con đường Tơ lụa , và cũng thông
qua một đội hải quân buôn bán thịnh vượng.
Sau Chiến tranh Kalinga, Đế chế đã trải qua gần nửa thế kỷ hịa bình và an ninh dưới thời
Ashoka. Mauryan Ấn Độ cũng tận hưởng một kỷ nguyên hòa hợp xã hội, thay đổi tôn giáo, và
mở rộng khoa học và kiến thức. Sự chấp nhận của Chandragupta Maurya đối với Kỳ Na giáo đã
góp phần vào việc đổi mới và cải cách xã hội và tôn giáo của tồn bộ xã hội của ơng, trong khi sự
chấp nhận Phật giáo của Ashoka được cho là nền tảng cho sự cai trị hịa bình, chính trị, xã hội và
bất bạo động trên khắp Ấn Độ.
1.1.3.3 Các nét độc đáo về kiến trúc và thủ cơng nghiệp
Có 14 đại thạch pháp đề cập đến việc hạn chế sát sinh, dịch vụ phúc lợi và y tế, cuộc chiến ở
Kalinga và những tác dụng của nó. Hai Pháp du Kalinga được ban ra vào năm 259 TCN, (còn gọi
là pháp dự số 15 và 16 nội dung tương tự như 3 pháp dù đã bị hư hỏng, là các pháp dự số XI: nói
về việc cứu tế và sự tương thân của nhân loại, số XII: nói về sự khoan dung tơn giáo và XIII: nói


về cuộc chiến tranh ở Kalinga, sự hồi tâm của Asoka). Hai pháp cụ này cũng có lời dành cho các
quan cai trị vùng mới chiếm, nói về những vấn đề đạo đức, thi hành công lý, vấn đề làm giảm
căng thẳng với lân bang và cải thiện hồ bình. Các Đại thạch Pháp này chủ yếu tìm thấy tại:

Manshera - Hazara, Pakistan Shahbazgarhi - Peshawar, Pakistan, Girnar (Junagarh) - Gujarat,
Sopara - Thana, Maharashtra, Yerragudi - Kurnool, A.P, Jaugarh or Jaugada - Ganjam,Orissa
,Dhauli - Puri, Orissa ,Kalsi - Dehradun, Uttrakhand.
Vào năm thứ 27 – 28 SCN, nhiều sắc lệnh vua ban mới được khắc lên trên những cột đá đánh chà
bóng lống, được dựng lên ở nhiều thành phố quan trọng trong thung lũng sông Hằng và các
đường lớn trong đế quốc, thường được gọi là Thạch trụ bia ký (Pillar Edicts). Lúc ban đầu có lẽ
có rất nhiều pháp trụ được dựng lên, nhưng đến nay chỉ còn lại có 10 trụ mà thơi. Mồi trụ trung
bình cao khoảng từ 12 đến 15 thước, nặng đến 50 tấn. Trên đầu mỗi trụ đều được điêu khắc
những hình tượng thật tinh xảo như sư tử gầm, con bò thần hay con ngựa thánh... Tất cả thạch trụ
đều được lấy từ các mỏ ở Chunar, phía nam Varanasi và được kéo đến nơi được dựng lên, nhiều
khi xa cả hàng trăm dặm. Dù sau bao nhiêu thế kỷ phơi giữa mưa nắng gió sương vậy mà nước
bóng láng vẫn cịn sáng như gương, thể hiện được nghệ thuật tạc đá của Ấn Độ thời bấy giờ.
Hang động pháp vụ: Được tìm thấy ở 3 trong số 4 hang trong dãy núi Barabar thuộc bang Bihar.
Trong 2 hang trước có bia ký của Hoàng đế Asoka ghi vào năm thứ 12. Hang thứ ba ghi năm thứ
19 sau khi ông lên ngôi, tặng các hang động như là nơi cư trú cho các nhà tu khổ hạnh thuộc giáo
phải Ajvika, mà giáo chủ là Gosala cùng thời với Đức Thích Ca. Trong hang thứ 4 thì bia ký được
ghi lại thuộc thế kỷ thứ 5 TL sau này. Ở một nơi khác là đồi Nagarjuni có 3 hang động nữa (Gopi,
Vapi and Vadathik) chứa bia ký đề tặng cho tu sĩ phải Alivika của một vị vua dùng tước vị “Thiên
tử ", nhưng lại do vua Dasaratha, cháu của hoàng đế Asoka cho dựng lên. Hang Lomash Rishi
được tìm thấy nhưng khơng phát hiện ra bia ký nào.
1.1.3.4 Đặc trưng về tôn giáo
- Đi theo giáo lý Phật giáo, Ashoka tuyên bố trong nhiều chiếu chỉ rằng ông hiểu Dharma của
Phật giáo là việc thực hành tôn giáo với sự trung thực, từ bi, bất bạo động với tất cả mọi người và
cả động vật. Vì thế, từ đó về sau, các chính sách cai trị đất nước của Ashoka chịu ảnh hưởng rất
lớn từ tư tưởng và triết lý tốt đẹp đó của Phật giáo.
- Ngồi các bia ký, Asoka đã triệu tập Hội đồng Phật giáo thứ ba và tài trợ xây dựng khoảng
84.000 bảo tháp bằng gạch và đá để tơn vinh Đức Phật. Ơng đã xây dựng Đền Mauryan Maya
Devị trên nền tảng của một ngôi đền Phật giáo trước đó và gửi con trai và con gái của mình đến
Sri Lanka để truyền bá giáo lý về Pháp.
1.1.3.5 Thành tựu về văn học

Arthasastra của Kautilya được coi là nguồn lịch sử quan trọng nhất của triều đại Mauryan.
Kautilya được coi là kiến trúc sư của vị vua đầu tiên, triều đại Chandragupta, người đang nắm
quyền, kiến trúc sư của cấu trúc nhà nước, chính trị và luật pháp. Arthasastra được chia thành 15
cuốn sách và 180 chương. Cuốn sách được Shamasastri phát hiện và dịch sang tiếng Anh vào năm
1909.


Indika của Megastanese: Một nguồn lịch sử khác cũng có thể được coi là nhân chứng lịch sử cho
thời kỳ này được ghi lại trong Indika của Megastanese. Megasthenes sống ở Ấn Độ từ năm 317
trước Công nguyên đến năm 312 trước Công nguyên. Với tư cách là đại sứ cho các vị vua
Seleukos, tôi được cử đến Ấn Độ trong triều đại Mauryan. Indika of Megasthenes mới chỉ được
phát hiện một phần, trong đó đề cập đến nhiều vấn đề, như thổ nhưỡng, thời tiết, động vật, thực
vật của Ấn Độ ... Ngồi ra, ơng cũng đề cập đến tổ chức tơn giáo, nghệ thuật và hành chính của
vương triều, đặc biệt là kinh đô của Pat Tổ chức hành chính của Liptra.Ơng cũng đề cập đến việc
tổ chức quân đội và đời sống xã hội của nhân dân lúc bấy giờ. Cuốn sách được tìm thấy nguyên
vẹn. Phần lớn nằm rải rác trong các tác phẩm sau này của các nhà văn Hy Lạp và La Mã như
Strabo, Neachus (Arrian) và Plinius. Nearchus là tướng của Alexander Đại đế, người đã viết về
hạm đội Macedonian đi từ Indus đến Vịnh Ba Tư. Trong Arrian (khoảng năm 87 SCN - sau năm
145), Neachus ghi lại rằng Alexander đã được người bản xứ Gedrosia (Baluchistan) tiết lộ cho
con đường. Semiramis khởi hành theo hướng đó từ Ấn Độ với hai mươi người của anh ta. Cyrus,
con trai của Cambyses, trở về, và bảy người ở lại. Ngồi ra, cịn ghi lại nhiều thơng tin khác về
đời sống lịch sử, chính trị, kinh tế xã hội của thời kỳ này.
Mudrarakshasa: là một bản kinh được viết bằng tiếng Phạn bởi Visakadatta trong Vương triều
Gupta vào khoảng thế kỷ thứ 5 sau Cơng ngun. Tác phẩm ghi lại rằng Peacock Gupta thuộc
dịng dõi giai cấp thấp trong xã hội Ấn Độ thời bấy giờ.Tác phẩm ghi lại rằng Peacock Gupta
thuộc dòng dõi giai cấp thấp trong xã hội Ấn Độ thời bấy giờ. Tác phẩm cũng đề cập đến việc
Chandragupta Maurya lật đổ vương triều Nanda với sự hỗ trợ đắc lực của Kautilya. Tác phẩm
cũng đề cập đến đời sống kinh tế và xã hội của người dân đảo Peacock.
Văn học tơn giáo: Ngồi những tác phẩm kể trên, cịn có một số tác phẩm văn học mang tính chất
tơn giáo như Puranas, Kỳ Na giáo, và Phật giáo. Theo truyền thống Jain, ông được coi là cháu trai

của trưởng làng, người đứng đầu gia đình chim cơng (mayura-poshaka). Theo Phật giáo, các kinh
điển Phật giáo như Jataka cũng đề cập đến các triều đại. Dipavamsa và Mahavamsa cũng đề cập
rằng Ashoka đã truyền bá Phật giáo đến Sri Lanka. Các tác phẩm của Mahāvamsa đề cập đến ông
như một thành viên của giáo phái Ksatryas sống trên dãy Himalaya.
Bộ sưu tập Mahavamsa tuân theo tinh thần của Phật giáo và có nhiều truyền thuyết được thiết kế
để răn đe thế giới. Kể từ khi trở thành một Phật tử, Vua A Dục từ bỏ quá khứ đầy ác nghiệp của
mình và đi từ Candàsoka (bạo chúa của dục vọng) đến Dhammàsoka. (A - Lăng mộ vua De
France). Tác phẩm cũng ghi lại rằng Ashoka đã giết 99 trong số 100 anh em của mình trong cuộc
chiến tranh giành ngai vàng, chỉ để lại một người tên là Tisa. Đây không phải là trường hợp, vì
Sắc lệnh số 5 của Đại Pháp Shi, được ban hành 11 năm sau khi ông gia nhập, cũng cho thấy rằng
Ashoka đã đề cập đến anh chị em của mình. Trong Mahaparinirvana Sutra, Digha Nikaya,
Moriyas được mơ tả là thuộc giai cấp Ksatryas, vì đất nước Pipphalivana, gần biên giới Nepal
ngày nay. Dharmashastra cũng được coi là một nguồn lịch sử có giá trị, và Asoka đã thành lập
một bộ vào năm 257 trước Công nguyên được gọi là "Bộ Hành pháp hoặc Thực hành Pháp", bổ
nhiệm các quan chức cấp cao dharmamahāmātras (Bộ trưởng Bộ Pháp).(Theo Dòng chữ số V, 13
năm sau khi lên ngôi) Tất cả các công việc phúc lợi xã hội dành riêng cho người dân, chăm sóc
các nhu cầu cơ bản của phụ nữ, người dân biên giới và các nhóm tơn giáo khác nhau và phải cơng
bằng trong quản lý công lý. Ashokavadana và Divyavadana là hai tác phẩm Phật giáo kể về câu
chuyện của Vua Bindusara và Vua Ashoka, những người đã hành quân đến Taxila để xâm lược,


đàn áp và cải đạo ơng. Chaitra hay cịn gọi là Parisisthaparvan (Tiểu sử của Chanakya) của
Hemachandra cũng cung cấp nhiều thông tin quý giá về Vua Chandra Gupta Maurya. Nhiều sách
cổ ở Sri Lanka ghi lại rằng vua Ashoka đã khơn ngoan ổn định đời sống chính trị của tồn khu
vực thơng qua chính sách viễn chinh hịa bình thơng qua tính hợp pháp, dẹp n các cuộc nổi loạn
nhiều lần và không lật đổ nhân dân. Người dân thành phố Takshahira thuộc vùng Gandhara phản
đối sự áp bức gay gắt của giới cầm quyền địa phương.
1.1.3.6 Các nhân vật nổi trội
Chandragupta Maurya (340 TCN- 297 TCN) là vua sáng lập vương triều Maurya trong lịch sử Ấn
Độ cổ, trị vì từ khoảng 321 TCN đến 297 TCN. Tên ông được các tài liệu Hy Lạp và Latinh để

cập như Sandrokuptos (Σανδρόκυπτος),Sandrokottos (Σανδρόκοττος) hay Androcottus. Trước khi
Chandragupta lên nắm quyền, miền tây bắc Ấn Độ nằm dưới sự thống trị của người Hy Lạp trong
khi vương triều Nanda hùng cứ ở đồng bằng sông Ấn-Hằng. Năm 323 TCN, Chandragupta xây
dựng lực lượng đánh bại các thống đốc của người Hy Lạp ở miền tây bắc. Tiếp theo đó ơng hạ bệ
vua Nanda năm 321 TCN rồi khởi lập triều đại Maurya. Năm 304 TCN ông chặn đứng một cuộc
xâm lược của quân đội Syria do vua Seleukos I Nikator chi huy. Kết quả là Seleukos phải ký hoà
ước, nhượng vùng Balochistan và gả công chúa cho Chandragupta đổi lấy 500 thớt voi. Seleukos
còn gửi sứ thần Megasthenes đến thực hiện các nghi thức giao hảo tại thủ đô Pataliputta (Hoa
Thị) của Chandragupta, mà đến nay những tấu chương của Megasthenes vẫn tồn tại. Sau một loạt
cuộc chinh phạt, Chandragupta đã trị vì trên một đế quốc rộng lớn, trải dài từ Bengal và Assam ở
phía đơng 61 tới Afghanistan và Balochistan ở phía tây, tới Kashmir và Nepal ở phía bắc, và tới
Cao ngun Deccan ở phía tây,kiểm sốt được hầu hết Ấn Độ. Điều này khiến ông được người
đời xem là ông vua thực thụ đầu tiên cai quản hầu hết tiểu lục địa Ấn Độ.
Bindusara (320 - 273 TCN) là vị hoàng đế Maurya thứ hai của Ấn Độ. Ông là con trai của người
sáng lập ra triều đại Chandragupta, và là cha của vị vua nổi tiếng nhất Ashoka. cuộc sống
Bindusara không được ghi chép trong các sử liệu như của hai vị vua kia: nhiều thông tin về ông
ấy đến từ các nguồn huyền thoại được viết vài trăm năm sau khi ông băng hà.Bindusara củng cố
đế chế được cha mình tạo dựng nên. Các ghi chép của tác gia Tarantha Phật giáo Tây Tạng thế kỷ
XV và ghi chép của chính quyền về ơng với cuộc chinh phục lãnh thổ rộng lớn miền nam Ấn Độ,
nhưng một số nhà sử học nghi ngờ tính xác thực lịch sử của tuyên bố này. Vua Bindusara có bốn
người vợ và năm con trai, trong đó 1 đứa con út đã chết do mũi tên độc của hoàng tử Susima.
Ashoka Đại Đế (br. aśoka, pi. asoka, zh. JI, hv. A Dục) là vị vua thứ ba của vương triều Ma-gát-đa
(sa, maurya, zh. Lk, họ. Khổng Tước) thời Ấn Độ xưa, trị vì Ấn Độ từ năm 273 đến 232 trước
CN. Là một trong những hoàng để kiệt xuất trong lịch sử Ấn Độ, Ashoka đã toàn thắng trong loạt
các cuộc chinh phạt và cai trị phần lớn vùng Nam Á, từ Afghanistan cho đến Bengal hiện nay và
đi sâu đến miền Nam tận Mysore. Là một vị vua ủng hộ Phật giáo, nhưng từ thuở mới lên ngôi,
ông được mệnh danh là A Dục vương bạo ác, ông lập ra những khung hình phạt tàn ác giống như
các cảnh mơ tả trong địa ngục để hành hình tội nhân, và ông đặt tên cho các ngục ấy là địa ngục
trần gian. Về sau ông Quy y Tam Bảo và ông đã lập nhiều bia đá ghi lại những thành tích trong
cuộc đời Phật Thích-ca Mâu-ni và theo truyền thống Phật giáo, tên ông gắn liền với việc lưu

truyền Phật giáo. Ông xây dựng trung tâm cơ quan quyền lực của đế chế Maurya ở Magadha (nay
là Bihar). Ông trở nên đề cao Phật giáo sau khi chứng kiến nhiều chết chóc trong chiến tranh


Kalinga, mà bản thân ông đã thực hiện do khát vọng mở rộng để quốc của mình. "Ashoka suy
ngẫm về trận chiến ở Kalinga, cuộc chiến mà người ta ngẫm rằng đã làm hơn 100.000 người chết
và 150.000 người khác bị trục xuất." Ashoka đã quy y Tam bảo vào khoảng 263 TCN. Sau đó ơng
đã hoằng dương giáo pháp nhà Phật ra khắp châu Á, và thiết lập các di tích đánh dấu nhiều địa
danh quan trọng trong cuộc đời truyền pháp của Phật tổ Thích-ca Mâu-ni. Ơng là vị quân vương
đầu tiên của nước Ấn Độ xưa (sa.bharatavarsa) đã thống nhất được một lãnh thổ vĩ đại, lớn hơn
ngaycả Ấn Độ ngày nay.
1.1.4 Gúp ta
1.1.4.1 Giai đoạn mở đầu, phát triển và suy tàn
Cổng Torana ở đồi Sanchi 300 năm sau Công Nguyên, gia tộc Gupta trở nên mạnh mẽ ở
Magadha, thủ đô cũ của Mauryans. Chandra Gupta Đệ nhất là người tạo ra Vương triều
Gupta,ông thống nhất Ấn Độ vào năm 319 lên nắm quyền vào 320 năm sau Công Nguyên.
Vương triều này tồn tại từ năm 319-467 và có vai trị tổ chức kháng cự, khơng cho các tộc ở
Trung Ả xâm lấn từ phía tây bắc, thống nhất miền Bắc Ấn Độ; tiếp đó, tấn cơng chiếm cao
ngun Đề-can, làm chủ gần như tồn bộ miền Trung Ấn Độ. Thủ đô nằm ở Pataliputra, nay là
Panta, thuộc nhà nước Ấn hóa ở Bihar. Dưới sự trị vì của Gia tộc Gupta, nền văn minh Ấn Độ trở
nên hưng thịnh. Gupta đề cao đạo Hindu, nhưng họ cũng ủng hộ Phật giáo. Suốt thời của Gupta,
đạo Hindu chiếm ưu thế hơn ở Ấn Độ và vẫn tiếp tục đến nay.
Dưới thời Gupta, nền khoa học và mỹ thuật phát triển không ngừng. Các nhà sử học xếp triều
Gupta ngang hàng với nhà Hán, nhà Đường và Đế quốc La Mã như là những nền văn minh tiên
tiến thời cổ. Các nhà sử học xem thời Gupta là thời kỳ hoàng kim của Ấn Độ về mặt khoa học,
tốn học, thiên văn học, tơn giáo và triết học Ấn Độ
Sau Skandagupta là một loại các nhà cầm quyền yếu kém như Purugupta (467-473),
Kumaragupta II (473-476), Budhagupta (476-495), Narasimhagupta, Kumaragupta III,
Vishnugupta, Vainyagupta và Bhanugupta. Những kẻ xâm lượC từ Trung Ả đã tràn vào Ấn Độ ở
cuối những năm 400 SCN. Vào thập niên 480, Hephthalites đã phá vỡ các hàng phịng thủ của

Gupta ở phía tây bắc, và phần lớn đế chế ở tây bắc bị tràn ngập người Hung vào năm 500. Trong
thế kỷ tiếp theo, họ bắt đầu kiểm soát miền bắc Ấn Độ. Vị vua Gupta vĩ đại cuối cùng,Skanda
Gupta, rút cạn ngân khố trong một nỗ lực bảo vệ để chế. Sự cai trị của Gupta kết thúc vào khoảng
năm 550 SCN.
1.1.4.2 Thành tựu về kinh tế
Cư dân Ấn Độ đã biết sử dụng rộng rãi đồ sắt, kinh tế nơng nghiệp có điều kiện phát triển mạnh
mẽ. Thủ công nghiệp phát triển nghề luyện kim, dệt, biết chế tạo những đồ kim hoàn bằng vàng,
bạc, ngọc.
Từ thời cổ đại, đất đai đã cung cấp một cuộc sống cho hầu hết người dân miền bắc Ấn Độ. Mặc
dù một số người thuộc tầng lớp cao nhất trong xã hội được hưởng nhiều sự xa hoa, nhưng hầu hết
người ta chỉ được ngang qua. Trong giai đoạn Ấn-Arya, Rajas kiểm soát đất đai và thu hút nhiều
của cải từ các nông dân làm việc trên đồng ruộng của họ. Dưới thời maurya, các vị vua đã tuyên
bố một phần tư thu hoạch cach về thuế.


Ở miền nam Ấn Độ, nhiều người kiếm sống bằng cách buôn bán với các quốc gia khác. Ngoại
thương mở rộng đến miền bắc Ấn Độ dưới quyền Guptas. Thương nhân bán tơ, bông, len, ngà
voi, gia vị và đá q. Hàng hóa Ấn Độ xuất hiện ở Viễn Đơng, Tây Nam Á, Châu Phi và Châu
Âu.
1.1.4.3 Các nét đặc trưng về văn hóa và xã hội
Ngồi các thiên sử thi tơn giáo, người ta cịn thích những câu chuyện về Panchatantra, tức năm
cuốn sách ". Đây là những truyện ngụ ngôn từ những câu chuyện thời Gupta với đạo đức lành
mạnh như khả năng thích ứng, khơn khéo và quyết tâm. Chúng ảnh hưởng đến những câu chuyện
đã phổ biến ở những nơi khác trên thế giới. Sách Panchatantra được dịch ra nhiều thứ tiếng hơn
bất cứ sách nào khác ngoại trừ Kinh Thánh.
Kịch Ấn Độ phát triển rất nhiều trong thời kỳ Gupta. Các vở kịch có thể chứa những cảnh bi
thảm, nhưng chúng luôn kết thúc hạnh phúc. Các vở kịch thường được biểu diễn ở ngoài trời. Họ
ít dùng đến phong cảnh vì khơng có rạp hát thường xuyên.
Nghệ thuật và kiến trúc. Những bức tranh tường trong hang động cho ta biết điều gì đó về những
hoạ sỹ Ấn Độ thời kì đầu Họ cũng đưa ra những lời dlues về cuộc sống hàng ngày ở Ấn Độ cổ

đại. Các bức tranh hang động tại Ajanta, từ thời Gupta, mô tả Đức Phật và những người theo ơng.
Ít được biết về các loại hình hội họa khác. Gỗ và vải mà các nghệ sĩ sử dụng đã khơng sống sót
những hình ảnh ban đầu của Đức Phật cho thấy ảnh hưởng của nghệ thuật Hy Lạp và La Mã. Các
phong cách bắt đầu thay đổi trong thời kỳ Gupta. Điêu khắc trở nên cứng nhắc và trang trọng
hơn. Khi Ấn Độ giáo phát triển tầm quan trọng, các kiến trúc sư đã thiết kế những ngôi đền lớn.
Các ngôi đền Hindu được xây dựng vuông với những bức tường nặng xung quanh bức tượng của
một vị thần. Vị vua vĩ đại của Maurya là Asoka, người đã khắc luật lên các cột đá, cũng xây dựng
hàng ngàn bảo tháp. Một ngôi tháp là một ngôi đền hình vịm. Các hiện vật và đồ vật liên quan
đến Đức Phật được đặt bên trong.
Đạt nhiều thành tựu to lớn: Phật giáo, Ấn Độ giáo ra đời và phát triển. Chữ viết ban đầu là kiểu
chữ đơn sơ Brahmi, rồi được nâng lên sáng tạo thành hệ chữ Phạn (Sanskrit) được hồn thiện từ
thời A-sơ-ca cả chữ viết và ngữ pháp.Thời Gúp-ta đã có những cơng trình kiến trúc, tượng, những
tác phẩm tuyệt vời, làm nền tảng cho văn hố truyền thống Ấn Độ, có giá trị vĩnh cửu xuyên suốt
thời gian lịch sử của loài người. Đây là thời kì định hình của nền văn hóa Ấn Độ.
Đế quốc Gupta hay Vương triều Gupta tồn tại từ năm 319 tới 467. Để chế dần dần suy yếu do
nhiều nguyên nhân như mất dần các vùng lãnh thổ và quyền lực hoàng để gây ra bởi các chư hầu
thuở trước của họ và cuộc xâm lược của dân tộc Huna từ Trung Á. xã hội Ấn Độ dưới thời Vương
triều Gúp – ta đạt tới sự thịnh trị, kéo dài từ giữa thế kỉ V đến đầu thế kỉ VI thì bị diệt vong.
Phong tục Hindu cung cấp cho phụ nữ trong xã hội Ấn Độ cổ một số sự bảo vệ. Tuy nhiên, theo
Luật pháp, phụ nữ khơng có quyền như nam giới. Luật Hindu của Manu được viết vào khoảng
200 năm trước công nguyên và 200 sau Công nguyên. Theo những điều luật này, con gái phải
vâng lời cha mình. Khi kết hơn, phụ nữ buộc phải vâng lời chồng. Nếu chồng của họ qua đời, các
góa phụ phải vâng lời con trai của họ. Pháp luật Manu cũng cấm phụ nữ sở hữu tài sản hoặc
nghiên cứu các thánh thư như Kinh Vệ Đà.


1.1.4.4 Các nét độc đáo về kiến trúc và thủ cơng nghiệp
Với sự truyền bá của Phật giáo và lịng sùng kính Đức Phật, nhiều ngơi chùa hang động đã được
tạo ra bằng cách chạm khắc các hang động thành hàng chục ngôi chùa nguy nga, rất đẹp và rất
lớn. . Tượng phật tạc bằng đá hoặc bằng đá cùng với các đình chùa. Người ta cịn xây dựng trên

núi nhiều ngôi đền và kim tự tháp bằng đá khổng lồ, là nơi ở của các vị thần, đồng thời cũng làm
nhiều tượng thần bằng đá hoặc đồng, tạo nên một phong cách nghệ thuật. Tác phẩm điêu khắc rất
độc đáo.
1.1.4.5 Đặc trưng về tôn giáo
Phật giáo ra đời ở Bắc Ấn Độ và được thành lập bởi nhà hiền triết Siddhartha, người tự xưng là
Thích Ca Mâu Ni và sau này trở thành một vị Phật. Phật giáo truyền bá trong thời kỳ Ashoka và
tiếp tục đến Vương triều Gupta và Vương triều Haksa cho đến thế kỷ thứ 7 sau Công nguyên, khi
Ấn Độ giáo ra đời và phát triển. Đây là tơn giáo xuất phát từ tín ngưỡng cổ xưa của người Ấn Độ
và thờ nhiều vị thần, chủ yếu là 4 vị thần: bộ ba Bramian (thần sáng tạo), Siiva (thần hủy diệt),
Visnu (thần bảo vệ) và siva (thần sét). là một thế lực siêu nhiên mà con người phải khiếp sợ.
1.1.4.6 Thành tựu về khoa học
Giáo dục. Một số người ở Ấn Độ cổ đại rất tiến bộ về giáo dục. Trẻ em thuộc các đẳng cấp cao
học được giáo dục chính quy trong nhiều môn học. Họ nghiên cứu Kinh Vệ Đà và các nền văn
học khác, bao gồm cả những thiên sử thi vĩ đại. Họ cũng học thiên văn, toán học, chiến tranh và
chính quyền. Trẻ em của tầng lớp bình dân chỉ học nghề thủ công hoặc nghề nghiệp Nalanda là
một trường đại học Phật giáo nổi tiếng nằm ở thung lũng Castern Ganges, nó đã trở thành trung
tâm của học cao hơn ở Ấn Độ trong thời gian của Guptas. Hàng ngàn sinh viên đã tham dự miễn
phí. Mặc dù là một trường đại học Phật giáo, các sinh viên cũng nghiên cứu Kinh Vệ Đà và triết
học Ấn Độ giáo, cùng với logic, ngữ pháp và y học.
Toán học và thiên văn. Các nhà khoa học Ấn Độ
Tay nghề cao. Các nhà toán học hiểu các số trừu tượng và số âm mà khơng có đại số nào khơng
tồn tại. Họ cũng hiểu khái niệm zero Ane Infinity. Aryabhata là một nhà toán học sinh ra vào cuối
thập niên 400S. Ông là một trong những người đầu tiên được biết đến là đã sử dụng đại số và giải
phương trình bậc hai. Toda chúng tơi gọi các chữ số từ 1 đến 9 là "Ả Rập". Tuy nhiên, họ có thể
được phát minh bởi các nhà tốn học Ấn Độ. Các nhà khoa học khác nghiên cứu các vì sao. Các
nhà thiên văn Ấn Độ đã xác định bảy hành tinh có thể nhìn thấy bằng mắt thường. Họ cũng hiểu
được sự tự quay của vệ tinh và dự đốn chính xác chu kỳ của Mặt Trời và Mặt Trăng.
Thuốc. Y học Ấn Độ rất phát triển. Các thầy thuốc Ấn Độ hiểu tầm quan trọng của tủy sống. Các
thủ thuật phẫu thuật khơng chỉnh hình xương khiến phẫu thuật thẩm mỹ. Họ phát triển kỹ thuật
tiêm chủng — thực hành lây nhiễm cho người bị một dạng bệnh nhẹ để người đó khơng bị bệnh

nặng hơn. Các bác sĩ ấn Độ đầu tiên đã tiêm chủng thành công những người chống lại bệnh đậu
mùa đã không được biết đến ở thế giới phương Tây cho đến những năm 1700. Những nhà lãnh
đạo Ấn Độ xây dựng các bệnh viện miễn phí vào thập niên 400S. Các bác sĩ đã luyện tập, một
phương pháp khác không được biết đến ở phương Tây cho đến thời hiện đại
1.1.4.7 Các nhân vật nổi trội


Chandragupta I (chữ viết Gupta: Cha-ndra-gu-pta, rc 319-335 hoặc
319-350 CN) là một vị vua của triều đại Gupta , người trị vì ở miền bắc Ấn Độ. Danh hiệu của
ơng là Maharajadhiraja ("vị vua vĩ đại của các vị vua") cho thấy rằng ơng là vị hồng để đầu tiên
của triều đại.
Chandragupta II là một trong những Hoàng đế hùng cường nhất của đế quốc Gupta. Ơng trị vì từ
năm 375 đến 415, khi đế quốc Gupta lên tới đỉnh cao quyền lực. Thời kì này được sử sách xem là
một Thời kì hồng kim của nghệ thuật Ấn Độ. Ông là con của Samudragupta và Datta Devi. Ông
đã thành cơng mở mang bờ cõi.
1.2 Trung Quốc
1.2.1 Vị trí địa lý và dân cư
1.2.2 Điều kiện tự nhiên
1.2.3 Nhà Hạ và Nhà Thương
1.2.3.1 Giai đoạn mở đầu, phát triển và suy tàn
Nhà Hạ (tên tiếng Anh: Xia) là thời kỳ hình thành xã hội nơ lệ ở Trung Quốc cũng là triều đại đầu
tiên thực hiện chế độ cha truyền con nổi. Một câu chuyện đầu tiên của Trung Quốc kể về Pangu,
người đàn ông đầu tiên, thức dậy từ 18.000 năm trước tạo ra vũ trụ. Một Truyền thuyết Trung
Quốc khác mô tả công sức của Hạ Đại Vũ (Yu), một nhân vật thần thoại đã thoát nước lũ để
người dân có thể sống ở Trung Quốc. Ơng thành lập một dòng dõi các vị vua gọi là Nhà Hạ. Nhà
Hạ cai trị một giai đoạn cuối thời đồ đá mới, những người sống ở khu vực sơng Hồng Hà bắt đầu
từ khoảng năm 2200 trước Công nguyên. Nhà Hạ truyền được 17 đời vua, từ Hạ Vũ đến Ha Kiệt
được hơn bốn trăm năm thì diệt về tay Thành Thang nhà Thương. Đây là triều đại Trung Nguyên
đầu tiên theo chế độ thế tập được ghi chép trong sách sử truyền thống Trung Quốc tồn tại khoảng
thế kỷ 21 TCN-khoảng thế kỷ 16 TCN.

Sự suy tàn nhà Hạ:Vào khoảng thế kỷ 16 TCN trong trận Minh Điều nhiều người cho rằng nhà
Hạ chưa phải là một triều đình cai trị đúng nghĩa mà là một liên minh nhiều bộ lạc cổ đại của
người Hoa Hạ có hình thức tù trưởng phức tạp Căn cứ theo ghi chép ghi chép trong sử sách Vũ
truyền vị cho con là khải cải biến thiện nhượng chế bộ lạc nguyên thuỷ triều Hạ tổng cộng truyền
được 14 đời với 17 vua Kế tục trong khoảng 471 năm bị nhà Thương tiêu diệt.
Nhà Thương (tên tiếng Anh: Shang) là triều đại tiếp nối nhà Hạ. Tại một thời điểm giữa khoảng
1750 TCN và 1500 TCN, những kẻ xâm lược được gọi là Nhà Thương đã qt vào thung lũng
sơng Hồng. Nhà Thương bắt đầu nổi lên từ phía Tây châu thổ sơng Vi, thống nhất vùng đồng
bằng phía bắc Trung Quốc, xây dựng chế độ theo hình thức phong kiến phân quyền. Triều đại này
bắt đầu từ vua Thành Thăng và kết thúc ở vua Trụ Vương, tất cả 30 đời vua trong cùng hơn 100
năm. 13 vua đầu, anh truyền ngôi cho em cùng mẹ, hiểm lắm mới có trường hợp cha truyền cho
con. Nhưng đến 4 đời vua cuối thì đều truyền từ và từ đó thành lệ cho tất cả các triều đại sau.
Sự suy tàn của triều đại nhà Thương Vào khoảng năm 1200 trước Công nguyên những người
chăn gia súc ở Sa mạc Gobi khắc nghiệt và chân đồi Tian Shan đã bắt đầu đi về phía thung lũng


Huang những người này có lẽ đã bị thu hút bởi lối sống và sự giàu có của Trung Quốc theo thời
gian một số giường như đã bắt đầu ổn định và sống dọc theo tên giới của nhà Thương. Trong suốt
những năm 1100 TCN nhà Thương liên tục chiến đấu với các quốc via láng giềng và hiếu chiến
này những nỗ lực quân sự của họ cupois cùng làm kiệt sức các nhà thống trị nhà Thương Vị vua
cuô cùng của nhà Thương Di- xin không thể bảo vệ biên giới phía Tây Bắc của Vương Quốc , vào
khoảng năm 1050 TCN một dân tộc được gọi là Chu đã thành lập một liên minh với các bộ lạc đã
lật đổ vương triều nhà chu biện minh cho cuộc chinh phạt của họ bằng cách tuyên bố rằng nhà
Thương đã tham nhũng và khơng thích hợp để cai trị.
1.2.3.2 Thành tựu về kinh tế
Nông nghiệp: Vào thời Hạ, văn minh nơng nghiệp có sự phát triển khá lớn. "Luận ngữ-Thái bá"
ghi rằng "Vũ tận lực vào ngòi lạch", biến thủy tại thành thủy lợi, phục vụ trồng cây. Kỳ thực việc
ứng dụng kỹ thuật thủy lợi là do nhân dân lưu vực Hồng Hà trong q trình lao động thực tiễn
dần tích lũy được, khơng phải chỉ do Đại Vũ tiến hành. Theo truyền thuyết, đại thần của Vũ là
Nghi Địch bắt đầu cất rượu, Hạ hậu Thiếu Khang cũng phát minh ra phương pháp cất rượu nếp.

Vào hậu kỳ thời đại đồ đá mới, văn hóa Long Sơn thuộc văn hóa Trung Nguyên đã có tập quán
cất rượu, đến thời Hạ khi mà sức sản xuất cao hơn thì cất rượu ngon, uống rượu ngon trở thành
một cách để tượng trưng cho quyền lực và tài lực. Trong văn hiến cổ có ghi chép đến các truyền
thuyết "Đỗ Khang làm rượu", "Nghi Địch làm rượu". "Thái Khang làm rượu nếp", "Thiếu Khang
làm rượu nếp", chúng là những bằng chứng về tầm quan trọng của rượu trong thời kỳ này. Thời
kỳ Hạ-Thương-Tây Chu, rượu đều cất từ lương thực và có số độ khơng cao, cũng khơng nồng
mạnh. Trong "Lễ ký-Ngọc tảo" có chép rằng cử nhân uống ba chén (túc) rượu xong thì đầu óc
vẫn tỉnh tảo. Để đáp ứng yêu cầu sản xuất nông nghiệp, người ta khám phá ra quy luật các mùa
của nông sự, loại nông lịch vẫn được lưu hành đến nay từng được gọi là Hạ lịch- có khả năng
được biến thành vào thời Hạ.
Súc mạc nghiệp có sự phát triển nhất định, cịn có một số thị tộc bộ lạc chun mơn chăn nuôi,
như Hữu Hỗ thị sau khi thua Hạ hậu trong trận chiến tại Cam bị biếm làm mục nỗ làm việc chăn
nuôi. Thức ăn chủ yếu của thổ dân Tam đại là cháo, cơm nấu từ các loại hạt. Đem các loại kê, gạo
nấu thành cháo loãng, cháo đặc dùng để ăn, xã hội thượng tầng thì ăn nhiều cơm, có khi cịn ăn
rau xanh. Chỉ khi cử hành hoạt động tế tự quy mơ lớn thì mới giết thịt gia súc để tế, thịt cũng đặt
ở trong chiếc đỉnh trữ dưới lòng đất. Tại nhiều điểm di chỉ văn hóa Nhị Lý Đầuphát hiện được
các mẫu vật vỏ kê, vỏ gạo.
"Khảo cơng ký" có viết rằng "Hạ hậu thị thượng tượng, thể hiện rằng Ha hậu xem trọng sản xuất
thủ công nghiệp. Triều Hạ thành công trong việc đưa văn minh Trung Nguyên từ thời đại đồ đá
quá độ sang thời đại đồ đồng. Các đồ vật thời đại đồ đá mới như đồ đá tinh xảo, đồ xương sừng,
đồ vỏ trai dần bị đồ gốm, đồ sơn mài, đồ ngọc thạch, đồ ngọc lam, đồ đồng, đồ đồng thanh thay
thế. Tương truyền, vào thời kỳ Nghiêu Thuấn đã sử dụng đồ son, sang thời kỳ Hạ Vũ được sử
dụng làm đồ tế, "nhiễm kỳ ngoại, nhi chu họa kỳ nội" [tham Thời kỳ viễn cổ, nhân dân sử dụng
rộng rãi đồ gỗ và sơn, song đồ làm bằng gỗ dễ dàng bị mục, không dễ bảo tồn, hiện nay khai quật
được khá ít. Tại di chỉ Nhị Lý Đầu khai quật được một cái bàn nhỏ được sơn, lớp gỗ đều đã mục
nát, song vẫn có thể phân tích ra hình dạng. Từ việc nghiên cứu hình dạng, phát hiện ra có nhiều
loại như ống sơn, trống sơn, bát sơn, hộp sơn đáy bằng, hay quan tài sơn. Chế tạo đồ ngọc thạch


thời Hạ đã có trình độ tương đối,"Tả truyện" viết rằng vào thời Chu sơ phân phong Lỗ quốc công

Bá Cầm, ban cho bảo ngọc truyền thế, "Ha hậu thị chi hoàng" Tại di chỉ Nhị Lý Đầu khai quật
được nhiều loại đồ ngọc như qua ngọc, đạo ngọc, khuê ngọc, tông ngọc, bản ngọc, việt ngọc. Các
loại đồ ngọc này dùng làm vật phẩm trang trí trong lễ nghi, không phải là công cụ dùng trong
thực tiễn.
Trong số văn vật khai quật thuộc kỳ thứ ba của văn hóa Nhị Lý Đầu có binh khí làm bằng đồng
thanh sớm nhất của Trung Quốc, ứng với ghi chép "Vũ huyệt chi thời, dĩ đồng vi binh". Có nhiều
chủng loại đồ đồng như qua, đao, đục, chùy, móc câu. Ngồi ra, cịn phát hiện vết tích của việc
chế tạo đồ đồng như than gỗ, vun đồng đỏ, mảnh khuôn đúc, mảnh nồi nấu. Vào thời kỳ đồ đá
mới, nghề xe sợi dệt vải có tiến bộ, xuất hiện khung cửi nguyên thủy, nguyên liệu xe sợi dệt vải
trong xã hội hạ tầng phần nhiều là từ sắn dây, đay, còn trong xã hội thường tầng thì dùng nhiều
lơng, da, đương thời đã có tập quán nhuộm y phục. Mặc dù đến nay vẫn chưa phát hiện ra chứng
cử khảo cổ chứng tỏ văn hóa Nhi Lý Đầu sử dụng lụa, song đã có phát hiện khảo cổ liên quan
trong văn hóa Long Sơn, văn hóa Đại Vấn Khẩu, văn hóa Lương Chỉ có niên đại sớm hơn, kết
hợp với ghi chép trong "Hạ tiểu chính" là "tam nguyệt,... nhiếp tang. Tang nhiếp nhi ký chi, cấp
tang dã....thiếp, tử thủy tàm), thì việc người Hạ từng sử dụng sản phẩm tơ lụa cũng có tình có lý.
Thương nghiệp "Diêm thiết luận" có viết rằng "Ha hậu dùng sò đen, cho thấy người thời Hán
nhận định triều Hạ dùng tiền vỏ sò. Nhiều nền văn hóa viễn cổ trên thế giới dùng vỏ sò vỏ trai
trong thiên nhiên làm tiền tệ, tiền đề của việc này là phải đủ về số lượng, đồng thời có thể cung
ứng vỏ sị biển trong một thời gian dài. Tuy nhiên, Hạ hậu thị là văn minh sông nước, phạm vi thế
lực chỉ giới hạn trong trung hạ du Hồng Hà, đến trung vẫn kỳ mới khốch trương đến bờ Hồng
Hải, trước đó Hạ hậu thị từng đối địch một thời gian dài với tộc Di ở phía đơng, khơng có nhiều
khả năng dự trữ được nhiều vỏ sị vỏ trai. Thương Khơng có nhiều khả năng dự tự được nhiều vỏ
sò vỏ trai. Thương nghiệp giao dịch vào thời Hạ có khả năng thơng qua hạt lương thực và gia súc
cịn sống để hồn thành. Tại di chỉ Nhị Lý Đầu phát hiện vỏ sò thiên nhiên và nhân tạo, chúng có
khả năng đảm đương nhiệm vụ tiền tệ.
1.2.3.3 Các nét đặc trưng về văn hóa và xã hội
Chính phủ và văn hóa Kinh tế và thủ công mỹ nghệ: Nền kinh tế nhà Thương chủ yếu dựa vào
nông nghiệp. Cây trồng bao gồm kê và lúa. Động vật trong nhà bao gồm lợn và gà để lấy thịt và
ngựa để lao động. Trong triều đại nhà Thương, người Trung Quốc đã biết nuôi tằm. Họ kéo sợi từ
kén tằm và dệt vải lụa từ sợ chi.Các nghệ nhân nhà Thương cũng là người đặt nền móng cho nghệ

thuật gốm sứ Trung Hoa sau này. Họ đã phát triển các hình thức và hình dạng được sử dụng trong
các bình nghi lễ của Trung Quốc. Thiên văn học và lịch: Người Trung Quốc chủ yếu sử dụng hai
loại lịch, một loại dựa trên mặt trời và một loại dựa trên chuyển động của mặt trăng. Âm lịch,
hoặc lịch dựa trên mặt trăng, được sử dụng để ghi lại các sự kiện riêng tư và công khai, chẳng hạn
như sự ra đời của một đứa trẻ hoặc cái chết của một người cai trị.
Tôn giáo: Tôn giáo phát triển trong thời kỳ Thương đã kết hợp thuyết vật linh - niềm tin rằng các
linh hồn tồn tại trong mọi thứ - với từ tổ tiên.Tôn giáo đa thần: thần sơng, núi, mưa, gió, sấm...
nhất là thần sinh sản . Cao hơn hết là Thượng đế, hình người, tạo ra người và vạn vật, rồi tới thần
Đất, hình một người đàn bà, sinh ra và nuôi vạn vật.


Ngôn ngữ và chữ viế: Chữ viết đầu tiên được biết đã xuất hiện ở nền văn minh nhà Thương - họ
đã phát triển chữ viết có hơn ba nghìn ký tự, một phần là tượng hình và một phần là tượng thanh.
Loại chữ viết này được thể hiện trên những phần xương phẳng của gia súc hay xương hươu, trên
vỏ sị và mai rùa và có lẽ trên cả gỗ.
1.2.3.4 Các nét độc đáo về kiến trúc và thủ cơng nghiệp
Nghệ thuật Thời Ha, xã hội bắt đầu hình thành giai cấp trên dưới, sản phẩm nghệ thuật cũng theo
đó mà phân hóa. Đồ vật mà nhân dân hạ tầng sử dụng có tạo hình thực dụng, hoa văn trang trí
giản đơn, phát triển theo phương hướng thẩm mỹ chất phác.
Âm nhạc:Trung Quốc vào 9000 năm trước, tức sơ kỳ thời đại đồ đá mới, đã có xuất hiện nhạc
khí.Nhạc khi thời kỳ Hạ được chế tác từ xương, gỗ, đá, da, gốm, chủng loại bao gồm dụng cụ
diêu hưởng, hưởng cầu, địch, tiêu, cổ, khánh, chung, linh, huân, sừng hiệu lệnh.
Kỹ thuật:Nghề đúc đồng là thủ công nghiệp mới nổi, trọng yếu của triều Hạ.
1.2.3.5 Đặc trưng về tôn giáo
Hi sinh người và động vật để làm hài lòng thiên thần, thử lợi dụng hoạt động tế tư nhằm thoát
khỏi áp lực của thế giới tự nhiên đối với sinh tồn của nhân loại.
1.2.3.6 Thành tựu về khoa học
Nhân dân thời Hạ chủ yếu sử dụng hình thức văn học truyền miệng trong sáng tác văn học. Đề tài
ca dao và sinh hoạt lao động có liên hệ mật thiết và thần thoại được sử dụng để giải thích một số
sự vật khó hiểu trong thế giới tự nhiên.

Thiên văn lịch pháp: Người thời Hạ có khả năng đã sở hữu nhiều trị thức về thiên văn, lịch pháp.
Khoảng giữa đời Thương, người Trung Hoa bắt đầu nuôi ngựa. Có ngựa rồi thì có chiến xa, chiến
thuật đánh trận thay đổi hẳn. Chiến xa của Trung Hoa có nhiều liên quan với chiến xa của các
nước Tây Á, có thể là từ các dân tộc Ấn-Âu cổ đại truyền sang. Những chiến xa của nhà Thương
những vũ khí có hiệu quả vượt trội khi đối đầu với các bộ lạc khác.
1.2.3.7 Các nhân vật nổi trội
Thành viên Hạ tộc đầu tiên được văn hiến ghi chép. Là thủ lĩnh Hạ tộc, được phong tại Tung, cho
nên được gọi là "Hạ Chiêm Thành". Đường thời, nước sông gây lụt, có khơng ít các bộ lạc hình
thành liên minh bộ lạc nhằm chống lại nước lụt, Chiêm Thành được cử làm lãnh đạo trị thủy, trải
qua chín năm song cuối cùng thất bại. Tử Thành là con của Chiêm Thành, sau khi Chiêm Thành
mất, Tử Thành thụ mệnh của Thuấn làm công tác trị thủy. Tử Thành cải tiến phương pháp trị thủy
của cha, nạo vét dịng sơng, đồn kết tộc nhân các bộ lạc, cuối cùng chế ngự được nước lut.
Thành Khang:
Là vị vua sáng lập triều đại nhà Thương trong lịch sử Trung Quốc. Ông nổi tiếng trong lịch sử là
người quân chủ hiền minh, được sự trợ giúp của hai đại thần Y Doãn và Trọng Hủy, đã khởi binh
lật đổ Hạ Kiệt tàn bạo, người cai trị cuối cùng của nhà Hạ. Khi Thương Thang lên làm thủ lĩnh,


bộ tộc Thương có kinh tế phát triển khá mạnh và là một trong các vương quốc dưới quyền bá chủ
của nhà Hạ trong 10 năm.
Thái Giáp
Thái Giáp từ nhỏ sống trong cảnh quyền quý, chỉ hưởng lạc mà không làm việc và là một người
cai trị chuyên quyền đối xử với mọi người rất tồi tệ. Thấy Thái Giáp như vậy, Y Dỗn bèn dùng
biện pháp mạnh, đày ơng ra Đổng Cung để ông suy nghĩ và tỉnh ngộ. Sau 3 năm, Thái Giáp hiểu
ra sai lầm của mình, quyết tâm sửa chữa khuyết điểm. Ông trở thành một vị vua tài hoa của nhà
Thương.
1.2.4 Nhà Chu
1.2.4.1 Giai đoạn mở đầu, phát triển và suy tàn
Cuộc chinh phục Trung Quốc của nhà Chu vào khoảng năm 1050 TCN đánh dấu sự khởi đầu của
một kỷ nguyên sôi nổi trong lịch sử Trung Quốc. Dưới sự cai trị của ba triều đại kế tiếp - nhà

Chu, nhà Tân và nhà Hán - Trung Quốc dân trở thành một quốc gia rộng lớn và hùng mạnh. Lâu
dài nhất trong ba triều đại là nhà Chu, cai trị Trung Quốc từ khoảng năm 1050 TCN cho đến
khoảng năm 256 TCN (kéo dài khoảng 800 năm.) Nhà Chu là triều đại phong kiến trị vì dài nhất
trong lịch sử Trung
Quốc. Ban đầu nhà Chu đóng đơ ở vùng Tây An ngày nay, gần sơng Hồng Hà, sau đó đã thực
hiện nhiều cuộc chinh phục mở rộng vào châu thổ sông Dương Tử. Thiên tử đầu tiên của triều đại
nhà Chu là Chu Vũ Vương sau khi dời đơ đến đất Cảo (phía tây bắc Tây An tỉnh Thiểm Tây ngày
nay), đã dẫn đại quân đi diệt nhà Thương, và xây dựng lên triều đại Nhà Chu.Thời đại nhà Chu
được thành lập không lâu, trật tự chưa được lập lại thì Vũ Vương bằng hà sau đó tồn bộ mọi việc
lớn nhỏ trong triều đều do một tay Chu Công Đán điều hành.
Nhà Chu là Chu Vũ Vương sau khi dời đô đến đất Cảo (phía tây bắc Tây An tỉnh Thiểm Tây ngày
nay), đã dẫn đại quân đi diệt nhà Thương, và xây dựng lên triều đại Nhà Chu.Thời đại nhà Chu
được thành lập khơng lâu, trật tự chưa được lập lại thì Vũ Vương bằng hà sau đó tồn bộ mọi việc
lớn nhỏ trong triều đều do một tay Chu Công Đán điều hành. Chu Cơng Đán sau khi ổn định nội
chính đã dẫn đại quân xông pha, dẹp yên phiến loạn. Thời kỳ đầu của nhà Chu là Tây Chu, thời
kỳ sau là Đông Chu. Đông Chu lại được chia làm hai giai đoạn là Xuân Thu (770 – 476 ) và
Chiến Quốc (475 - 221).
Khoảng vào năm 700 TCN, nhà vua bắt đầu mất dần kiểm soát khi các chư hầu bắt đầu đấu đá lẫn
nhau. Thêm vào đó là nạn ngoại xâm. Uy tín của nhà vua bị suy giảm trong lòng người dân. Kinh
thành nhà Chu bị phá huỷ năm 771 TCN và vua nhà Chu phải chạy về phía đơng và thành lập một
nhà nước mới. Vương triều nhà Chu kéo dài 500 năm nhưng thực quyền khơng cịn mạnh như
vương triều tiền nhiệm. Năm 400 TCN, nhà Chu cơ bản khơng cịn quyền lực và mở ra một thời
đại mới đó là thời đại Xuân Thu Chiến quốc với người chiến thắng là nhà Tân.
1.2.4.2 Thành tựu về kinh tế
Kinh tế và dân số phát triển nhanh chóng trong thời Xuân Thu vào nửa sau của nhà Chu. Kết quả
là tranh giành bá quyền gay gắt xảy ra, tình hình xã hội thay đổi, gây xáo trộn trong và ngoài


nước. Ngồi ra, sản xuất nơng nghiệp cũng đạt được những thành tựu đáng kể. Công cụ bằng sắt
trở nên phổ biến, người ta biết dùng trâu để kéo cày, chăn nuôi, trồng trọt ...

1.2.4.3 Các nét đặc trưng về văn hóa và xã hội
Đến thờ Tây Chu số lượng chữ càng nhiều và cách viết càng đơn giản. Chữ viết tiêu biểu thời kỳ
này là kim văn, cũng gọi là chung đỉnh văn (chữ viết trên chuông đỉnh). Kim văn từ đời Thương
đã có nhưng cịn ít. Đến Tây Chu, nhà vua thường đem ruộng đất và người lao động ban thưởng
cho các quý tộc. Mỗi lần như vậy, vua Chu thường ra lệnh đúc đỉnh đồng và ghi sự việc ấy lên
đỉnh để làm kỷ niệm, do đó kim văn đến thời kỳ này rất phát triển. Ngoài đồ đồng, chữ viết thời
Tây Chu còn được khắc trên trống đá, thẻ tre.Kinh Thi là tập thơ ca đầu tiên và cũng là tác phẩm
văn học đầu tiên của Trung Quốc, được sáng tác trong khoảng 500 năm từ đầu thời Tây Cho đến
giữa thời Xuân Thu. Thời đó, thơ cũng là lời của bài hát. Vì vậy, vua Chu và vua các nước chư
hầu thường sai các viên quan phụ trách về âm nhạc của triều đình sưu tầm thơ ca của các địa
phương để phổ nhạc. Những bài thơ sưu tầm, phần lớn được tập hợp lại thành một tác phẩm gọi
là Thi. Trên cơ sở đó, Khổng Tử đã chỉnh lý lại một lần nữa.
Triều đại nhà Chu là đỉnh cao trong lịch sử của văn hóa Trung Quốc với Khổng Tử là tiêu biểu
của Nho Giáo, Lão Tử, Trang Tử, Liệt Tử là tiểu biểu của Đạo Giáo, Hàn Phi là tiêu biểu của
Pháp Gia; Mặc Tử là tiêu biểu của Mặc Gia. Họ là những bậc thánh hiền được người đời sau hết
mực tôn sùng. Những trường phái tư tưởng này không ngừng đưa kinh tế, đời sống phát triển mà
cịn có sức ảnh hưởng đông đảo đến tư tưởng cũng như đời sống của nhân dân. Để rồi đến tận
ngày nay nó vẫn trở thành niềm tự hào của mỗi người dân Trung Quốc.
Tới gần cuối đời Xuân Thu, Khổng Tử là người đầu tiên mở trường tư thục để dạy trẻ em và
thanh niên bất kỳ thuộc giai cấp nào. Có thể ông cũng dạy lục nghệ, nhưng ông chú trọng nhất tới
sự đào tạo một số thanh niên ưu tú, dạy họ Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Nhạc (có thể cả
Kinh Dịch nữa), để họ thành những người tài đức thay giai cấp quý tộc mà giúp vua chúa. Đến
khoảng đời Chu, Trung Quốc đã phát minh ra "lậu hồ” (bình có lỗ rị) để đo thời gian. Lậu hồ chỉ
có một bình, dưới đáy có lỗ rị. Nước trong bình vơi đến đâu thì biết lúc đó giờ gì.
1.2.4.4 Các nét độc đáo về kiến trúc và thủ cơng nghiệp
Nghệ thuật tạo hình của Vương triều Chu phản ánh sự đa dạng của nhà nước phong kiến mà nó
được thành lập và các lâu đài mà nó cuối cùng tách ra. Nghệ thuật thời Tây Chu về cơ bản là sự
tiếp nối của nghệ thuật thời nhà Thương. Điều này đặc biệt đúng với đồ đồng, nơi mà sự đa dạng
về hình dạng, trang trí và kỹ thuật đúc đã suy giảm nhanh chóng. Mãi cho đến thời kỳ Đông Chu
và thời kỳ cổ điển của Khổng Tử, các truyền thống địa phương độc đáo mới bắt đầu xuất hiện.

Phạm vi trang trí được áp dụng lần đầu tiên bao gồm các chủ đề trực quan - chẳng hạn như cảnh
săn bắn, xe ngựa và kỵ binh.
Phong kiến trong thời chu đã được phát hiện và tiết lộ các tịa nhà lớn với sàn đất và tường đâm.
Ngồi ra cịn có các tịa nhà hai tầng và tháp quan sát, và Laozi đề cập đến một tòa tháp chín tầng.
Mặc dù (ngoại trừ một vài tác phẩm trên lụa) khơng có bức tranh nào tồn tại từ người Chu, các
mô tả bằng văn bản về các bức tranh chứng minh chủ đề của chúng, bao gồm các nhân vật, chân
dung và cảnh lịch sử. Đồ trang trí và đồ vật ngọc bích được sử dụng xa hoa cho mục đích tang lễ


và nghi lễ, và chạm khắc trang trí phản ánh sự khéo léo tuyệt vời. Gốm tiếp tục truyền thống
Shang và mở rộng rất nhiều trong nhiều hình dạng và kết thúc trong thời kỳ Chiến Quốc.
1.2.4.5 Đặc trưng về tơn giáo
Có sự kết hợp của nhiều tín ngưỡng khác nhau, giữa kẻ thống trị và kẻ bị trị. Vẫn giữ nguyên việc
hiến tế tuy có giảm bớt so với thời nhà Thương tuy nhiên lại xuất hiện hiện tượng bồi tảng.
1.2.4.6 Thành tựu về khoa học
Vua nhà Chu không thành lập một nhà nước tập trung như nhà Thương, thay vào đó là chia đất
đại cho các hồng thân và cơng thần. Những người cai quản vùng đất đó được gọi là chư hầu và
phải cổng nạp quân đội và cống phẩm cho nhà Chu. Mỗi thế hệ họ lại phải chúng mình lịng trung
thành của mình. Nhà Chu cũng tin vào "Thiên mệnh" - khi một vương triều suy tàn đồng nghĩa
với việc Thiên mệnh khơng cịn đứng về phía họ
Nơng nghiệp: Một mảnh đất được chia thành 9 miếng vng, thu hoạch từ mảnh đất chính được
nộp lại cho nhà nước, những mảnh khác được nông dân thu hoạch
Binh chế: Nhà Chu sử dụng trưng binh lính, chiến xa và những vật dụng phục vụ cho quân đội
được các chư hầu cống nộp cho nhà nước theo quy định).
Luật pháp: Phân chia theo quý tộc hoặc dân thường. Với q tộc thì xử lí nhẹ cịn thường dân thì
mang tính cảm tính. Pháp luật cũng khơng được phổ biến trong dân gian.
Giáo dục: Trường học được làm hai cấp tiểu học cho những trẻ từ 8 đến 14 tuổi, đại học cho thiếu
niên từ 15 đến 20 tuổi. Tiểu học dạy cho trẻ cách ứng đối, kính nhường và học một số chữ. Đại
học dạy lục nghệ tức lễ, nhạc, xa (bắn cung), ngự (đánh xe), thư (viết chữ), số (tốn học). Con
nhà bình dân thì học ở hướng học (trường ở làng), con nhà quý tộc học ở trường quốc học (kinh

đô).
Chế độ huyết thống sớm chuyển qua q tộc trí thức.Chế độ tơng pháp: Là chế độ
truyền ngơi cho người con được lập đích tử. Được Chu Cơng quy định và ngày càng hồn thiện.
Thường đích tử sẽ là con của vợ cả (đối với vua là con trưởng của hồng hậu), Đích tử được
quyền kế thừa gia tài, địa vị và sự kính nể của người xung quanh. Con gái thì khơng được quyền
kế thừa, sau khi lấy chồng sẽ thành người của nhà chồng "nữ sinh ngoại tộc".
1.2.4.7 Các nhân vật nổi trội
Cơ Xương (1154 TCN - 1046 TCN), còn hay được gọi là Chu Văn Vương, một thủ lĩnh bộ tộc
Chu cuối thời nhà Thương trong lịch sử Trung Quốc. Ông là người đã xây nền móng triều đại nhà
Chu trong lịch sử Trung Quốc. Chu Vũ Vương tên thật là Cơ Phát, nhật danh là Vũ Để Nhật Đinh
là vị vua sáng lập triều đại nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc. Theo Hạ Thương Chu đoạn đại
cơng trình của các nhà sử học hiện đại Trung Quốc, ơng trị vì nước Chu (chư hầu của nhà
Thương) trong 14 năm, sau đó lật đổ nhà Thương và làm vua nhà Chu cai trị toàn Trung Quốc từ
năm 1046 TCN - 1043 TCN. Chu Vũ Vương nổi tiếng trong lịch sử vì đã lật đổ Trụ Vương tàn
bạo của nhà Thương, và thành lập triều đại lâu dài nhất của Trung Quốc.
Chương 2


2.1 Hy Lạp
2.1.1 Vị trí địa lý,dân cư và đặc điểm về hệ thống chính trị ở Hy Lạp
Vị trí địa lý của Hy Lạp khiến những người đầu tiên của nước này khó phát triển cảm giác thống
nhất. Những dãy núi ngắn cắt ngang đất liền Hy Lạp. Những ngọn núi này giữ làng riêng biệt.
Thay vì một vương quốc hoặc để chế lớn đang hình thành ở Hy Lạp, các thành phố riêng biệt
phát sinh. Địa lý của Hy Lạp có liên quan nhiều đến cách sống của những người Hy Lạp đầu tiên.
Đại lục Hy Lạp nằm trên phần phía nam của bán đảo Balkan. Bán đảo này ở đầu đông bắc của
biển Địa Trung Hải. Biển Aegean ở phía đơng ngăn cách Hy Lạp từ Tiểu Ả. Về phía tây, biển
Ionian phân chia Hy Lạp với Bán đảo Ý. Các đảo nhỏ nằm rải rác trên Biển Aegean và Ionian.
Trước thiên niên kỷ thứ ba trước Công nguyên, một số phần của đất liền Hy Lạp và một số đảo
lớn ở Aegean là nơi sinh sống của các dân tộc bản địa. Chính họ đã tạo ra nền văn minh lâu đời
nhất trong lịch sử Hy Lạp - Crete, Mysenic. Từ cuối thiên niên kỷ III đến đầu thiên niên kỷ II

TCN chưa đầy 1000 năm. Kết quả là, các dân tộc Hy Lạp khác nhau đã hồn tồn chinh phục khu
vực, với phía nam Balkan và các đảo tạo thành các thuộc địa chính của Hy Lạp. Người Dorian
định cư ở phần phía nam của bán đảo Peloponian, đảo Crete và một vài hòn đảo nhỏ ở phía nam
Ege. Người Lonians định cư trên đồng bằng Astic, đảo Eucalyptus và các vùng đất dọc theo bờ
biển phía tây của Tiểu Á. Người Akeen chủ yếu định cư ở miền trung Hy Lạp, người Elien ở miền
bắc Hy Lạp, một vài hòn đảo ở biển Aegean và bờ biển của Tiểu Á. Các dân tộc Hy Lạp của bốn
khu vực nói trên đã cùng nhau xây dựng nên lịch sử của các thành bang Hy Lạp. Họ khẳng định
có cùng nguồn gốc, cùng ngơn ngữ, cùng tín ngưỡng, tơn giáo và phong tục tập qn. Họ tự coi
mình là con cháu của thần Hêlen (Hellene) và gọi nước họ là Henlát (Hellas).
Tổ chức bộ máy nhà nước thể chế chính trị của Hy Lạp. Một nhóm nhỏ các chủ đất, được gọi là
quý tộc, hoặc những kẻ giỏi nhất " trong tiếng Hy Lạp, đã trở thành đại diện cho tầng lớp quý tộc
của mỗi thành phố-bang. Từng chút một, các quý tộc giành được nhiều đất đai và quyền lực hơn.
Vào khoảng năm 700 trước Công nguyên, các quý tộc ở nhiều thành bang Hy Lạp đã lật đổ các vị
vua của họ và tự mình nằm quyền. Các nhà q tộc kiểm sốt hầu như mọi khía cạnh của xã hội
Hy Lạp trong những năm này. Họ nằm độc quyền đối với quân đội và với tư cách là những chủ
đất lớn, họ kiểm soát nền kinh tế. Hai thành bang quan trọng nhất của Hy Lạp là Sparta và
Athens, cả hai có sự khác biệt về đời sống xã hội cũng như hệ thống chính quyền.
Về tổ chức bộ máy nhà nước Sparta:
Hình thức chính thể: Cộng hịa q tộc chủ nơ. Đứng đầu nhà nước là 02 vua: Có
quyền ngang nhau nhưng khơng nằm tồn bộ quyền lực (vua vừa là thủ lĩnh quân sự, vừa là tăng
lữ tối cao, vừa là người xử án). Hội đồng trưởng lão: Gồm 02 vua và 28 vị trưởng lão. Hội nghị
công dân: Điều kiện nam giới là công dân tự do, từ 30 tuổi trở lên. Hội đồng 5 quan giám sát: Là
cơ quan có thực quyền nhất. Ngun nhân thành lập: Dung hịa giữa Hội đồng trưởng lão và Hội
nghị công dân. Thành viên gồm 5 q tộc chủ nơ giàu có nhất.
Nhà nước Sparta rất chú trọng xây dựng lực lượng quân đội. Sau khi chế độ quân chủ ở Athens
kết thúc thành phố có một chính phủ q tộc .Chỉ những cơng dân sở hữu đất mới có chức vụ Tuy
nhiên các công nhân nam trưởng thành đã gặp nhau trong một hội nghi.Họ bầu ra các vị tướng


trong thời gian chiến tranh Lúc đầu luật của Athens không được viết ra. Vào cuối những năm 600

TCN nhiều nhà phi quý tộc đã phàn nàn về điều này. Draco đã tạo ra bộ luật thành văn đầu tiên
của Athens vào khoảng 621 TCN. Xã hội Athens các công dân thành lập nhóm đứng đầu trong xã
hội . Cơng dân có thể là q tộc giàu có hoặc nơng dân nghèo . Tuy nhiên những người đàn ơng
mới có đầy đủ các quyền chính trị. Cơng dân nữ khơng thể bầu cử hoặc giữ chức vụ. Nhóm tiếp
theo trong xã hội là metics họ làm nghề buôn bản hoặc nghệ nhân . Họ được tự do và đóng thuế
như cơng dân tuy nhiên khơng thể tham gia vào chính phủ hoặc sở hữu đất đai.Nô lệ đứng dưới
đáy xã hội
2.1.2 Điều kiện tự nhiên
Trung bộ và khu vực giao giữa Trung - Nam có nhiều đồng bằng rộng và phì nhiêu, rất thuận lợi
cho việc trồng trọt. Khí hậu Hy Lạp ấm áp với nhiều ngày nắng trong năm, thuận lợi cho các hoạt
động kinh tế và sinh hoạt văn hóa của người dân. Vùng bờ biển phía Đơng của bản đảo Balkan
khúc khủy tạo nên nhiều vinh và nhiều hải cảng, rất thuận lợi cho việc phát triển hàng hải. Biến
đóng một vai trị quan trong trong cuộc sống của người Hy Lạp, nhiều người trong số họ trở
thành ngư dân, thủy thủ và thương nhân. Hy Lạp có nhiều khống sản như đồng, sắt, vàng, bạc
đặc biệt là nghề luyện kim, làm đồ gốm, chế tác đá...
2.1.3 Giai đoạn mở đầu, phát triển và suy tàn
Vào khoảng 55.000 năm TCN đến 1900 năm SCN. Các khoả cổ học đã tìm ra bằng chứng chứng
minh nền văn minh Hy Lạp với sự xuất hiện con người lần đầu tiên sinh sống ở Hy Lạp là người
nền văn minh Minoan, đã phát triển trên đảo Crete vào năm 2000 trước Công nguyên. Họ là
người Bắc-Âu vào lục địa Hy Lạp từ phía bắc.Người thiểu số nền văn minh Minoan được đặt tên
theo vị vua huyền thoại của Crete, Vua Minos. Minos có cung điện của mình ở thành phố
Knossos.Nghệ thuật phát triển. Một số hình vẽ cho thấy người thiểu số tơn thờ một con bị đực và
một nữ thần Trái đất. Vào khoảng 2000 TCN – 1500 TCN. Người thiểu số trên đảo vương quốc
Crete sử dụng đánh số thập phân hệ thống.Các tuyến thương mại đường biển nối liền các vùng
đang phát triển của phía đơng Địa Trung Hải đến các ngôi làng ven biển ở Châu Âu phát triển.
Vào khoảng năm 1628 trước Công nguyên, một ngọn núi lửa đã phun trào trên một hòn đảo gần
đó. Sóng thủy triều gây ra bởi phun trào đã phá hủy nhiều khu định cư ven biển trên đảo Crete.
Kể từ thời điểm đó, q trình liên hóa của Minoạn trở nên yếu đi. Vào khoảng năm 1400 trước
Công nguyên. Mycenaeans từ tiếng Hy Lạp đại lục chinh phục trung tâm Crete.
Vào khoảng năm 1000 năm TCN đến 1200 năm TCN. Người Mycenaeans đã kiểm sốt vùng đất

chính là Hy Lạp. Họ là những người tham chiến đã tự nhóm lại thành thị tộc và bộ lạc. Người
Mycenaeans thực hiện các cuộc đột kích khắp phía đơng Địa Trung Hải. Tuy nhiên, vào 1200
năm TCN bởi trận động đất và chiến tranh đã phá hủy hầu hết của các thành phố Mycenaean. 900
TCN -750 TCN Các tác phẩm nghệ thuật Thời đại Homeric xảy ra. Trong những năm 800 và 700
trước Công nguyên người Hy Lạp đã thành lập một số quốc gia thành phố độc lập. Từ tiếng Hy
Lạp để chỉ thành phố là polis. Vào khoảng 650 TCN - 500 TCN. Hầu hết các cây ở Hy Lạp đã
được sử dụng cho nhà cửa, tàu và nhiên liệu.Chính trị Sự cai trị của bạo chúa xảy ra bằng nhiều
tiếng Hy Lạp thành phố.Năm 621 TCN Vấn đề về Draco Hy Lạp đầu tiên viết luật mã số và 600
năm TCN Người Hy Lạp bắt đầu sử dụng tiền kim loại. Giữa 650 TCN và 500 TCN bạo chúa cai


trị nhiều thành phố. Lúc đầu, nhiều bạo chúa cai trị tốt. Họ đã chấm dứt các cuộc chiến tranh
giành quyền lực của các quý tộc và thúc đẩy thương mại nhiều hơn. Trong vài trường hợp, tuy
nhiên, những người cai trị quyền lực này trở nên bất công. Từ bạo chúa có nghĩa là người sử dụng
quyền lực tuyệt đối một cách tàn bạo.
Trong suốt 150 năm sau khoảng 650 TCN, nhiều thành bang Hy Lạp đã lật đổ bạo chúa. Các nhà
lãnh đạo quốc xã những năm 600 trước Công nguyên là những người duy nhất tham gia vào
chính trị. Khoảng 490 TCN – 479 TCN Các cuộc chiến tranh Ba Tư là chiến đấu giữa Đế chế Ba
Tư và Các thành phố của Hy Lạp. Khoảng vào 429 TCN, Một bệnh dịch tàn khốc giết ít nhất một
phần ba của cây popula của Athens, đe dọa sự sụp đổ tổng thể của thành phố. Các công dân thành
lập nhóm đứng đầu trong xã hội Athen. Cơng dân có thể là q tộc giàu có hoặc nơng dân nghèo.
Tuy nhiên, chỉ những người đàn ông sinh ra ở Athen mới có đầy đủ quyền lợi chính trị. Cơng dân
nữ khơng thể bầu cử hoặc giữ chức vu.Nhóm tiếp theo trong xã hội Athen là metics. Những người
này không phải là cơng dân vì họ sinh ra bên ngồi Athens. Metics thường hoạt động với tư cách
là thương gia hoặc nghệ nhân. Họ được tự do và đóng thuế như công dân. Metics, tuy nhiên,
không thể tham gia vào đất của chính phủ hoặc sở hữu. Nơ lệ đứng dưới đáy xã hội Athen. Giống
như tất cả người Hy Lạp, người Athen coi chế độ nô lệ là đương nhiên và cần thiết. Nô lệ là
những người bị bắt trong chiến tranh. Chúng thuộc sở hữu của các chủ nhaân và được coi như
tài sản. Đơi khi chủ nhân giải phóng nơ lệ, người sau đó trở thành metics. Theo thời gian, nô lệ và
metics chiếm hơn một nửa số dân của Athens.

Cộng hòa dân chủ Athen
Vào khoảng năm 507 TCN, Cleisthenes (KLYS - thuh-neez) nắm quyền ở Athens và biến nó
thành một nền dân chủ. Đầu tiên, ơng chia công dân của Athens thành 10 các bộ lạc. Sau đó, mỗi
bộ lạc chọn 50 người đàn ơng. Những người đàn ông này đã thành lập Hội đồng Năm Trăm. Các
thành viên đã phục vụ trong một năm và không được chọn nhiều hơn hai lần. Các hội đồng đề
xuất luật cho hội đồng, nhưng hội đồng có thẩm quyền cuối cùng. Của Athens các tòa án cũng trở
nên dân chủ hơn. Bồi thẩm đoàn được lựa chọn bởi rất nhiều cơng dân. Mỗi người đàn ơng có thể
đưa ra trường hợp của mình cho bồi thẩm đồn. Hội đồng xét xử bình chọn từng trường hợp bằng
hình thức bỏ phiếu kín. Các hình thức dân chủ mà Athens có dưới thời Cleisthenes được gọi là
dân chủ trực tiếp. mọi công dân tham gia trực tiếp vào việc ra quyết định. Các nền dân chủ ngày
nay như Hoa Kỳ sử dụng nền dân chủ đại diện. Nghĩa là, công dân bầu ra những người đại diện
cai quản cho họ.
Chính phủ của Sparta có một số bộ phận. Hai vị vua đã ở người đứng đầu chính phủ. Một vị vua
lãnh đạo quân đội, trong khi vị vua kia chăm sóc vấn đề ở nhà. Hội đồng người cao tuổi bao gồm
28 nam công dân trên tuổi 60. Đây thường là những người đàn ơng giàu có, q tộc. Hội đồng đề
xuất luật và phục vụ như một tòa án hình sự. Phần cuối cùng của chính phủ Sparta là một hội
đồng bao gồm tất cả nam công dân trên 30 tuổi. Quốc hội biểu quyết chấp nhận hoặc bác bỏ luật
do Hội đồng trưởng lão đề xuất. Hội đồng cũng bầu ra năm ephors trong một năm điều kiện. Các
sử thi đảm bảo rằng các vị vua tuân thủ luật pháp. Họ cũng có hồn tồn kiểm sốt việc giáo dục
trẻ Sparta.
2.1.4 Thành tựu về kinh tế


Hầu hết cư dân thành Athena là những nông dân trồng ô liu, nho và sung. Hội đồng Athena bỏ
phiếu cử nông dân và công nhân tới thiết lập các thuộc địa hải ngoại. Điều này đã truyền bá văn
hóa Hy Lạp khắp Địa Trung Hải và thúc đẩy thương mại. Các thuộc địa nhập khẩu hàng hóa từ,
và xuất khẩu hàng hóa sang Hy Lạp. Nhập khẩu là một hàng hóa hoặc dịch vụ mua từ một quốc
gia hoặc khu vực khác. Xuất khẩu là hàng hóa hoặc dịch vụ được bán cho quốc gia hoặc khu vực
khác.
Mậu dịch là trụ cột của nền kinh tế Athena. Người Athena xuất khẩu dầu ô - liu, rượu và các vật

dụng gia đình, nhập khẩu ngũ cốc và thực phẩm khác. Tàu Athena đi khắp Địa Trung Hải.
2.1.5 Các nét đặc trưng về văn hóa và xã hội
Người Hy Lạp trong thời kỳ này khơng có nền văn minh rất tiên tiến. Ít người có thể viết, vì vậy
hầu hết giao tiếp là bằng miệng hoặc bằng lời nói. Các nhà thơ lưu động hát hoặc ngâm thơ
những bài dân ca, những bản nhạc hoặc sử thi. Một thiên sử thi là một bài thơ dài về các anh
hùng và những sự kiện lớn.Liad và Odyssey. Trong những năm 1700 trước Công nguyên, hầu hết
các bài thơ truyền miệng này đã được tập hợp lại thành hai thiên sử thi vĩ đại, Iliad và Odyssey.
Theo truyền thống, nhà thơ mù Homer đã viết những sử thi này. Tuy nhiên, chúng ta không thật
sự biết tác giả hoặc tác giả là ai. Tuy nhiên, thời kỳ này thường được gọi là thời đại Homer.
Liad kể về huyền thoại của cuộc chiến thành Troia. Câu chuyện bắt đầu khi một hoàng tử thành
Troia tên là Paris yêu Helen, vợ của một vị vua Mycenaean. Paris bắt cóc Helen và đưa cơ theo
đến Troy. Người Mycenae vây hãm Thành Troy trong 10 năm nhưng không chiếm được thành
phố. Cuối cùng, người Mycenae chiến thắng bằng cách xây dựng một con ngựa gỗ to đến nỗi tất
cả những chiến binh giỏi nhất của họ có thể ẩn náu bên trong. Họ đưa ngựa cho người Thành
Troy." Nghĩ rằng họ đã thắng, người Thành Troy đem ngựa vào thành phố. Đêm đó binh lính
Mycenaean nhảy ra khỏi ngựa và chinh phục Troy.
Odyssey kể lại những gì xảy ra sau cuộc chiến thành Troia. Nó mơ tả những cuộc phiêu lưu của
vua Mycenaean Odysseus trên đường trở về từ chiến tranh. Trên đường đi, anh phải đối mặt với
nhiều nguy hiểm cũng như sự can thiệp từ các vị thần. Trong câu chuyện, Phải mất 10 năm
Odysseus mới đến được thành phố Ithaca quê hương ông. Ngày nay chúng ta dùng từ Odyssey để
ám chỉ những chuyến hành trình dài và phiêu lưu.
Người Athena đã xây dựng những ngơi đền lộng lẫy và các tịa nhà cơng cộng khác. Tuy nhiên,
đa số gia đình athena sống trong những căn nhà giản dị. Nói chung, hầu hết người Athena tin rằng
nên chi tiền cho các tòa nhà để mang lại lợi ích cho cả cộng đồng, chứ khơng phải cho nhà riêng.
Ngôi nhà một tầng của họ, làm bằng gạch phơi nắng. Cánh cửa dẫn vào nhà mở ra từ ngoài
đường vào trong sân. Từ nơi hành lang, các cửa mở vào những nơi khác trong nhà. Những thứ
này cung cấp phòng khách, phòng ăn, phòng ngủ, nhà kho và nhà bếp. Đèn thắp dầu ô - li - ve
mang lại ánh sáng mờ.Các ngơi nhà khơng có hệ thống ống nước. Dân cư phải đổ đầy bình nước
vào vịi nước gần Agora.
Hơn nhân và gia đình rất quan trọng đối với người Athena. Cha mẹ lúc nào cũng sắp đặt hôn

nhân. Các cô gái kết hôn sớm, ở tuổi 13 hoặc 14. Chồng của một cô gái có thể gấp đơi tuổi của cơ
ấy. Mục đích chính của hôn nhân là sinh con cái.Tuy nhiên, đôi khi một gia đình khơng có khả
năng ni con. Sau đó đứa bé bị bỏ mặc cho đến chết, đặc biệt nếu đó là con gái. Điều này khơng


có nghĩa là cha mẹ người Hy Lạp khơng u thương con gái họ. Mặc dù được làm theo cách cá
nhân như vậy, phụ nữ Athena về mặt pháp lý và xã hội được coi là thấp kém hơn nam giới. Họ là
công dân nhưng không thể sở hữu hoặc thừa kế tài sản. Ngay cả ở nhà, phụ nữ vẫn được trơng đợi
ở phía sau. Chẳng hạn, họ tránh mặt khi chồng có khách. Họ chỉ có thể xuất hiện trước công
chúng với sự cho phép của chồng. Nhiệm vụ của phụ nữ bao gồm quản lý nhà, làm việc nhà và
những người nô lệ và nuôi dạy con cái.Trong nhiều gia đình Athena, người mẹ chăm sóc tất cả trẻ
em cho đến khi lên sáu. Khoảng bảy tuổi, con trai được chăm sóc bởi người thầy của họ. Các cô
gái Athena ở nhà. Họ học cách điều hành một gia đình nhưng thường khơng nhận được sự giáo
dục nào khác. Tuy nhiên, một số con gái của những gia đình giàu có được dạy đọc và viết.
2.1.6 Các nét độc đáo về kiến trúc và thủ công nghiệp
Các thành bang Hy Lạp có nhiều điểm giống nhau. Trước tiên, họ rao giảng trên một vùng đất
nhỏ. Thí dụ, Athena nhỏ hơn bang Rhode Island. Sparta nhỏ hơn Connecticut. Tuy nhiên hai
thành bang này rất lớn so với các thành bang khác. Thứ hai, đa số các thành bang có dân số dưới
10.000 người, đa số là nơ lệ và những người khơng phải cơng dân. Chỉ có nam giới trưởng thành
tự do mới có quyền cơng dân. Thứ ba, trong hầu hết các thành bang, pháo đài ban đầu được xây
dựng trên một thành phố, hoặc đồi. Các ngơi đền và tịa nhà cơng cộng khác cũng đứng trên
Acropolis. Cuối cùng, mỗi thành bang có một agora, hay chợ. Agora cũng là nơi họp cơng cộng
chính. Người dân gặp nhau tại Agora để thảo luận về các vấn đề chung. Thành phố Polis đã cho
người Hy Lạp cổ đại một ý thức về bản sắc. Người Dân Hy Lạp tin rằng họ phải trung thành với
thành phố của họ. Họ yêu thành bang của mình và thường sẵn lịng chết vì nó.Các Grecks đã đặt
giá trị lớn cho sự độc lập chính trị của Cach Polis. Mỗi thành bang hình thành loại chính quyền và
luật pháp riêng của mình. Mỗi thành bang cũng có lịch, tiền bạc và hệ thống cân đo riêng.Tuy
nhiên, tất cả người Hy Lạp cổ đại đều có những điểm chung. Họ nói cùng một ngơn ngữ;họ có xu
hướng coi những người khơng nói tiếng Hy Lạp như những kẻ man rợ và họ chia sẻ rất nhiều
niềm tin tôn giáo ý tưởng, đặc điểm văn hóa, và mơ hình xã hội. Đại lễ cũng vậy đoàn kết những

người Hy Lạp lại với nhau.
Kiến trúc. Người Athena đã được bao quanh bởi vẻ đẹp của mình. Họ bày tỏ sự kiêu hãnh bằng
cách xây các đền thờ, phòng tập thể dục và nhà hát. Các nghệ sĩ đã trang trí các cơng trình này
với tác phẩm tuyệt vời nhất của họ, đặc biệt là điêu khắc.Một ngọn đồi cao được gọi là Acropolis
đã là trung tâm của thành bang ban đầu. Ngọn đồi này tạo ra một khung cảnh hoàn hảo cho những
sáng tác nghệ thuật đặc biệt. Một cổng lộng lẫy đánh dấu lối vào một con đường dẫn lên đồi. Gần
đó có tượng nữ thần Athena bằng đồng cao chót vót.Trên đỉnh của Acropolis có đền Parthenon,
một đền thờ bằng đá cẩm thạch trắng được xây để tôn vinh Athena. Đền Parthenon được xem là
ví dụ đẹp nhất về kiến trúc Hy Lạp.Mọi người ngưỡng mộ nó nhất đối với tỷ lệ cân bằng hồn
hảo của nó - đó là mối quan hệ về chiều dài đến chiều rộng, chiều dài và chiều rộng đến chiều
cao.
Điêu khắc. Các tác phẩm gốc của điêu khắc Hy Lạp, như các bức tranh Greck, là rất hiếm ngày
nay. Chúng ta biết về điêu khắc Greck từ việc nghiên cứu các bản sao tạo ra vào thời La Mã.
Giống như những bức tranh Hy Lạp, tác phẩm điêu khắc Greck cho thấy ảnh hưởng của Ai Cập.
Tác phẩm điêu khắc Hy Lạp cổ đại có cấu trúc cao. Các nhân vật được thể hiện trong tư thế cứng
nhắc và khơng bình thường. Đàn ơng và phụ nữ thường được vẽ thẳng tay khi đứng dưới chân


chúng. Tuy nhiên, nhà điêu khắc Hy Lạp 400 năm trước công nguyên đã tạo ra những con số
giống sự sống hơn. Nhiều người đã dùng toán tỷ lệ chuẩn để làm cho tác phẩm của họ trông thực
tế.Myron và Phidias (FID-ee-uhs) là hai nhà điêu khắc vĩ đại nhất trong lịch sử. Cả hai đều sống
trong thời kỳ hoàng Kim. Myron đã chạm khắc tượng người ném đĩa nổi tiếng. Phidias đã tạo ra
những bức tượng Athena dùng để trang trí cho Acropolis và Parthenon. Tuy nhiên, tác phẩm vĩ
đại nhất của ông là tượng Thần Zeus tại đền Olympia. Vào thời cổ đại, người ta coi bức tượng
này cao gần 40 feet là một trong bảy kỳ quan thế giới.Praxiteles (Praksr-Uhl-Eez) sống khoảng
100 năm sau Phidias. Ông tạo ra một tác phẩm điêu khắc rất khác biệt. Phidias đã làm những
cơng việc lớn và trang trọng thích hợp cho các thần.Praxiteles, mặt khác, là những hình tượng
điêu khắc giống thật hơn và tự nhiên hơn về hình thức và kích thước. Trên hết, Praxiteles bày tỏ
sự ngưỡng mộ của Hy Lạp đối với vẻ đẹp của cơ thể con người.
Đền Parthenon có cửa nhưng có lẽ có ít cửa sổ. Điều này là do các đền thờ Hy Lạp được xây

dựng để tôn vinh các vị thần Hy Lạp, chứ không phải là nơi tụ họp cho các tín đồ. Một loạt các
cột, được gọi là hàng cột, bao quanh cấu trúc. Những bức tranh điêu khắc lớn được sơn màu sáng
rực được trang trí đá cẩm thạch phía trên các cột.Bên trong đền Parthenon có một tượng Athena
lớn hơn nữa. Được làm bằng ngà voi và vàng, nó tăng lên khoảng 38 feet. Ngày nay, nhiều người
xem Đền Parthenon và tượng điêu khắc là một trong những thành tựu vĩ đại nhất của Người Hy
Lạp.
Hội họa là một hình thức nghệ thuật quan trọng trong thời Hy Lạp cổ đại. Thật không may, hầu
hết các tác phẩm gốc đã bị mất hoặc hư hỏng nặng. Kiến thức về hội họa Hy Lạp chủ yếu đến từ
các mô tả bằng văn bản và từ các bản sao La Mã sau này. Các bức tranh Greck được bảo quản tốt
nhất được tìm thấy trên bình. Các họa sĩ Greck bình minh họa cảnh từ cuộc sống hàng ngày cũng
như các sự kiện thần thoại. Những nghệ sĩ này thích thú trong việc thể hiện các chuyển động
duyên dáng và tự nhiên của đối tượng của họ. Một số họa sĩ bình gốm đã sử dụng ánh sáng và
bóng râm trên đồ gốm để cho thấy đường viền và chiều sâuCác anh em Nhà Grecks ban đầu chấp
nhận phong cách vẽ từ các nền văn hóa khác nhau, sau đó chuyển đổi chúng thành của riêng họ.
Các nhà nghiên cứu tin rằng các thương nhân Hy Lạp rất ấn tượng với những con vật mà họ tìm
thấy được vẽ trên đồ gốm ở những nơi như Ai Cập. Các nghệ sĩ Greck đã chấp nhận phong cách
này, nhưng trong một vài thế kỷ bắt đầu thay thế động vật bằng các nhân vật người.
2.1.7 Các đặc trưng về tôn giáo
Niềm tin tôn giáo Của người Hy Lạp. Tôn giáo mà người Hy Lạp phát triển trong thời kỳ
Homeric khác với tôn giáo của người Ai Cập, Do Thái, và Ba Tư.
Tại đây và bây giờ, chẳng hạn như cuộc sống lâu dài, may mắn, hoặc một vụ mùa bội thu. Người
Hy Lạp không mong đợi tôn giáo của họ cứu họ khỏi tội lỗi. Ngoài ra, người Hy Lạp ở thời kỳ
Homeric không quan tâm nhiều như các dân tộc cổ đại khác về những gì đã xảy ra sau cái chết.
Họ tin rằng linh hồn của hầu hết mọi người đi đến âm phủ đen tối, u ám do thần Hades cai trị. Nó
khơng được xem là một nơi để trừng phạt hay để thưởng.
Để giải thích thế giới của họ, người Hy Lạp tạo ra những huyền thoại. Huyền thoại là câu chuyện
truyền thống về các vị thần, nữ thần và anh hùng. Người Hy Lạp đã trao những phẩm chất và tính
cách con người cho các vị thần của họ, họ được cho là sống trên núi Olympus ở phía bắc Hy Lạp.



Zeu là vua của các vị thần. Một trong những cô con gái của ông là nữ thần Athena, người bảo vệ
trí tuệ và lịng tốt của phụ nữ. Bà cũng là người bảo vệ đặc biệt của các thành bang vĩ đại. Athens
được đặt tên để vinh danh bà. Apollo, một trong những con trai của Zeus, là vị thần của ánh sáng,
âm nhạc và thơ ca. Dionysus là thần của sự sinh sản và rượu. Người Hy Lạp tin rằng các vị thần
đã nói chuyện qua các thầy tế lễ và các nữ tư tế tại những nơi đặc biệt của những lời tiên tri Calle.
Người Hy Lạp thường đến gặp các nhà bói thẻ để hỏi về tương lai.
Làm hài lòng các vị thần là một phần quan trọng trong cuộc sống Hy Lạp. Thể hiện sự dũng cảm
ane trong các cuộc thi thể thao là một cách để làm điều này. Các cuộc thi đấu quan trọng nhất là
Thế vận hội, được tổ chức bốn năm một lần để tơn vinh Thần Zeus. Chỉ có đàn ơng mới có thể
watcd hoặc thi đấu trong những trị chơi này. Thế vận hội có lẽ lần đầu tiên được tổ chức là vào
năm 776 TCN các môn quyền anh, ném lao và ném đĩa, và đấu vật.
Trong các nền văn minh đô thị quy mô lớn của các vương quốc Hy Lạp, các khái niệm về thành
phố của Hy Lạp đã suy tàn. Điều này khiến nhiều người cảm thấy mất quyền kiểm soát sự sống.
Trong những nỗ lực của họ để thích ứng với xã hội đang thay đổi của họ, nhiều người đã quay
sang học và triết lý mới. Tất cả tập trung vào việc đáp ứng nhu cầu của người dân về việc thuộc
về các vị vua Hy Lạp tại Ai Cập và châu Á, ví dụ, khuyến khích sự cai trị. Việc tơn thờ các chính
quyền cung cấp một phương tiện hữu ích để làm cho người dân có ý thức về nhiệm vụ dân sự khi
vai trò của thành phố được thay thế bởi nhà vua. Ped đã tìm thấy sự an ủi khi tìm đến những bản
đồ có thẩm quyền này để được hướng dẫn. Nhiều người còn biến cái gọi là những nhà tơn giáo bí
ẩn để giới thiệu tín đồ đến những người thầy trà bí mật hoặc những bí ẩn. Những giáo lý này
thường liên quan đến bí mật của sự sống sau khi chết là sự bất tử. Các nghi lễ của các tơn giáo bí
ẩn cung cấp cho các tín đồ một cảm giác thống nhất, an toàn và giá trị cá nhân.
Trong khi một số người tìm kiếm một ý thức mới về tơn giáo, những người khác quay sang triết
lý để tìm sự hiểu biết. Các nhà triết học Hy Lạp chủ yếu làm lu mờ đạo đức. Bốn trường phái
chính của triết học yếm thế, hoài nghi Ticis Khắc kỷ, và Epicureanism. Những người đa nghi dạy
rằng người ta nên sống một cách tự nhiên, khơng quan tâm đến thú vui, sự giàu có hoặc địa vị xã
hội. Nổi tiếng nhất là Diogenes (dy-A-uh-neez). Những người hồi nghi tin rằng vì vũ trụ ln
ln thay đổi nên mọi tri thức đều không chắc chắn. Tuy nhiên, bằng cách chấp nhận sự kiện này,
PEo có thể đạt được sự bình an tâm trí. Pyrrho (PIR-oh) được cơng nhận là người sáng lập chủ
nghĩa hồi nghi Ticis Zeno đã thiết lập triết học Stoic ở Athens vào cuối năm 3005 trước Cơng

ngun ơng và các tín đồ tin rằng lý trí thần thánh chỉ đạo thế giới. Vì vậy, người dân sẽ aco số
phận của họ mà khơng có than phiền. Stoics tin rằng mỗi người đều có một "đốm sáng" thiêng
liêng bên trong. Người ta chỉ có thể đạt được hạnh phúc bằng cách làm theo tia lửa này. Thần
Stoics ảnh hưởng rất nhiều đến lối suy nghĩ của La Mã và Kitô giáo.
2.1.8 Thành tựu về khoa học
Giáo dục và nghĩa vụ quân sự
Hầu hết người Nghèo và làm việc chăm chỉ. Họ làm việc nhiều giờ và ít có thì giờ rảnh rỗi.
Những người giàu dành thời gian để theo đuổi sự xuất sắc về trí tuệ và thể chất. Họ tham gia
chính trị, nói chuyện với bạn bè và hoạt động thể thao.Người Athena đặt giá trị lớn về xóa mù
chữ và giáo dục. Họ gửi con trai đến các trường clementary school, với một khoản phí nhỏ.


Những cậu bé Athena học đọc, viết, ngữ pháp, thơ, âm nhạc và thể dục. Họ học thuộc lòng các
bài thơ, bao gồm Iiad và Odyssey của Homer. Vào những năm 400 TRƯỚC công nguyên những
người đàn ông được gọi là Sophists đã mở những trường học cho những cậu bé lớn tuổi hơn. Các
nhà thông thiên học lấy tên của họ từ tiếng Hy Lạp Sophos, có nghĩa là "thông thái. Tại những
trường này, các cậu bé học về chính phủ, tốn học, đạo đức, và tu từ. Đạo đức đề cập đến những
gì tốt và xấu, và trách nhiệm đạo đức. Hùng biện là nghiên cứu về diễn thuyết, hoặc nói trước
cơng chúng, và tranh luận.Giáo dục đã giúp truyền bá ngôn ngữ Và nền văn minh Hy Lạp trên
khắp Địa Trung Hải. Tiếng Greck là ngôn ngữ thứ hai cho người có học ở khắp mọi nơi.
Ở tuổi 18, nam giới Athena nhận được một năm huấn luyện quân sự. Những chàng trai trẻ có khả
năng mua áo giáp và vũ khí sau đó trở thành hoplite và phục vụ trong quân đội trong một năm.
Hoplite đã tạo nên trung tâm của bộ binh. Những người nghèo hơn, những người khơng có khả
năng trang bị tốt, đã phục vụ bên sườn của quân đội. Người dân cũng đóng tàu chiến trong hạm
đội Athena.
Sự trỗi dậy của triết học
Một trong những thành tựu lớn nhất của Người Hy Lạp là sự phát triển của triết học, nghiên cứu
các câu hỏi cơ bản của thực tại và sự tồn tại của con người. Người Hy Lạp sử dụng triết học để
hiểu rõ hơn về chính mình và thế giới xung quanh họ. (Từ "triết gia" có nghĩa là "người yêu
chuộng sự khôn ngoan). Các triết gia thường không đồng ý với nhau, nhưng phần lớn tin rằng

toàn bộ tự nhiên là dựa trên một số quy luật tự nhiên, hoặc các chân lý. Họ tin rằng họ có thể
khám phá những sự thật này thơng qua lý trí.
Theo truyền thống, triết gia Hy Lạp đầu tiên là Thales của Miletus. Thales và những người khác
giống như ông muốn hiểu được bản chất của vũ trụ, hay vũ trụ. Do đó họ được gọi là các nhà vũ
trụ học. Parmenides của Elea thiết lập các quy tắc chính thức của logic cho các lập luận triết học.
Một nhà vũ trụ học khác, Democritus, phát triển lý thuyết nguyên tử bằng cách sử dụng logic và
tốn học. Democritus nói rằng tất cả mọi thứ được tạo thành từ những mảnh nhỏ của vật chất
được gọi là các nguyên tử.Socrates. Một trong những nhà tư tưởng quan trọng nhất của kỷ
nguyên mới là Socrates (SAHK-ruh-teez). Ơng dạy rằng giáo dục là chìa khóa cho sự phát triển
cá nhân.Khơng giống như các giáo viên khác, Socrates khơng sử dụng học thuộc lịng như một
cơng cụ giảng dạy. Thay vì thế, ơng nhấn mạnh rằng các học viên phải được huấn luyện để suy
nghĩ cho chính mình. Ơng đặt ra những câu hỏi buộc học sinh phải kiểm tra những giá trị và ý
tưởng của chính họ. Cách giảng dạy của Socrates thơng qua chất vấn đã được biết đến như là
phương pháp Sokrates.Mặc dù được yêu thương nhiều, Sokrates có nhiều kẻ thù đầy thế lực. Các
câu hỏi của ông thường làm cho các viên chức nhà nước trơng có vẻ ngu ngốc. Ơng chỉ trích nền
dân chủ, nói rằng những người khơng có kỹ năng khơng nên giữ các vị trí quyền lực. Cuối cùng,
Socrates mâu thuẫn với các nhà triết học, một nhóm các giáo sư Athena. Ơng chế giễu sự dạy dỗ
của họ chỉ là những giả định không được kiểm chứngNhững kẻ thù của Socrates vu cáo ông là
phủ nhận nhiều thần Hy Lạp hiện hữu. Họ cũng nói rằng sự dạy dỗ của ông đã làm bại hoại tâm
trí của giới trẻ Athena. Các nhà lãnh đạo của Athena đưa Socrates ra tịa. Sokrates khơng làm gì
nhiều để tự bảo vệ mình. Ơng khơng chối bỏ sự dạy dỗ của mình, mặc dù điều này có thể đã cứu
mạng ông. Sokrates bị kết tội và bị xử tử.


×