Tải bản đầy đủ (.pdf) (23 trang)

123

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (660.14 KB, 23 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LAO ĐỘNG – XÃ HỘI (CSII)

KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

TIỂU LUẬN
HỌC PHẦN LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

ĐẢNG CỘNG SẢN LÃNH ĐẠO TỔNG
KHỞI NGHĨA THÁNG TÁM NĂM 1945

SV thực hiện: Trần Thị Bích Ngọc
Mã số SV:

1953404041001

Số báo danh: 168
Khoa:

Quản lý nguồn nhân lực

TP. Hồ Chí Minh - 2021


NHẬN XÉT VÀ ĐÁNH GIÁ CỦA GIẢNG VIÊN

- Về hình thức:
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
- Mở đầu: .......................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................


.......................................................................................................................................
- Nội dung: ...................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
- Kết luận: ......................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
Tổng

Điểm số

Điểm bằng chữ

điểm

Cán bộ chấm thi 1

Cán bộ chấm thi 2

(Kí và ghi rõ họ tên)

(Kí và ghi rõ họ tên)


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
CH


NG 1 HOÀN CẢNH LỊCH Ử

N Đ N TỔNG

HỞI NGHĨA

THÁNG TÁM 1945 ................................................................................................... 3
1.1. Tình hình thế giới trước năm 1945 ............................................................... 3
1.2. Tình hình Việt Nam trước năm 1945 ............................................................ 3
1.3. Chủ trương của Đảng vào giai đoạn 1945 .................................................... 4
1.3.1. Củng cố và tăng cường chính quyền cách mạng ........................................ 5
1.3.2. Đẩy mạnh phát triển sản xuất, trọng tâm là sản xuất nông nghiệp, diệt
giặc đói, ổn định đời sống nhân dân .................................................................... 5
CH

NG

ĐẢNG CỘNG ẢN LÃNH ĐẠO TỔNG

HỞI NGHĨATHÁNG

TÁM NĂM 1945 ...................................................................................................... 12
2.1. Tổng khởi nghĩa giành chính quyền ........................................................... 12
2.2. Tính chất, ý nghĩa lịch sử và bài học kinh nghiệm của Cách mạng Tháng
Tám năm 1945 ...................................................................................................... 13
2.2.1. Tính chất ................................................................................................... 13
2.2.2. Ý nghĩa lịch sử.......................................................................................... 15
2.2.3. Bài học kinh nghiệm............................................................................... 16
K T LUẬN .............................................................................................................. 18
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 20



1

MỞ ĐẦU

Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945, chúng ta có thể khẳng định rằng hình
thái khởi nghĩa chung nhất là toàn dân nổi dậy đồng loạt và gần như đồng thời trong
cả nước. Cuộc Cách mạng Tháng Tám là cuộc tổng khởi nghĩa của toàn dân, của cả
dân tộc Việt Nam vì mục tiêu độc lập dân tộc. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là
sự kiện vĩ đại trong lịch sử dân tộc Việt Nam, là điển hình của cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân. Cuộc cách mạng đó đã đánh đổ chế độ thuộc địa của thực dân
Pháp và phát xít Nhật áp đặt trên đất nước ta kéo dài hơn 80 năm, lật nhào chế độ
phong kiến hàng ngàn năm. Nước ta từ một nước thuộc địa trở thành một nước độc
lập. Nhân dân ta từ thân phận nô lệ trở thành người chủ đất nước. Cách mạng Tháng
Tám thắng lợi đã mở ra kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc, kỷ nguyên độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Về mặt lý luận, đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc giải phóng giai cấp ở
Việt Nam. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã mở ra bước ngoặt vĩ
đại của cách mạng, đưa dân tộc Việt Nam bước sang kỷ nguyên mới - kỷ nguyên
độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; xóa bỏ chế độ phong kiến hàng nghìn
năm, đưa dân tộc Việt Nam lên một tầm cao mới và đây cũng là lần đầu tiên trong
lịch sử dân tộc Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng , một nhà nước kiểu mới – nhà
nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân được xây dựng. Đánh giá về ý
nghĩa lớn lao này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Cách mạng Tháng Tám
đã lật đổ nền quân chủ mấy mươi thế kỷ, đã đánh tan xiềng xích thực dân gần 100
năm, đã đưa chính quyền lại cho nhân dân, đã xây nền tảng cho nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa, độc lập, tự do, hạnh phúc. Đó là một cuộc thay đổi cực kỳ to lớn
trong lịch sử của nước ta. Đó là một bước ngoặt trong lịch sử của dân tộc chúng
tơi”. Cách mạng Tháng Tám cịn làm rõ và bổ sung lý luận Mác - Lênin về vấn đề

bạo lực cách mạng và vấn đề khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh cách mạng. Với
việc xác định đúng đắn bạo lực cách mạng là sức mạnh của toàn dân tộc, kết hợp
chính trị với vũ trang, kết hợp khởi nghĩa từng phần tiến tới tổng khởi nghĩa, đưa
khởi nghĩa vũ trang trong Cách mạng Tháng Tám lên tầm mẫu mực nghệ thuật
trong đấu tranh giành chính quyền. Khởi nghĩa giành chính quyền trong Cách mạng


2

Tháng Tám trở thành một trong bốn điển hình trong đấu tranh giành chính quyền
trong lịch sử thế giới thế kỷ XX.
Về mặt thực tiễn, cách mạng tháng Tám năm 1945 thắng lợi đã chứng minh
một chân lý của thời đại: các dân tộc bị áp bức, bị xâm lược nếu có ý chí kiên cường
và đường lối đúng đắn, sáng tạo, biết đồn kết đấu tranh vì độc lập, tự do; đứng
vững trên lập trường của giai cấp công nhân và biết tranh thủ sức mạnh của thời đại
thì dân tộc đó nhất định thắng lợi. Vì thế, trong diễn văn kỷ niệm Cách mạng tháng
Tám, Người khẳng định: “Suốt trong 80 năm nước ta bị Pháp chiếm, nhân dân ta từ
Nam đến Bắc đã nhiều lần nổi dậy chống giặc ngoại xâm. Trong lịch sử dựng nước
và giữ nước của dân tộc ta, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là một trong những
mốc son chói lọi trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Kể từ ngày Cách mạng Tháng
Tám thành công đến nay, cách mạng Việt Nam đã đi qua nhiều giai đoạn, nhiều
bước ngoặt và vượt qua nhiều thử thách lớn, giành được nhiều thắng lợi to lớn kể cả
trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, cũng như trong xây dựng chủ nghĩa
xã hội. Từ những vấn đề trên, em chọn đề tài: “ Đảng Cộng sản lãnh đạo Tổng khởi
nghĩa tháng tám năm 1945” làm đề tài tiểu luận kết thúc môn Lịch sử Đảng.


3

CH

HOÀN CẢNH LỊCH Ử

NG 1

N Đ N TỔNG

HỞI NGHĨA THÁNG TÁM

1945
1.1. Tình hình thế giới trước năm 1945
Tháng 9-1939, Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Chính phủ (Daladier)
thi hành một loạt biên pháp đàn áp lực lượng dân chủ ở trong nước và phong trào
cách mạng ở thuộc địa. Mặt trận nhân dân Pháp tan vỡ.
Tháng 6-1940, Đức tiến cơng Pháp, Chính phủ của Thủ tướng Pêtanh
(Pétain) ký văn bản đầu hàng Đức. Tướng Đờ Gôn (Charles De Gaulle) ra
nước ngoài để xây dựng lực lượng kháng chiến chống Đức. Sau khi chiếm một
loạt nước châu Âu, tháng 6-1941 Đức tiến công Liên Xô
Đầu năm 1945, chiến tranh thế giới thứ hai bước vào giai đoạn kết thúc. Hồng
qn Liên Xơ truy kích phát xít Đức trên chiến trường châu Âu, Anh-Mỹ mở mặt
trận thứ hai, đổ quân lên đất Pháp (2-1945) rồi tiến vào Tây nước Đức. Nước Pháp
được giải phóng, chính phủ Đờ Gơn về Paris. Ở mặt trận Thái Bình Dương, quân
Anh đánh vào Miến Điện, nay là Myanma. Quân Mỹ đổ bộ lên Philiphin. Đường
biển đến các căn cứ ở Đông Nam Á bị quân đồng minh khống chế, nên Nhật phải
giữ con đường duy nhất từ Mãn Châu qua Đông Dương xuống Đông Nam Á. Thực
dân Pháp theo phái Đờ Gôn ở Đông Dương ráo riết chuẩn bị, chờ quân đồng minh
vào Đông Dương đánh Nhật thì sẽ khơi phục lại quyền thống trị của Pháp. “cả hai
quân thù nhật-pháp đều đang sửa soạn tiến tới chỗ tao sống mày chết, quyết liệt
cùng nhau”.
1.2. Tình hình Việt Nam trước năm 1945
Ở Đơng Dương,bộ máy đàn áp được tăng cường, lệnh thiết quân luật được

bán bố. Ngày 28-9-1939, tồn quyền Đơng Dương ra Nghị định cấm tuyên truyền
cộng sản, đặt Đảng Cộng sản Đông Dương ra ngồi vịng pháp luật, giải tán
các hội, đồn, đóng cửa các tờ báo và nhà xuất bản, cấm hội họp và tụ tập đông
người.Thực dân Pháp thi hành chính sách thời chiến, phát xít hóa bộ máy thống
trị, thẳng tay đàn áp phong trào cách mạng; thực hiên chính sách kinh tế chỉ huy


4

tăng cường vơ vét sức người, sức để phục vụ cuộc chiến tranh đế quốc. Tháng 91940, quân phiệt Nhật vào Đông Dương, thực dân Pháp đầu hàng và câu kết với
Nhật để thống trị và bóc lột nhân dân Đông Dương, làm cho nhân dân Đông
Dương phải chịu cảnh “một cổ hai tròng”.
Với sự chuẩn bị từ trước, ngày 9-3-1945, Nhật nổ súng đảo chính lật đổ Pháp,
độc chiếm Đơng Dương. Pháp chống cự yếu ớt rồi nhanh chóng đầu hàng. Sau đó
đảo chính thành cơng, Nhật thi hành một loạt chính sách nhằm củng cố quyền thống
trị.
1.3. Chủ trương của Đảng vào giai đoạn 1945
Trên cơ sở đánh giá tình hình quốc tế và trong nước, ngày 25/11/1945, Ban
Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị “kháng chiến kiến quốc”, vạch rõ chiến lược
và nhiệm vụ cần kíp của cách mạng nước ta. Chỉ thị xác định “cuộc cách mạng
Đông Dương lúc này vẫn là cuộc cách mạng dân tộc giải phóng”, khẩu hiệu đấu
tranh vẫn là “Dân tộc trên hết”, “Tổ quốc trên hết”. Kẻ thù chính của cách mạng lúc
này là thực dân Pháp xâm lược.
Nhiệm vụ cơ bản, trước mắt của cách mạng nước ta là củng cố chính quyền dân chủ
nhân dân, chống thực dân Pháp xâm lược, bài trừ nội phản, cải thiện đời sống nhân
dân. Nhiệm vụ bao trùm là bảo vệ, củng cố chính quyền cách mạng.
Chỉ thị này cũng đã đề ra những biện pháp cụ thể thực hiện các nhiệm vụ nêu
trên:
Về nội chính: Xúc tiến việc bầu cử quốc hội, thành lập chính phủ chính thức,
lập hiến pháp, đấu tranh chống bọn phản động.

Về quân sự: Động viên lực lượng toàn dân trường kỳ kháng chiến.
Về ngoại giao: Kiên trì nguyên tắc “bình đẳng, tương trợ”, thêm bạn bớt thù,
làm cho cách mạng không phải trực tiếp đối đầu với nhiều kẻ thù trong cùng một
lúc. Đối với quân Tưởng thì thực hiện khẩu hiệu “Hoa Việt thân thiện”.
Trung ương Đảng chỉ đạo: khó khăn đối nội là chủ yếu bức thiết trước mắt cần
giải quyết ngay. Khó khăn đối ngoại là cơ bản phải giải quyết lâu dài.


5

1.3.1. Củng cố và tăng cường chính quyền cách mạng
Cuộc Tổng tuyển cử ngày 06/01/1946 hồn tồn thắng lợi. Chính phủ chính
thức được thành lập, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đặc biệt tại kỳ họp thứ 2
(tháng 11/1946), Quốc hội đã thông qua bản hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam
dân chủ cộng hòa.
Cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên ở Việt Nam đã đánh dấu bước trưởng thành của
Nhà nước cách mạng Việt Nam, mở ra một thời kỳ mới: thời kỳ đất nước ta có một
Quốc hội, một Chính phủ thống nhất, một bản hiến pháp tiến bộ, một hệ thống
chính quyền hồn tồn đầy đủ danh nghĩa về mặt pháp lý để đại diện cho nhân dân
Việt Nam về đối nội và đối ngoại.
Đồng thời với việc khai thác sức mạnh của dân phục vụ cho nhiệm vụ “kháng
chiến, kiến quốc”, Đảng và chính quyền cách mạng rất quan tâm chăm lo bồi dưỡng
sức dân, chú trọng phát triển kinh tế, tăng cường năng lực nội sinh cách mạng của
quần chúng.
Chính sách kinh tế - tài chính lúc đó được xác định như sau: “Kiến thiết nền
kinh tế quốc dân làm cho dân giầu, nước mạnh theo những nguyên tắc: tự do kinh
doanh, tăng gia sản xuất, bảo vệ quyền lợi quốc gia, điều hòa quyền lợi giữa tư sản
và lao động, giữa địa chủ và nông dân, giữ vững chủ quyền về quan thuế và ngoại
thương; khuyến khích và giúp đỡ cơng nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp và
nông nghiệp, củng cố tài chính quốc gia”.

1.3.2. Đẩy mạnh phát triển sản xuất, trọng tâm là sản xuất nơng nghiệp, diệt giặc
đói, ổn định đời sống nhân dân
Trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời ngày 03/9/1945, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã nêu 6 nhiệm vụ cấp bách, trong đó “chống giặc đói” được Hồ Chủ
tịch đặt lên hàng đầu, là nhiệm vụ cấp bách, đột xuất số 1. Người nói: “Nhân dân
đang đói..., những người thốt chết đói nay cũng bị đói. Chúng ta phải làm thế nào
cho họ sống!”.
Để giải quyết nạn đói, Chính phủ đã có nhiều chủ trương, biện pháp thực hiện
sát sao:


6

Thứ nhất là Tổ chức lạc quyên, cứu tế.
Để tiêu diệt tận gốc “giặc đói”, biện pháp cơ bản lâu dài là phát triển sản xuất,
tiết kiệm tiêu dùng lương thực. Nhưng trong khi chờ đợi kết quả của sản xuất, để
khẩn cấp cứu đói cho dân, trên cơ sở phát huy truyền thống “nhiễu điều phủ lấy giá
gương” của dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kêu gọi nhân dân với tinh thần
“nhường cơm, sẻ áo”, “lá lành đùm lá rách” tự nguyện thực hành tiết kiệm, xây
dựng các “hũ gạo cứu đói” giúp đỡ các gia đình thiếu ăn trầm trọng. Người đã phát
động phong trào “10 ngày nhịn 1 bữa ăn, mỗi tháng 3 bữa, mỗi bữa 1 bơ, đem gạo
đó để cứu dân nghèo” và Người đã tiên phong thực hiện trước.
Thứ hai là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát động phong trào “tăng gia sản xuất”.
Nghị định số 41 BKT ngày 15/11/1945 của Bộ Kinh tế Quốc dân quy định
một số biện pháp để khuyến khích tận dụng đất đai trồng màu cứu đói:
Tất cả những người có ruộng đất phải khai báo với chính quyền địa phương về
diện tích canh tác. Ngồi số diện tích đó, phần nào chưa canh tác thì buộc phải cho
người thiếu ruộng mượn tạm trong một vụ để trồng màu.
Hủy bỏ những quy định cũ của Pháp, Nhật cấm bn bán trâu, bị trong nội
địa. Cho tự do bn bán, vận chuyển trâu, bị trong cả nước.

Chính phủ tập trung củng cố hệ thống đê điều, hàn khẩu lại các quãng đê đã bị
vỡ. Đây là một thành tích có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc tăng gia sản xuất
cứu đói.
Chính phủ cịn ban hành các chính sách khuyến nơng; tịch thu ruộng đất của
thực dân Pháp và Việt gian chia cho nông dân thiếu ruộng; chia lại ruộng đất công
một cách công bằng, hợp lý hơn; quy định giảm tơ, giảm tức.
Giặc đói đã bị đánh lui. Đây thực sự là một kỳ công của chính quyền cách
mạng.
Để giải quyết khó khăn về tài chính, Đảng, Chính phủ cũng đã dựa vào dân,
phát huy lòng yêu Tổ quốc, yêu Độc lập - Tự do, trên tinh thần tự nguyện và theo


7

khả năng của mình đóng góp theo nhiều hình thức như “quỹ Độc lập”, “quỹ Kháng
chiến”, “đảm phụ quốc phòng”...
Thứ ba là đồng thời với việc đẩy mạnh sản xuất nơng nghiệp, Chính phủ đã
khẩn trương phục hồi hoạt động của các ngành kinh tế khác.
Tình hình kinh tế nói chung lúc này đứng trước những khó khăn rất lớn:
Năm 1945, tình hình cơng thương nghiệp cũng bị sa sút, ngưng trệ tương tự
tình hình nơng nghiệp. Cơng nghiệp khai thác mỏ chỉ còn hoạt động bằng khoảng 1
phần 10 so với trước; cịn cơng nghiệp chế biến hầu như tê liệt hồn tồn. Sản xuất
tiểu, thủ cơng nghiệp cũng bị đình đốn, giảm sút mạnh. Nên nguồn hàng hóa cung
ứng cho thị trường rất khan hiếm. Về thương nghiệp: cả nội, ngoại thương đều bị tê
liệt, xuất nhập khẩu sa sút.
Tiếp theo là khó khăn về giao thơng vận tải. Tuy các tuyến đường sắt, đường
biển, đường sơng cịn tiếp tục hoạt động nhưng các phương tiện vận tải phần lớn
vẫn nằm trong tay chủ người Pháp, nên cũng gặp trở ngại; vận tải đường bộ thì rất
khó khăn vì thiếu xăng dầu (nhiều ơ tơ khách và ơ tơ tải phải chạy bằng khí than củi
(gazogene), thiếu săm lốp và phụ tùng thay thế, cầu đường ở nhiều nơi bị đánh phá

trong chiến tranh thế giới thứ hai chưa được khơi phục xong, một số đoạn cịn phải
tăng - bo. Việc giao lưu buôn bán giữa 2 miền Nam, Bắc cũng bị ách tắc. Than ở
miền Bắc không chuyên chở vào Nam được, gạo trong Nam cũng không ra Bắc
được. Giá cả hàng hóa tăng vùn vụt.
Chính phủ chủ trương, một mặt phát huy lòng yêu nước của giới công thương,
tạo mọi điều kiện thuận lợi cho họ đem tài lực, vật lực ra làm những công việc ích
nước lợi nhà. Mặt khác, vẫn để cho các công ty tư bản Pháp và tư bản nước ngoài
tiếp tục công việc kinh doanh như cũ, cố tránh những xáo trộn khơng cần thiết.
Hình thành khu vực quốc doanh
Chính phủ cũng chủ trương mở lại các mỏ than ở Hòn Gai, Tân Trào (Tuyên
Quang), Làng Cẩm, Phấn Mễ (Thái Nguyên), Quyết Thắng (Ninh Bình), tiếp tục
khai thác mỏ thiếc Tĩnh Túc (Cao Bằng) bị Nhật chiếm đóng từ tháng 3/1945 và bị
phá hoại trước khi chúng rút.


8

Như vậy là thời gian này đã bắt đầu hình thành khu vực quốc doanh.
Trong thời gian này, đã ra đời một số doanh nghiệp công nghiệp quy mô vừa
của người Việt sản xuất một số loại hàng trước đây chỉ do các nhà máy của người
Pháp sản xuất hoặc phải nhập khẩu, như xà phòng giặt, sơn Gecko ở Hà Nội, sơn
Resistanco ở Hải Phòng...
Nhà nước hết sức khuyến khích và giúp đỡ cả về vốn và việc mua bán nguyên
vật liệu phát triển sản xuất.
Do hàng hóa được lưu thông tự do nên nguyên, nhiên liệu cần thiết cho sản
xuất dồi dào, thị trường tiêu thụ sản phẩm được mở rộng, đã tạo điều kiện cho sản
xuất tiểu, thủ công nghiệp phục hồi và phát triển, cung ứng được nhiều hàng hóa
cho thị trường và tăng thu nhập cho người sản xuất.
Trừ một số xí nghiệp của tư bản Pháp có liên quan, ảnh hưởng trực tiếp đến
nền kinh tế, quốc phịng, đến sự hoạt động bình thường của các cơ quan nhà nước,

Chính phủ đã trưng thu một số cơ sở, như các nhà máy điện, nước ở Hà Nội, nhà
máy luyện kim Hà Sắc lệnh ngày 09/10/1945 của Chủ tịch Hồ Chí Minh ký đã nêu
rõ 2 điều:
Các hãng kỹ nghệ hoặc thương mại ngoại quốc hiện có ở Việt Nam vẫn được
phép tiếp tục cơng việc kinh doanh như cũ.
Vì nền trật tự cơng cộng, Chính phủ Việt Nam có quyền kiểm sốt và nếu cần,
có quyền đặt những ban chun mơn để giữ nhiệm vụ đó.
Nhờ chủ trương đó, nhiều xí nghiệp của Pháp khác vẫn hoạt động bình thường
như các xí nghiệp thuộc ngành điện, nước ở một số thành phố (ngoài Hà Nội), vải
sợi (Nam Định), dệt len, xi măng (Hải Phòng), gạch ngói (Đáp Cầu), đã cung ứng
cho thị trường được một số hàng hóa cần thiết như than mỏ, xi măng, gạch ngói,
vải, giấy... đảm bảo duy trì được cơng ăn việc làm cho cơng nhân, lao động, góp
phần đảm bảo sinh hoạt bình thường trong nhân dân.
Trên nguyên tắc tự do nội thương, Chính phủ khuyến khích mở rộng việc bn
bán, làm cho hàng hóa được lưu thơng tự do trong tồn quốc. Nghị định của Chính
phủ ngày 02/10/1945, bãi bỏ các luật lệ hạn chế kinh doanh dưới thời Pháp, Nhật;


9

sắc lệnh của Chủ tịch nước ngày 22/9/1945 xóa bỏ các tổ chức độc quyền kinh
doanh của người Pháp, Nghị định ngày 19/9/1945 của Bộ Quốc dân Kinh tế xóa bỏ
tất cả mọi hạn chế về lưu thông các hàng hóa thơng thường cho kinh tế và đời sống,
như gỗ, giấy, lương thực, thực phẩm.
Những biện pháp này đã đem lại kết quả tốt đẹp. Thóc gạo và các loại hàng
hóa thơng thường khác được điều hịa dễ dàng từ nơi thừa đến nơi thiếu, kích thích
sản xuất phát triển.
Cùng thời gian này, Hội thương gia Việt Nam được thành lập. Phịng Thương
mại Việt Nam ra đời.
Chính phủ hủy bỏ sắc lệnh ngày 13/8/1941 của Tổng thống Pháp ban hành

dành đặc quyền cho hàng hóa Pháp và các cơng ty ngoại thương của Pháp.
Sắc lệnh ngày 10/10/1945 duy trì luật hải quan và biểu thuế quan cũ có một ít
điều chỉnh để kịp thời thu thuế xuất nhập khẩu.
Nghị định 48/CT ngày 09/11/1945 của Bộ trưởng Bộ Tài chính ấn định thể lệ
mới về xuất cảng và nhập cảng các hàng hóa, quy đinh mọi nhà kinh doanh Việt
Nam đều có quyền kinh doanh xuất, nhập khẩu theo luật pháp của Nhà nước.
Tiếp đó, ngày 15/11/1945, Chính phủ ra sắc lệnh quy định thuế xuất, nhập
cảng mới của một số mặt hàng.
Đối với xuất khẩu, Nhà nước khuyến khích các mặt hàng ta có khả năng, nhất
là than đá. Cấm xuất cảng thóc, gạo, ngơ, đỗ và các chế phẩm từ ngũ cốc, máy móc
và đồ vật bằng kim khí.
Đối với nhập khẩu, Nhà nước khuyến khích nhập những mặt hàng nguyên,
nhiên liệu, những thứ thuộc nhu cầu thiết yếu trong nước, ta chưa sản xuất được.
Việc cấp bách là phải sửa chữa cầu đường bị bom đạn phá hoại trong chiến
tranh. Trong điều kiện vơ cùng khó khăn về tài chính và trình độ kỹ thuật, chưa đầy
một tháng sau Cách mạng, đường xe lửa đã được tổ chức lại. Xe đã đi lại được nối
hai miền Bắc, Nam.


10

Về bưu điện: Phần lớn đường dây trước đây do quân Nhật quản lý. Khi Nhật
đầu hàng, rất nhiều đoạn đã bị phá hủy, nhiều cơ sở ngừng hoạt động. Nhưng chỉ 1
tuần sau cách mạng, hệ thống điện tín, điện thoại giữa Hà Nội - Huế - Sài Gòn đã
được phục hồi và hoạt động bình thường. Đến cuối tháng 8/1945, phần lớn các tỉnh
đã liên hệ được với Hà Nội và với nhau bằng điện tín và điện thoại. Và người Việt
Nam đã thay thế hoàn toàn nhân viên người Pháp trong tồn ngành đảm đương mọi
cơng việc.
Những kết quả trong giao thông liên lạc trên đã phục vụ tốt cho qn sự - quốc
phịng, cho cơng tác chỉ đạo, lãnh đạo của Đảng, Chính phủ và tác động tích cực

đến sản xuất, lưu thơng hàng hóa, phục vụ dân sinh.
Ngay sau Cách mạng Tháng 8, chính quyền cách mạng đã ban hành lệnh cấm
buôn bán thuốc phiện, xóa bỏ cơng ty độc quyền rượu đi đơi với vận động nhân dân
giảm uống rượu và cai thuốc phiện.
Đối với muối: Xóa bỏ chế độ độc quyền nhà nước về muối, diêm dân được tự
do bán muối ra thị trường sau khi nộp thuế theo quy định. Nhờ đó, giá bán muối của
diêm dân tăng nhanh, thu nhập và đời sống của diêm dân được cải thiện rõ rệt,
không những đủ ăn, đủ mặc mà còn mua sắm được nhiều đồ dùng gia đình có giá
trị. Mặt khác, do được lưu thông tự do trên thị trường, nên giá bán muối ở các vùng
giảm so với trước, việc mua bán thuận tiện, đặc biệt là ở các tỉnh miền núi, nhà nào
cũng có đủ muối ăn và muối dự trữ.
Có thể nói, việc chính quyền Cách mạng xóa bỏ các độc quyền nhà nước của
chế độ thực dân Pháp đã gây được ảnh hưởng rất tốt cả về kinh tế, chính trị, xã hội.
Có thể nói, mười sáu tháng kháng chiến kiến quốc, trong hồn cảnh cực kỳ
khó khăn, “ngàn cân treo sợi tóc”, đạt được những thành tựu trên đây là do chính
quyền cách mạng đã quán triệt quan điểm, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Đó là biết dựa vào nhân dân, phát động đông đảo nhân dân cùng chung tay ra
sức khắc phục khó khăn diệt giặc đói, giải quyết khó khăn về tài chính, tiền tệ trong
công cuộc chống giặc Pháp xâm lược, làm thất bại âm mưu đánh nhanh thắng nhanh
của chúng.


11

Đó là nhanh chóng xóa bỏ các cơng cụ bóc lột của thực dân Pháp, đem lại lợi
ích cho quần chúng nhân dân lao động.
Đó là chính sách đại đồn kết rộng rãi mọi thành phần, tầng lớp trong xã hội:
nơng dân, cơng nhân, cơng thương gia v.v... góp sức xây dựng nền kinh tế dân chủ
nhân dân, độc lập tự chủ, duy trì hoạt động kinh tế bình thường, đảm bảo an sinh xã
hội.

Những thành tựu trên mặt trận kinh tế nói trên đã có tác dụng to lớn tăng
cường năng lực nội sinh cách mạng của quần chúng, phát huy quyền làm chủ của
nhân dân trong việc xây dựng chế độ dân chủ cộng hòa, bảo vệ nền độc lập, giữ
vững chính quyền cách mạng non trẻ, đã góp phần tích cực vào việc tăng cường
thực lực, đảm bảo đủ sức tiến hành cuộc kháng chiến lâu dài chống thực dân Pháp
xâm lược.


12

CH

NG

ĐẢNG CỘNG ẢN LÃNH ĐẠO TỔNG

HỞI NGHĨATHÁNG TÁM NĂM

1945
2.1. Tổng khởi nghĩa giành chính quyền
Đầu năm 1945, qn đội Xơ Viết liên tiếp giành thắng lợi trên chiến trường
Châu Âu, giải phóng hàng loạt nước và tiến thằng vào sào huyệt của phát xít Đức ờ
Béclin. Ngày 8/5/1945, phát xít Đức đầu hàng vô điều kiện. Ngày 8/8/1945, Liên
Xô tuyên chiến với phát xít Nhật, đẩy quân phiệt Nhật vào tình thế thất bại. Ngày
13/8/1945, Hội nghị tồn quốc của Đảng họp ở Tân Trào, nhận định thời cơ khởi
nghĩa giành chính quyền đã tới, những điều kiện khởi nghĩa ở Đơng Dương đã chín
muồi. Ủy ban khởi nghĩa gửi quân lệnh số 1 cho đồng bào và chiến sĩ cả nước ngay
trong đêm.
Ngày 16/8/1945, Đại hội họp ở Tân Trài đã thơng qua: “10 chính sách lớn của
Việt Minh”, thông qua lệnh “ lệnh Tổng khởi nghĩa” quyết định Quốc Kỳ nền đỏ,

sao vàng, chọn bài Tiến quân ca làm Quốc ca và bầu ra Ủy ban dân tộc giải phóng
Trung ương, tức Chính phủ lâm thời do đồng chí Hồ Chí Minh làm chủ tịch. Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã ra lời kêu gọi: “ Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã
đến. Toàn thể đồng bào ta hãy đứng dậy đem sức ta mà giải phóng cho ta”. Dưới sự
lãnh đạo của Đảng, hơn 20 triệu nhân dân ta từ Bắc ra Nam đã tiến hành cuộc Tổng
khởi nghĩa Cách mạng tháng Tám thành công.
Cuộc khởi nghĩa bắt đầu từ ngày 14/8, một ngày sau khi Hội nghị toàn quốc
của Đảng khai mạc. Từ ngày 14 đến 18/8, Tổng khởi nghĩa giành thắng lợi ở nông
thôn đồng bằng miền Bắc, đại bộ phận miền Trung, một phần miền Nam và các thị
xã Bắc Giang, Hải Phòng, Hà Tĩnh, Hội An.
Ngày 17/8, ở Hà Nội Tổng hội viên chức quyền bù nhìn tổ chức một cuộc mittinh lớn tại Quảng trường nhà hát thành phố, có hàng vạn người tham gia để ủng hộ
chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim. Trong mít-tinh này, dưới sự lãnh đạo của Xứ
ủy Bắc Kỳ và Thành ủy Hà Nội, quần chúng cách mạng đã giương cao lá cờ đỏ sao


13

vàng, chiếm lấy diễn đàn cuộc mít-tinh, cán bộ Việt Nam đã diễn thuyết báo tin cho
đồng bào biết quân phiệt Nhật đã đầu hàng và giới thiệu chủ trương đường lói cứu
nước của Việt Minh, kêu gọi nhân dân đánh đổ chính quyền bù nhìn thân Nhật.
Cuộc mít- tinh đã biến thành cuộc biểu tình, tuần hành thị uy, bắt đầu từ quảng
trường Nhà hát thành phố và lan khắp nơi trên thành phố phường Hà Nội. Cả Hà
Nội tưng bừng khí thế sục sơi khởi nghĩa.
Sáng ngày 19/8, theo lời kêu gọi của Việt Minh, cả Hà Nội vùng dậy dưới
rừng cờ đỏ sao vàng xuống đường tiến thẳng về trung tâm Nhà hát thành phố để dự
mít-tinh.
Cuộc mit-tinh diễn ra vào ngày 19/8/1945. Sau loạt súng chào cờ và bài Tiến
Quân Ca, đại biểu Ủy ban quân sự cách mạng đọc lời hiệu triệu của Việt Minh.
Cuộc mit-tinh trở thành cuộc biểu tình vũ trang tiến vào chiếm Phủ Khâm sứ, trại
lính bảo an và các cơ sở của Chính phủ bù nhìn.

Từ Hà Nội, làn sóng cách mạng toả đi khắp nơi, cả nước vùng dậy đấu tranh
giành chính quyền và liên tiếp giành thắng lợi.
Cách mạng tháng Tám là sự kiện vĩ đại trong lịch sự dân tộc, đánh dấu bước
tiến nhảy vọt của cách mạng Việt Nam. Đây là lần đầu tiên giai cấp cơng nhân và
nhân dân lao động giành được chính quyền trong cả nước, lần đầu tiên chế độ dân
chủ nhân dân ở Việt Nam ra đời.
2.2. Tính chất, ý nghĩa lịch sử và bài học kinh nghiệm của Cách mạng Tháng
Tám năm 1945
2.2.1. Tính chất
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là “ một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc
mang tính chất dân chủ mới. Nó là một bộ phận khăng khít của cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân Việt Nam” “ Cách mạng Tháng Tám Việt Nam là một cuộc cách
mạng giải phóng dân tộc Việt Nam thốt khỏi ách đế quốc, làm cho nước Việt Nam
thành một nước độc lập tự do”. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là một cuộc cách
mạng giải phóng dân tộc điển hình, thể hiện:


14

Tập trung hoàn thành nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng là giải phóng dân tộc,
tập trung giải quyết mâu thuẫn chủ yếu của xã hội Việt Nam lúc đó mâu thuẫn giữa
toàn thể dân tộc với đế quốc xâm lược và tay sai; đáp ứng đúng yêu cầu khách quan
của lịch sử và ý chí, nguyện vọng độc lập tự do của quần chúng nhân dân.
Lực lượng cách mạng bao gồm toàn dân tộc, đoàn kết chặt chẽ trong mặt trận
Việt Minh với những tổ chức quần chúng mang tên “ cứu quốc”, động viên đến mức
cao nhất mọi lực lượng dân tộc lên trận địa cách mạng. Cuộc tổng khởi nghĩa tháng
Tám năm 1945 là sự vùng dậy của lực lượng tồn dân tộc.
Thành lập chính quyền nhà nước của chung toàn dân tộc theo chủ trương của
Đảng, với hình thức cộng hịa dân chủ, chỉ trừ tay sai của đế quốc và những kẻ phản
quốc, “ còn ai là người dân sống trên giải đất Việt Nam đều thấy được một phần

tham gia giữ chính quyền, phải có một phần nhiệm vụ giữ lấy và bảo vệ chính
quyền ấy.”
Cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam là một bộ phận của phe dân chủ
chống phát xít. “ Nó chống lại phát xít Nhật và bọn tay sai phản động, và nó là một
bộ phận của cuộc chiến đấu vĩ đại của các lực lượng dân chủ, tiến bộ trên thế giới
của các lực lượng hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ trên thế giới chống
phát xít xâm lược”.
Cách mạng đã giải quyết một số quyền lợi cho nông dân, lực lượng đông nhất
trong dân tộc. Do Cách mạng Tháng Tám, một phần ruộng đất của đế quốc Việt
gian đã bị tịch thu, địa tô được tuyên bố giảm 25%, một số nợ lưu cũ được xóa bỏ.
Cuộc cách mạng đã xây dựng chính quyền nhà nước dân chủ nhân dân đầu
tiên ở Việt Nam, xóa bỏ chế độ quân chủ phong kiến. Các tầng lớp nhân dân đang
hưởng quyền tự do, dân chủ.
Cách mạng Tháng Tám chưa làm cách mạng ruộng đất, chưa thực hiện khẩu
hiệu người cày có ruộng”, “chưa xóa bỏ chế độ phong kiếm chiếm hữu ruộng đất,
chưa xóa bỏ những tàn tích phong kiến và nửa phong kiến để cho cơng nghiệp có
điều kiện phát triển mạnh, quan hệ giữa địa chủ và nơng dân nói chung vẫn như cũ.


15

Chính vì thế Cách mạng Tháng Tám có tính chất dân chủ, nhưng tính chất đó chưa
được đầy đủ và sâu sắc”.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 dưới sự lãnh đạo của Đảng cịn mang đậm
tính chất nhân văn, hồn thành một bức hết sức cơ bản trong sự nghiệp giải phóng
con người ở Việt Nam khỏi mọi sự áp bức về mặt dân tộc, sự bóc lột về mặt giai cấp
và sự nô dịch về mặt tinh thần.
2.2.2. Ý nghĩa lịch sử
Khẳng định ý nghĩa của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Hồ Chí Minh viết
“ Chẳng những giai cấp lao động và nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai

cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng: Lần này
là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa,
một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành cơng, đã nắm chính quyền tồn
quốc”.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã đập tan xiềng xích nơ lệ của chủ nghĩa
đế quốc trong gần một thế kỷ, chấm dứt sự tồn tại của chế độ quân chủ chuyên chế
ngót nghìn năm tuổi, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhà nước của nhân
dân đầu tiên ở Đông Nam Á, giải quyết thành công vấn đề cơ bản của một cuộc
cách mạng xã hội là vấn đề chính quyền.
Với thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, nhân dân Việt Nam từ thân phận nô
lệ bước lên địa vị người chủ đất nước, có quyền quyết định vận mệnh của mình,
Nước Việt Nam từ một nước thuộc địa trở thành mơt quốc gia độc lập có chính
quyền, vươn lên cùng các dân tộc trên thế giới đấu tranh cho những mục tiêu cao cả
của thời đại là hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Đảng Cộng nhân Đông Dương từ chỗ phải hoạt động bí mật trở thành một
đảng cầm quyền. Từ đây, Đảng và nhân dân Việt Nam có chính quyền nhà nước
cách mạng làm công cụ sắc bén phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám mở ra kỷ nguyên mới trong tiến trình
lịch sử dân tộc, kỷ nguyên độc lập tự do và hưởng tới chủ nghĩa xã hội.


16

Cách mạng Tháng Tám là một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc lần đầu tiên
giành thắng lợi ở một nước thuộc địa, đã đột phá một khâu quan trọng trong hệ
thống thuộc địa chủ nghĩa đế quốc, mở đầu thời kỳ suy sụp và tan rã của chủ nghĩa
thực dân cũ.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám không chỉ là chiến cơng của dân tộc
Việt Nam mà cịn là chiến công chung của các dân tộc thuộc địa đang đấu tranh vì
độc lập tự do, vì thế nó có sức cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc trên

thế giới.
Cách mạng Tháng Tám là thắng lợi của đường lối giải phóng dân tộc đúng
đắn, sáng tạo của Đảng và tư tưởng độc lập tự do của Hồ Chí Minh. Nó chứng tỏ
rằng một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc do Đảng Cộng sản lãnh đạo hồn tồn
có khả năng thắng lợi ở một nước thuộc địa trước khi giai cấp cơng nhân ở “ chính
quốc” lên nắm chính quyền.
Cách mạng Tháng Tám đã góp phần làm phong phú thêm kho tàng lý luận của
chủ nghĩa Mác – Lênin về cách mạng giải phóng dân tộc.
2.2.3. Bài học kinh nghiệm
Cách mạng Tháng Tám thành công để lại cho Đảng và nhân dân Việt Nam
nhiều kinh nghiệm quý báu.
Thứ nhất, về chỉ đạo chiến lược, phải giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc,
giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ độc lập dân tộc và cách mạng
ruộng đất. Trong cách mạng thuộc địa, phải đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên
hàng đầu , còn nhiệm vụ cách mạng ruộng đất cần tạm gác lại, rải ra thực hiện từng
bước thích hợp nhằm phục vụ cho nhiệm vục chống đế quốc.
Thứ hai, về xây dựng lực lượng: Trên cơ sở khối liên minh công nông, cần
khởi dậy tinh thần dân tộc trong mọi tầng lớp nhân dân, tập hợp mọi lực lượng yêu
nước trong mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi. Việt Minh là một điển hình thành
cơng của Đảng về huy động lực lượng toàn dân tộc lên trận địa cách mạng, đưa cả
dân tộc vùng dậy trong cao trào kháng Nhật cứu nước, tiến lên tổng khởi nghĩa


17

giành chính quyền . Theo cách dùng từ của V.I Lênin trong tác phẩm Tổng kết một
cuộc tranh luận về quyền tự quyết, thì đó chính là một “ lị lửa khởi nghĩa dân tộc”.
Thứ ba, về phương pháp cách mạng: Nắm vững quan điểm bạo lực cách mạng
của quần chúng, ra sức xây dựng lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang, kết hợp
đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, tiến hành chiến tranh du kích cục bộ, khởi

nghĩa từng phần, giành chính quyền bộ phận ở những vùng nơng thơn có điều kiệ,
tiến lên chớp đúng thời cơ, phát động tổng khởi nghĩa ở cả nơng thơn và thành thị,
giành chính quyền tồn quốc.
Thứ tư, về xây dựng Đảng. Phải xây dựng mộ Đảng cách mạng tiên phong của
giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn dân tộc Việt Nam, tuyệt đối trung
thành với lợi ích giai cấp và dân tộc, vận dụng và phát triển lý luận Mác – Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh, đề ra đường lối chính trị đúng đắn; xây dựng một đảng vững
mạnh về tư tưởng, chính trị và tổ chức, liên hệ chặt chẽ với quần chúng và với đội
ngũ cán bộ, đảng viên kiên cường được tôi luyện trong đấu tranh cách mạng. Chú
trọng vai trò lãnh đạo ở cấp chiến lược của Trung ương Đảng, đồng thời phát huy
tính chủ động, sáng tạo của đảng bộ các địa phương.
Với thắng lợi Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Đảng đã lãnh đạo nhân dân
đưa lịch sử dân tộc sang trang mới đánh dấu bước nhảy vọt vĩ đại trong q trình
tiến hóa của dân tộc. Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ khi ra đời, đó phải trải
qua mn vàng khó khăn thử thách, nhưng dưới sụ lãnh đạo của Đảng, với tinh thần
đoàn kết phấn đấu của tồn dân, ln được xây dựng và củng cố, vững bước tiến
trên con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Suốt 15 năm đấu tranh cách
mạng 1930-1945, Đảng đã lãnh đạo giai cấp và dân tộc hoàn thành mục tiêu giành
độc lập, thiết lập nhà nước dân chủ nhân dân.


18

K T LUẬN
Như vậy, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 nổ ra và giành thắng lợi là mốc
son chói lọi trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, có giá trị
lịch sử và thời đại vô cùng to lớn. Đem lại những giá trị lịch sử to lớn, tầm vóc thời
đại của Cách mạng tháng Tám năm 1945 vẫn còn nguyên giá trị và ngày càng sâu
sắc, tiếp tục toả sáng trong dòng chảy lịch sử của dân tộc Việt Nam. Tinh thần Cách
mạng tháng Tám còn sống mãi trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của

nhân dân Việt Nam, cũng như trong bước đường phát triển của nhiều dân tộc tiến
bộ trên thế giới, phấn đấu vì hồ bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là kết quả đấu tranh lâu dài
của nhân dân Việt Nam chống đế quốc thực dân, phát huy cao nhất truyền thống
yêu nước chống ngoại xâm của dân tộc đã được hình thành qua hàng ngàn năm lịch
sử. Cách mạng Tháng Tám 1945 thành công do sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt
khôn khéo của Đảng Cộng sản Việt Nam, là sự vận dụng và phát triển chủ nghĩa
Mác-Lênin trong điều kiện lịch sử cụ thể của nước ta một cách đúng đắn, độc lập, tự
chủ và sáng tạo, có phương pháp và chiến lược, chiến thuật cách mạng thích hợp,
linh hoạt. Thời gian càng lùi xa, chúng ta càng nhìn rõ hơn tầm vóc vĩ đại của Cách
mạng Tháng Tám. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Chẳng những giai
cấp lao động và nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao động và những
dân tộc bị áp bức trên tồn thế giới cũng có thể tự hào rằng: Lần này là lần đầu tiên
trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh
đạo Cách mạng thành công, đã nắm chính quyền tồn quốc”. Thắng lợi của Cách
mạng Tháng Tám năm 1945 dẫn tới việc khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hịa có ý nghĩa to lớn đối với dân tộc ta và quốc tế sâu sắc, Cách mạng Tháng Tám
là một trong những trang sử vẻ vang nhất, chói lọi nhất của lịch sử dựng nước và
giữ nước của dân tộc Việt Nam.
Bài học về sự lãnh đạo của Ðảng trong Cách mạng Tháng Tám là Ðảng đã đề
ra đường lối giải phóng dân tộc đúng đắn, đã tập hợp đoàn kết rộng rãi lực lượng
của toàn dân tộc trong Mặt trận Việt Minh, đã lựa chọn và kết hợp đúng đắn các


19

hình thức tuyên truyền, tổ chức và phương pháp đấu tranh thích hợp tạo nên sức
mạnh tổng hợp, đã xây dựng, phát triển thực lực cách mạng, thúc đẩy phong trào,
đồng thời dự kiến và chớp đúng thời cơ hành động. Trong việc thực hiện sứ mệnh
nặng nề trước dân tộc và lịch sử, Ðảng đã rất coi trọng xây dựng Ðảng về tư tưởng

chính trị và tổ chức, rèn luyện phương pháp đấu tranh và cách lãnh đạo. Trong Cách
mạng Tháng Tám đã nổi bật năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Ðảng. Ðó là
bài học quý báu cho nhiệm vụ xây dựng Ðảng hiện nay và thực hiện vai trị lãnh đạo
của Ðảng trong cơng cuộc đổi mới, cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước ngày
nay. Đảng ta chủ trương phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân làm động lực chủ
yếu để phát triển đất nước; độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là mục tiêu , kết hợp
sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa; phấn đấu “sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công
nghiệp theo hướng hiện đại. Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân
dân...; nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới” là
những mục tiêu, giải pháp căn bản, góp bảo vệ thành quả vĩ đại trong Cách mạng
Tháng Tám năm 1945 của dân tộc ta.


20

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và đào tạo Việt Nam: Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt
Nam ( tài liệu tập huấn giảng dạy ), Hà Nội, 2019.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2000.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc
gia Hà Nội, 2000, tr 114.
4. Hồ Chí Minh: tồn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2011.
5. Trần Dân Tiên, Những mẫu chuyện về đời hoạt động của Hồ chủ tịch, Nxb
Văn nghệ, Hà Nội, 1956.




Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×