Tải bản đầy đủ (.pdf) (109 trang)

Tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hành chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (7.29 MB, 109 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HCM
KHOA LUẬT HÀNH CHÍNH
-----------***------------

VÕ THỊ HUYỀN
MSSV: 1753801011079

TẠM ĐÌNH CHỈ XÉT XỬ PHÚC THẨM
VỤ ÁN HÀNH CHÍNH

Luận văn tốt nghiệp cử nhân luật
Niên khóa: 2017 - 2021

Người hướng dẫn:
Th.S LÊ THỊ MƠ

TP.HCM – Năm 2021


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan Khóa luận tốt nghiệp này là kết quả nghiên cứu của riêng
tôi, được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của Th.S Lê Thị Mơ. Các số liệu,
bản án, quyết định và trích dẫn trong Khóa luận đảm bảo tính chính xác, tin cậy, trung
thực và tuân thủ các quy định về chú thích tài liệu tham khảo. Tơi xin chịu hồn tồn
trách nhiệm về lời cam đoan này.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên thực hiện

Võ Thị Huyền



DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Stt

Từ viết tắt

Nội dung từ viết tắt

1

Luật TTHC

Luật Tố tụng hành chính số 93/2015/QH13 ngày
25/11/2015 của Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ
nghĩa Việt Nam.

2

BLDS

Bộ luật Dân sự số 91/2015/QH13 ngày 24/11/2015 của
Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

3

BLTTDS

Bộ luật Tố tụng Dân sự số 92/2015/QH13 ngày
25/11/2015 của Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ
nghĩa Việt Nam.


4

5

Nghị quyết số

Nghị quyết số 02/2011/NQ - HĐTP ngày 29/7/2011 của

02/2011/NQHĐTP

Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn
thi hành một số quy định của Luật tố tụng hành chính.

Nghị quyết số Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính
49-NQ/TW

trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.

6

Pháp lệnh
TTGQVAHC

Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính số
29/2006/PL-UBTVQH11 của Uỷ ban Thường vụ Quốc
hội, sửa đổi bổ sung năm 1998 và năm 2006.

7

VAHC


Vụ án hành chính.

8

TTHC

Tố tụng hành chính.

9

TAND

Tịa án nhân dân.

10

TANDTC

Tịa án nhân dân tối cao.

11

UBND

Uỷ ban nhân dân.

12

HCST


Hành chính sơ thẩm.

13

HCPT

Hành chính phúc thẩm.

14

Số TĐC

Số tạm đình chỉ.

15

Số cịn TĐC

Số cịn tạm đình chỉ.

16

TP.HCM

Thành phố Hồ Chí Minh.

17

VKS


Viện kiểm sát.


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ TẠM ĐÌNH CHỈ XÉT XỬ
PHÚC THẨM VỤ ÁN HÀNH CHÍNH ................................................................ 5
1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hành
chính ................................................................................................................... 5
1.1.1. Khái niệm tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hành chính .................... 5
1.1.2. Đặc điểm tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hành chính ..................... 8
1.1.3. Ý nghĩa tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hành chính ...................... 10
1.2. Quy định của pháp luật Tố tụng hành chính Việt Nam về tạm đình chỉ
xét xử phúc thẩm vụ án hành chính ................................................................ 13
1.2.1. Căn cứ tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hành chính ....................... 13
1.2.2. Thẩm quyền tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hành chính ............... 29
1.2.3. Trình tự, thủ tục tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hành chính ......... 32
1.2.4. Hậu quả của tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hành chính .............. 33
CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG VỀ TẠM ĐÌNH CHỈ XÉT XỬ PHÚC THẨM
VỤ ÁN HÀNH CHÍNH VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HỒN THIỆN ................ 36
2.1. Thực trạng về tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hành chính ........... 36
2.1.1. Thực trạng thực hiện quy định của pháp luật Tố tụng hành chính Việt
Nam về tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hành chính ................................ 36
2.1.2. Bất cập trong quy định của pháp luật về tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm
vụ án hành chính............................................................................................. 49
2.2. Một số kiến nghị hồn thiện về tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án
hành chính ........................................................................................................ 57
2.2.1. Về mặt pháp lý ...................................................................................... 57
2.2.2. Về mặt thực tiễn .................................................................................... 62

KẾT LUẬN .......................................................................................................... 70


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trước yêu cầu đổi mới, chủ động hội nhập quốc tế, đồng thời tiếp tục thể chế
hóa chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước về chiến lược cải cách tư pháp theo
Hiến pháp 2013, Luật Tổ chức TAND 2014, ngày 25/11/2015 tại kỳ họp được kỳ họp
thứ 10 Quốc hội khóa XIII đã thơng qua Luật TTHC 2015 và chính thức có hiệu lực
thi hành từ ngày 01/7/2016. Luật TTHC 2015 được ban hành trên cơ sở kế thừa các
quy định còn phù hợp của Pháp lệnh TTGQVAHC năm 1996 sửa đổi, bổ sung năm
1998, 2006 và Luật TTHC 2010, khắc phục những bất cập, thiếu sót, hạn chế trong
quy định của Luật TTHC 2010, tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn
áp dụng pháp luật, từ đó tạo hành lang pháp lý chỉnh chu, vững chắc để hoạt động xét
xử VAHC được hiệu quả, đảm bảo tính đồng bộ, nhất quán trong cách hiểu và áp
dụng pháp luật giữa các Tòa án. Sự ra đời, đổi mới, tiến bộ của Luật TTHC 2015 đã
dần đáp ứng mong đợi của người dân và tồn xã hội về cơng tác xét xử VAHC. Với
việc đề cao tinh thần “trách nhiệm, kỷ cương, chất lượng, vì cơng lý”, số lượng vụ
VAHC được TAND các cấp thụ lý và giải quyết ngày càng tăng, chất lượng cơng tác
xét xử được bảo đảm. Có thể thấy, các quy định của Luật TTHC 2015 về xét xử
VAHC nói chung và tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm VAHC nói riêng đã dần được
hồn thiện, chặt chẽ hơn, là khung pháp lý quan trọng để Tòa án thực thi pháp luật
được hiệu quả; là thành trì vững chãi giúp cơ quan, tổ chức, cá nhân lấy làm cơng cụ
để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, tránh được sự xâm phạm từ các chủ
thể có thẩm quyền.
Trong q trình Tịa án giải quyết VAHC theo thủ tục phúc thẩm có thể xuất
hiện các căn cứ khiến cho việc giải quyết vụ án không thể tiếp tục, nếu Tòa án vẫn
giải quyết trong trường hợp này, kết quả vụ án sẽ khơng chính xác, khách quan, ảnh

hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự. Do vậy, Tòa án phải ban hành quyết
định tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm VAHC tạm dừng việc xét xử phúc thẩm trong
một thời hạn nhất định cho tới khi lý do tạm đình chỉ được khắc phục nhằm đảm bảo
kết quả giải quyết vụ án được chính xác, khách quan. Tuy nhiên, nếu việc ban hành
quyết định tạm đình chỉ khơng chính xác, mang nặng yếu tố chủ quan, duy ý chí của
Thẩm phán sẽ ảnh hưởng đến tiến trình giải quyết vụ án, “ngâm án” trong một thời
gian dài, ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể liên quan, tạo làn
sóng bất bình từ dư luận, báo chí. Xuất phát từ tính chất cấp bách, quan trọng của
việc ban hành quyết định tạm đình chỉ địi hỏi pháp luật phải có cơ chế điều chỉnh
thật chặt chẽ, loại bỏ những “kẽ hở” là căn nguyên dẫn đến Tòa án lạm dụng, tùy tiện,


2

qua loa trong việc ban hành quyết định nhằm kéo dài thời gian xét xử vụ án. Việc
nghiên cứu một cách tồn diện, có hệ thống chế định tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm
VAHC về cơ sở lý luận, pháp lý; thực trạng thực hiện quy định của pháp luật về chế
định này là cơ sở làm rõ những hạn chế, bất cập, thiếu sót trong quy định pháp luật
cũng như khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng dẫn đến cách giải quyết bất
nhất của các Tòa án. Từ đó có những giải pháp, kiến nghị hồn thiện nhằm khắc phục
những lỗ hổng của quy định pháp luật trong tương lai, thiết lập hành lang pháp lý
chung cho các Tòa án khi ban hành quyết định tạm đình chỉ được đồng bộ, thống
nhất, chính xác, đúng đắn. Xuất phát từ tính chất quan trọng, cần thiết trên, tác giả đã
lựa chọn đề tài “Tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hành chính”.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đương sự kháng cáo, VKS kháng nghị với mong mỏi duy nhất là được Tòa án
cấp phúc thẩm giành lại cho họ lẽ phải, lẽ công bằng mà đáng lẽ phải được pháp luật
cơng nhận, bảo vệ. Vì vậy, việc Tịa án ban hành quyết định tạm đình chỉ xét xử phúc
thẩm không chỉ làm gián đoạn quá trình xét xử mà cịn ảnh hưởng trực tiếp tới quyền,
lợi ích hợp pháp của đương sự. Tuy nhiên, hiện nay chưa có bất kỳ cơng trình nào

nghiên cứu tồn diện, chun sâu về vấn đề này. Các cơng trình nghiên cứu có chăng
chỉ nghiên cứu về chế định “Tạm đình chỉ giải quyết vụ án hành chính” – là quyết
định được ban hành ở giai đoạn sơ thẩm như: Khóa luận tốt nghiệp “Tạm đình chỉ
giải quyết vụ án hành chính” (2014) của Trần Linh Hn, “Tạm đình chỉ giải quyết
vụ án hành chính” (2017) của Trương Nguyễn Nhật Hồng, Luận án tiến sĩ “Chất
lượng xét xử các vụ án hành chính của Tịa án nhân dân cấp tỉnh ở Việt Nam hiện
nay” (2018) của Trần Quốc Hùng…Một số bài báo, tạp chí có đề cập đến vấn đề này
như bài viết trên tạp chí Nhà nước và pháp luật “Thủ tục phúc thẩm vụ án hành
chính” (2020), tạp chí Tịa án nhân dân “Bất cập trong quy định của Luật Tố tụng
hành chính về quyết định tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm và kiến nghị hoàn thiện”
(2021) của tác giả Lê Thị Mơ, “Bàn về vấn đề tạm đình chỉ trong giai đoạn xét xử vụ
án hành chính phúc thẩm” (2012) của tác giả Trần Đức Long…Tuy nhiên các cơng
trình này hạn chế về dung lượng, thời gian nghiên cứu nên chưa đi sâu phân tích, khai
thác hết các khía cạnh lý luận, thực tiễn của chế định này.
3. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích các khía cạnh lý luận và pháp lý, thực trạng thực hiện quy
định của pháp luật, tác giả chỉ ra những khó khăn, hạn chế của Tịa án khi thực hiện
quy định của pháp luật trên thực tế và những điểm thiếu sót, bất cập trong quy định
của pháp luật để đưa ra những nhận xét, kiến nghị hoàn thiện về mặt pháp lý, thực


3

tiễn để tạo một hành lang pháp lý ổn định, phù hợp góp phần nâng cao hiệu quả xét
xử VAHC nói chung, tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm VAHC nói riêng.
4. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu
4.1.

Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu những vấn đề lý luận, pháp lý và thực tiễn thực hiện quy


định của pháp luật về tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm VAHC. Trong đó, về mặt lý
luận, pháp lý, đề tài tập trung xây dựng, phân tích khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa và
quy định của Luật TTHC về tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm VAHC. Trên cơ sở đó,
đề tài đã phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện quy định của Luật TTHC về tạm
đình chỉ xét xử phúc thẩm của các Tòa án trên thực tế, nêu bật các bất cập của Luật
và đề ra các giải pháp, kiến nghị hoàn thiện quy định của Luật.
4.2.

Phạm vi nghiên cứu

Theo quy định của Luật TTHC, trình tự, thủ tục giải quyết kháng cáo, kháng
nghị đối với bản án sơ thẩm và trình tự, thủ tục giải quyết kháng cáo, kháng nghị đối
với quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ giải quyết vụ án là khác nhau. Khi giải quyết
kháng cáo, kháng nghị đối đối với quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết sơ
thẩm vụ án thì Tịa án khơng phải mở phiên tịa, khơng phải triệu tập đương sự1, trong
khi đó, việc giải quyết kháng cáo, kháng nghị về bản án sơ thẩm phức tạp hơn, khi
đủ điều kiện cần thiết, Tòa án phải mở phiên tòa, triệu tập đương sự. Xuất phát từ sự
khác biệt này nên khi tác giả nghiên cứu về việc tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm cũng
tồn tại những điểm khác nhau nhất định giữa hai thủ tục trên. Do đó, để bảo đảm việc
nghiên cứu đề tài “tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hành chính” được thống nhất,
trọng tâm và có chiều sâu, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu làm rõ về tạm đình chỉ xét
xử phúc thẩm VAHC khi Tòa án phúc thẩm giải quyết kháng cáo, kháng nghị về bản
án sơ thẩm.
5. Phương pháp nghiên cứu
Khóa luận sử dụng nhiều phương pháp khác nhau nhằm làm sáng tỏ từng vấn
đề khi nghiên cứu như phân tích, tổng hợp, diễn dịch, quy nạp, so sánh, đối chiếu,
thống kê…; phương pháp luận chủ nghĩa Mác - Lê nin kết hợp với tư tưởng Hồ Chí
Minh để có thể đưa ra cách nhìn nhận khách quan, toàn diện vấn đề, tránh chủ quan,
phiến diện khi nghiên cứu cùng với đó là các quan điểm, chủ trương của Đảng, Nhà

nước về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân.
1

Điều 226 Luật Tố tụng hành chính 2015.


4

6. Ý nghĩa đề tài
Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ là nguồn tài liệu tham khảo có giá trị cho các
độc giả, tác giả các cơng trình khác khi tìm hiểu về chế định tạm đình chỉ xét xử phúc
thẩm VAHC. Đồng thời kết quả nghiên cứu của đề tài cũng tạo cơ sở pháp lý về mặt
khoa học cũng như thực tiễn cho các nhà nghiên cứu lập pháp, luật gia…trong quá
trình xây dựng hành lang pháp lý mới cho Luật TTHC sửa đổi trong thời gian sắp tới,
đáp ứng mong mỏi của nhân dân vào công lý và thực thi công lý trên thực tế, củng cố
niềm tin của nhân dân vào Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
7. Bố cục đề tài
Ngoài mục lục, phần mở đầu, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, kết cấu của
Khóa luận gồm có 2 chương. Cụ thể như sau:
Chương I: Cơ sở lý luận và pháp lý về tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm VAHC;
Chương II: Thực trạng về tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm VAHC và một số kiến
nghị hoàn thiện.


5

CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ TẠM ĐÌNH CHỈ XÉT XỬ PHÚC
THẨM VỤ ÁN HÀNH CHÍNH
1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hành

chính
1.1.1. Khái niệm tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hành chính
Q trình giải quyết phúc thẩm VAHC trải qua các trình tự, thủ tục khác nhau
từ nhận đơn, xem xét đơn kháng cáo, quyết định kháng nghị cho đến thụ lý, chuẩn bị
xét xử, xét xử phúc thẩm VAHC. Mỗi trình tự, thủ tục có những cơng việc, hoạt động
cụ thể, thế nhưng đều nhằm mục đích giải quyết kháng cáo, kháng nghị một cách
chính xác, đúng đắn nhất. Song khơng phải lúc nào việc giải quyết phúc thẩm cũng
diễn ra suôn sẻ, liền mạch mà chúng có thể bị gián đoạn trong khoảng thời gian nhất
định khi xuất hiện các căn cứ như: Đương sự kháng cáo là cá nhân chết, cơ quan, tổ
chức đã giải thể mà chưa có cá nhân, cơ quan, tổ chức kế thừa quyền và nghĩa vụ tố
tụng; cần đợi kết quả giải quyết của cơ quan khác hoặc kết quả giải quyết vụ việc
khác có liên quan… Nói cách khác, khi xuất hiện một trong các căn cứ này Tịa án
cấp phúc thẩm phải tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án để có thời gian khắc phục,
bảo đảm cho việc giải quyết được đúng đắn, chính xác. Vấn đề đặt ra, tạm đình chỉ
xét xử phúc thẩm VAHC được hiểu như thế nào?
Hiện nay, khái niệm tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm VAHC chưa được chính
thức thừa nhận trong quy định tại Luật TTHC và các văn bản pháp luật có liên quan.
Chính vì vậy, việc tìm hiểu về khái niệm này phải dựa trên khía cạnh lý luận và cách
giải thích các thuật ngữ trong nội hàm của nó. Theo đó, để hiểu rõ được khái niệm
tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm VAHC, chúng ta cần hiểu được các cụm từ sau:
“VAHC”; “tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm”.
Trước hết là khái niệm về VAHC, hiện nay Luật TTHC và các văn bản pháp
luật có liên quan cũng chưa có quy định đề cập đến và đương nhiên để hiểu rõ nội
hàm của nó chúng ta cũng bắt đầu từ cách giải thích ngữ nghĩa. Trong từ điển Tiếng
Việt thì “vụ” là “việc, sự việc không hay, rắc rối cần được giải quyết 2” còn “án” là
“vụ phạm pháp hoặc tranh chấp về quyền lợi cần được xét xử trước Tòa án3”. Mặt
khác, trong Từ điển Luật học cũng nêu “VAHC là vụ án phát sinh tại Tịa hành chính
do cá nhân, cơ quan, tổ chức khởi kiện ra Tòa án u cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp
2
3


Hồng Phê (2008) “Từ điển Tiếng Việt”, Nhà xuất bản Đà Nẵng, tr.380.
truy cập ngày 01/4/2021.


6

pháp của mình4”. Mặc dù, khái niệm này đã nêu lên được chủ thể khởi kiện, chủ thể
có thẩm quyền giải quyết cũng như mục đích của việc khởi kiện VAHC. Tuy nhiên,
khái niệm này còn khá chung chung và chưa nêu lên được đối tượng khởi kiện của
VAHC là các quyết định hành chính, hành vi hành chính. Dưới góc độ nghiên cứu,
Giáo trình Luật TTHC của Trường Đại học Luật Hà Nội nêu “VAHC là vụ việc tranh
chấp hành chính được Tịa án thụ lý theo u cầu khởi kiện của cá nhân, tổ chức đối
với quyết định hành chính, hành vi hành chính để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của họ5”. Có phần tương tự với cách định nghĩa trên, Trường Đại học Luật TP.HCM
cũng giải thích “VAHC là vụ án phát sinh khi cá nhân, tổ chức khởi kiện hợp lệ các
quyết định hành chính hay hành vi hành chính hoặc các quyết định khác theo quy
định của pháp luật của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và được Tịa án có thẩm
quyền thụ lý6”. Xâu kết các cách lý giải trên, chúng ta có thể hiểu: VAHC là vụ án
phát sinh khi cá nhân, tổ chức khởi kiện hợp lệ để xem xét tính hợp pháp của các
quyết định hành chính hay hành vi hành chính hoặc các quyết định khác theo quy
định của pháp luật của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và được Tịa án có thẩm
quyền thụ lý theo quy định của Luật TTHC.
Sau đó, chúng ta cùng tiếp tục tìm hiểu về khái niệm tạm đình chỉ xét xử phúc
thẩm. Theo đó, dưới góc độ ngữ nghĩa, “tạm” được hiểu là: “tạm làm việc gì chỉ trong
một thời gian nào đó, khi có điều kiện thì sẽ có thay đổi7”, “tạm đình chỉ vụ án” là
Tịa án tạm ngừng giải quyết vụ án đã thụ lý8”. Mặt khác, khi quy định về giai đoạn
phúc thẩm VAHC, Luật TTHC trực tiếp đề cập “Xét xử phúc thẩm là việc Tòa án cấp
phúc thẩm xét xử lại vụ án mà bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm chưa có
hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị9”. Như vậy, các lập luận trên bước

đầu cho chúng ta hiểu “tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm là việc tạm dừng việc xét xử
phúc thẩm sau khi thụ lý vụ án”. Nhận thấy, cách giải thích này cịn ở mức sơ khai,
theo tính chắp vá các từ ngữ nên để có được khái niệm “tạm đình chỉ xét xử phúc
thẩm VAHC” chúng ta cần phải tiếp tục tiếp cận ở khía cạnh lý luận pháp lý từ một
số cơng trình khoa học có uy tín dưới đây.
Về mặt lý luận, tuy khơng nhiều cơng trình khoa học đề cập đến trực tiếp khái

Đại học Luật Hà Nội (1999), Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học, Nhà xuất bản Công an nhân dân, tr.132.
Đại học Luật Hà Nội (2014), Giáo trình Luật Tố tụng hành chính Việt Nam, Nhà xuất bản Công an nhân dân,
tr.217.
6
Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2019), Giáo trình Luật Tố tụng hành chính Việt Nam (Tái bản lần thứ
nhất có sửa đổi, bổ sung), Nhà xuất bản Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam, tr.23.
7
truy cập ngày 01/4/2021.
8
Đại học Luật Hà Nội (1999), Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học, Nhà xuất bản Công an nhân dân, tr.147.
9
Điều 203 Luật Tố tụng hành chính.
4
5


7

niệm tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm VAHC nhưng chí ít cũng đề cập gián tiếp hoặc
có điểm qua các nội dung liên quan đến chúng. Tại trang 369, Giáo trình TTHC
Trường Đại học Luật Hà Nội có viết “Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm,
Tòa án cấp phúc thẩm có thể ra những quyết định pháp luật nhất định nếu xét thấy
có đủ căn cứ pháp luật, cụ thể là: Khi có những căn cứ phù hợp với quy định của

Điều 197 Luật TTHC thì ra quyết định tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án10”. Có
phần rõ ràng, chi tiết hơn, Giáo trình TTHC Việt Nam Trường Đại học Luật TP.HCM
nêu “Tòa án cấp phúc thẩm ra quyết định tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án, hậu
quả của việc tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án và tiếp tục xét xử phúc thẩm vụ án
được thực hiện theo quy định tại Điều 141 và Điều 142 của Luật TTHC 2015. Quyết
định tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án có hiệu lực thi hành ngay. Quyết định tạm
đình chỉ phải được gửi ngay cho đương sự và VKS cùng cấp11”. Ở một số cơng trình
khác, tuy khơng trình bày trực tiếp, nhưng cũng đã nhắc đến “Trong quá trình giải
quyết VAHC theo thủ tục phúc thẩm có thể phát sinh những căn cứ làm cho Tịa án
khơng thể tiếp tục giải quyết vụ án theo thủ tục phúc thẩm. Khi có các căn cứ này,
Tịa án phải ra quyết định tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm. Những căn cứ tạm đình chỉ
xét xử phúc thẩm là những căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 141 Luật TTHC.
Đây là những căn cứ tạm đình chỉ giải quyết vụ án nhưng phát sinh trong giai đoạn
xét xử phúc thẩm12”. Hay, cuốn bình luận Luật TTHC của tác giả Vũ Thư, Lê Thương
Huyền đã viết “Khi nhận được kháng cáo, kháng nghị, Tịa án sẽ phải phân cơng
Thẩm phán giải quyết vụ án, Hội đồng xét xử sẽ nghiên cứu hồ sơ vụ án trước khi xét
xử. Khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, nếu có căn cứ dẫn đến phải tạm đình chỉ giải quyết
vụ án thì Tịa án cấp phúc thẩm ra quyết định tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm (nếu có
các dấu hiệu quy định tại Điều 141)13”. Có thể thấy, về cơ bản, các cơng trình trên
đây đều đưa ra khái niệm về tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm VAHC nhưng cịn ở mức
độ sơ khai, chung chung, chưa cô đọng được một khái niệm hồn chỉnh, tồn diện.
Mặc dù vậy, các cơng trình đều đã phản ánh được về một số điểm cơ bản là: (i) thời
điểm; (ii) điều kiện ra quyết định; (iii) chủ thể có thẩm quyền ra quyết định tạm đình
chỉ xét xử phúc thẩm.
Như vậy, khi tập hợp các cách luận giải, lý luận trên đây, chúng ta có thể hiểu:

Đại học Luật Hà Nội (2014), Giáo trình Luật Tố tụng hành chính Việt Nam, Nhà xuất bản Công an nhân
dân, tr.369.
11
Khoản 1 Điều 228 Luật Tố tụng hành chính 2015.

12
Nguyễn Cảnh Hợp (chủ biên) (2017), Giải thích và bình luận Luật Tố tụng hành chính 2015, Nhà xuất bản
Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam, tr.339.
13
Vũ Thư, Lê Thương Huyền (2016), Bình luận Khoa học Luật Tố tụng hành chính năm 2015, Nhà xuất bản
Hồng Đức, tr.238.
10


8

Tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm VAHC là việc Tòa án cấp phúc thẩm sau khi thụ lý vụ
án đã ra quyết định tạm dừng việc xét xử phúc thẩm khi xuất hiện các căn cứ tạm
đình chỉ do Luật định, vụ án sẽ được tiếp tục xét xử khi các căn cứ tạm đình chỉ đó
được khắc phục.
1.1.2. Đặc điểm tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hành chính
Thơng qua khái niệm tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm VAHC nêu trên, chúng
ta tiếp tục tìm hiểu các đặc điểm cơ bản của tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm VAHC:
Thứ nhất, tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm VAHC chỉ được Tòa án cấp phúc
thẩm ban hành sau khi thụ lý xét xử phúc thẩm.
VAHC chỉ được xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm khi Tịa án cấp phúc thẩm
ra thơng báo thụ lý phúc thẩm. Nói cách khác, hành vi thụ lý của Tòa án cấp phúc
thẩm là điều kiện quan trọng làm phát sinh thủ tục phúc thẩm, xác định trách nhiệm
của Tòa án trong việc xét xử lại vụ án, đánh giá tính hợp pháp và tính có căn cứ trong
kháng cáo của đương sự, kháng nghị của VKS. Đặc biệt, đối với một số quyết định
quan trọng của Tòa án thì việc thụ lý phúc thẩm cũng là điều kiện cần để chúng được
ban hành nhằm giải quyết các tình huống phát sinh trong quá trình giải quyết vụ án.
Quyết định tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm cũng khơng ngoại lệ. Theo đó, Luật TTHC
quy định: Sau khi thụ lý vụ án thì Chánh án Tịa án cấp phúc thẩm thành lập Hội đồng
xét xử phúc thẩm và phân cơng một Thẩm phán làm Chủ tọa phiên tịa, phiên họp.

Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, Thẩm phán được phân cơng chủ tọa phiên Tịa ra
một trong các quyết định: Tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm, đình chỉ xét xử phúc thẩm,
đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm. Thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm là 60 ngày, kể từ
ngày thụ lý vụ án phúc thẩm. Đối với vụ án phức tạp hoặc do trở ngại khách quan thì
chánh án Tịa án cấp phúc thẩm có thể quyết định kéo dài thời hạn chuẩn bị xét xử
nhưng không quá 30 ngày14. Như vậy, quy định trên cho chúng ta thấy, tạm đình chỉ
xét xử phúc thẩm là hành vi tố tụng của Tòa án cấp phúc thẩm và nó chỉ được ban
hành sau khi Tịa án có thơng báo thụ lý vụ án để xét xử phúc thẩm.
Thứ hai, tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm VAHC được ban hành khi xuất hiện
các căn cứ luật định.
Có thể thấy, đây là một trong các đặc điểm rất căn bản của quyết định tạm đình
chỉ xét xử phúc thẩm VAHC. Đặc điểm này xuất phát từ chính nguyên tắc hiến định
tại khoản 1 Điều 8 Hiến pháp 2013: “Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến

14

Điều 221 Luật Tố tụng hành chính 2015.


9

pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật” và từ nguyên tắc tại
Điều 13 Luật TTHC: “Thẩm phán, hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tn theo
pháp luật”. Vì lẽ đó mà trong hoạt động xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm hoạt động
độc lập với nhau, không can thiệp vào ý chí của nhau, đồng thời phải tuân theo pháp
luật. Độc lập và tuân theo pháp luật là hai mặt thống nhất của một vấn đề, chúng
không tách rời nhau: càng muốn độc lập thì càng phải tuân theo pháp luật, càng tuân
theo pháp luật thì càng độc lập15. Trong việc ra quyết định tạm đình chỉ xét xử phúc
thẩm VAHC cũng vậy, Tòa án phải ra quyết định dựa trên các căn cứ Luật định (
được quy định tại Điều 228 dẫn chiếu đến khoản 1 Điều 141 Luật TTHC) chứ khơng

được ra quyết định dựa trên ý chí chủ quan của mình. Nếu ra quyết định khơng dựa
trên quy định của pháp luật sẽ bị coi là có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng
pháp luật, ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của các đương sự trong vụ án.
Thứ ba, tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm chỉ là tạm dừng việc xét xử phúc thẩm
chứ không làm chấm dứt hẳn việc giải quyết vụ án
Nếu như đình chỉ xét xử phúc thẩm VAHC làm chấm dứt quá trình giải quyết
vụ án theo thủ tục phúc thẩm đồng thời làm phát sinh hiệu lực của bản án, quyết định
sơ thẩm thì tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm VAHC chỉ là tạm dừng việc giải quyết
VAHC trong một khoảng thời gian. Bản chất các căn cứ để tạm đình chỉ là có thể
“được khắc phục” chứ không phải làm cho vụ án đi vào ngõ cụt. Tùy thuộc vào thời
hạn tồn tại của lý do tạm đình chỉ mà tiến trình tố tụng sẽ được bắt đầu lại. Tạm đình
chỉ xét xử phúc thẩm có hiệu lực thi hành ngay nhưng đó khơng phải là quyết định
cuối cùng của việc giải quyết vụ án như đình chỉ. Đó khơng phải là cách thức để giải
quyết vụ án mà là thời gian để có thể bổ sung đầy đủ tài liệu, chứng cứ, cơ sở cũng
như điều kiện cần thiết, vững chắc để vụ án được giải quyết chính xác, khách quan.
Ở khoảng thời gian này, Thẩm phán được phân cơng giải quyết vụ án có trách nhiệm
theo dõi, đôn đốc cơ quan, tổ chức, cá nhân khắc phục những lý do dẫn tới vụ án bị
tạm đình chỉ trong thời gian ngắn nhất để kịp thời đưa vụ án ra giải quyết16.
Thứ tư, tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm VAHC có thể được ban hành ở giai
đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm hoặc tại phiên tịa xét xử phúc thẩm VAHC
Trong q trình giải quyết vụ án theo thủ tục phúc thẩm, nếu xuất hiện các căn
cứ Luật định thì Tịa án ra quyết định tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm. Mà quá trình
giải quyết vụ án theo thủ tục phúc thẩm bao gồm cả giai đoạn chuẩn bị xét xử và xét
Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2019), Giáo trình Luật Tố tụng hành chính Việt Nam (Tái bản lần
thứ nhất có sửa đổi bổ sung), Nhà xuất bản Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam, tr.88 - 89 .
16
Khoản 3 Điều 142 Luật Tố tụng hành chính 2015.
15



10

xử tại phiên Tịa. Như đã phân tích ở trên, việc ra quyết định này khơng phụ thuộc
vào ý chí chủ quan của Thẩm phán mà phụ thuộc vào các căn cứ Luật định. Các sự
kiện dẫn đến tạm đình chỉ diễn ra một cách khách quan, duy ý chí. Do đó, khơng bất
kể vào thời điểm nào của q trình xét xử phúc thẩm, các căn cứ này đều có thể xảy
ra bất ngờ, Tịa án dựa trên các căn cứ này để ra quyết định tạm ngưng việc giải quyết
vụ án trong một giai đoạn nhất định. Điều này khác với quyết định tạm đình chỉ giải
quyết vụ án bởi nó sẽ được ban hành ở giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm hoặc tại
phiên Tòa sơ thẩm. Tùy thuộc vào thời điểm mà thẩm quyền ra quyết định tạm đình
chỉ xét xử phúc thẩm sẽ thuộc về Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án hoặc
Hội đồng xét xử.
1.1.3. Ý nghĩa tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hành chính
Tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm VAHC là một chế định quan trọng của Luật
TTHC. Việc hiểu biết chuyên sâu về các căn cứ, thẩm quyền, trình tự, thủ tục, hậu
quả pháp lý của chế định này có ý nghĩa quan trọng với đương sự, người đại diện hợp
pháp của đương sự; với Tịa án xét xử; VKS và với tiến trình tố tụng giải quyết vụ
án.
Đối với đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự
Đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự là chủ thể kháng cáo chủ
yếu làm phát sinh thủ tục phúc thẩm VAHC. Vì thế, việc họ nắm vững các quy định
pháp luật về căn cứ, trình tự thủ tục, thẩm quyền và hậu quả pháp lý của chế định tạm
đình chỉ xét xử phúc thẩm VAHC rất cần thiết và có ý nghĩa. Trước hết, nó là cơ sở
để các đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự chủ động, khẩn trương khắc
phục các sự kiện phát sinh làm cho vụ án bị tạm đình chỉ, để vụ án được nhanh chóng
tiếp tục xét xử, tránh bị kéo dài ảnh hưởng đến thời gian, cơng sức, chi phí và góp
phần bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp cho họ. Tiếp đến, việc hiểu và nắm vững
chế định tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm còn là cơ sở để các đương sự, người đại diện
của đương sự theo dõi, giám sát hoạt động tạm đình chỉ của Tịa án, nhằm loại trừ
những trường hợp Tịa án tạm đình chỉ tùy tiện, cố tình trì hỗn việc giải quyết vụ án,

bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của bản thân kịp thời, hiệu quả.
Đối với hoạt động xét xử của Tịa án
Trước hết, việc tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm nhằm đảm bảo cho hoạt động
xét xử của Tòa án được đúng đắn, khách quan, chính xác. Tịa án giải quyết vụ án
không được dựa trên sự chủ quan, ý chí của cá nhân mình mà phải dựa trên các tài
liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án để có cách giải quyết tồn diện, chính xác. Tạm


11

đình chỉ xét xử phúc thẩm nhằm đảm bảo cho Tịa án có thêm thời gian thu thập tài
liệu, chứng cứ để chuẩn bị cho quá trình tố tụng tiếp theo được diễn ra suôn sẻ. Trong
một số trường hợp, việc thu thập chứng cứ của Tòa án phải lệ thuộc vào cơ quan khác
như: đợi kết quả giải quyết của cơ quan khác hoặc kết quả giải quyết vụ việc khác có
liên quan; kết quả giám định bổ sung, giám định lại; kết quả thực hiện ủy thác tư
pháp, ủy thác thu thập chứng cứ...Khi chưa có đủ chứng cứ cần thiết, Tịa án rất khó
có thể đưa ra phán quyết một cách chính xác, khách quan, tồn diện. Nếu Tòa án đưa
ra phán quyết trong trường hợp này sẽ mang tính chất chủ quan, phiến diện. Vì vậy,
pháp luật đưa ra quy định tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm trong trường hợp này là rất
cần thiết, đảm bảo cho những phán quyết của Tịa khơng chỉ được căn cứ vào kết quả
tranh tụng mà còn dựa vào các chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa để phân tích,
đánh giá, nhận định về kháng cáo, kháng nghị, các tình tiết của vụ án...17. Tiếp theo,
quy định về tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm đảm bảo cho Tịa án khơng vi phạm thời
gian tiến hành tố tụng. Thời gian giải quyết phúc thẩm VAHC được pháp luật quy
định rất cụ thể, chi tiết. Trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày thụ lý vụ án, Thẩm phán
được phân cơng làm Chủ tọa phiên tịa phải ra một trong các quyết định sau đây: Tạm
đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án; Đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án; Đưa vụ án ra xét
xử phúc thẩm. Đối với vụ án có tính chất phức tạp hoặc do trở ngại khách quan thì
Chánh án Tịa án cấp phúc thẩm có thể quyết định kéo dài thời hạn chuẩn bị xét xử
quy định tại khoản 1 Điều này, nhưng không được quá 30 ngày. Tuy nhiên, không

phải lúc nào tiến trình tố tụng của Tịa án cũng diễn ra trơi chảy, bởi q trình giải
quyết vụ án có thể xuất hiện các sự kiện làm cho Tòa án không thể tiếp tục xét xử
phúc thẩm được vụ án. Việc tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm trong trường hợp này là
cần thiết, giúp Tịa án khơng vi phạm thời gian tiến hành tố tụng, từ đó, đảm bảo được
thời gian tiến hành tố tụng. Cuối cùng, việc quy định cụ thể về tạm đình chỉ xét xử
góp phần nâng cao được tinh thần trách nhiệm, chất lượng hoạt động, ý thức tơn trọng
pháp luật của Tịa án trong hoạt động xét xử, củng cố kỷ cương, công lý. Hiểu rõ
được các căn cứ, trình tự, thủ tục, thẩm quyền, hậu quả pháp lý của tạm đình chỉ xét
xử phúc thẩm giúp Tòa án thận trọng hơn trong việc ra các quyết định. Bởi nếu xuất
hiện căn cứ làm cho vụ án bị tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm mà Tịa án khơng ra
quyết định tạm đình chỉ hoặc ra quyết định tạm đình chỉ trái luật thì có thể bị xem là
vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Xuất phát từ tính chất nghiêm trọng này mà
Tòa án cần xem xét kỹ lưỡng trước khi quyết định tạm đình chỉ. Có thể nói tạm đình
chỉ xét xử phúc thẩm là cơ hội để Tịa án nhìn nhận, đánh giá lại vụ án một cách toàn

17

Khoản 4 Điều 242 Luật Tố tụng hành chính 2015.


12

diện, khách quan để xét xử đúng pháp luật, đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa, đảm
bảo quyền và lợi ích pháp của đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự.
Đối với hoạt động giám sát của VKS nhân dân
Xét ở khía cạnh VKS nhân dân, việc quy định đầy đủ, minh thị về chế định
tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm VAHC cũng có những ý nghĩa đáng kể. Điều này sẽ
là tiêu chí rất cần thiết để VKS có kháng nghị nói riêng và VKS nói chung thực hiện
việc giám sát, kiểm sát việc tạm đình chỉ được thuận lợi, dễ dàng hơn, chính xác, tồn
diện hơn. Thơng qua đó góp phần nâng cao chất lượng tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm

VAHC, bảo đảm tốt nhất quyền tham gia tố tụng của các đương sự và của VKS có
kháng nghị.
Đối với tiến trình tố tụng
Trước hết, đảm bảo cho tiến trình tố tụng diễn ra nhanh chóng, chính xác, tránh
tình trạng “ngâm án”, kéo dài thời gian xét xử phúc thẩm vụ án. Khi Tòa án nhận
định đúng lý do, căn cứ khiến vụ án khơng thể tiếp tục xét xử, Tịa án sẽ đưa ra quyết
định tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm. Quyết định tạm đình chỉ đúng sẽ giúp cho vụ án
được giải quyết nhanh chóng, thấu đáo, tránh tình trạng kéo dài thời gian xét xử. Từ
đó thúc đẩy tiến trình tố tụng diễn ra nhanh gọn, chính xác, hiệu quả, giảm bớt áp lực
cho Tịa án trong q trình xét xử. Ngồi ra, tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm VAHC
giúp tiết kiệm được tiền bạc, công sức, thời gian cho cả cơ quan công quyền lẫn các
đương sự, người đại diện hợp pháp của họ trong quá trình giải quyết VAHC. Như đã
phân tích ở trên, trường hợp xuất hiện căn cứ tạm đình chỉ nhưng Tịa án lại tiếp tục
giải quyết VAHC hoặc ra quyết định không có căn cứ thì có thể được xem là vi phạm
nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Bản án, quyết định phúc thẩm lúc này có nguy cơ bị
chủ thể có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm. Hội đồng
xét xử có thể sẽ hủy bản án phúc thẩm để xét xử lại theo quy định của pháp luật. Từ
đó, gây kéo dài thời gian giải quyết vụ án, ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp
của đương sự trong vụ án. Như vậy, tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm VAHC là cách
thức để tiết kiệm thời gian, công sức, tiền bạc cho cả cơ quan cơng quyền lẫn cả
đương sự trong tiến trình TTHC.
Bên cạnh các ý nghĩa trên, tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm VAHC còn thể hiện
sự phối hợp giữa các cơ quan cơng quyền trong tiến trình giải quyết vụ án. Bởi trong
một số trường hợp để giải quyết được VAHC thì cần có kết quả giải quyết vụ việc
khác có liên quan...nên tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm VAHC thể hiện mối quan hệ
tương hỗ, phối hợp giữa các cơ quan quyền lực Nhà nước để giải quyết vụ án được


13


chính xác, tinh gọn. Tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm còn tạo thời gian để cơ quan, tổ
chức, cá nhân đã ban hành quyết định hành chính, hành vi hành chính bị kiện có thời
gian để nhìn nhận lại quyết định, hành vi của mình. Bởi dẫu các cá nhân, cơ quan, tổ
chức mang quyền lực Nhà nước nhưng không phải lúc nào quyết định, hành vi của
họ cũng hợp pháp, có căn cứ và đúng với quy định của pháp luật mà có thể khơng
tránh khỏi những sai sót nhất định. Thơng qua tạm đình chỉ các chủ thể này có thể sẽ
có những điều chỉnh, khắc phục nhất định để khơng xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp
pháp của người kháng cáo bản án, quyết định của Tịa sơ thẩm vì quyết định, hành vi
hành chính sai trái của họ.
Kết luận lại, trên đây, tác giả đã lần lượt phân tích, đánh giá một cách tồn
diện các ý nghĩa quan trọng của chế định tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm VAHC đối
với đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự; với Tòa án; VKS nhân dân và
tiến trình TTHC.
1.2. Quy định của pháp luật Tố tụng hành chính Việt Nam về tạm đình chỉ xét
xử phúc thẩm vụ án hành chính
Hiện nay, Luật TTHC quy định về tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm VAHC tại
Điều 228. Qua việc nghiên cứu điều khoản này, tác giả nhận thấy Điều 228 đã đề cập
đến các căn cứ tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm, thẩm quyền, trình tự, thủ tục và hậu
quả của việc tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm VAHC.
1.2.1. Căn cứ tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hành chính
Có thể thấy, quy định của Luật TTHC về các căn cứ tạm đình chỉ xét xử phúc
thẩm VAHC rất quan trọng, là cơ sở để Tịa án tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm chính
xác, đúng luật, loại bỏ trường hợp ban hành tùy tiện, thiếu thống nhất ảnh hưởng đến
tiến trình tố tụng và quyền tham gia tố tụng của đương sự và VKS. Nhìn chung, trên
cơ sở kế thừa có chọn lọc từ quy định của Luật TTHC năm 2010, Luật TTHC hiện
hành đã quy định tương đối đầy đủ, rõ ràng về các căn cứ tạm đình chỉ xét xử phúc
thẩm VAHC. Theo đó, bằng phương pháp dẫn chiếu đến khoản 1 Điều 141, khoản 1
Điều 228 Luật TTHC đã quy định sáu căn cứ tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm VAHC.
Thứ nhất, đương sự là cá nhân đã chết, cơ quan, tổ chức đã giải thể hoặc tuyên
bố phá sản mà chưa có cá nhân, cơ quan, tổ chức kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng.

Đương sự trong VAHC bao gồm người khởi kiện, người bị kiện, người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan18. Đương sự có thể là cá nhân, cơ quan, tổ chức. Đương
18

Khoản 7 Điều 3 Luật Tố tụng hành chính 2015.


14

sự là cá nhân bao gồm công dân Việt Nam, người nước ngồi, người khơng có quốc
tịch. Đương sự là cơ quan, tổ chức bao gồm cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ
chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ
chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức kinh tế, đơn vị sự nghiệp công lập, đơn vị lực
lượng vũ trang nhân dân và các tổ chức khác được thành lập và hoạt động theo quy
định của pháp luật19. Khi tham gia vào TTHC các chủ thể này đều có các quyền và
nghĩa vụ tố tụng cụ thể. Tùy từng trường hợp khác nhau mà họ có thể tham gia với tư
cách là người khởi kiện, người bị kiện hay người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Lúc này, họ có thể thực hiện quyền, nghĩa vụ trong Luật TTHC quy định hoặc ủy
quyền cho người đại diện của mình tham gia tố tụng.
Khi VAHC được thụ lý theo thủ tục phúc thẩm, quyền và nghĩa vụ của đương
sự bắt đầu phát sinh và gắn liền với cá nhân, cơ quan, tổ chức cụ thể khi họ tham gia
tố tụng. Tuy nhiên, quá trình giải quyết VAHC theo thủ tục phúc thẩm có thể bị gián
đoạn bởi các sự kiện đương sự là cá nhân chết, cơ quan tổ chức đã giải thể hoặc tuyên
bố phá sản. Điều này làm ảnh hưởng đến tiến trình giải quyết vụ án của Tòa án.
Đương sự là cá nhân chết có thể hiểu theo hai nghĩa bao gồm chết sinh học và chết
pháp lý. Trong đó chết sinh học được hiểu là con người mất khả năng sống, khơng
cịn có biểu hiện của sự sống20. Khi cá nhân chết theo nghĩa này thì quyền và nghĩa
vụ tố tụng của họ theo đó mà chấm dứt theo. Cịn chết về mặt pháp lý là việc TAND
ra quyết định tuyên bố một cá nhân là đã chết theo yêu cầu của người có quyền, lợi
ích liên quan khi có đủ những điều kiện Luật định21. Việc tuyên bố một cá nhân chết

là chết về mặt pháp lý theo yêu cầu của người có quyền lợi, lợi ích liên quan, có thể
người này vẫn cịn sống ở đâu đó. Vì vậy, khi người bị tuyên bố chết quay trở về hoặc
có tin tức xác thực họ cịn sống, thì chính người này hoặc người có quyền, lợi ích liên
quan có thể u cầu TAND hủy bỏ quyết định tuyên bố chết. Khi cá nhân chết theo
nghĩa này thì quyền và nghĩa vụ tố tụng của họ có thể được khơi phục trở lại khi người
chết quay về. Cơ quan tổ chức bị giải thể trong các trường hợp: Kết thúc thời hạn
hoạt động đã ghi trong Điều lệ công ty mà không có quyết định gia hạn; Theo nghị
quyết, quyết định của chủ doanh nghiệp đối với doanh nghiệp tư nhân, của Hội đồng
thành viên đối với công ty hợp danh, của Hội đồng thành viên, chủ sở hữu công ty
đối với công ty trách nhiệm hữu hạn, của Đại hội đồng cổ đông đối với công ty cổ
Khoản 11 Điều 3 Luật Tố tụng hành chính 2015.
truy cập ngày 09/4/2021.
21
Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2017), Giáo trình Những quy định chung về Luật Dân sự (Tái bản
lần thứ nhất có sửa đổi, bổ sung), Nhà xuất bản Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam, tr.125.
Điều 71 Bộ luật Dân sự 2015 quy định các điều kiện để người có quyền, lợi ích liên quan có thể yêu cầu Tòa
án tuyên bố một người là đã chết.
19
20


15

phần; Cơng ty khơng cịn đủ số lượng thành viên tối thiểu theo quy định của Luật này
trong thời hạn 06 tháng liên tục mà không làm thủ tục chuyển đổi loại hình doanh
nghiệp; Bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, trừ trường hợp Luật Quản
lý thuế có quy định khác22. Cịn phá sản là tình trạng của doanh nghiệp, hợp tác xã
mất khả năng thanh toán và bị TAND ra quyết định tuyên bố phá sản23. Khi một pháp
nhân giải thể hoặc bị tuyên bố phá sản thì pháp nhân đó sẽ bị chấm dứt sự tồn tại24.
Nếu như khơng có cá nhân, cơ quan, tổ chức kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng thì

quyền và nghĩa vụ tố tụng của họ cũng có nguy cơ chấm dứt theo. Trong quá trình
giải quyết VAHC theo thủ tục phúc thẩm, có thể xảy ra các trường hợp đương sự là
cá nhân chết, cơ quan, tổ chức đã giải thể hoặc tuyên bố phá sản làm ảnh hưởng đến
tiến trình xét xử phúc thẩm của Tịa án. Vì vậy, việc xác định các căn cứ là cá nhân
chết, cơ quan, tổ chức đã giải thể hoặc tuyên bố phá sản có ý nghĩa quan trọng trong
việc giải quyết vụ án nói riêng và tiến trình TTHC nói chung.
Khi xảy ra sự kiện pháp lý đương sự là cá nhân chết, cơ quan, tổ chức đã giải
thể hoặc tuyên bố phá sản, Tòa án sẽ ra quyết định tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm
VAHC khi chưa xác định được người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng. Việc ra quyết
định tạm đình chỉ lúc này là cần thiết để xác định người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố
tụng. Bởi nếu khơng có người kế thừa thì quyền và nghĩa vụ tố tụng của họ có nguy
cơ chấm dứt. Kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng là trường hợp khi đang tiến hành mà
có đương sự không thể tiếp tục tham gia tố tụng nữa (đối với cá nhân) hoặc chấm dứt
hoạt động, giải thể, sáp nhập...(đối với tổ chức), thì vụ án vẫn được tiếp tục giải quyết
để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự khác trong vụ án25. Việc Tịa
án ra quyết định tạm đình chỉ trong trường hợp này là cần thiết nhằm đảm bảo quyền
tham gia tố tụng của người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng và đảm bảo việc giải
quyết vụ án được nhanh chóng, chính xác. Cách thức xác định người kế thừa quyền
và nghĩa vụ tố tụng được thực hiện theo quy định của pháp luật. Trường hợp người
khởi kiện là cá nhân đã chết mà quyền, nghĩa vụ của người đó được thừa kế thì người
thừa kế tham gia tố tụng26. Theo quy định của BLDS hiện hành, tùy thuộc vào mức
độ thân thích, gần gũi của mỗi người trong diện thừa kế với người chết mà họ được
kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng. Người nào trong diện thừa kế có mức độ gần gũi
nhất với người chết sẽ được kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của người chết để lại
Khoản 1 Điều 207 Luật Doanh nghiệp 2020.
Khoản 2 Điều 4 Luật Phá sản 2014.
24
Khoản 1 Điều 96 Bộ luật Dân sự 2015.
25
Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2019), Giáo trình Luật Tố tụng hành chính Việt Nam (Tái bản lần

thứ nhất có sửa đổi, bổ sung), Nhà xuất bản Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam, tr.150.
26
Khoản 1 Điều 59 Luật Tố tụng hành chính 2015.
22
23


16

trước tiên. Pháp luật dân sự phân chia thành các hàng thừa kế. Theo đó, những người
ở hàng thừa kế thứ nhất sẽ được ưu tiên kế thừa đầu tiên, nếu khơng có người ở hàng
thừa kế thứ nhất sẽ chuyển sang hàng thừa kế thứ hai. Và nếu không cịn người ở
hàng thừa kế thứ hai thì người ở hàng thừa kế thứ ba sẽ kế thừa quyền, nghĩa vụ tố
tụng. Hàng thừa kế thứ nhất bao gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi,
con đẻ, con nuôi của người chết. Hàng thừa kế thứ hai bao gồm: ông nội, bà nội, ông
ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết
mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại. Hàng thừa kế thứ ba bao gồm:
cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cơ ruột, dì ruột của người
chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cơ ruột,
dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại27. Trường hợp cơ
quan, tổ chức đã giải thể thì việc xác định người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng
tùy thuộc vào các trường hợp cụ thể sẽ khác nhau. Trường hợp người khởi kiện là cơ
quan, tổ chức bị hợp nhất, sáp nhập, chia, tách, giải thể thì cơ quan, tổ chức hoặc cá
nhân kế thừa quyền, nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức cũ thực hiện quyền, nghĩa vụ tố
tụng của cơ quan, tổ chức đó28. Cịn trường hợp người bị kiện là người có thẩm quyền
trong cơ quan, tổ chức mà cơ quan, tổ chức đó hợp nhất, sáp nhập, chia, tách, giải thể
thì người tiếp nhận quyền, nghĩa vụ của người đó tham gia tố tụng. Nếu người bị kiện
là người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức mà chức danh đó khơng cịn thì người
đứng đầu cơ quan, tổ chức đó thực hiện quyền, nghĩa vụ của người bị kiện29. Trường
hợp người bị kiện là cơ quan, tổ chức đã giải thể mà khơng có người kế thừa quyền,

nghĩa vụ thì cơ quan, tổ chức cấp trên thực hiện quyền, nghĩa vụ của người bị kiện30.
Luật mới chỉ quy định kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng trong trường hợp cơ quan,
tổ chức bị giải thể mà chưa hề đề cập đến việc kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng trong
trường hợp tổ chức bị tuyên bố phá sản.
Ngoài ra, cũng cần chú ý rằng, nếu quyền và nghĩa vụ đương sự đang yêu cầu
Tòa án giải quyết liên quan đến tài sản mà trong quá trình xét xử phúc thẩm vụ án
đương sự chết thì Tịa án mới ra quyết định tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm VAHC.
Cịn nếu quyền và nghĩa vụ tố tụng của đương sự đang yêu cầu Tịa án giải quyết có
liên quan đến nhân thân, mà trong quá trình giải quyết đương sự chết thì Tịa án khơng
ra quyết định tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm mà ra quyết định đình chỉ xét xử phúc
thẩm vụ án. Bởi theo quy định của BLDS thì “Quyền nhân thân là quyền dân sự gắn
Điều 652 Bộ luật Dân sự 2015.
Khoản 2 Điều 59 Luật Tố tụng hành chính 2015.
29
Khoản 3 Điều 59 Luật Tố tụng hành chính 2015.
30
Khoản 4 Điều 59 Luật Tố tụng hành chính 2015.
27
28


17

liền với mỗi cá nhân, không thể chuyển giao cho người khác31”.
Như vậy, trong quá trình xét xử phúc thẩm VAHC mà xảy ra sự kiện là đương
sự chết, cơ quan, tổ chức đã giải thể hoặc tuyên bố phá sản mà chưa có người kế thừa
quyền và nghĩa vụ tố tụng thì Tịa án ra quyết định tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm
VAHC. Yếu tố “chưa có” ở đây được hiểu là quyền và nghĩa vụ tố tụng của họ được
phép thừa kế theo quy định của BLDS về thừa kế nhưng tại thời điểm đó, Tịa án chưa
xác định được ngay chủ thể có quyền thừa kế là ai, đang ở đâu nên Tòa án ra quyết

định tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm để có thời gian xác định chủ thể được thừa kế và
sẽ tiếp tục giải quyết vụ án sau khi xác định được cá nhân, cơ quan, tổ chức kế thừa
quyền và nghĩa vụ tố tụng. Còn nếu đương sự là cá nhân chết mà quyền và nghĩa vụ
của họ không được thừa kế hoặc đương sự là cơ quan, tổ chức bị giải thể hoặc phá
sản mà khơng có người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng thì Tịa án sẽ ra quyết định
đình chỉ xét xử phúc thẩm VAHC.
Ví dụ: Ông K khởi kiện UBND Quận HĐ đến TAND Thành phố H theo thủ
tục sơ thẩm vì cho rằng UBND Quận HĐ đã ra quyết định số: 01/QĐ/-UBND thu hồi
200 m2 đất của ơng là khơng có căn cứ. Tịa án cấp sơ thẩm bác yêu cầu khởi kiện
của ông K. Khơng đồng ý với phán quyết của Tịa sơ thẩm, ơng K sau đó đã tiếp tục
kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm và được Tịa án có thẩm quyền thụ lý giải quyết.
Sau khi vụ án được thụ lý ơng K đột ngột qua đời vì bệnh nặng mà Tòa phúc thẩm
chưa xác định được người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng. Trường hợp này Tòa
án cấp phúc thẩm ra quyết định tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm để tìm người kế thừa
quyền, nghĩa vụ TTHC cho ông K theo điểm a khoản 1 Điều 141, Điều 228 Luật
TTHC.
Thứ hai, đương sự là người mất năng lực hành vi dân sự, người chưa thành
niên mà chưa xác định được người đại diện theo pháp luật.
Trong quá trình giải quyết VAHC theo thủ tục phúc thẩm có thể xảy ra sự kiện
pháp lý đương sự là người mất năng lực hành vi dân sự, người chưa thành niên mà
chưa xác định được người đại diện theo pháp luật. Năng lực hành vi dân sự được hiểu
là khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ
dân sự32. Năng lực hành vi dân sự của cá nhân thể hiện ở hai khía cạnh là khả năng
thực hiện giao dịch và khả năng gánh chịu trách nhiệm đối với hành vi của mình. Mọi
cá nhân từ đủ 18 tuổi trở lên không rơi vào trường hợp mất năng lực hành vi dân sự;

31
32

Khoản 1 Điều 25 Bộ luật Dân sự 2015.

Điều 19 Bộ luật Dân sự 2015.


18

có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi; hạn chế năng lực hành vi dân sự thì
được coi là có năng lực hành vi dân sự đầy đủ. Mất năng lực hành vi dân sự được
hiểu là: Người do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà khơng thể nhận thức, làm
chủ được hành vi thì theo u cầu của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ
quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định tuyên bố người này là người mất năng
lực hành vi dân sự trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần33. Khi một người bị
mất năng lực hành vi dân sự họ khơng thể tự mình thực hiện các quyền, nghĩa vụ dân
sự, lúc này mọi quyền và nghĩa vụ được xác lập thông qua người đại diện theo pháp
luật. Người chưa thành niên là người chưa đủ 18 tuổi34. Người mất năng lực hành vi
dân sự là người “khơng có” khả năng nhận thức, điều khiển hành vi của mình, cịn
người chưa thành niên là người mặc dù có khả năng nhận thức, điều khiển hành vi
của mình nhưng khả năng đó lại “khơng đầy đủ” bởi họ còn hạn chế về độ tuổi, về
tâm sinh lý. Để bảo vệ các bên yếu thế này pháp luật quy định rằng người mất năng
lực hành vi dân sự, người chưa thành niên sẽ xác lập giao dịch thơng qua người đại
diện.
Để tham gia vào q trình TTHC, đương sự cần có năng lực pháp luật và năng
lực hành vi TTHC. Năng lực pháp luật TTHC là khả năng có các quyền, nghĩa vụ
trong TTHC do pháp luật quy định. Còn năng lực hành vi TTHC là khả năng tự mình
thực hiện quyền, nghĩa vụ trong TTHC hoặc ủy quyền cho người đại diện tham gia
TTHC. Nếu năng lực pháp luật là điều kiện cần thì năng lực hành vi TTHC là điều
kiện đủ để đương sự tham gia vào quá trình TTHC35. Trong quá trình xét xử phúc
thẩm VAHC đương sự địi hỏi phải có năng lực pháp luật TTHC và năng lực hành vi
hành chính thì mới giúp vụ án được giải quyết chính xác, khách quan. Nếu đương sự
mất năng lực hành vi dân sự, là người chưa thành niên mà “đã xác định được” người
đại diện theo pháp luật, người đó sẵn sàng tham gia tố tụng thì Tịa án tiếp tục giải

quyết vụ án. Nếu đương sự khơng có năng lực hành vi dân sự, là người chưa thành
niên mà “chưa xác định được” người đại diện theo pháp luật tham gia tố tụng Tịa án
buộc phải tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm VAHC để tìm kiếm người đại diện theo
pháp luật. Chưa xác định được ở đây hiểu là đương sự đó có người đại diện theo pháp
luật nhưng vì lý do nào đó mà Tịa án chưa xác định được người đại diện theo pháp
luật đó là ai, đang ở đâu36. Việc tạm đình chỉ là cần thiết nhằm xác định người đại
Khoản 1 Điều 22 Bộ luật Dân sự 2015.
Khoản 1 Điều 20 Bộ luật Dân sự 2015.
35
Nguyễn Cảnh Hợp (chủ biên) (2017), Giải thích và bình luận Luật Tố tụng hành chính 2015, Nhà xuất bản
Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam, tr.226.
36
Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2019), Giáo trình Luật Tố tụng hành chính Việt Nam (Tái bản lần
thứ nhất có sửa đổi, bổ sung), Nhà xuất bản Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam, tr.406.
33
34


19

diện theo pháp luật để thay thế đương sự thực hiện các quyền, nghĩa vụ trong TTHC.
Theo quy định của Luật TTHC “Đương sự là người chưa thành niên, người
mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc người
có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi thực hiện quyền, nghĩa vụ của đương
sự trong TTHC thông qua người đại diện theo pháp luật37”. Người đại diện theo pháp
luật được quy định tại Điều 60 Luật TTHC là cha mẹ đối với người chưa thành niên,
người giám hộ đối với người được giám hộ. Đối với người mất năng lực hành vi dân
sự, chế định giám hộ38 được quy định trong BLDS bao gồm giám hộ theo sự chọn lựa
của người được giám hộ và giám hộ đương nhiên. Trường hợp cá nhân khi có năng
lực hành vi dân sự đầy đủ đã lựa chọn người giám hộ cho mình thì khi họ ở tình trạng

cần được giám hộ, cá nhân, pháp nhân được lựa chọn là người giám hộ nếu người
này đồng ý. Giám hộ đương nhiên của người mất năng lực hành vi dân sự nếu như
họ không lựa chọn người giám hộ được quy định cụ thể như sau: Trong trường hợp
vợ là người mất năng lực hành vi dân sự thì chồng là người giám hộ; nếu chồng là
người mất năng lực hành vi dân sự thì vợ là người giám hộ. Trường hợp cha và mẹ
đều mất năng lực hành vi dân sự hoặc một người mất năng lực hành vi dân sự, còn
người kia khơng có đủ điều kiện làm người giám hộ thì người con cả là người giám
hộ; nếu người con cả khơng có đủ điều kiện làm người giám hộ thì người con tiếp
theo có đủ điều kiện làm người giám hộ là người giám hộ. Trường hợp người thành
niên mất năng lực hành vi dân sự chưa có vợ, chồng, con hoặc có mà vợ, chồng, con
đều khơng có đủ điều kiện làm người giám hộ thì cha, mẹ là người giám hộ. Đối với
người chưa thành niên chế định giám hộ đương nhiên được áp dụng trong trường hợp:
Người chưa thành niên khơng cịn cha, mẹ hoặc khơng xác định được cha, mẹ; Người
chưa thành niên có cha, mẹ nhưng cha, mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự; cha, mẹ
đều có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi; cha, mẹ đều bị hạn chế năng lực
hành vi dân sự; cha, mẹ đều bị Tòa án tuyên bố hạn chế quyền đối với con; cha, mẹ
đều khơng có điều kiện chăm sóc, giáo dục con và có yêu cầu người giám hộ. Điều
52 BLDS quy định người giám hộ cho người chưa thành niên trong trường hợp này
được xác định như sau: Anh ruột là anh cả hoặc chị ruột là chị cả là người giám hộ;
nếu anh cả hoặc chị cả khơng có đủ điều kiện làm người giám hộ thì anh ruột hoặc
chị ruột tiếp theo là người giám hộ, trừ trường hợp có thỏa thuận anh ruột hoặc chị
Khoản 4 Điều 54 Luật Tố tụng hành chính 2015.
Theo Điều 46 Bộ luật Dân sự: Giám hộ là việc cá nhân, pháp nhân được luật quy định, được UBND cấp xã
cử, được Tòa án chỉ định hoặc được quy định tại khoản 2 Điều 48 của Bộ luật này (sau đây gọi chung là người
giám hộ) để thực hiện việc chăm sóc, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên, người mất
năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi (sau đây gọi chung là người được
giám hộ).
37
38



20

ruột khác làm người giám hộ; Trường hợp khơng có người giám hộ quy định tại khoản
1 Điều này thì ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại là người giám hộ hoặc những
người này thỏa thuận cử một hoặc một số người trong số họ làm người giám hộ;
Trường hợp khơng có người giám hộ quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này thì
bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cơ ruột hoặc dì ruột là người giám hộ.
Khi tham gia vào VAHC, người đại diện theo pháp luật trong TTHC thực hiện
các quyền, nghĩa vụ TTHC của đương sự mà mình đại diện. Tuy nhiên, khơng phải
lúc nào họ cũng được làm người đại diện theo pháp luật. Pháp luật quy định những
trường hợp không được làm người đại diện theo pháp luật như: Nếu họ là đương sự
trong cùng một vụ án với người được đại diện mà quyền và lợi ích hợp pháp của họ
đối lập với quyền và lợi ích hợp pháp của người được đại diện; Nếu họ đang là người
đại diện trong TTHC cho một đương sự khác mà quyền và lợi ích hợp pháp của đương
sự đó đối lập với quyền và lợi ích hợp pháp của người được đại diện trong cùng một
vụ án. Ngồi ra, cán bộ, cơng chức trong các cơ quan Tòa án, VKS, Thanh tra, Thi
hành án; công chức, sĩ quan, hạ sĩ quan trong ngành Công an không được làm người
đại diện trong TTHC, trừ trường hợp họ tham gia tố tụng với tư cách là người đại
diện cho cơ quan của họ hoặc với tư cách là người đại diện theo pháp luật. Quy định
như vậy là hợp lý nhằm đảm bảo sự vô tư, khách quan trong quá trình xét xử phúc
thẩm VAHC, tránh trường hợp xung đột lợi ích giữa các chủ thể tham gia tố tụng.
Như vậy, trong quá trình xét xử phúc thẩm VAHC mà đương sự là cá nhân
mất năng lực hành vi dân sự, người chưa thành niên có người đại diện theo pháp luật
nhưng chưa xác định được họ là ai, đang ở đâu thì Tịa án ra quyết định tạm đình chỉ
xét xử phúc thẩm VAHC. Đây là quy định mới, bởi Pháp lệnh TTGQVAHC không
quy định căn cứ này, còn Luật TTHC 2010 chỉ quy định Tịa án tạm đình chỉ xét xử
phúc thẩm đối với người mất năng lực hành vi dân sự mà chưa xác định được người
đại diện theo pháp luật. Quy định của Luật TTHC 2015 là một điểm tiến bộ vì người
mất năng lực hành vi dân sự thì họ khơng thể bảo vệ quyền lợi của mình một cách tốt

nhất cịn người chưa thành niên chưa phát triển hồn tồn đầy đủ về thể chất, chưa có
đầy đủ quyền lợi và nghĩa vụ của một công dân39 nên cần có người đại diện theo pháp
luật để thay họ thực hiện các quyền, nghĩa vụ tố tụng. Nhưng không phải lúc nào
người đại diện theo pháp luật cũng sẵn sàng tham gia tố tụng nên Luật đặt ra chế định
tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm để có thời gian tìm kiếm người thay mặt đương sự
thực hiện các quyền, nghĩa vụ TTHC.
Vũ Thư, Lê Thương Huyền (2016), Bình luận Khoa học Luật Tố tụng hành chính năm 2015, Nhà xuất bản
Hồng Đức, tr.159.
39


21

Ví dụ: Khơng đồng ý với quyết định xử phạt hành chính của Chi cục trưởng
chi cục quản lý thị trường tỉnh A, bà C đã khởi kiện vụ án ra TAND tỉnh A yêu cầu
hủy quyết định trên. Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà
C. Bà C sau đó đã kháng cáo vụ án theo trình tự phúc thẩm và được Tịa án có thẩm
quyền thụ lý. Sau khi vụ án được thụ lý, bà C rơi vào tình trạng tổn thương tinh thần,
không nhận thức, làm chủ được hành vi của mình và bị Tịa án tun bố mất năng lực
hành vi dân sự. Do chưa xác định được người đại diện theo pháp luật của bà C, Tòa
án cấp phúc thẩm trong trường hợp này đã ra quyết định tạm đình chỉ xét xử phúc
thẩm VAHC theo điểm b khoản 1 Điều 141, Điều 228 Luật TTHC.
Thứ ba, đã hết thời hạn chuẩn bị xét xử mà một trong các đương sự khơng thể
có mặt vì lý do chính đáng, trừ trường hợp có thể xét xử vắng mặt đương sự.
Thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm là thời hạn để Tòa án cấp phúc thẩm
nghiên cứu hồ sơ, xem xét, kiểm tra và cần thiết thì bổ sung chứng cứ, là thời gian để
đối chiếu các quy định pháp luật đã được Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng, làm rõ nội
dung các quy định đó, xác định tính đúng đắn trong quan điểm áp dụng của Tịa án
cấp sơ thẩm40. Sau khi thụ lý vụ án theo thủ tục phúc thẩm trong thời hạn 60 ngày,
Thẩm phán chủ tọa phiên Tòa phải đưa ra một trong các quyết định: Tạm đình chỉ xét

xử phúc thẩm; Đình chỉ xét xử phúc thẩm; Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm.
Tùy thuộc vào tính chất loại vụ việc mà thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm là khác
nhau, đối với vụ việc thông thường thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm là 60 ngày,
còn đối với vụ án có tính chất phức tạp hoặc do trở ngại khách quan thì Chánh án Tịa
án cấp phúc thẩm có thể quyết định kéo dài thời hạn chuẩn bị xét xử, nhưng không
được quá 30 ngày. Khi hết thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm các đương sự phải có
mặt để tham gia phiên tịa xét xử phúc thẩm. Việc tham gia phiên tòa xét xử vừa là
quyền vừa là nghĩa vụ của các đương sự trong vụ án vì họ là người có quyền, nghĩa
vụ trong vụ án. Tuy nhiên, không phải lúc nào đương sự cũng có thể tham gia được
phiên tịa xét xử theo đúng yêu cầu, mà có thể do nhiều lý do khách quan, chủ quan
khác nhau mà họ không thể tham gia phiên tòa. Trong trường hợp này Tòa án phải
xem xét lý do đương sự không thể tham gia phiên tịa xét xử phúc thẩm là gì, có chính
đáng hay khơng? Nếu lý do đương sự đưa ra là chính đáng, Tịa án có thể xem xét
tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm VAHC, còn nếu lý do đương sự đưa ra khơng chính
đáng thì Tịa án vẫn tiếp tục giải quyết vụ án. Việc xác định lý do chính đáng có ý
nghĩa rất quan trọng trong việc xét xử phúc thẩm VAHC được chính xác, khách quan,
Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2019), Giáo trình Luật Tố tụng hành chính Việt Nam (Tái bản lần
thứ nhất có sửa đổi, bổ sung), Nhà xuất bản Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam, tr.342.
40


×