Tải bản đầy đủ (.pdf) (104 trang)

Vấn đề bảo đảm thực hiện quyền dân sự của công dân nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.23 MB, 104 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HCM
KHOA LUẬT HÀNH CHÍNH
-----------***------------

NGUYỄN TUYẾT PHƯƠNG
MSSV: 1753801014155

VẤN ĐỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN QUYỀN DÂN SỰ CỦA CƠNG
DÂN NƯỚC CỘNG HỊA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Khóa luận tốt nghiệp cử nhân luật
Niên khóa: 2017 - 2021

Người hướng dẫn:
Thạc sĩ Phan Nguyễn Phương Thảo

TP.HCM – Năm 2021


TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HCM
KHOA LUẬT HÀNH CHÍNH
-----------***------------

NGUYỄN TUYẾT PHƯƠNG
MSSV: 1753801014155

VẤN ĐỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN QUYỀN DÂN SỰ CỦA CƠNG
DÂN NƯỚC CỘNG HỊA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Khóa luận tốt nghiệp cử nhân luật
Niên khóa: 2017 - 2021



Người hướng dẫn:
Thạc sĩ Phan Nguyễn Phương Thảo

TP.HCM – Năm 2021


LỜI CẢM ƠN
Em xin chân thành cảm ơn các Thầy Cơ trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí
Minh đã cung cấp cho em những kiến thức quý báu trong suốt quá trình học tại
trường. Đặc biệt, em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Cô Phan Nguyễn Phương
Thảo - Giảng viên Khoa Luật Hành Chính – Nhà nước đã tận tình giúp đỡ, hướng
dẫn cho em cách làm đề cương, thu thập tài liệu cũng như cách trình bày, bố cục và
ngơn ngữ sử dụng trong khóa luận, từ đó tạo điều kiện cho em hồn thành khóa luận
này.
Em xin chân thành cảm ơn!


LỜI CAM ĐOAN
Em xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu bằng nỗ lực bản thân em dưới
sự hướng dẫn của cô Phan Nguyễn Phương Thảo. Các số liệu, thơng tin trong khóa
luận được sử dụng trung thực, trích dẫn nguồn rõ ràng, minh bạch, có tính kế thừa,
phát triển từ các tạp chí khoa học, cơng trình nghiên cứu đã được cơng bố. Em xin
hồn tồn chịu trách nhiệm về lời cam đoan của mình.


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt

Tên đầy đủ


UDHR

Tuyên ngôn thế giới về quyền con
người, 1948 (Universal Decleration
of Human Rights)

ICCPR

Công ước quốc tế về các quyền dân
sự, chính trị, 1966 (International
Convenant on Civil and Political
Rights)

HRC

Uỷ ban nhân quyền của Công ước
quốc tế về quyền dân sự, chính trị
năm 1966

AHRD

Tun ngơn nhân quyền ASEAN
năm 2012

Hiến pháp năm 1992

Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ
sung năm 2001)


Hiến pháp năm 2013

Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ
sung năm 2013)

UBTVQH
NHRIs

Ủy ban thường vụ Quốc hội


quan

gia

(National

Institution)

nhân

quyền
Human

quốc
Rights


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU

CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN
QUYỀN DÂN SỰ CỦA CÔNG DÂN NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA VIỆT NAM................................................................................................... 6
1.1. Một số vấn đề lý luận về quyền dân sự của công dân....................................... 6
1.1.1. Khái niệm quyền dân sự của công dân..................................................6
1.1.2. Đặc điểm quyền dân sự của công dân................................................... 9
1.2. Một số vấn đề lý luận về bảo đảm quyền dân sự của công dân...................... 12
1.2.1. Khái niệm về bảo đảm quyền dân sự của công dân............................ 12
1.2.2. Các biện pháp bảo đảm quyền dân sự của công dân...........................13
1.3. Vấn đề bảo đảm thực hiện quyền dân sự trong các văn kiện pháp lý quốc tế 22
1.3.1. Hiến chương Liên Hợp quốc năm 1945.............................................. 22
1.3.2. Tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm 1948 (UDHR)........... 23
1.3.3. Công ước về các quyền dân sự, chính trị năm 1966 (ICCPR)............26
1.3.4. Tun ngơn nhân quyền ASEAN năm 2012 (AHRD)........................29
1.4. Vấn đề bảo đảm thực hiện quyền dân sự của công dân trong lịch sử lập hiến
Việt Nam................................................................................................................. 31
1.4.1. Hiến pháp năm 1946............................................................................ 31
1.4.2. Hiến pháp năm 1959............................................................................ 35
1.4.3. Hiến pháp năm 1980............................................................................ 38
1.4.4. Hiến pháp năm 1992............................................................................ 42
1.4.5. Hiến pháp năm 2013............................................................................ 45
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM THỰC HIỆN QUYỀN DÂN SỰ
CỦA CƠNG DÂN NƯỚC CỘNG HỊA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ...................................................................................... 51
2.1. Thực trạng bảo đảm thực hiện các quyền dân sự của công dân nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam..................................................................................... 51
2.1.1. Thực trạng bảo đảm các điều kiện chính trị, kinh tế, văn hóa- xã hội
trong việc thực hiện các quyền dân sự công dân...........................................52



2.1.2. Thực trạng bảo đảm các biện pháp pháp lý trong việc thực hiện các
quyền dân sự của công dân............................................................................ 55
2.2. Một số kiến nghị...............................................................................................79
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quyền con người là giá trị mang tính phổ qt của tồn thể nhân loại, là kết
quả của quá trình đấu tranh gian nan của các dân tộc, nhân dân trên toàn thế giới.
Kể từ khi Hiến Chương Liên Hợp Quốc ra đời, quyền con người trở thành vấn đề
thu hút sự quan tâm rộng rãi và có ảnh hưởng mạnh mẽ đến dư luận trải dài trên các
quan hệ chính trị, dân sự và xã hội, ngay cả khi ở cấp độ quốc gia lẫn trong khu vực
và toàn thế giới. Ngày nay, khơng một quốc gia nào trên thế giới có thể đứng ngoài
sự tác động của các vấn đề, các cơ chế quốc tế về quyền con người. Vấn đề đấu
tranh bảo vệ nhân quyền trong thời điểm hiện nay được quan tâm hơn bao giờ hết,
con người dần đã quan tâm hơn về quyền lợi của mình. Quyền con người là giá trị
cao quý, thành quả đấu tranh chung, kết tinh của nền văn minh nhân loại. Ở Việt
Nam, việc bảo vệ và thúc đẩy sự hưởng thụ quyền con người của toàn thể nhân dân
là mục tiêu nhất quán của Đảng và Nhà nước ta từ trước đến nay. Trong những năm
qua, cùng với những nỗ lực trong việc hoàn thiện thể chế, hệ thống pháp luật quốc
gia về bảo đảm và thúc đẩy quyền con người, Đảng và Nhà nước ta luôn chủ trương
đẩy mạnh việc hợp tác quốc tế trong lĩnh vực nhân quyền, đặc biệt việc tham gia
thực hiện các cam kết quốc tế về quyền con người. Cho đến nay, Việt Nam đã là
thành viên của 7/9 Công ước cơ bản của Liên Hợp quốc và nhiều điều ước quốc tế
khác về quyền con người. Mặc dù điều kiện về phát triển kinh tế của Việt Nam còn
hạn chế so với nhiều nước trên thế giới nhưng Việt Nam đã tích cực tham gia các

điều ước quốc tế về nhân quyền thể hiện quyết tâm, nỗ lực của nước ta trong việc
bảo đảm các chuẩn mực chung về quyền con người. Một trong những nguyên tắc
nền tảng được tiếp tục kế thừa và ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013 là bảo đảm
quyền con người, quyền cơng. Ngun tắc này cịn đặt ra trách nhiệm đối với Nhà
nước trong việc công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền
công dân trước nguy cơ các nhà chức trách lạm dụng quyền lực nhà nước để cắt xén
chúng một cách tùy tiện. Theo Karel Vasak, quyền dân sự thuộc thế hệ nhân quyền
thứ nhất của quyền con người, tầm quan trọng của quyền dân sự không những được
đặt trên quyền kinh tế, xã hội (thế hệ quyền thứ hai) mà còn cả quyền chính trị
(cùng thuộc thế hệ nhân quyền thứ nhất). Do đó, Nhà nước cần bảo đảm cho cơng
dân có thể thực hiện tốt các quyền hiến định trong lĩnh vực dân sự của mình trên
thực tế. Với sự ảnh hưởng của nhóm quyền dân sự đến đời sống cộng đồng, ta có
thể đánh giá mức độ dân chủ, trách nhiệm của Nhà nước trong việc phát huy vị trí,
vai trị của công dân đối với quyền lực nhà nước. Việc bảo đảm thực hiện tốt các
quyền dân sự trong giai đoạn hiện nay ngày càng cần thiết. Với trình độ nhận thức


2

ngày càng được nâng cao, con người nhận thức rõ những yêu cầu, đòi hỏi ngày càng
thiết thực hơn về điều kiện bảo đảm thực thi quyền dân sự của mình vào đời sống
thực tế. Trước những biến đổi ngày càng phức tạp trong khu vực và trên thế giới,
cùng với nguyên tắc và mục tiêu đề ra trong tiến trình xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa, vấn đề bảo đảm thực hiện quyền dân sự của công dân càng
phải được nghiên cứu một cách thận trọng. Nhà nước phải tạo điều kiện làm sao để
quyền dân sự vừa có cơ sở để hiện thực hóa trên thực tế vừa phải phù hợp với
những điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội trong nước. Đồng thời, Nhà nước phải có
cách thức quản lý phù hợp, tránh việc lạm dụng, gây cản trở công dân thụ hưởng
quyền của mình. Vì vậy, nhu cầu bảo đảm thực hiện quyền dân sự hiện nay là thật
sự cần thiết.

Ở nước ta hiện nay, cách thức tiếp cận, quy định, cụ thể hóa, thực thi và bảo
vệ các quyền dân sự của cơng dân cịn tồn tại khá nhiều bất cập. Mặc dù đã có nhiều
cơng trình nghiên cứu liên quan nhưng các cơng trình này chỉ nghiên cứu các quyền
con người, quyền cơng dân nói chung hoặc đi sâu vào một quyền cụ thể, chưa có
cơng trình nào nghiên cứu một cách có hệ thống và tồn diện về các vấn đề bảo đảm
thực hiện quyền dân sự của cơng dân.Vì những lý do nêu trên, tác giả lựa chọn:
“Vấn đề bảo đảm thực hiện quyền dân sự của công dân nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu khóa luận tốt nghiệp cử nhân luật của mình.
2. Tổng quan nghiên cứu đề tài
Hiện nay, các đề tài liên quan đến quyền dân sự của công dân đã được nhiều
tác giả nghiên cứu ở nhiều góc độ và khía cạnh khác nhau.
Ở phạm vi ngồi nước, các tác phẩm nghiên cứu cụ thể là Gudmundur
Alfredsson & Asbjorn Eide (2010) , Tuyên ngôn Quốc tế về Nhân quyền năm 1948
- Mục tiêu chung của nhân loại, NXB Lao động - Xã hội; Jane McAdam (2011),
“An Intellectual History of Freedom of Movement in International Law: The Right
to Leave as a Personal Liberty”, 12 Melbourne Journal of International Law.
Ở phạm vi trong nước, giáo trình, sách chuyên khảo, tạp chí của một số học
giả có uy tín như: Nguyễn Mạnh Hùng - Phan Nguyễn Phương Thảo - Mai Thị Lâm
- Trần Thị Thu Hà (2013) - Quyền dân sự của công dân trong Hiến pháp: lý luận và
thực tiễn; Vũ Văn Nhiêm (2011) - Quyền dân sự của công dân trong lịch sử lập hiến
Việt Nam - Quá trình phát triển và phương hướng đổi mới...; Nguyễn Thị Thanh
Nga (2020) - Về bảo đảm các quyền dân sự, chính trị ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí
Quản lý Nhà nước, số 299; Ngô Hữu Phước (2011) - Quyền dân sự, chính trị trong
Cơng ước của Liên hợp quốc năm 1966 và vấn đề nội luật hóa các quyền dân sự,
chính trị vào pháp luật Việt Nam, Kỷ yếu Hội thảo Khoa Luật Quốc tế; Ngoài ra, ở


3

phạm vi khóa luận tốt nghiệp của cử nhân như: Nguyễn Phương Nhung (2012) Quyền tự do đi lại và cư trú trong pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam; Nguyễn

Thị Minh Ngân (2017) - Bảo đảm các quyền dân sự trong Hiến pháp Việt Nam;
Huỳnh Minh Quân (2017) - Quyền tự do ngôn luận trong lĩnh vực báo chí ở Việt
Nam.
Các đề tài trên chủ yếu nghiên cứu về quyền dân sự nói chung hoặc chỉ
nghiên cứu một quyền cụ thể trong số các quyền dân sự hoặc nghiên cứu về bảo
đảm cả quyền con người và quyền cơng dân. Hiện nay, có thể thấy chưa có một đề
tài nào nghiên cứu về vấn đề bảo đảm thực hiện quyền dân sự của công dân về mặt
pháp lý và thực tiễn một cách có hệ thống và tồn diện. Chính vì vậy, tác giả lựa
chọn đề tài nghiên cứu “Vấn đề bảo đảm thực hiện quyền dân sự của cơng dân nước
Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” để thực hiện khóa luận tốt nghiệp của mình.
3. Mục đích nghiên cứu đề tài
Việc nghiên cứu đề tài nhằm đạt các mục đích sau đây:
Thứ nhất, làm rõ các vấn đề mang tính lý luận về quyền dân sự của công dân
như: khái niệm, đặc điểm quyền dân sự, khái niệm và các bảo đảm quyền dân sự
của công dân.
Thứ hai, khái quát vấn đề bảo đảm quyền dân sự trong các văn kiện pháp lý
quốc tế và vấn đề bảo đảm thực hiện quyền dân sự của công dân Việt Nam trong
các bản Hiến pháp của Việt Nam.
Thứ ba, đánh giá thực trạng bảo đảm thực hiện quyền dân sự của công dân ở
nước ta hiện nay, từ đó đưa ra những kiến nghị cụ thể nhằm góp phần hồn thiện
hơn vấn đề bảo đảm thực hiện các quyền dân sự của công dân.
4. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Đề tài “Vấn đề bảo đảm thực hiện quyền dân sự của cơng dân nước Cộng
hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” được nghiên cứu dưới khía cạnh khác nhau như
bảo đảm về mặt pháp lý, bảo đảm về mặt kinh tế, bảo đảm về mặt văn hóa - xã hội.
Trong đó, tác giả tập trung phân tích các bảo đảm về mặt pháp lý trong quá trình
bảo đảm thực hiện quyền dân sự của cơng dân, bởi bảo đảm pháp lý giữ vai trò
quan trọng nhất, trực tiếp chi phối tính hiện thực của quyền cơng dân trong các hồn
cảnh kinh tế, chính trị, xã hội nhất định. Ngồi ra, với mục đích làm rõ các vấn đề
liên quan đến quyền dân sự của công dân, tác giả nghiên cứu việc ghi nhận các

quyền dân sự trong những văn kiện chính trị, pháp lý quốc tế cơ bản như: Tuyên
ngôn thế giới về quyền con người năm 1948, Cơng ước quốc tế về quyền dân sự,
chính trị năm 1966, Tuyên ngôn nhân quyền ASEAN năm 2012 và các quy định về
quyền dân sự của công dân trong các bản Hiến pháp Việt Nam cũng như trong các


4

văn bản pháp luật khác có liên quan. Trong Cơng ước quốc tế về các quyền dân sự,
chính trị 1966 cũng không đưa ra khái niệm mà chỉ liệt kê một loạt các quyền tự do
cơ bản của con người trên cả hai lĩnh vực dân sự và chính trị. Do đó, trong khoa học
pháp lý việc phân định các nhóm quyền này cịn nhiều quan điểm khác nhau. Vì vậy,
trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, tác giả tập trung nghiên cứu quyền dân sự
thuộc về công dân được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013 như sau: Quyền không
thể bị trục xuất, giao nộp cho nhà nước khác (Điều 17); Quyền tự do đi lại và cư trú
ở trong nước, có quyền ra nước ngồi và từ nước ngồi về nước (Điều 23); Quyền
tự do ngơn luận, tự do báo chí, tiếp cận thơng tin, hội họp, lập hội, biểu tình (Điều
25); Quyền bình đẳng nam nữ (Điều 26) và Quyền xác định dân tộc của mình (Điều
42).
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được triển khai nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin, quan điểm của Đảng và nhà nước ta về một khung pháp lý bảo đảm
khả năng thực hiện quyền dân sự của cơng dân, qua đó bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của cơng dân trong q trình thực thi quyền dân sự.
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng là:
- Phương pháp liệt kê, so sánh, phân tích, chứng minh được sử dụng tại
Chương 1 nhằm làm sáng tỏ cơ sở lý luận và pháp lý về những khái niệm về quyền
công dân, quyền dân sự, quyền dân sự của công dân, bảo đảm thực hiện quyền dân
sự của công dân.
- Phương pháp giải thích Hiến pháp, luật, liệt kê, phân tích, tổng hợp tại

Chương 2 nhằm mục đích đánh giá thực trạng thực hiện quyền dân sự của công dân,
đề ra kiến nghị về mặt pháp lý cũng như thực tiễn về việc bảo đảm thực hiện quyền
dân sự của cơng dân.
Ngồi ra, để phục vụ cho đề tài của mình, tác giả còn tham khảo thêm nhiều
quy định về quyền dân sự của một số nước như: Hoa Kỳ, Pháp, Malaysia... nhằm
đưa ra kiến nghị để hoàn thiện hơn các quy định của pháp luật nước ta hiện nay.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Đây là đề tài khơng những có ý nghĩa trong việc hệ thống hóa cơ sở lý luận
về vấn đề bảo đảm quyền dân sự của cơng dân mà cịn có ý nghĩa trong việc tìm ra
những bất cập về vấn đề này ở nước ta. Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần bổ
sung vào kiến thức lý luận về vấn đề bảo đảm quyền dân sự của công dân trong việc
xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam. Đề tài là tài liệu tham khảo hữu ích
trong việc nghiên cứu và giảng dạy về quyền con người, quyền công dân, về nhà
nước pháp quyền, về xã hội dân sự. Với những đề xuất nhằm hoàn thiện các quy


5

định pháp luật hiện hành về vấn đề này, tác giả mong rằng sẽ khơi gợi những ý
tưởng nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật hiện hành.
7. Bố cục đề tài
Mở đầu
Chương 1: Những vấn đề lý luận về vấn đề bảo đảm thực hiện quyền dân sự
của công dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Chương 2: Thực trạng bảo đảm thực hiện quyền dân sự của cơng dân nước
Cộng hịa xã hội chủ nghĩa việt nam và một số kiến nghị
Kết luận
Danh mục tài liệu tham khảo



6

CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN QUYỀN DÂN SỰ
CỦA CƠNG DÂN NƯỚC CỘNG HỊA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
1.1. Một số vấn đề lý luận về quyền dân sự của công dân
1.1.1. Khái niệm quyền dân sự của công dân
Theo định nghĩa của Cao ủy Liên Hợp Quốc về nhân quyền (United Nations
High Commissioner for Human Rights - UNHCHR) thì “quyền con người là những
bảo đảm về mặt pháp lý trên tồn cầu có tác dụng bảo vệ cá nhân và các nhóm
chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những
sự được phép và tự do cơ bản của con người”. Bên cạnh đó, quyền con người còn
được định nghĩa một cách khái quát là những quyền bẩm sinh, vốn có của con người
mà nếu khơng được hưởng thì chúng ta sẽ khơng thể sống như một con người1.
Điều 17 Hiến pháp năm 2013 ghi nhận “Cơng dân nước Cộng hịa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam là người có quốc tịch Việt Nam” nên khái niệm công dân gắn
liền với khái niệm quốc tịch. Theo nghĩa, quốc tịch là mối liên hệ giữa một cá nhân
với một Nhà nước nhất định, nếu là công dân của một Nhà nước thì được hưởng các
quyền và phải thực hiện các nghĩa vụ mà pháp luật của Nhà nước đó quy định,
những người khơng phải là cơng dân của Nhà nước đó thì quyền lợi và nghĩa vụ
đương nhiên sẽ bị hạn chế. Quyền công dân được coi là quyền cơ bản mà Hiến pháp
của mỗi nước quy định cho người mang quốc tịch nước mình và tùy thuộc vào chế
độ chính trị, điều kiện kinh tế, xã hội mà phạm vi cũng như mức độ quyền công dân
rộng hẹp khác nhau. Có thể thấy, quyền con người có nội dung thống nhất cho toàn
nhân loại và được ghi nhận trên tồn thế giới cịn quyền cơng dân bị giới hạn bởi
yếu tố quốc gia, vùng lãnh thổ.
Quyền con người và quyền công dân là những nội dung quan trọng của Hiến
pháp. Về nội hàm, quyền con người có nội hàm rộng hơn so với quyền công dân.
Quyền con người thể hiện mối quan hệ cá nhân – cộng đồng nhân loại. Trong khi
đó, quyền cơng dân có nội hàm hẹp hơn, là những quyền con người được Nhà nước

thừa nhận và áp dụng cho người có quốc tịch của nước mình. Về tính chất, quyền
con người là tự nhiên, vốn có, thể hiện địa vị của cá nhân với tư cách là công dân
của một quốc gia với cộng đồng nhân loại. Quyền công dân được xác định bằng
pháp luật của Nhà nước, thể hiện vị thế là một cơng dân với quốc gia mà mình
mang quốc tịch. Về phạm vi áp dụng, quyền con người được áp dụng trên phạm vi
Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội (2010), Hỏi đáp về quyền con người, NXB Công an nhân dân, Hà Nội,
tr.21.
1


7

tồn cầu mà khơng bị thay đổi theo hồn cảnh, thời gian. Đối với quyền công dân
chỉ được áp dụng trong phạm vi lãnh thổ quốc gia và có sự khác nhau về cơ chế áp
dụng giữa các quốc gia. Về cơ chế bảo vệ, quyền con người được bảo vệ thông qua
các diễn đàn, qua cơ chế điều tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo về vi phạm nhân
quyền của các cơ quan như Liên Hợp quốc, các tổ chức liên chính phủ khu vực.
Quyền cơng dân được bảo vệ thơng qua cơ chế tài phán và Tịa án ở mỗi quốc gia.
Quyền con người và quyền công dân tuy không đồng nhất với nhau nhưng rất gần
gũi với nhau cả về mặt khái niệm lẫn tính chất, đặc điểm. Theo nghĩa rộng, cả thuật
ngữ “quyền con người” và “quyền công dân” đều là những phạm trù triết học dùng
để biểu thị mối quan hệ của cá nhân con người với cộng đồng nhân loại (quyền con
người) và với quốc gia nơi mà người đó có quốc tịch (quyền công dân). Quyền con
người và quyền công dân đều xoay quanh một chủ thể chung, đó là con người, và
một chủ thể chung khác là cộng đồng nhân loại, trong đó thể chế chính trị - pháp lý
trung tâm của nó là Nhà nước. Thêm vào đó, quyền con người và quyền cơng dân,
về bản chất, đều là những gì mà một cá nhân con người được phép làm và được
thừa nhận, tôn trọng, bảo vệ bởi các chủ thể khác. Các quyền con người, quyền
công dân được các nước trên thế giới pháp điển hóa vào Hiến pháp theo những cách
thức nhất định. Viễn cảnh về quyền con người có thể được nhìn nhận qua lăng kính

của quyền cơng dân và ngược lại. Sự tương đồng kể trên khiến cho những nỗ lực
thúc đẩy và bảo vệ quyền con người, quyền cơng dân trở lên khăng khít, khơng thể
tách rời, kể cả khi những nỗ lực này gắn liền với những chủ thể tương đối khác
nhau.
“Dân sự” là dùng để chỉ các việc có liên quan đến dân nói chung, thuộc về
quan hệ pháp lý về tài sản, nhân thân hoặc hơn nhân gia đình2. Về mặt pháp lý, dân
sự được coi là một nhánh pháp luật quy định các vấn đề liên quan đến cá nhân, pháp
nhân như địa vị pháp lý, quyền và nghĩa vụ tài sản. Theo tác giả Dương Đăng Huệ:
lĩnh vực dân sự là lĩnh vực hoạt động rộng rãi, phong phú của con người, được đặc
trưng bởi tính tự do, tự nguyện, tự chịu trách nhiệm và bình đẳng giữa các chủ thể
tham gia quan hệ xã hội đó3.
Năm 1977, Karel Vasak đưa ra ý tưởng về ba “thế hệ nhân quyền”
(generations of human rights) nhằm phân tích lịch sử phát triển của quyền con
người. Nhóm nhân quyền thế hệ thứ nhất là các quyền dân sự, chính trị. Nhóm nhân
quyền thế hệ thứ hai là các quyền con người trong lĩnh vực kinh tế - xã hội - văn
Viện Hàn Lâm Khoa học xã hội Việt Nam (2021), Từ điển Tiếng Việt, NXB Từ điển Bách Khoa, tr. 277
(truy cập ngày
1/6/2021).
2
3


8

hóa. Nhóm nhân quyền thế hệ thứ ba là các quyền tập thể. Trong thế hệ thứ nhất,
quyền dân sự gắn liền với phạm trù tự do cá nhân. Các quyền dân sự, chính trị được
chính thức pháp điển hóa trong luật pháp quốc tế kể từ sau Chiến tranh thế giới lần
II, đặc biệt là Liên Hợp quốc thông qua Tun ngơn tồn thế giới về quyền con
người 1948 và Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966. Với vai
trị quan trọng của các quyền dân sự mà Luật pháp quốc tế về quyền con người cũng

như Hiến pháp của hầu hết các nước đều đặt các quyền dân sự lên hàng đầu, không
chỉ đặt trước các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa (vốn thuộc thế hệ thứ 2 của quyền
con người) mà cịn đặt trước các quyền chính trị vốn cùng thế hệ thứ nhất với quyền
dân sự. Nhóm quyền này mang đậm chủ nghĩa cá nhân và được xây dựng để bảo vệ
cá nhân khỏi sự xâm hại của nhà nước. Nhóm quyền dân sự – chính trị được hợp
pháp hóa và có vị thế nhất định trong luật pháp quốc tế được thông qua từ Điều 3
tới Điều 21 của Tuyên ngôn quốc tế về quyền con người và Công ước quốc tế về
các quyền dân sự và chính trị năm 1966. Bên cạnh đó, văn bản pháp lý có tính khu
vực quan trọng là Cơng ước châu Âu về bảo vệ các quyền con người và tự do cơ
bản (ECHR).
Cơng ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966 (ICCPR) không
đưa ra khái niệm, mà chỉ liệt kê các quyền và tự do cơ bản của con người trên lĩnh
vực dân sự. Theo đó, quyền dân sự có thể hiểu là khả năng được phép xử sự theo
một cách nhất định của chủ thể trong quan hệ dân sự để thực hiện và bảo vệ lợi ích
của mình. Trong khoa học pháp lý cũng như trong pháp luật thực định ở Việt Nam
chưa đưa ra khái niệm quyền dân sự. Có thể định nghĩa quyền dân sự là khả năng
được phép xử sự theo một cách nhất định của chủ thể trong quan hệ dân sự, phát
sinh trong lĩnh vực dân sự để thỏa mãn các nhu cầu vật chất, tinh thần của mình.
Quyền dân sự được hiểu là những quyền cá nhân, gắn chặt với nhân thân của
mỗi người, chỉ cá nhân mới có thể sử dụng độc lập và không thể chuyển giao cho
người khác (quyền sống, quyền tự do đi lại, cư trú...)4.
Theo tác giả Nguyễn Mạnh Hùng thì quyền dân sự là “quyền dân sự bao
gồm một lớp các quyền nhằm bảo vệ tự do cá nhân từ hành động khơng có cơ sở
của Nhà nước mà không bị phân biệt đối xử. Quyền dân sự bao gồm việc bảo đảm
toàn vẹn về thể chất hoặc tâm thần, giới tính, tơn giáo, chủng tộc, nguồn gốc quốc
gia, tuổi tác, định hướng tình dục hoặc giới tính và quyền tự do của tư tưởng và
lương tâm, ngơn luận, tơn giáo, báo chí và chuyển động. Quyền dân sự tạo ra cho
cá nhân một không gian sinh tồn trong cuộc sống đời thường chống lại sự can thiệp
Tường Duy Kiên - Nguyễn Thanh Tuấn (2018) “Bảy mươi năm “Tuyên ngôn thế giới về quyền con người”
– Giá trị thời đại và ý nghĩa đối với Việt Nam”, Tạp chí Cộng sản, tr.28.

4


9

vô căn cứ của Nhà nước. Các quyền dân sự gắn liền với phạm trù tự do cá nhân một phạm trù ở góc độ nhất định, mang tính đối trọng với phạm trù quyền lực Nhà
nước”5.
Theo tác giả Nguyễn Hồng Anh (Viện nghiên cứu con người) thì quyền dân
sự là kết quả của nền dân chủ phương Tây. Đó là tự do của con người, bao gồm các
quyền tự do được làm và tự do thoát khỏi. Quyền tự do được làm bao gồm tự do đi
lại, tự do cư trú…Quyền tự do thoát khỏi gồm các quyền liên quan như khơng ai có
thể bị bắt hay giam giữ vơ cớ, khơng ai có thể là nạn nhân của sự tra tấn, trừng
phạt hay đối xử tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục6. Như vậy, tác giả Nguyễn Hồng
Anh chỉ đưa ra đặc điểm của quyền dân sự là tự do của con người mà chưa làm rõ
mục đích của quyền dân sự là giới hạn, ngăn chặn sự tùy tiện và lạm quyền từ phía
Nhà nước xâm hại đến cuộc sống tự do của cá nhân.
Từ những phân tích quyền dân sự và quyền cơng dân, mặc dù có nhiều quan
điểm khác nhau nhưng theo tác giả có thể đưa ra khái niệm về quyền dân sự của
công dân là các quyền cơ bản trong đời sống dân sự được ghi nhận trong Hiến
pháp, nhằm bảo vệ tự do của công dân từ những hành động không có cơ sở của
Nhà nước mà khơng bị phân biệt đối xử, những quyền này chỉ áp dụng cho công
dân của Nhà nước nhất định, không bao gồm cá nhân có quốc tịch nước ngồi và
cá nhân khơng quốc tịch.
1.1.2. Đặc điểm quyền dân sự của công dân
Để nhận biết rõ hơn về quyền dân sự của công dân và phân biệt quyền dân sự
với các quyền khác như quyền chính trị, quyền kinh tế, văn hóa, xã hội của cơng
dân thì phân biệt vào các đặc điểm sau:
Có nguồn gốc từ quyền con người nên quyền dân sự của công dân cũng
không thể phân chia và không thể chuyển nhượng. Một cá nhân cụ thể khơng thể
chỉ có quyền này mà khơng có quyền kia và ngược lại, cá nhân cần phải có tất cả

các loại quyền mới đảm bảo và đáp ứng cho nhu cầu tồn tại, phát triển của mình,
khơng thể bóc tách đem mua bán, trao đổi cho bất kỳ ai cũng không thể chuyển
nhượng từ người này sang người kia7. Việc ghi nhận quyền dân sự vào trong pháp
luật không chỉ là cách thức bảo vệ quyền khỏi sự xâm phạm của các chủ thể bằng
việc đề ra những giới hạn cần thiết mà đó cịn là sự đề cao quyền dân sự nói riêng
và quyền con người nói chung, khẳng định sự tơn trọng và quan tâm của chủ thể
Nguyễn Mạnh Hùng (chủ biên) (2013), Quyền dân sự của công dân trong Hiến pháp: Lý luận và thực tiễn,
Báo cáo tổng kết Đề tài khoa học và cơng nghệ cấp trường, Tp. Hồ Chí Minh, tr 16 - 17.
6
Nguyễn Hồng Anh (2008), “Bảo vệ và thúc đẩy quyền dân sự, chính trị vì mục tiêu phát triển con người”,
Tạp chí Nghiên cứu con người, (số 6), tr.10.
7
Vũ Văn Nhiêm (2011), “Quyền dân sự của công dân trong lịch sử lập hiến Việt Nam - Quá trình phát triển
và phương hướng đổi mới” Đề tài nghiên cứu khoa học, Tp. Hồ Chí Minh, tr.15 - 18.
5


10

mang quyền lực nhà nước với việc bảo vệ quyền con người, quyền dân sự. Về tính
phổ biến, quyền dân sự là những quyền tự nhiên vốn có, con người sinh ra đã mặc
nhiên được hưởng nên tất cả các cá nhân đều có quyền dân sự. Tất cả mọi người
đều được hưởng quyền như nhau trong tất cả các lĩnh vực khác nhau của đời sống
xã hội, mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, mọi cá nhân xâm phạm đến quyền
con người, quyền công dân đều bị xử lý theo quy định của pháp luật. Quyền dân sự
của công dân luôn được Nhà nước công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm8. Bên
cạnh đó, quyền dân sự của cơng dân có đặc điểm riêng, cụ thể:
Thứ nhất, tính cá nhân, quyền dân sự của công dân là loại quyền trong lĩnh
vực đời tư của cá nhân, gắn với tự do cá nhân, mục đích của quyền dân sự về cơ bản
là để giới hạn, ngăn chặn sự tùy tiện và lạm quyền từ phía Nhà nước xâm hại đến tự

do cá nhân. Tính cá nhân gắn với mỗi con người, mang tính tự nhiên, liên quan mật
thiết đến con người, bất khả xâm phạm, không chia cắt, liên quan với nhau và phụ
thuộc lẫn nhau. Vì vậy, việc ghi nhận và bảo vệ quyền dân sự góp phần tránh sự vi
phạm quyền tự do cá nhân của Nhà nước, tránh sự tùy tiện từ phía Nhà nước.
Thứ hai, gắn với nhân thân của cá nhân và xuất hiện sớm, là thế hệ quyền thứ
nhất của con người. Ra đời từ cuộc cách mạng tư sản Pháp năm 1789 (thế hệ quyền
thứ hai ra đời từ cuộc Cách mạng tháng Mười Nga 1917 và thế hệ quyền thứ ba của
con người ra đời cơng cuộc giải phóng dân tộc của các quốc gia thuộc địa), quyền
dân sự cùng với quyền chính trị đã sớm được chú ý, được coi trọng và là mục tiêu
hướng tới, là đòi hỏi trước tiên trong cuộc đấu tranh giải phóng con người nói
chung. Quyền dân sự là loại quyền gắn với nhân thân của cá nhân, vì thế có đặc
trưng là khơng bị tước đoạt hay chuyển nhượng, thực hiện ít tốn kém, ít bị phụ
thuộc vào trình độ phát triển của quốc gia. Trong khi đó, việc thực hiện các quyền
kinh tế, xã hội (như quyền được khám chữa bệnh miễn phí, quyền có việc làm, có
nhà ở) lại địi hỏi phải có điều kiện kinh tế nhất định, khơng phụ thuộc vào ý chí
chủ quan của các nhà lập hiến. Các bản Hiến pháp trước đây của Việt Nam quy
định các quyền kinh tế, xã hội mang ít nhiều tính hình thức, khó thực hiện được
trong thực tế do khơng phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội tại thời điểm đó. Cụ thể
trong Hiến pháp năm 1980 tại các Điều 58 đến Điều 61 quy định cho công dân
quyền có nhà ở, có việc làm, quyền học tập, quyền khám chữa bệnh. Chính vì vậy,
do điều kiện kinh tế khác nhau, mức độ hưởng thụ các quyền kinh tế, xã hội ở các
nước cũng khác nhau.
Nguyễn Mạnh Hùng (chủ biên) (2013), Quyền dân sự của công dân trong Hiến pháp: Lý luận và thực tiễn,
Báo cáo tổng kết Đề tài khoa học và công nghệ cấp trường, Tp. Hồ Chí Minh, tr 19-21.
8


11

Thứ ba, mang tính thụ động, so với các nhóm quyền ở nhóm khác (quyền

kinh tế - văn hóa - xã hội mang tính chủ động) thì nhóm quyền dân sự nói chung và
quyền dân sự của cơng dân nói riêng là loại quyền mang tính thụ động. Tính thụ
động ở đây được hiểu là một cá nhân không bằng hành động cũng thực hiện được
quyền, cá nhân tự bản thân mình cũng có thể quyết định cách thức hưởng thụ quyền
mà khơng cần có sự tham gia, can thiệp hay tác động từ phía chủ thể khác, đặc biệt
là sự tác động, tham gia từ phía cơ quan nhà nước dù dưới hình thức trực tiếp hay
gián tiếp mới có thể thực hiện được quyền. Đây là đặc thù của nhóm quyền dân sự,
chính trị giúp phân biệt với nhóm quyền kinh tế - văn hóa - xã hội. Ở nhóm quyền
kinh tế - văn hóa - xã hội, cá nhân muốn hưởng thụ quyền một cách hữu hiệu thì
khơng thể tự mình thực hiện mà khơng có sự can thiệp, tác động từ phía cơ quan
nhà nước có thẩm quyền. Ví dụ quyền được học hành chỉ có thể được thực hiện
thông qua sự tham gia của cơ quan nhà nước vào việc hưởng thụ quyền như: cơ
quan nhà nước phải xây dựng trường học, cơ sở vật chất thiết bị giảng dạy, cung
cấp giáo viên, chương trình giáo dục…để cá nhân có thể thực hiện được việc học
hành hay quyền được chăm sóc y tế cá nhân chỉ có thể hưởng thụ được khi có sự
tham gia, can thiệp của Nhà nước tác động vào việc thực hiện quyền như xây dựng
các cơ sở khám chữa bệnh, trang thiết bị y tế. Đối với các quyền dân sự thì khơng
cần có sự can thiệp của Nhà nước bất kể dưới hình thức trực hoặc giáp tiếp, cá nhân
cũng có thể hưởng quyền một cách tốt nhất. Thậm chí, kể cả khi có u cầu của
quyền cũng là hạn chế đến mức thấp nhất khả năng can thiệp của cơ quan nhà nước
bởi, sự tác động của Nhà nước nếu có thì cũng chỉ nhằm tạo điều kiện cho cá nhân
hưởng thụ quyền một cách hiệu quả nhất hoặc là để hướng dẫn hay vạch định ranh
giới của sự tự do nhằm giới hạn việc hưởng thụ quyền dân sự của cá nhân này
không làm ảnh hưởng đến khả năng hưởng thụ quyền của cá nhân khác hay ảnh
hưởng đến trật tự xã hội, lợi ích cơng cộng nói chung. Ví dụ để quyền tự do hội họp,
lập hội thì cá nhân có thể tự mình lập các hội phục vụ cho nhu cầu, mục đích riêng
của cá nhân mà cơ quan nhà nước khơng cần có sự can thiệp nào, tuy nhiên để đảm
bảo quyền tự do hội họp của cá nhân không ảnh hưởng đến trật tự xã hội nói chung
trật tự quản lý nhà nước nói riêng thì Nhà nước ban hành ra các chính sách pháp
luật hướng dẫn cá nhân thực hiện quyền này trong vịng trật tự, khơng có ý nghĩa

quyết định đến việc cá nhân có hay khơng có thực hiện quyền khi khơng có sự can
thiệp của Nhà nước9.

Vũ Văn Nhiêm (2011), “Quyền dân sự của công dân trong lịch sử lập hiến Việt Nam - Quá trình phát triển
và phương hướng đổi mới”, Đề tài nghiên cứu khoa học, TP. Hồ Chí Minh, tr.20-23.
9


12

1.2. Một số vấn đề lý luận về bảo đảm quyền dân sự của công dân
1.2.1. Khái niệm về bảo đảm quyền dân sự của công dân
Cùng với việc quy định các quyền dân sự cho công dân, Nhà nước cần phải
có các biện pháp bảo đảm để cơng dân thực hiện quyền dân sự đó, vừa bảo đảm
cơng dân thực hiện trong khuôn khổ pháp luật vừa bảo đảm cơng dân có thể có đủ
điều kiện để thực hiện quyền lợi của mình. Việc bảo đảm thực hiện quyền dân sự
của công dân luôn trở thành mối quan tâm hàng đầu của tồn nhân loại nói chung và
là giá trị cơ bản mà mỗi Nhà nước hướng tới nói riêng. “Bảo đảm” được hiểu là làm
cho chắn chắn thực hiện được, giữ gìn được, hoặc có đầy đủ những gì cần thiết10.
Bảo đảm các quyền con người, quyền cơng dân là việc tạo ra các tiền đề, điều kiện
về chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội, pháp lý để cá nhân, công dân, các tổ chức của
công dân thực hiện được các quyền, tự do, lợi ích chính đáng của họ đã được pháp
luật ghi nhận. Từ góc nhìn luật học, trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân ở nước ta, các bảo
đảm pháp lý có ý nghĩa đặc biệt quan trọng và mang tính quyết định, là cốt lõi, là sự
thể chế hóa các bảo đảm chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội, tổ chức thành các chuẩn
mực có tính bắt buộc mà Nhà nước, các cơ quan nhà nước và xã hội phải thực hiện
để bảo đảm các quyền con người, quyền công dân. Các bảo đảm pháp lý rất đa dạng,
phong phú, trước hết là sự ghi nhận các quyền con người, quyền công dân, đến việc
tạo các điều kiện pháp lý, các điều kiện tổ chức, việc thiết lập cơ chế, bộ máy

chuyên trách bảo đảm các quyền con người, quyền công dân11.
Theo tác giả Nguyễn Văn Động thì “bảo đảm là việc Nhà nước ghi nhận các
quy định của pháp luật trực tiếp liên quan đến việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ
cụ thể của cơng dân và trình tự, thủ tục thực hiện để thực hiện chúng trong lĩnh vực
chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội”12. Như vậy, từ góc nhìn của tác giả
Nguyễn Văn Động chỉ nêu ra bảo đảm quyền dân sự của công dân về mặt pháp lý,
mà chưa nhắc đến vai trò của các biện pháp kinh tế, văn hóa, xã hội. Theo tác giả
Nguyễn Thị Thanh Nga cho rằng: Bảo đảm thực hiện quyền dân sự của cơng dân có
thể hiểu là việc chủ thể là Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội - nghề
nghiệp, hiệp hội quần chúng, các doanh nghiệp, gia đình, cá nhân tạo ra tiền đề,
điều kiện cần thiết để công dân thực hiện quyền dân sự đã được pháp luật ghi nhận
Viện Hàn Lâm Khoa học xã hội Việt Nam (2021), Từ điển Tiếng Việt, NXB Từ điển Bách Khoa, tr. 52.
Phạm Hồng Thái, Nguyễn Thị Thu Hương, “Bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền cơng dân trong
pháp luật hành chính Việt Nam” (Một số vấn đề có tính phương pháp luận, định hướng nghiên cứu), Tạp chí
Luật học, 28 (2012).
12
Nguyễn Văn Động (2004), Các quyền hiến định về xã hội của công dân ở Việt Nam hiện nay, NXB Tư
pháp, Hà Nội, tr. 69.
10
11


13

trên thực tế13. Các điều kiện, tiền đề ở đây chính là điều kiện, tiền đề về chính trị,
kinh tế, văn hóa - xã hội, pháp luật…Các điều kiện này khơng chỉ phụ thuộc vào ý
chí chủ quan của mỗi con người mà còn phụ thuộc vào các yếu tố khách quan cùng
với những phương tiện, phương thức quan trọng do Nhà nước và xã hội tạo ra. Theo
đó, bảo đảm quyền dân sự bao hàm từ việc tiến hành xây dựng, ban hành chính sách,
pháp luật đó trên thực tế. Từ các quan điểm trên, có thể thấy rằng, bảo đảm thực

hiện quyền dân sự của công dân là sự kết hợp giữa các biện pháp pháp lý, chính trị,
kinh tế, văn hóa xã hội, sự giao thoa, phối hợp giữa các chủ thể trong xã hội. Song,
vì Nhà nước là chủ thể chủ yếu nên biện pháp pháp lý có vai trị quan trọng nhất,
trực tiếp nhất chi phối tính hiện thực của quyền con người, quyền cơng dân trong
các hồn cảnh kinh tế, chính trị, xã hội nhất định.
Các bảo đảm quyền dân sự của công dân bao gồm: Thứ nhất, các bảo đảm
chung, những điều kiện, tiền đề về kinh tế, chính trị, tư tưởng, tổ chức, văn hóa - xã
hội để Nhà nước và cơng dân thực hiện các quyền cũng như nghĩa vụ theo quy định
của pháp luật; Thứ hai, các bảo đảm riêng, là các biện pháp pháp lý cần thiết để Nhà
nước và công dân thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lý theo quy định của pháp
luật. Trong các biện pháp chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội, pháp luật thì biện pháp
pháp luật có vai trị quan trọng nhất, trực tiếp chi phối tính hiện thực của quyền con
người, quyền cơng dân trong các hồn cảnh kinh tế, chính trị, xã hội nhất định14.
Việc bảo đảm tốt quyền con người, quyền cơng dân nói chung và quyền dân sự của
cơng dân nói riêng sẽ giúp giảm thiểu, ngăn ngừa những mâu thuẫn trong xã hội;
đồng thời củng cố tình đồn kết, phát huy dân chủ và thúc đẩy sự phát triển bền
vững của mỗi quốc gia.
Như vậy, bảo đảm quyền dân sự của cơng dân có thể được hiểu là việc các
chủ thể (Nhà nước, tổ chức, cá nhân) tạo ra các tiền đề, điều kiện cần thiết về chính
trị, kinh tế, văn hóa - xã hội, pháp lý và tổ chức để công dân thực hiện các quyền
dân sự đã được pháp luật ghi nhận trên thực tế. Trong đó, các bảo đảm pháp lý của
Nhà nước có ý nghĩa đặc biệt quan trọng và mang tính quyết định, là cốt lõi, là sự
thể chế hóa các bảo đảm chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội, tổ chức.
1.2.2. Các biện pháp bảo đảm quyền dân sự của công dân
Việt Nam luôn nhất quán quan điểm tại Điều 3 Hiến pháp năm 2013 quy
định “bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn trọng,
Nguyễn Thị Thanh Nga (2020),“Về bảo đảm các quyền dân sự, chính trị ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí
quản lý nhà nước, số 299, tr. 26.
14
Hồng Thị Kim Quế (2005), Giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật, NXB Đại học Quốc gia

Hà Nội, tr. 252.
13


14

bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; thực hiện mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do,
hạnh phúc, có điều kiện phát triển tồn diện”. Chủ thể trước tiên và chủ yếu bảo
đảm quyền dân sự của công dân là Nhà nước. Nhà nước thực hiện các biện pháp về
thể chế lập pháp, hành pháp, tư pháp và quản lý chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa để
hiện thực hóa các nguyên tắc, tiêu chuẩn về quyền con người trong hoạt động của
Nhà nước và các hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp,
đặc biệt trong các chương trình phát triển kinh tế - xã hội, nhằm thừa nhận, tôn
trọng, bảo vệ, bảo đảm thực hiện và thúc đẩy quyền con người trong thực tế.
Thứ nhất, xây dựng một chế độ chính trị dân chủ. Một chế độ chính trị phản
dân chủ, chun chế thì ở đó các quyền con người, quyền cơng dân nói chung và
các quyền dân sự của cơng dân nói riêng sẽ khơng được bảo đảm. Ngược lại, một
chế độ chính trị dân chủ, tiến bộ, ổn định tạo điều kiện để các quyền dân sự của
công dân được bảo đảm.
Thứ hai, bảo đảm điều kiện kinh tế. Hiện nay, trình độ phát triển kinh tế,
những điều kiện sinh hoạt vật chất mang tính quyết định đối với việc thực hiện và
mở rộng các quyền con người, quyền cơng dân nói chung và quyền dân sự của cơng
dân nói riêng. Cùng với sự phát triển của kinh tế và khoa học kỹ thuật, cơng dân có
điều kiện phát triển tự do và tồn diện, làm chủ bản thân mình và cộng đồng xã hội.
Để hiện thực hóa quyền cơng dân, tăng trưởng kinh tế có thể coi là một phương tiện
quan trọng. Đổi lại, quyền cơng dân cũng góp phần thúc đẩy và duy trì sự tăng
trưởng kinh tế bền vững, bởi lẽ quyền công dân giúp kiến tạo và duy trì sự quản lý
tốt - yếu tố nền tảng cho sự phát triển kinh tế. Quan trọng hơn, chỉ khi các quyền
con người, quyền công dân được bảo đảm mới giải phóng năng lực của mọi cá nhân

con người, tạo ra sức sống, sự phấn khởi trên mọi lĩnh vực trong đó có lĩnh vực kinh
tế. Xét ở bình diện chung, mối quan hệ tương tác giữa bảo vệ và thúc đẩy quyền con
người và sự tăng trưởng kinh tế là khơng thể phủ nhận, đó là sự thật hiển nhiên.
Thứ ba, bảo đảm các điều kiện văn hóa - xã hội, quyền con người và quyền
cơng dân nói chung và quyền dân sự của cơng dân nói riêng được bảo đảm và thực
hiện phụ thuộc rất nhiều vào trình độ dân trí của mỗi quốc gia. Trong xã hội cơng
dân phải có trình độ văn hóa dân chủ, văn hóa chính trị - pháp lý thì cơng dân mới
tự giác đấu tranh và thực hiện các quyền của mình. Đồng thời cũng trên cơ sở này,
con người mới điều chỉnh được hành vi của mình theo pháp luật. Điều đó phải tiến
hành cải cách nâng cao chất lượng của hệ thống giáo dục nhằm bồi dưỡng năng lực
làm chủ của cơng dân. Giáo dục quyền cơng dân (cịn gọi là citizen rights education)
thường được hiểu là những hoạt động giảng dạy, tập huấn, đào tạo và phổ biến


15

thông tin về quyền công dân. Theo Liên Hợp quốc, mục đích cuối cùng của
hoạt động giáo dục về quyền con người, quyền công dân, dù được tiến hành ở bất
cứ đâu, bởi bất cứ chủ thể nào, cũng nhằm để xây dựng một nền văn hóa quyền con
người, quyền công dân (human and citizen rights culture). Điều này cũng được Hiến
pháp năm 2013 tiếp tục khẳng định phát triển giáo dục, khoa học và công nghệ là
quốc sách hàng đầu, đồng thời xác định những mục tiêu và định hướng chính trong
việc phát triển giáo dục và khoa học, công nghệ (Điều 61, 62)15.
Thứ tư, các bảo đảm pháp lý. Có thể nói, việc bảo đảm thực hiện quyền dân
sự của cơng dân là một q trình khó khăn và phức tạp. Tuy nhiên, trong các bảo
đảm việc thực hiện quyền dân sự công dân, các bảo đảm pháp lý giữ vai trò quan
trọng nhất, trực tiếp chi phối tính hiện thực của quyền cơng dân trong các hồn cảnh
kinh tế, chính trị, xã hội nhất định. Như vậy, bảo đảm về mặt pháp lý quyền dân sự
của công dân là hệ thống các quy định trong hệ thống pháp luật được cụ thể hóa và
cơ chế pháp lý bảo đảm thực hiện các quy định đó trong thực tiễn. Biện pháp pháp

lý là cách thức giải quyết một vấn đề cụ thể mang tính chất lý luận nguyên lý của
pháp luật nhằm bảo đảm thực hiện quyền dân sự của công dân trong đời sống xã hội.
Những biện pháp pháp lý do nhiều chủ thể khác nhau thực hiện, bao gồm các cơ
quan nhà nước, các tổ chức hay chính cá nhân cơng dân cũng thực hiện các quyền
của mình theo quy định của pháp luật nhằm đảm bảo cho các quyền và lợi ích hợp
pháp của mình. Các biện pháp pháp lý có được kể đến như:
Một là, quyền dân sự của công dân được đảm bảo thông qua việc ghi nhận
trong Hiến pháp và pháp luật. Hiến pháp ghi nhận các quyền dân sự của công dân là
việc đưa các quyền dân sự của công dân vào nội dung Hiến pháp. Cách thức ghi
nhận đó tùy thuộc vào quan niệm về Hiến pháp của mỗi quốc gia, tùy thuộc vào
điều kiện kinh tế chính trị, văn hóa, giáo dục ở mỗi quốc gia. Có thể nói, đây là biện
pháp pháp lý quan trọng nhất đối với việc đảm bảo quyền dân sự của công dân.
Hiến pháp được coi là văn bản pháp lý cao nhất, là “luật mẹ”, là đạo luật cơ bản
trong hệ thống pháp luật, mọi văn bản pháp luật khác khi ban hành phải phù hợp với
nội dung của Hiến pháp, không được trái với Hiến pháp. Theo quan niệm của chủ
nghĩa Mác - Lênin, Hiến pháp có nội dung chủ yếu là quy định về cách thức tổ chức
quyền lực Nhà nước và quy định về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Nhưng
suy cho cùng, việc Hiến pháp quy định cách thức tổ chức quyền lực nhà nước cũng
nhằm hạn chế sự lạm quyền của các chủ thể mang quyền lực, tránh khơng có sự vi
phạm đến nhân quyền của các chủ thể này. Cho nên, mục đích cuối cùng của Hiến
pháp là ghi nhận quyền công dân và bảo đảm thực thi nó. Do đó, cách xác lập, ghi
15

Đại học Quốc gia Hà Nội (2012), Hỏi đáp về quyền con người, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, tr.75-76


16

nhận các quyền cơng dân trong Hiến pháp có ảnh hưởng rất lớn đến giá trị quyền
công dân và các biện pháp bảo đảm khác. Vì vậy,“nếu khơng có chế định quyền con

người, quyền cơng dân thì cũng khơng thể có bản thân Hiến pháp, nội dung đó chi
phối kết cấu của bản Hiến pháp, chế định quyền công dân thường đặt lên hàng đầu
trong Hiến pháp Nhà nước”16. Như vậy, Nhà nước quy định các quyền dân sự của
công dân thì đồng thời cũng phải có những quy định về cách thức bảo đảm, ghi
nhận cụ thể về điều kiện, trình tự, thủ tục thực hiện… Nếu khơng, những quyền đó
chỉ có thể tồn tại trên giấy mà khơng có cơ sở để đưa vào thực tiễn đời sống chính
trị. Sự ghi nhận các quyền dân sự của cơng dân cũng như việc bảo đảm thường
được các quốc gia lựa chọn quy định trong Hiến pháp17.
Việc ghi nhận vai trị của cơng dân thơng qua các quy định pháp luật một
mặt thể hiện rõ quan điểm, chủ trương xã hội hoá của Đảng và Nhà nước ta, thể
hiện quyết tâm bảo đảm quyền cơng dân tới cùng với tồn bộ sức mạnh của cả bộ
máy nhà nước và của toàn xã hội; mặt khác, để nhằm xác định rõ trách nhiệm của
công dân trong việc cùng với Nhà nước giúp nâng cao vai trị của cơng dân, khơng
chỉ dừng lại ở việc thể chế hóa một cách hình thức mà cịn địi hỏi các khn khổ
pháp lý cho vấn đề này cần đầy đủ và hoàn thiện ở mức cao nhất, không chỉ đáp
ứng các yêu cầu về quản lý của Nhà nước mà còn đảm bảo phù hợp với năng lực
của các chủ thể, phát huy cao nhất những điểm mạnh, những lợi thế của xã hội
nhằm kiểm soát quyền lực. Như vậy, để bảo đảm thực hiện quyền, nghĩa vụ của
công dân, thông qua các quy định pháp luật, Nhà nước không chỉ tuyên bố các
quyền và nghĩa vụ cho cơng dân mà cịn phải đưa ra các biện pháp để bảo vệ và bảo
đảm thực hiện trên thực tế. Quy định này nếu không đầy đủ, chính xác, rạch rịi,
đúng đắn thì dù có cơ chế pháp lý tốt đến đâu cũng không thể bảo đảm thực hiện18.
Hai là, quyền dân sự của công dân được bảo đảm thông qua hoạt động của hệ
thống các cơ quan nhà nước: Quốc hội, người đứng đầu nhà nước, Chính phủ, Tịa
án, Viện kiểm sát nhân dân, cơ quan thuộc chính quyền địa phương.
Quyền dân sự của cơng dân được bảo đảm bằng hoạt động của Quốc hội
(Nghị viện). Quốc hội (Nghị viện) là cơ quan do Nhân dân bầu ra, thay mặt nhân
dân nắm chủ quyền quốc gia. Cơ quan này là “xương sống”, nền tảng để các cơ
quan khác thực hiện việc bảo vệ nhân quyền của các quốc gia trên thế giới. Quốc
Hoàng Văn Hảo, Hiến pháp Việt Nam và vấn đề quyền con người, quyền công dân. Dẫn theo: Nguyễn

Đăng Dung - Bùi Tiến Đạt (2011), “Cải cách chế định quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong Hiến
pháp theo nguyên tắc tôn trọng quyền con người”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, 8(193), tr.6.
17
Lê Thị Mơ, (2008), Những biện pháp pháp lý đảm bảo quyền con người trong lịch sử lập hiến Việt Nam,
Khóa luận tốt nghiệp cử nhân luật, Tp. Hồ Chí Minh, tr. 9.
18
Lê Thị Mơ, (2008), Những biện pháp pháp lý đảm bảo quyền con người trong lịch sử lập hiến Việt Nam,
Khóa luận tốt nghiệp cử nhân luật, Tp. Hồ Chí Minh, tr. 10.
16


17

hội (Nghị viện) có chức năng lập pháp, đây là chức năng cơ bản, gắn liền với sự ra
đời của cơ quan này. Qua việc thực hiện chức năng này, Quốc hội (Nghị viện) đã
ghi nhận các quyền dân sự của công dân, một biện pháp pháp lý quan trọng trong
việc bảo đảm quyền dân sự của công dân. Xuất phát từ chức năng lập pháp, Quốc
hội (Nghị viện) đều đóng vai trị chủ chốt trong việc bảo đảm thực hiện quyền của
công dân, hành động một cách tốt nhất vì lợi ích cơng dân, cử tri của nước mình19.
Đây cũng là cơ quan quyết định các vấn đề quan trọng, các chính sách góp phần
phát triển kinh tế - xã hội, ổn định đất nước. Là một quốc gia theo chế độ xã hội chủ
nghĩa nên cơ quan lập pháp của Việt Nam gọi là Quốc hội, dù tên gọi khác nhau
nhưng về bản chất Quốc hội hay Nghị viện đều nói đến cơ quan lập pháp của quốc
gia. Quốc hội Việt Nam có chức năng lập hiến, ban hành Hiến pháp, ghi nhận trực
tiếp các quyền dân sự của công dân, đây là một biện pháp pháp lý quan trọng trong
việc bảo đảm quyền dân sự của công dân.
Quyền dân sự của công dân được bảo đảm bằng hoạt động của Người đứng
đầu nhà nước. Người đứng đầu Nhà nước có vai trị đứng đầu, thay mặt nước trong
quan hệ đối nội, đối ngoại. Người đứng đầu nhà nước các nước thường tham gia
vào quá trình lập pháp của Quốc hội (Nghị viện). Tùy thuộc hình thức chính thể,

chế độ chính trị của mỗi nước ở từng thời kỳ mà chế định người đứng đầu nhà nước
có địa vị pháp lý khác nhau và tên gọi khác nhau như Chủ tịch, Tổng thống, Vua,
Nữ hoàng, Quốc vương…Ở Mỹ, người đứng đầu Nhà nước gọi là Tổng thống,
Tổng thống Mỹ có quyền kiến nghị một số dự luật, có quyền phủ quyết đạo luật từ
Nghị viện, bên cạnh việc tham gia vào quá trình lập pháp giúp người đứng đầu nhà
nước còn tham gia vào việc ghi nhận các quyền dân sự của công dân trong văn bản
luật. Hay ở Việt Nam, Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, có quyền trình
dự án luật, trình kiến nghị về luật với tư cách là đại biểu Quốc hội. Có thể thấy rằng
dù hình thức chính thể hay chế độ chính trị nào thì người đứng đầu nhà nước có vai
trị nhất định trong q trình bảo đảm thực hiện quyền dân sự của công dân trên
lãnh thổ quốc gia mình.
Quyền dân sự của cơng dân được đảm bảo bằng hoạt động của Chính phủ.
Đây là các cơ quan hành pháp, trực tiếp thực hiện chức năng quản lý nhà nước, tức
là cơ quan trực tiếp tổ chức thực hiện và điều hành trong xã hội trong lĩnh vực chính
trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh.Với địa vị pháp lý và chức năng như vậy, Chính
phủ trong hoạt động của mình thường xuyên liên quan, đụng chạm đến các quyền
cơng dân nói chung và quyền dân sự của công dân. Một mặt hệ thống cơ quan này
được Hiến pháp giao quyền lập quy, tức là quyền ban hành các văn bản pháp quy
19

Phạm Quang Minh (2010), Tìm hiểu thể chế chính trị thế giới, NXB Chính trị - Hành chính, tr.94


18

dưới luật có tính bắt buộc trên phạm vi cả nước hay từng địa phương nhằm thực
hiện Hiến pháp và pháp luật. Các quyền dân sự công dân được ghi nhận trong Hiến
pháp và Luật sẽ được các cơ quan này hướng dẫn, cụ thể hóa trong các lĩnh vực
khác nhau của đời sống xã hội. Mặt khác, Chính phủ là cơ quan tổ chức thực hiện
trên thực tế các quyền đã được ghi nhận. Đây là kết quả của sự thể hiện ý chí đơn

phương của các cơ quan hành chính nhà nước làm thay đổi, phát sinh hoặc chấm
dứt các quan hệ pháp luật hành chính cụ thể. Bằng các văn bản áp dụng này làm nảy
sinh hoặc kết thúc một mối quan hệ giữa Nhà nước với cá nhân công dân.
Quyền dân sự của công dân được đảm bảo bằng hoạt động của cơ quan tư
pháp – Tịa án. Tịa án có chức năng xét xử. Đối với các nước xã hội chủ nghĩa như
Việt Nam trong bộ máy một hệ thống cơ quan có vị trí độc lập tương đối là Viện
kiểm sát nhân dân, có chức năng thực hành quyền cơng tố, kiểm sát. Tịa án và Viện
kiểm sát nhân dân khi thực hiện chức năng của mình góp phần bảo đảm quyền dân
sự của cơng dân. Chính vì lẽ đó, hai cơ quan là những cơ quan có nhiệm vụ bảo vệ
quyền con người, quyền công dân thông qua việc áp dụng pháp luật để xét xử, kiểm
sát, giữ quyền công tố. Hoạt động của Tòa án và Viện kiểm sát nhân dân quan hệ
trực tiếp đến quyền con người, quyền công dân. Với bản chất đặc thù là hoạt động
xét xử, Tòa án nhân dân được quyền nhân danh Nhà nước để ra phán quyết cuối
cùng của một vụ việc pháp lý nhất định, trong đó có quyền kết luận một người có
tội hay vơ tội, nên phán quyết của Tịa án là quyết định trực tiếp liên quan đến tự do,
sinh mạng của con người. Cụ thể, phán quyết của Tòa án thể hiện rõ nét ý nghĩa
đích thực, các khía cạnh, giá trị khác nhau của quyền dân sự của công dân được quy
định trong Hiến pháp và pháp luật. Cùng với Tịa án thì vai trị của Viện kiểm sát
nhân dân trong việc đảm bảo quyền con người không kém phần quan trọng. Là cơ
quan giữ quyền công tố, Viện kiểm sát nhân dân có quyền truy tố hành vi vi phạm
pháp luật của một người ra trước cơ quan xét xử, nếu thấy có đủ yếu tố cấu thành
tội phạm hoặc không truy tố nếu chưa đủ yếu tố cấu thành tội phạm. Là cơ quan có
thẩm quyền kiểm sát Viện kiểm sát nhân dân góp phần tránh những sai sót liên quan
đến hoạt động tư pháp, giúp đảm bảo quyền dân sự của công dân.
Quyền dân sự của công dân được đảm bảo bằng hoạt động của các cơ quan
cấu thành chính quyền địa phương. Với chức năng của mình, Hội đồng nhân dân và
Ủy ban nhân dân các cấp là mắc xích quan trọng trong cơ chế pháp lý bảo đảm thực
hiện quyền dân sự của công dân trên phạm vi lãnh thổ địa phương mình. Ở Việt
Nam cơ quan cấu thành nên chính quyền địa phương gồm Hội đồng nhân dân và Ủy
ban nhân dân. Hội đồng nhân dân có nhiệm vụ căn cứ vào Hiến pháp, Luật và các

văn bản pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên ra các Nghị quyết về các biện


×