Tải bản đầy đủ (.pdf) (82 trang)

Xóa án tích đối với người dưới 18 tuổi theo quy định của bộ luật hình sự năm 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.12 MB, 82 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT HÌNH SỰ
***

LÊ THỊ LI LOAN
1753801013106

XĨA ÁN TÍCH ĐỐI VỚI NGƢỜI DƢỚI 18 TUỔI
THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ
NĂM 2015

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT

GVHD: THS. PHAN THỊ PHƢƠNG HIỀN

TP. HỒ CHÍ MINH – 2021


TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT HÌNH SỰ
***

LÊ THỊ LI LOAN
1753801013106

XĨA ÁN TÍCH ĐỐI VỚI NGƢỜI DƢỚI 18 TUỔI
THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ
NĂM 2015

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
Niên khóa: 2017-2021



Giảng viên hƣớng dẫn: ThS. PHAN THỊ PHƢƠNG HIỀN
Giảng viên Khoa Luật Hình sự

TP. HỒ CHÍ MINH – 2021


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đề tài nghiên cứu khóa luận tốt nghiệp là do chính tơi thực
hiện dƣới sự hƣớng dẫn của ThS. Phan Thị Phƣơng Hiền. Mọi tham khảo trong luận
văn đều đƣợc trích dẫn rõ ràng, những số liệu trong các bảng, biểu phục vụ cho việc
nhận xét, đánh giá đƣợc thu thập từ các nguồn tài liệu và đƣợc trích dẫn nguồn, số
liệu cụ thể. Ngồi ra trong luận văn cịn sử dụng các quan điểm, nhận xét, đánh giá
của các tác giả cũng đƣợc trích dẫn và nguồn chú thích. Nếu có sao chép không hợp
lệ, vi phạm quy chế đào tạo hay gian dối tơi xin hồn tồn chịu trách nhiệm.
TP. HCM, ngày 01 tháng 7 năm 2021
Tác giả

Lê Thị Li Loan

i


LỜI CẢM ƠN
Thực hiện khóa luận tốt nghiệp thực sự là một điều kiện, một cơ hội tốt để
bản thân tác giả có thể tổng hợp đƣợc phần lớn các kiến thức đã đƣợc lĩnh hội tại
trƣờng cũng nhƣ đã tìm hiểu, nghiên cứu suốt 4 năm Đại học, đặc biệt là kiến thức
về chuyên ngành Luật Hình sự. Nghiên cứu đề tài “Xóa án tích đối với ngƣời dƣới
18 tuổi theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015” đã giúp cho tác giả hệ thống
lại các kiến thức cơ bản về quy định án tích, xóa án tích.

Trong q trình thực hiện đề tài này tác giả có gặp nhiều khó khăn nhất định.
Song nhờ sự giúp đỡ, động viên của những ngƣời xung quanh đã giúp tác giả có thể
hồn thành tốt khóa luận này.
Vì vậy tác giả muốn gửi lời cảm ơn chân thành đến q thầy, cơ trƣờng Đại
học Luật thành phố Hồ Chí Minh và nhà trƣờng đã tạo điều kiện cho tác giả học tập,
rèn luyện; cảm ơn gia đình, bạn bè đã luôn ủng hộ, động viên, chia sẽ; đặc biệt xin
gửi lời cảm ơn chân thành, sâu sắc đến ThS. Phan Thị Phƣơng Hiền, ngƣời đã dành
nhiều thời gian, công sức định hƣớng, đƣa ra ý kiến hƣớng dẫn giúp khóa luận đƣợc
hồn thiện.

ii


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN .............................................................................................................i
LỜI CẢM ƠN ..................................................................................................................ii
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT ................................................................................. v
DANH MỤC CÁC BẢNG..............................................................................................vi
MỞ ĐẦU .......................................................................................................................... 1
CHƢƠNG I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ XÓA ÁN TÍCH ĐỐI VỚI NGƢỜI
DƢỚI 18 TUỔI ................................................................................................................ 8
1.1. Khái niệm án tích, xóa án tích. ............................................................................. 8
1.1.1. Án tích và hậu quả pháp lý của việc mang án tích .......................................... 8
1.1.2. Xóa án tích và ý nghĩa của xóa án tích .......................................................... 12
1.2. Khái niệm ngƣời dƣới 18 tuổi bị kết án và chính sách pháp luật hình sự của
nhà nƣớc đối với ngƣời dƣới 18 tuổi bị kết án ........................................................... 14
1.2.1. Khái niệm về ngƣời dƣới 18 tuổi bị kết án.................................................... 14
1.2.2. Chính sách pháp luật của nhà nƣớc đối với ngƣời dƣới 18 tuổi bị kết án..... 19
1.3. Khái niệm, điều kiện, thủ tục xóa án tích đối với ngƣời dƣới 18 tuổi ................. 21
1.3.1. Khái niệm xóa án tích đối với ngƣời dƣới 18 tuổi ........................................ 21

1.3.2. Điều kiện xóa án tích đối với ngƣời dƣới 18 tuổi ........................................ 22
1.3.3. Thủ tục xóa án tích đối với ngƣời dƣới 18 tuổi ............................................. 23
1.4. Quy định của pháp luật một số nƣớc trên thế giới về xóa án tích đối với
ngƣời dƣới 18 tuổi ...................................................................................................... 24
1.4.1. Quy định của pháp luật Cộng hịa Pháp về xóa án tích đối với ngƣời dƣới
18 tuổi……. ............................................................................................................. 24
1.4.2. Quy định của pháp luật Nhật Bản về xóa án tích đối với ngƣời dƣới 18
tuổi…………………………………………………………………………........... 25
1.4.3. Quy định của pháp luật Liên Bang Nga về xóa án tích đối với ngƣời dƣới
18 tuổi……. ............................................................................................................. 26
KẾT LUẬN CHƢƠNG I ............................................................................................... 28

iii


CHƢƠNG II. QUY ĐỊNH VỀ XĨA ÁN TÍCH ĐỐI VỚI NGƢỜI DƢỚI 18 TUỔI
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM ........................................................................ 29
2.1. Khái qt quy định về xóa án tích đối với ngƣời dƣới 18 tuổi giai đoạn trƣớc
khi ban hành BLHS năm 2015.................................................................................... 29
2.1.1. Quy định về xóa án tích đối với ngƣời dƣới 18 tuổi trƣớc khi ban hành
BLHS năm 1985 ...................................................................................................... 29
2.1.2. Quy định về xóa án tích đối với ngƣời dƣới 18 tuổi trong BLHS năm
1985 ......................................................................................................................... 30
2.1.3. Quy định về xóa án tích đối với ngƣời dƣới 18 tuổi trong BLHS năm
1999 ......................................................................................................................... 34
2.2. Quy định của BLHS năm 2015 về xóa án tích đối với ngƣời dƣới 18 tuổi ........ 36
2.2.1. Quy định về các trƣờng hợp khơng có án tích đối với ngƣời dƣới 18 tuổi ... 36
2.2.2. Quy định về đƣơng nhiên xóa án tích đối với ngƣời dƣới 18 tuổi ................ 40
2.2.3. Quy định xóa án tích trong trƣờng hợp đặc biệt đối với ngƣời dƣới 18
tuổi ........................................................................................................................... 46

2.2.4. Quy định về cách tính thời hạn xóa án tích đối với ngƣời dƣới 18 tuổi ....... 48
KẾT LUẬN CHƢƠNG II .............................................................................................. 51
CHƢƠNG III. THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH VỀ XÓA ÁN TÍCH
ĐỐI VỚI NGƢỜI DƢỚI 18 TUỔI, NHỮNG VƢỚNG MẮC VÀ MỘT SỐ KIẾN
NGHỊ HOÀN THIỆN .................................................................................................... 52
3.1. Thực tiễn áp dụng các quy định về xóa án tích đối với ngƣời dƣới 18 tuổi ........ 52
3.1.1. Đánh giá khái qt về việc xóa án tích đối với ngƣời dƣới 18 tuổi .............. 52
3.1.2. Một số vƣớng mắc, bất cập trong quy định và áp dụng ................................ 56
3.2. Kiến nghị hồn thiện các quy định về xóa án tích đối với ngƣời dƣới 18 tuổi ... 65
KẾT LUẬN CHƢƠNG III............................................................................................. 69
KẾT LUẬN .................................................................................................................... 70
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

iv


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
STT

Cụm từ đầy đủ

Cụm từ viết tắt

1

BLHS

Bộ luật Hình sự

2


BLTTHS

Bộ luật tố tụng hình sự

3

LLTP

Lý lịch tƣ pháp

4

NCTN

Ngƣời chƣa thành niên

5

Nxb

Nhà xuất bản

6

TNHS

Trách nhiệm hình sự

7


TANDTC

Tòa án nhân dân tối cao

8

VKSNDTC

Viện kiểm sát nhân dân tối cao

v


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 3.1. Bảng thống kê số vụ án, số bị cáo và số bị cáo tái phạm, tái phạm nguy
hiểm là ngƣời dƣới 18 tuổi đã bị xét xử trong giai đoạn 5 năm (từ năm 2014 đến
năm 2018) ................................................................................................................. 53
Bảng 3.2. Bảng thống kê tổng số ngƣời dƣới 18 tuổi bị kết án đƣợc Toà án cấp giấy
chứng nhận xố án tích và quyết định xóa án tích trong giai đoạn 5 năm (từ năm
2014 đến năm 2018). ................................................................................................ 54

vi


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong cơng cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm, Đảng và nhà nƣớc ta luôn
nhất quán thực hiện nguyên tắc trừng trị kết hợp với khoan hồng, cƣỡng chế đi liền
với giáo dục, thuyết phục. Do đó, bên cạnh các quy định về tội phạm, hình phạt, án

tích thì pháp luật cũng đặt ra quy định về xóa án tích, với mục đích giúp cho những
ngƣời thành tâm hối cãi, cơ hội làm lại cuộc đời, xóa bỏ đi những hậu quả pháp lý
bất lợi do việc phạm tội của mình gây ra, xóa bỏ mặc cảm, tự ti để dễ dàng hịa nhập
lại cộng đồng. Đặc biệt đối với đối tƣợng là ngƣời dƣới 18 tuổi - lứa tuổi vô cùng
nhạy cảm, có sự thay đổi lớn vể tâm sinh lý, chính sách xử lý của nhà nƣớc ta đối
với những thế hệ tƣơng lai của đất nƣớc chủ yếu là nhằm giáo dục, giúp họ sửa
chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, trở thành một cơng dân có ích cho xã hội.
Xóa án tích đối với ngƣời dƣới 18 tuổi ảnh hƣởng trực tiếp đến quyền lợi của
chủ thể bị kết án là ngƣời dƣới 18 tuổi, bởi khi họ bị kết án và mang án tích gây ra
nhiều bất lợi, làm hạn chế một số quyền công dân, đồng thời họ có thể phải đối mặt
với sự xa lánh từ bạn bè, xã hội; khi chƣa đƣợc xóa án tích sẽ là cơ sở để định tội,
cơ sở để xác định tái phạm, tái phạm nguy hiểm,…
Trải qua các lần thay thế, sửa đổi, bổ sung đến BLHS năm 2015 cũng có quy
định về xóa án tích đối với ngƣời dƣới 18 tuổi. Tuy nhiên, hiện nay vẫn chƣa có
nhiều văn bản hƣớng dẫn về vấn đề này nên trong q trình giải quyết có nhiều
trƣờng hợp vƣớng mắc phát sinh mà luật chƣa giải quyết đƣợc.
Đồng thời để đáp ứng nhu cầu hội nhập quốc tế và xu hƣớng tồn cầu hóa
trong giai đoạn hiện nay thì nhiều nội dung trong Luật Hình sự, trong đó có xóa án
tích đối với ngƣời dƣới 18 tuổi là một trong những nội dung cần đƣợc quan tâm,
nghiên cứu để tiếp tục hồn thiện bởi nó liên quan trực tiếp đế quyền lợi chính đáng
của trẻ em - một vấn đề mang tính thời sự hiện nay.
Xuất phát từ những lý do trên cho thấy việc nghiên cứu một cách có hệ thống
về xóa án tích đối với ngƣời dƣới 18 tuổi để trên cơ sở đó đƣa ra kiến nghị hồn

1


thiện quy định của pháp luật Hình sự là một u cầu có tính cấp thiết.Với những lý
do đó, tác giả chọn đề tài “Xóa án tích đối với ngƣời dƣới 18 tuổi theo quy định
của Bộ luật Hình sự năm 2015” làm đề tài khóa luật tốt nghiệp cử nhân luật của

mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Nhìn chung đề tài “Xóa án tích đối với ngƣời dƣới 18 tuổi theo quy định của
Bộ luật Hình sự năm 2015” là một đề tài tƣơng đối mới, ít đƣợc các tác giả nghiên
cứu, đa số các đề tài chỉ tập trung nghiên cứu các chế định xóa án tích chung chứ
khơng nghiên cứu chuyên sâu về quy định riêng này.
- Tài liệu nghiên cứu là giáo trình, sách chuyên khảo:
+ Giáo trình Luật hình sự Việt Nam – Phần chung, Đại học Luật thành phố
Hồ Chí Minh (2019) có quy định về vấn đề xóa án tích tại Chƣơng XIV- “Miễn,
giảm trách nhiệm hình sự và xóa án tích”, đã nêu khái niệm về án tích, xóa án tích
đồng thời phân tích cụ thể về các trƣờng hợp đƣơng nhiên xóa án tích, xóa án tích
theo quyết định của Tịa án, xóa án tích trong trƣờng hợp đặc biệt. Và vấn đề xóa án
tích đối với ngƣời dƣới 18 tuổi phạm tội cũng đã đƣợc phân tích tại tiểu mục 2.5
Chƣơng XV – “Trách nhiệm hình sự đối với ngƣời dƣới 18 tuổi”, phân tích về các
trƣờng hợp đƣợc coi là khơng có án tích, đƣơng nhiên xóa án tích.
+ Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 2015 – Phần thứ nhất những quy
định chung của tác giả Đinh Văn Quế (2015) có bình luận khoa học về các quy định
xóa án tích; xóa án tích đối với ngƣời dƣới 18 tuổi nhƣ đƣa ra quan điểm về định
nghĩa xóa án tích, phân tích các trƣờng hợp xóa án tích chung, xóa án tích đối với
ngƣời dƣới 18 tuổi.
+ Bình luận khoa học BLHS năm 2015, đƣợc sửa đổi, bổ sung năm 2017
(Phần chung) của tác giả Nguyễn Ngọc Hòa có phân tích các trƣờng hợp đƣợc coi là
khơng có án tích, quy định về hình thức và điều kiện xóa án tích đối với ngƣời dƣới
18 tuổi trên cơ sở đó so sánh với BLHS năm 1999 về vấn đề này.
- Tài liệu nghiên cứu là luận văn, khóa luận gồm có:

2


+ Nguyễn Cao Cƣờng (2015) “Xóa án tích theo luật hình sự Việt Nam” Luận

văn thạc sĩ, Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội, tác giả của luận văn này đã tập
trung nghiên cứu một số vấn đề lý luận và nội dung cơ bản cũng nhƣ thực tiễn áp
dụng chế định xóa án tích trong Luật hình sự Việt Nam. Nghiên cứu khái quát về sự
hình thành và phát triển của chế định này trong lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam
giai đoạn trƣớc khi ban hành BLHS năm 1999 và trong BLHS năm 1999, đƣa ra
những nhận định, đánh giá về những ƣu điểm, bất cập, đồng thời so sánh giữa chế
định xóa án tích theo pháp luật hình sự Việt Nam với chế định xóa án tích theo Luật
Hình sự một số nƣớc trên thế giới. Từ những nghiên cứu khái quát đó, luận văn đi
sâu vào nghiên cứu việc áp dụng chế định xóa án tích trong thực tiễn Luật hình sự
Việt Nam. Nghiên cứu, tổng hợp các tồn tại, vƣớng mắc khi áp dụng quy định của
chế định xóa án tích trong luật hình sự Việt Nam, từ đó đề xuất những giải pháp,
kiến nghị nhằm hoàn thiện.
+ Nguyễn Quang Long (2020) “Những vấn đề lý luận và thực tiễn về chế
định án tích theo luật Hình sự Việt Nam”, Luận án tiến sỹ, Khoa Luật, Đại học quốc
gia Hà Nội, tác giả của luận án này đã nghiên cứu một cách đồng bộ, có hệ thống và
tồn diện những vấn đề lý luận và thực tiễn về chế định án tích theo luật Hình sự
Việt Nam gồm: những vấn đề lý luận về chế định án tích theo luật hình sự, quy định
của BLHS năm 2015 và một số nƣớc về chế định án tích và thực tiễn áp dụng án
tích trong giai đoạn 12 năm (2008-2019), những hạn chế tồn tại, đồng thời đƣa ra
kiến nghị sửa đổi, bổ sung các quy định về án tích và các chế định khác có liên quan
trong BLHS năm 2015.
+ Trịnh Thị Hạnh (2019) “Xóa án tích đối với ngƣời dƣới 18 tuổi bị kết án
theo quy định của BLHS năm 2015”, Luận văn Thạc sĩ, khoa Luật đại học quốc gia
Hà Nội, tác giả của luận văn này đã nghiên cứu các nội dung cơ bản về chế định án
tích, xóa án tích chung và đối với ngƣời dƣới 18 tuổi bị kết án riêng, đã nêu ra một
số vƣớng mắc và kiến nghị hoàn thiện. Tuy nhiên luận văn vẫn chƣa đi sâu vào khai
thác triệt để các quy định về xóa án tích đối với ngƣời dƣới 18 tuổi nhƣ các trƣờng
hợp khơng có án tích, cách tính thời hạn xóa án tích, thời hạn xóa án tích,…chƣa

3



đánh giá đƣợc những vƣớng mắc gặp phải trong trƣờng hợp ngƣời dƣới 18 tuổi
phạm nhiều tội, có tội thuộc trƣờng hợp có án tích, có tội thuộc trƣờng hợp khơng
có án tích thì thời hạn xóa án tích đƣợc tính nhƣ thế nào.
- Tài liệu nghiên cứu là bài viết đăng trên tạp chí có:
+ Đào Phƣơng Thanh (2016) “Chế định xóa án tích trong BLHS năm 2015,
Tạp chí Luật học số đặc biệt, tác giả Đào Phƣơng Thanh phân tích bản chất, đặc
điểm pháp lý của chế định xóa án tích và những điểm mới của quy định xóa án tích
trong BLHS năm 2015 trên cơ sở so sánh với quy định của BLHS năm 1999. Từ đó,
tác giả chỉ ra quy định về xóa án tích đối với ngƣời dƣới 18 tuổi (phạm tội), bị kết
án tại Điều 107 BLHS số 100/2015/QH13 có một số điểm mới so với BLHS năm
1999 và có sự mẫu thuẫn với quy định tại khoản 2 Điều 70 về thời hạn xóa án tích
khi chỉ quy định duy nhất một mức là 03 năm.
+ Phạm Minh Tun (2017), “Xóa án tích theo quy định của BLHS năm
2015”, Tạp chí Tịa án nhân dân số 07, tác giả của bài viết đã nghiên cứu các quy
định về đƣơng nhiên xóa án tích theo BLHS số 100/2015/QH13 và đƣa ra những
vƣớng mắc, nhiều nội dung của quy định này cịn có những nhận thức khác nhau
gây khó khăn cho việc áp dụng.
+ Đỗ Thị Thúy Lan (2016), “Lý lịch tƣ pháp và vấn đề xóa án tích”, Tạp chí
Dân chủ và pháp luật số 12/2016, tác giả đã nêu các quy định của BLHS năm 2015
về vấn đề xố án tích, quy định của pháp luật về LLTP liên quan đến vấn đề xóa án
tích.
+ Phan Thị Phƣơng Hiền (2017), “Hồn thiện các quy định về xóa án tích đối
với ngƣời bị kết án trong BLHS năm 2015”, Tạp chí Nhà nƣớc và pháp luật số 01,
tác giả của bài viết đã tập trung phân tích những điểm mới của BLHS năm 2015 về
xóa án tích đối với ngƣời bị kết án, nêu ra những điểm hạn chế, từ đó đề xuất một số
kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định về vấn đề này.
+ Phan Thị Phƣơng Hiền (2017), “Hoàn thiện quy định xóa án tích đối với
ngƣời dƣới 18 tuổi bị kết án trong Bộ luật hình sự năm 2015”, Tạp chí Dân chủ và


4


pháp luật số 01, tác giả của bài viết đã phân tích các quy định về xóa án tích đối với
ngƣời dƣới 18 tuổi bị kết án trong BLHS năm 2015, qua đó nêu ra một số hạn chế
trong các quy định này và kiến nghị bổ sung.
+ Nguyễn Quang Long (2018), “Quy định về án tích trong pháp luật Hình sự
một số nƣớc trên thế giới và việc tiếp nhận vào Việt Nam”, Tạp chí Kiểm sát số 09,
tác giả của bài viết này đã phân tích một số quy định của BLHS một số nƣớc trên
thế giới nhƣ Liên Bang Nga, Đức, Pháp, Hoa Kỳ,…về chế định án tích và sự phù
hợp khi tiếp nhận vào Việt Nam.
3. Mục đích nghiên cứu
Thực hiện khóa luận này tác giả mong muốn sẽ nghiên cứu một cách toàn
diện quy định về xóa án tích đối với ngƣời dƣới 18 tuổi trong BLHS năm 2015,
thông qua việc nghiên cứu các quy định trong văn bản, tài liệu có liên quan để đạt
đƣợc mục đích trên, đồng thời xác định một số bất cập từ thực tiễn áp dụng quy
định này để đƣa ra những kiến nghị nhằm giải quyết những vƣớng mắc, hoàn thiện
quy định này trong tƣơng lai.
4. Phạm vi và đối tƣợng nghiên cứu
4.1. Phạm vi nghiên cứu
Về phạm vi nghiên cứu, khóa luận tập trung nghiên cứu quy định riêng về
xóa án tích đối với ngƣời dƣới 18 tuổi, nhƣng cũng đồng thời đặt trong mối quan hệ
của các quy định xóa án tích chung để làm rõ và đầy đủ vấn đề đang nghiên cứu.
Bên cạnh đó, còn sử dụng các quy phạm trong các văn bản pháp luật khác có liên
quan nhƣ BLTTHS, Luật LLTP để lý giải, làm rõ đối tƣợng đang hƣớng đến. Ngoài
ra còn sử dụng các số liệu thống kê, bản án thực tế để nghiên cứu thực tiễn giải
quyết vấn đề xóa án tích đối với ngƣời dƣới 18 tuổi, từ đó có thể đƣa ra những giải
pháp hồn thiện để khắc phục những khó khăn, vƣớng mắc trong quy định này.


5


4.2. Đối tƣợng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu các quy định của pháp luật về xóa án tích đối với ngƣời
dƣới 18 tuổi theo quy định của luật Hình sự Việt Nam, cụ thể là về: khái niệm xóa
án tích, các trƣờng hợp đƣợc coi là khơng có án tích, đƣơng nhiên đƣợc xóa án tích,
điều kiện xóa án tích, thủ tục xóa án tích, cách tính thời hạn xóa án tích,…đối với
chủ thể là ngƣời dƣới 18 tuổi.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Phƣơng pháp luận dựa trên phƣơng pháp nghiên cứu của chủ nghĩa Mac-lenin về nhà nƣớc và pháp luật, dựa trên nền tảng quan điểm của Đảng và nhà nƣớc
về chính sách hình sự đối với ngƣời dƣới 18 tuổi phạm tội, bị kết án.
Các phƣơng pháp nghiên cứu đƣợc dùng có tính chất điển hình trong lĩnh
vực luật học gồm: phƣơng pháp nghiên cứu lịch sử để tìm hiểu nguồn gốc các quy
định; phƣơng pháp so sánh để làm nổi bật những điểm mới đã đƣợc sửa đổi, bổ
sung; phƣơng pháp chuyên gia để tham khảo quan điểm của các học giả có kinh
nghiệm. Ngồi ra cịn sử dụng các phƣơng pháp khác nhƣ phân tích, tổng hợp,
logic, thống kê,…
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
- Về mặt lý luận: Việc nghiên cứu đề tài sẽ góp phần hồn thiện hơn một số
vấn đề lý luận cơ bản về quy định xóa án tích đối với ngƣời dƣới 18 tuổi, đồng thời
đƣa ra những đề xuất, định hƣớng góp phần hồn thiện các quy định này.
- Về mặt thực tiễn: Nghiên cứu đề tài này có ý nghĩa to lớn đối ngƣời dƣới 18
tuổi bị kết án, cho họ cơ hội tái hịa nhập cộng đồng, góp phần nâng cao hiệu quả
đấu tranh và phòng ngừa tội phạm trong giai đoạn hiện nay. Đây là cơ sở thực tiễn
cho việc nghiên cứu và tìm ra các giải pháp thực tiễn phù hợp với tình hình. Đồng
thời khóa luận cũng là một nguồn tài liệu tham khảo cho việc tìm hiểu, nghiên cứu
các hoạt động thực tiễn về xố án tích đối với ngƣời dƣới 18 tuổi.

6



7. Kết cấu của khóa luận
Ngồi phần Mục lục, Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo,
phần nội dung của khóa luận gồm 3 chƣơng:
Chƣơng I. Một số vấn đề chung về xóa án tích đối với ngƣời dƣới 18 tuổi.
Chƣơng II. Quy định về xóa án tích đối với ngƣời dƣới 18 tuổi trong Luật
Hình sự Việt Nam.
Chƣơng III. Thực tiễn áp dụng các quy định về xóa án tích đối với ngƣời
dƣới 18 tuổi, những vƣớng mắc và một số kiến nghị hoàn thiện.

7


CHƢƠNG I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ XÓA ÁN TÍCH ĐỐI VỚI
NGƢỜI DƢỚI 18 TUỔI
1.1. Khái niệm án tích, xóa án tích.
1.1.1. Án tích và hậu quả pháp lý của việc mang án tích
Tội phạm, hình phạt là những vấn đề quan trọng trong pháp luật Hình sự Việt
Nam. Trên cơ sở hành vi phạm tội sẽ bị Tòa án kết tội và họ phải chấp hành các
biện pháp cƣỡng chế của nhà nƣớc đồng thời sẽ phải mang những dấu vết bất lợi án tích. Vấn đề án tích đã đƣợc đề cập lần đầu tiên trong BLHS năm 1985 và vẫn
tồn tại đến nay. Tuy nhiên vẫn chƣa có một văn bản pháp lý nào định nghĩa về nó.
Do đó khái niệm và nội hàm của nó vẫn chƣa đƣợc hiểu thống nhất.
Theo từ điển Luật học, án tích là “là đặc điểm xấu (hậu quả) về nhân thân
của ngƣời bị kết án và áp dụng hình phạt đƣợc ghi và lƣu lại trong LLTP trong thời
gian luật định” [16-tr.14]. Nghĩa là khi ngƣời phạm tội bị kết án về tội danh nào đó
trong BLHS và bị Tịa án áp dụng hình phạt thì sẽ bị lƣu lại trong LLTP, sau khi
ngƣời đó chấp hành xong hình phạt thì có thể đƣợc xóa án tích nếu đủ các điều kiện
mà BLHS quy định.
Quan điểm của GS.TS. Nguyễn Ngọc Hịa: “Án tích là đặc điểm xấu về nhân

thân của ngƣời đã bị kết án và áp dụng hình phạt, đƣợc ghi và lƣu lại trong LLTP
trong thời gian nhất định, là hậu quả pháp lý bất lợi cho ngƣời có đặc điểm đó. Mặt
khác “án tích đƣợc hiểu một cách bao quát và trƣớc hết ở chỗ chủ thể đã bị kết án
và áp dụng hình phạt về một tội phạm nhất định và chƣa đƣợc xóa án tích” [12tr.10].
Đây là quan điểm chỉ khá rõ bản chất của án tích cũng nhƣ các đặc điểm
pháp lý của án tích. Quan điểm này chú trọng đến vấn đề đặc điểm nhân thân của
ngƣời mang án tích. Trong thực tế, án tích là một đặc điểm xấu về nhân thân của
ngƣời phạm tội, trong đó dấu hiệu “có tiền án” chính là đặc điểm để nhận diện
ngƣời đó có án tích hay khơng. Việc một ngƣời mang án tích có thể sẽ mang lại
nhiều hậu quả pháp lý bất lợi cho ngƣời đó.

8


Theo quan điểm của PGS.TS. Phạm Hồng Hải thì án tích đƣợc hiểu là: “Hậu
quả pháp lý của bản án kết tội mà Tòa án tuyên đối với ngƣời phạm tội, là một tình
tiết có ý nghĩa pháp lý trong việc đánh giá tính chất nguy hiểm của tội phạm và của
ngƣời phạm tội khi tội phạm đƣợc thực hiện trong thời gian ngƣời ấy mang án tích”
[27-tr.14].
Quan điểm này đã chỉ ra đƣợc án tích là hậu quả pháp lý bất lợi chỉ áp dụng
cho ngƣời phạm tội thông qua bản án kết tội của Tòa án. Nhƣng điểm bất lợi thể
hiện ở chỗ nó sẽ đƣợc coi là một điều kiện để đánh giá mức độ về tính chất nguy
hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, đó là tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm, nếu
nhƣ ngƣời đó tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội trong thời gian chƣa đƣợc xóa án
tích.
TS. Nguyễn Tuyết Mai: “Án tích là một trong những hậu quả pháp lý của
việc bị kết án, gắn với ngƣời bị kết án” [10-tr.367]. Quan điểm này có nhiều nét
tƣơng đồng với quan điểm nêu trên, chƣa phản ánh đúng bản chất của án tích. Cần
đƣợc hiểu án tích là hậu quả pháp lý phát sinh đối với ngƣời bị kết án, nhƣng ngƣời
đó phải chịu hình phạt, khi chấp hành xong hình phạt đó và có đủ các điều kiện thì

đƣợc xóa án tích.
Th.S. Nguyễn Cao Cƣờng có quan điểm: “Án tích là sự kiện pháp lý hình sự
phát sinh khi ngƣời phạm tội bị kết án, phải chịu hình phạt theo quyết định của bản
án đã có hiệu lực pháp luật, ngƣời bị kết án đó phải gánh chịu án tích trong khoảng
thời gian nhất định kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật đến khi án tích đó đƣợc
xoá bỏ theo quy định của pháp luật” [18-tr.15].
Nhƣ vậy, ta thấy có rất nhiều các quan điểm khác nhau về khái niệm án tích.
Trên cơ sở nghiên cứu, tiếp thu các quan điểm nêu trên, có thể đƣa ra định nghĩa
khoa học về án tích nhƣ sau: Án tích là hậu quả pháp lý bất lợi của người phạm tội
bị kết án và áp dụng hình phạt theo bản án kết tội có hiệu lực pháp luật của Tịa án,
buộc người bị kết án đó phải gánh chịu án tích trong khoảng thời gian nhất định kể

9


từ khi bản án có hiệu lực pháp luật cho đến khi hậu quả pháp lý đó được xóa bỏ
theo quy định của pháp luật Hình sự.
Tuy các quan điểm về khái niệm án tích của các tác giả là khơng thống nhất,
nhƣng có thể thấy đƣợc một số đặc điểm cơ bản chung về án tích nhƣ sau:
Thứ nhất, án tích là sự kiện pháp lý hình sự phát sinh khi ngƣời phạm tội bị
kết án, phải chịu hình phạt theo quyết định của bản án đã có hiệu lực pháp luật.
Án tích chỉ nên coi là sự kiện pháp lý hình sự, bởi lẽ sự kiện đó có quá trình
phát sinh, hình thành và mất đi. Một ngƣời có hành vi phạm tội và bị kết án bằng
bản án có hiệu lực pháp luật của Tịa án và phải chịu hình phạt thì mới phát sinh án
tích. Cịn những trƣờng hợp ngƣời bị kết án nhƣng thuộc trƣờng hợp khơng có án
tích nhƣ: đƣợc miễn hình phạt, bị áp dụng các biện pháp tƣ pháp tại Điều 96 BLHS
năm 2015,...thì sẽ khơng làm phát sinh sự kiện pháp lý về án tích.
Thứ hai, án tích tồn tại trong một khoảng thời gian nhất định.
Án tích mang lại rất nhiều hậu quả pháp lý bất lợi nên không thể buộc ngƣời
bị kết án phải chịu suốt đời, bằng chính sách nhân đạo của mình pháp luật hình sự

đã quy định, án tích chỉ tồn tại trong một thời gian nhất định và khi đáp ứng đủ điều
kiện luật định sẽ đƣợc xóa bỏ. Nhƣ vậy, án tích chỉ tồn tại từ khi bản án đó có hiệu
lực pháp luật cho đến khi ngƣời phạm tội đƣợc xóa án tích theo quy định của pháp
luật (đƣơng nhiên xố án tích hoặc xóa án tích theo quyết định của Tịa án).
Thứ ba, thời gian mang án tích đó chính là thời gian “thử thách” đối với
ngƣời bị kết án đã chấp hành xong hình phạt.
Việc quy định trong khoảng thời gian nhất định nếu ngƣời bị kết án chấp
hành xong bản án mà khơng phạm tội mới thì sẽ đƣợc xố án tích theo quy định và
ngƣời bị kết án đó đƣợc coi nhƣ chƣa bị kết án. Đó đƣợc xem nhƣ khoảng thời gian
thử thách với ngƣời bị kết án để xem xét ý thức cải tạo của họ, họ đã thật sự hồng
lƣơng hay chƣa, nếu khơng phạm tội mới trong thời gian này thì sẽ đƣợc đƣơng
nhiên xóa án tích, cịn trong trƣờng hợp ngƣợc lại thì họ vẫn phải mang án tích.

10


Thứ tư, ngƣời mang án tích phải gánh chịu những hậu quả pháp lý bất lợi
nhất định.
Đối với chế tài hình sự thì sau khi chấp hành xong hình phạt, trách nhiệm
pháp lý của họ vẫn chƣa chấm dứt, họ vẫn bị coi là có án tích trong một khoảng thời
gian nhất định. Việc đặt ra án tích sẽ gây ra rất nhiều bất lợi cho ngƣời bị kết án. Sự
bất lợi đó đƣợc thể hiện ở các phƣơng diện sau:
Một là, án tích để lại đặc điểm xấu về nhân thân cho ngƣời bị kết án, làm hạn
chế một số quyền cơng dân của họ. Án tích nhƣ một “vết nhơ” trong lý lịch của
ngƣời phạm tội, có thể phải chịu sự kì thị, xa lánh từ xã hội. Bên cạnh đó, pháp luật
cũng đặt ra một số quy định đối với những ngƣời mang án tích, làm hạn chế một số
quyền của họ. Ví dụ: ngƣời chƣa đƣợc xóa án tích về một trong các tội cố ý xâm
phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của ngƣời khác thì sẽ khơng đƣợc
nhận ni con ni (Điều 14 Luật nuôi con nuôi năm 2010), ngƣời chƣa đƣợc xóa
án tích thì khơng đƣợc đăng ký dự tuyển cơng chức (Điểm c khoản 2 Điều 36 Luật

Cán bộ, công chức năm 2008).
Hai là, án tích là cơ sở để xác định tái phạm, tái phạm nguy hiểm (theo Điều
53 BLHS năm 2015), để xác định tình tiết tăng nặng TNHS, định khung hình phạt
hoặc định tội danh trong một số trƣờng hợp.
Ví dụ nhƣ: Dấu hiệu tái phạm nguy hiểm là một trong những dấu hiệu định
khung tăng nặng của Tội cố ý gây thƣơng tích (khoản 2 Điều 134 BLHS năm 2015)
hoặc có thể là cơ sở định tội đối với một số trƣờng hợp phạm tội chƣa đủ yếu tố cấu
thành nhƣng có tình tiết chƣa đƣợc xóa án tích (Điểm b khoản 1 Điều 172, 173,
174,…BLHS năm 2015).
Ba là, án tích cịn làm hạn chế quyền của một số ngƣời liên quan. Ngoài việc
gây ra những hậu quả bất lợi cho chính bản thân ngƣời bị kết án thì trong một số
trƣờng hợp nó cũng làm hạn chế quyền của một số ngƣời liên quan.Ví dụ nhƣ nếu
muốn dự tuyển vào ngành công an nhân dân mà có ngƣời thân (cha, mẹ) đã từng có
tiền án, kể cả trƣờng hợp đã đƣợc xóa án tích thì vẫn không đƣợc xét tuyển, sơ

11


tuyển vào lực lƣợng Công an nhân dân1. Cụ thể, nhƣ trƣờng hợp của em Trƣơng
Hƣơng L (Nghệ An) trong kỳ thi tuyển sinh cao đẳng, đại học năm 2017 em đạt số
điểm là 26.5, số điểm cao nhất của khối D nhƣng vì lý do mẹ của em đã từng phạm
tội và bị kết án nên em không đƣợc xét tuyển vào trƣờng Công an nhân dân, mặc dù
mẹ em đã đƣợc xóa án tích trƣớc đó.2
1.1.2. Xóa án tích và ý nghĩa của xóa án tích
Nếu nhƣ án tích đã để lại cho ngƣời bị kết án rất nhiều hậu quả pháp lý bất
lợi thì quy định xóa án tích lại thể hiện đều ngƣợc lại, nó nhằm tạo điều kiện cho
những ngƣời thành tâm hối cãi, muốn trở thành con ngƣời lƣơng thiện cơ hội xóa bỏ
đi những “dấu vết” bất lợi đó. Xóa án tích là một quy định quan trọng, thể hiện
chính sách nhân đạo của Nhà nƣớc đối với sự nỗ lực cải tạo của ngƣời bị kết án,
nhằm xóa bỏ đi quá khứ đã từng phạm tội, xóa bỏ những định kiến của xã hội, giúp

họ tái hòa nhập cộng đồng, trở thành ngƣời có ích. Với những ý nghĩa quan trọng
nhƣ vậy thì việc nghiên cứu cụ thể, có hệ thống về xóa án tích là cần thiết, có ý
nghĩa khơng chỉ mang tính lý luận mà cịn mang tính thực tiễn sâu sắc.
Cũng giống nhƣ vấn đề án tích, mặc dù đƣợc hình thành từ khi ban hành
BLHS đầu tiên, tuy nhiên đến nay khái niệm này vẫn chƣa đƣợc định nghĩa trong
một văn bản pháp lý nào mà nó tồn tại rất nhiều quan điểm khác nhau.
Th.S Đinh Văn Quế: “Xóa án tích là xóa bỏ bản án hình sự đối với một
ngƣời đã bị tòa kết án. Chế định xóa án tích thể hiện ngun tắc “ngƣời đã chấp
hành xong hình phạt, khi có đủ các điều kiện thì đƣợc xóa án tích”, ngƣời đƣợc xóa
án tích coi nhƣ chƣa bị kết án và đƣợc cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu LLTP cấp giấy
chứng nhận, nếu họ phạm tội mới thì khơng bị tính là tái phạm, tái phạm nguy
hiểm” [15-tr.361].

Điểm a khoản 1 Mục II của Thông tƣ số 53/2012/TT-BCA ngày 15/8/2012 của Bộ Công an quy
định tiêu chuẩn chính trị của cán bộ, chiến sĩ Công an nhân dân.
2
Giang Ngân, “Thêm trường hợp không được xét tuyển vào cơng an vì lý lịch”, Đăng trên báo
VietNamNet ngày 19/8/2016.
1

12


Quan điểm này thể hiện đƣợc tính nhân đạo của nhà nƣớc, ngƣời đƣợc xóa
án tích sẽ trở thành nhƣ ngƣời chƣa bị kết án. Tuy nhiên quan điểm này lại có điểm
chƣa hợp lý, vì xét về mặt bản chất án tích khơng phải là bản án hình sự nên xóa án
tích khơng thể là xóa bỏ bản án hình sự.
TS. ng Chu Lƣu: “Xóa án tích là sự thừa nhận về mặt pháp lý ngƣời bị kết
án không cịn mang án tích và vì vậy, khơng cịn chịu hậu quả bất lợi nào do việc
kết án mang lại”. [14-tr.222]. Quan điểm này đã chỉ ra đƣợc bản chất quan trọng

của xóa án tích, đó là sự “thừa nhận về mặt pháp lý” khơng cịn án tích, sẽ đƣợc coi
nhƣ chƣa từng phạm tội, không bị xem là một tình tiết để đánh giá tái phạm hay tái
phạm nguy hiểm.
TS. Nguyễn Tuyết Mai: “Xóa án tích là xóa bỏ việc mang án tích, là sự cơng
nhận coi nhƣ chƣa bị kết án đối với ngƣời trƣớc đó đã bị Tòa án xét xử, kết tội” [10tr.367].TS. Nguyễn Tuyết Mai đã đƣa ra định nghĩa xóa án tích xuất phát từ khái
niệm án tích, quan điểm này phần nào phản ánh đúng bản chất của xóa án tích.
ThS. Mai Khắc Phúc: “Xóa án tích có nghĩa là xóa đi hậu quả sau cùng của
việc phạm tội, ngƣời đƣợc xóa án tích coi nhƣ chƣa bị kết án và đƣợc cấp giấy
chứng nhận” [11-tr.410].
Tuy trong hệ thống pháp luật Hình sự Việt Nam chƣa có một điều luật nào
định nghĩa cụ thể về xóa án tích nhƣng bản chất pháp lý của nó đã đƣợc thể hiện tại
Điều 69 BLHS năm 2015: “người được xóa án tích coi như chưa bị kết án”.
Do đó, từ các quan điểm trên ta có thể rút ra khái niệm xóa án tích nhƣ sau:
“Xóa án tích là xóa bỏ hậu quả pháp lý bất lợi của việc mang án tích khi có đủ các
điều kiện theo quy định của pháp luật hình sự và khi đó họ được xem như người
chưa từng bị kết án”.
Từ định nghĩa trên ta rút ra một số đặc điểm về xóa án tích nhƣ sau:
Một là, xóa án tích chính là xóa bỏ hậu quả pháp lý bất lợi của việc mang án
tích khi có đủ điều kiện luật định. Án tích sẽ gây rất nhiều khó khăn đối với ngƣời

13


mang nó, là một “dấu vết” trên đặc điểm nhân thân, gây ra nhiều bất lợi khi tham
gia các quan hệ pháp luật, xã hội-mặt cảm, tự ti, bị xã hội xa lánh. Ngƣời phạm tội
phải gánh chịu án tích này kể từ khi bản án kết tội có hiệu lực pháp luật cho đến khi
đủ điều kiện để đƣợc xóa bỏ theo quy định của pháp luật.
Hai là, ngƣời bị kết án đƣợc xem nhƣ ngƣời chƣa từng bị kết án sau khi án
tích đƣợc xóa bỏ. Tức họ trở thành một ngƣời bình thƣờng nhƣ những ngƣời khác,
khơng cịn phải gánh chịu bất kì sự bất lợi gì từ việc đã mang án tích trƣớc đây.

Nhƣ vậy, việc một ngƣời bị kết án đƣợc xóa án tích có ý nghĩa rất quan trọng
cả về mặt pháp lý và xã hội:
- Xố án tích thể hiện sự cơng nhận của Nhà nƣớc, ngƣời bị kết án trở thành
ngƣời bình thƣờng về mặt tƣ pháp và họ không bị hạn chế về quyền lợi do đã từng
bị kết án, khôi phục một số quyền cơng dân vốn có của mình.
- Sau khi đã đƣợc xóa án tích, khơng bị coi là căn cứ để xác định là tái phạm
hay tái phạm nguy hiểm, họ trở thành ngƣời có LLTP sạch và nếu có phạm tội mới
thì cũng coi nhƣ phạm tội lần đầu.
- Xóa án tích là một chế định nhân đạo của luật hình sự, giúp ngƣời bị kết án
xóa bỏ mặc cảm tội lỗi, tránh đƣợc sự kì thị, tái hịa nhập cộng đồng .
- Xóa án tích nhằm khuyến khích, động viên ngƣời đã bị kết án tn thủ pháp
luật, sớm trở thành ngƣời tốt có ích cho xã hội, xóa bỏ đi “vết nhơ” trong LLTP của
mình.
- Mặc khác, xóa án tích cịn có ý nghĩa quan trọng trong cơng tác phịng ngừa
tội phạm.
1.2. Khái niệm ngƣời dƣới 18 tuổi bị kết án và chính sách pháp luật hình
sự của nhà nƣớc đối với ngƣời dƣới 18 tuổi bị kết án
1.2.1. Khái niệm về ngƣời dƣới 18 tuổi bị kết án
Trẻ em là đối tƣợng cần đƣợc sự quan tâm đặc biệt của Nhà nƣớc, ở nƣớc ta
trƣớc đây và hiện nay luôn coi trọng công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục NCTN

14


là sự nghiệp lớn của dân tộc, đƣợc đúc kết bởi tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về giáo dục:
“Vì lợi ích mƣời năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng ngƣời”. Tiếp thu tƣ tƣởng
trên của Ngƣời, Đảng và Nhà nƣớc ta khẳng định: “Chính sách chăm sóc, bảo vệ trẻ
em tập trung vào thực hiện quyền trẻ em, tạo điều kiện cho trẻ em đƣợc sống trong
môi trƣờng an tồn, lành mạnh, phát triển hài hịa về thể chất, trí tuệ, tinh thần, đạo
đức”.

Theo quy tắc tối thiểu phổ biến về bảo vệ NCTN bị tƣớc quyền tự do của
Liên Hợp Quốc thông qua ngày 14/12/1990 nêu rõ: “Người chưa thành niên là
người dưới 18 tuổi. Giới hạn tuổi dưới mức này cần phải được pháp luật xác định
và không được tước quyền tự do của người chưa thành niên”. Với quy định này thì
ngƣời dƣới 18 tuổi đƣợc gọi là NCTN.
Tại Điều 1 công ƣớc Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em năm 1989 (UNCRC)
lại xác định: “Trẻ em có nghĩa là người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp pháp luật áp
dụng với trẻ em đó quy định tuổi thành niên sớm hơn”. Quy định này giúp ta nhận
thấy, UNCRC xác định trẻ em là ngƣời dƣới 18 tuổi và cũng nhƣ pháp luật quốc tế,
UNCRC cho phép các quốc gia tùy vào chính sách pháp luật của mình mà quy định
mức tuổi cụ thể trong luật.
Thơng qua đó ta có thể nhận thấy trong các văn bản pháp lý, các tài liệu của
các tổ chức quốc tế về vấn đề trẻ em, khái niệm “NCTN” và “trẻ em” là đồng nhất,
đƣợc sử dụng để thay thế cho nhau và đều dùng để chỉ ngƣời dƣới 18 tuổi.
Trong hệ thống pháp luật Việt Nam cũng tồn tại song song hai khái niệm
“NCTN” và “trẻ em” ở các văn bản khác nhau. Tuy nhiên khác với pháp luật quốc
tế, hai khái niệm này không đồng nhất, cụ thể:
Điều 1 Luật trẻ em năm 2016 quy định : “Trẻ em quy định trong Luật này là
công dân Việt Nam dưới mười sáu tuổi”.
Bộ luật dân sự năm 2015 có hiệu lực vào ngày 1/1/2017 tại Điều 21: “Người
chưa thành niên là người chưa đủ mười tám tuổi”. Nhƣ vậy, trong Bộ luật dân sự
khái niệm NCTN đƣợc dùng để chỉ những đối tƣợng là ngƣời chƣa đủ 18 tuổi.

15


Bộ luật lao động năm 2019 có hiệu lực ngày 01/01/2021 quy định tại khoản 1
Điều 143: “Lao động chưa thành niên là người lao động chưa đủ 18 tuổi”.
Nhận thấy khái niệm “NCTN” theo pháp luật Việt Nam có sự đồng nhất với
khái niệm NCTN trong công ƣớc của Liên Hợp Quốc. Nhƣng khái niệm “trẻ em”

theo pháp luật Việt Nam lại không đồng nhất với khái niệm của Liên Hợp Quốc.
Theo đó, trong phạm vi quốc gia, nếu theo Luật trẻ em thì ngƣời dƣới 16 tuổi (trong
đó bao gồm nhóm từ đủ 14 đến dƣới 16 tuổi) đƣợc coi là trẻ em nhƣng theo pháp
luật hình sự, nhóm ngƣời phạm tội từ đủ 14 tuổi đến duới 16 tuổi lại đƣợc coi là
NCTN. Nhƣ vậy, cùng một độ tuổi nhƣng tên gọi lại khác nhau, đều này dẫn đến
những khó khăn vƣớng mắc trong nhận thức và áp dụng pháp luật, ảnh hƣởng đến
quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể này.
Do đó, BLHS năm 2015 và BLTTHS năm 2015 sử dụng thuật ngữ “ngƣời
dƣới 18 tuổi” thay cho thuật ngữ “NCTN”. Sự thay đổi nhƣ vậy trong pháp luật
hình sự là phù hợp, khơng chỉ thống nhất với các văn bản chuyên ngành mà còn hài
hòa với chuẩn mực quốc tế mà trƣớc hết là cơng ƣớc về quyền trẻ em, vì về bản
chất, ngƣời dƣới 18 tuổi và NCTN không khác nhau về trách nhiệm pháp lý, quyền
và nghĩa vụ, mà chỉ khác nhau ở thuật ngữ.
Kết án là việc Tòa án ra bản án tuyên bố một ngƣời phạm tội do hành vi của
mình gây ra theo quy định của BLHS. Do đó, một ngƣời coi là bị kết án khi ngƣời
đó bị Tịa án kết tội bằng bản án đã có hiệu lực pháp luật. Một trong các yếu tố cấu
thành của tội phạm là chủ thể thực hiện tội phạm, chủ thể của tội phạm là ngƣời có
năng lực TNHS và đạt một độ tuổi nhất định. Pháp luật Hình sự Việt Nam quy định
cụ thể về độ tuổi phải chịu TNHS tại Điều 12 BLHS năm 2015. Theo đó, một ngƣời
phạm tội bị Tịa án tun bố là có tội thì ít nhất phải đủ 14 tuổi, đây là độ tuổi tối
thiểu mà luật quy định để một ngƣời có thể bị xem là ngƣời phạm tội và họ chỉ phải
chịu TNHS với một số tội nhất định quy định tại khoản 2 Điều này, còn với ngƣời
dƣới 18 tuổi nhƣng rơi vào nhóm tuổi từ đủ 16 tuổi trở lên đƣơng nhiên phải chịu

16


TNHS với mọi tội phạm mà mình gây ra, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy
định khác.
Từ những phân tích trên, có thể hiểu: Người dưới 18 tuổi bị kết án là người

từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi bị Tòa án kết tội bằng bản án có hiệu lực pháp luật.
Định nghĩa trên chứa đựng các cụm từ nhƣ: "Ngƣời dƣới 18 tuổi bị kết án",
"Ngƣời từ đủ 14 tuổi đến dƣới 18 tuổi’. Tuy nhiên vấn đề đặt ra là cần xác định tuổi
(dƣới 18 tuổi, đủ 14 tuổi đến dƣới 16 tuổi, đủ 16 tuổi đến dƣới 18 tuổi) là vào thời
điểm nào? Khi họ bị đƣa ra xét xử, bị kết án hay thời điểm khi ngƣời đó phạm tội.
Trong thực tế, có một số vụ án có khi ngƣời phạm tội thực hiện hành vi khi nằm
trong độ tuổi từ đủ 14 tuổi đến dƣới 18 tuổi nhƣng đến giai đoạn xét xử đã đủ 18
tuổi trở lên. Nhƣ vậy, trƣờng hợp này có đƣợc áp dụng quy định tại Điều 107 BLHS
năm 2015 về xóa án tích đối với ngƣời dƣới 18 tuổi không hay phải áp dụng Điều
luật về xóa án tích chung đƣợc quy định tại Chƣơng X của BLHS năm 2015. Hiện
nay, có nhiều cách hiểu khác nhau về vấn đề này, cụ thể:
Cách hiểu thứ nhất: Thời điểm xác định độ tuổi dƣới 18 tuổi theo Điều 107
BLHS năm 2015 là vào thời điểm ngƣời đó bị kết án, tức vào thời điểm bị xét xử.
Theo quan điểm này: cấu trúc từ ngữ trong câu tại Điều 107 BLHS năm 2015 quy
định rõ: “ngƣời dƣới 18 tuổi bị kết án” ở đây quy định là kết án chứ không phải là
phạm tội. Nhƣ vậy, chỉ khi bị kết án mà ngƣời đó dƣới 18 tuổi mới đƣợc hƣởng các
quy định tại Điều 107 BLHS năm 2015; còn khi ngƣời khi phạm tội dƣới 18 tuổi
nhƣng khi bị kết án đã trên 18 tuổi thì khơng áp dụng quy định này.
Ví dụ: Nguyễn Văn A sinh ngày 10/11/2001, ngày 12/05/2019 (khi chƣa đủ
18 tuổi) trộm cắp tài sản trị giá 30.000.000 đồng. Ngày 12/9/2019, A bị xét xử về
tội trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 173 BLHS năm 2015, vào thời điểm xét xử
A dƣới 18 tuổi, phạm tội ít nghiêm trọng nên A coi nhƣ khơng có án tích. Tuy
nhiên, trong trƣờng hợp này nếu xét xử vào sau ngày 10/11/2019 tức khi kết án A
trên 18 tuổi thì A bị coi là có án tích và áp dụng các quy định về xóa án tích quy

17


×