Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

Một số biện pháp giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ 3 4 tuổi trong trường mầm non

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (225.84 KB, 24 trang )

THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN
1. Tên sáng kiến
“Một số biện pháp giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ 3 - 4 tuổi trong trường
mầm non ".
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Phát triển tình cảm - kỹ năng xã hội
3. Tác giả
- Họ tên: ( Nữ )
- Ngày/tháng/ năm sinh: 18/08/1985
- Trình độ chun mơn: Đại học sư phạm Mầm non
- Chức vụ: Giáo viên lớp 3TC
- Đơn vị công tác: Trường Mầm non Thanh An
- Điện thoại: 0376390759
4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Trường Mầm non Thanh An
5. Đơn vị áp dụng sáng kiên lần đầu: Lớp 3TC - Trường mầm non Thanh An
6. Các điều kiện áp dụng sáng kiến:
- Về phía giáo viên: Có trình độ chuẩn trở lên, có năng lực, trình độ chun mơn
nghiệp vụ.
- Cơ sở vật chất: Trang thiết bị dạy học đầy đủ tại phịng nhóm như ti vi, máy
tính cho trẻ mầm non, đồ dùng, đồ chơi, phương tiện học liệu.
7. Thời gian áp dụng sáng kiến lần đầu
- Tại lớp tuổi 3TC từ tháng 9 năm 2021 đến tháng 2 năm 2022
TÁC GIẢ

ĐƠN VỊ ÁP DỤNG SÁNG KIẾN

(Ký, ghi rõ họ tên)

XÁC NHẬN CỦA CƠ QUAN

XÁC NHẬN CỦA PHÒNG GD&ĐT


1


THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN
1. Tên sáng kiến
“Một số biện pháp giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ 3 - 4 tuổi trong trường
mầm non ".
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Phát triển tình cảm - kỹ năng xã hội
3. Tác giả
- Họ tên:

( Nữ )

- Ngày/tháng/ năm sinh:
- Trình độ chun mơn:
- Chức vụ:
- Đơn vị công tác:
- Điện thoại:
4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến:
5. Đơn vị áp dụng sáng kiên lần đầu:
6. Các điều kiện áp dụng sáng kiến:
7. Thời gian áp dụng sáng kiến lần đầu
TÁC GIẢ

ĐƠN VỊ ÁP DỤNG SÁNG KIẾN

(Ký, ghi rõ họ tên)

XÁC NHẬN CỦA CƠ QUAN


XÁC NHẬN CỦA PHÒNG GD&ĐT

2


TĨM TẮT SÁNG KIẾN
1. Hồn cảnh nảy sinh sáng kiến:
Như chúng ta đã biết trẻ em là niềm tự hào lớn của mỗi gia đình, là chủ nhân
tương lai của đất nước, là nền tảng vững chắc cho xã hội “Trẻ em hôm nay, thế
giới ngày mai”. Để đạt được điều đó thì việc chăm sóc giáo dục trẻ phải có sự
chung tay góp sức của nhà trường, gia đình và xã hội. Việc giáo dục kỹ năng sống
cho trẻ là điều rất cần thiết để giúp trẻ khám phá thế giới tâm hồn mình một cách
có định hướng, khiến trẻ biết quý trọng bản thân, hình thành những kỹ năng sống
tích cực trong trẻ, giúp trẻ cân bằng cuộc sống từ đó xây dựng cho trẻ những kỹ
năng sống hịa nhập với thế giới xung quanh. Chăm sóc và giáo dục trẻ từ lứa tuổi
mầm non chính là cơ sở giúp trẻ phát triển toàn diện về nhân cách cho trẻ, là nền
tảng giúp cho quá trình học tập lâu dài của trẻ sau này.
Là giáo viên trực tiếp đứng lớp 3 – 4 tuổi tôi nhận thức đặc biệt rằng việc giáo
dục kỹ năng sống và đặc biệt là rèn cho trẻ kỹ năng tự phục vụ là giúp trẻ nâng
cao năng lực, tích cực, chủ động, sáng tạo tự tin trong cuộc sống . Đó chính là
tiền đề gieo mầm hạt giống nhằm hình thành kỹ năng sống cho trẻ.
Qua một thời gian tìm tịi nghiên cứu, nhận thức được sâu sắc, ý nghĩa vai trò
quan trọng của các kỹ năng sống đối với sự phát triển của trẻ. Vì vậy tơi lựa
chọn thực hiện đề tài “Một số biện pháp giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ 3 4 tuổi trong trường mầm non”.
2. Điều kiện, thời gian, đối tượng áp dụng sáng kiến.
2.1. Điều kiện
- Nhà trường đầu tư đầy đủ trang thiết bị cơ sở vật chất cho việc giảng dạy.
- Tổ chuyên môn đưa ra các biện pháp phù hợp, đạt hiệu quả.
- Giáo viên nhiệt tình, ham học hỏi, tích cực trau dồi chuyên môn.
- Phụ huynh luôn phối hợp với giáo viên trong cơng tác chăm sóc giáo dục trẻ.

2.2. Thời gian: Từ tháng 09 năm 2021 đến tháng 02 năm 2022
2.3. Đối tượng áp dụng sáng kiến: Trẻ 3 – 4 tuổi
3. Nội dung của sáng kiến.
3


Chủ yếu xoay quanh việc tìm ra các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo
dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ 3 - 4 tuổi trong trường mầm non nhằm phát huy
nâng cao tính tích cực, năng động, sáng tạo, mạnh dạn, tự tin trong mọi hoạt
động và mọi hồn cảnh của trẻ.
+ Tính mới, tính sáng tạo của sáng kiến: Đó là cung cấp một ngân hàng bài tập
là tài liệu tham khảo, phù hợp với từng chủ đề mà trẻ được chơi cũng như được
học. Bên cạnh đó tơi cịn sưu tầm thêm trên báo, mạng, tranh truyện để hình
thành ý thức tự lập cho trẻ. Qua đó kính thích trẻ hứng thú tích cực tham gia các
hoạt động.
+ Khả năng áp dụng sáng kiến: Những biện pháp trình bày trong sáng kiến rất dễ
áp dụng có thể áp dụng trong các loại tiết, trong bất kỳ hoàn cảnh nào.
+ Đề tài thực hiện với những phương pháp đơn giản, dễ áp dụng. Nó giúp cho
trẻ phát triển tính tự lập, mạnh dạn tự tin.
4. Khẳng định giá trị, kết quả đạt được của sáng kiến.
Đề tài: “Một số biện pháp giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ 3 – 4 tuổi trong
trường mầm non” được thực hiện trực tiếp tại lớp tôi tuy chỉ dạy trẻ những hành
động tự lập tuy là rất nhỏ song hiệu quả mang lại vô cùng to lớn và giá trị, vì khi
trẻ có ý thức tự lập được sẽ giúp trẻ phát triển hơn cả về thể chất lẫn tinh thần.
5. Đề xuất kiến nghị để thực hiện áp dụng hoặc mở rộng sáng kiến.
Các cấp tạo điều kiện đầu tư cơ sở vật chất để giáo viên thực hiện tốt cho việc
giảng dạy.
Ban giám hiệu thường xuyên tổ chức chuyên đề cho giáo viên tham dự.
Tổ chức cho giáo viên tham quan những đơn vị xuất sắc khác để học hỏi.


4


MƠ TẢ SÁNG KIẾN
1. Hồn cảnh nảy sinh sáng kiến:
Bác Hồ kính yêu của chúng ta cho rằng: Đứa trẻ hiền lành hay độc ác không
phải do bản chất vốn có của trẻ mà chính là do sự giáo dục của người lớn.“Hiền
dữ đâu phải là tính sẵn. Phần nhiều do giáo dục mà nên”. Thấm nhuần lời dạy
của Bác, công tác giáo dục đào tạo thế hệ măng non – những người chủ tương
lai của đất nước đã, đang và sẽ là chủ trương lớn của toàn Đảng, toàn dân. Để
thực hiện tốt mục đích giáo dục này, cấp học mầm non đã có những bước
chuyển lớn nhằm góp phần đặt nền móng đào tạo con người phát triển tồn diện
– có đủ sức khoẻ, đủ trí tuệ, tài năng là những chủ nhân tương lai của đất nước,
lái con tàu Việt Nam ra đại dương sánh vai các cường quốc năm châu thoả lòng
Bác hằng mong ước. Hơn thế nữa đứng trước thềm hội nhập Quốc tế, bên cạnh
những kiến thức được lĩnh hội trên ghế nhà trường, cộng với sức khỏe, đòi hỏi
thế hệ trẻ phải biết sống tự tin, sống tự lập có như vậy, thế hệ trẻ sau này trưởng
thành mới lắm bắt kịp thời các cơ hội phát triển một cách nhanh nhạy. Làm sao
để sau này các thế hệ học trị có đủ sức, đủ tài, đủ bản lĩnh để vươn ra thềm hội
nhập Quốc tế ? Câu trả lời là: Chúng ta “Những người đang trực tiếp uốn nắn,
hướng dẫn giáo dục trẻ” phải tạo cho trẻ một nền móng vững chắc ngay từ nhỏ,
trong đó việc giáo dục trẻ các kỹ năng sống, kỹ năng tự phục vụ là điều thiết
yếu, đó là tiền đề của nhân cách sống tự tin, sống tự lập.
Nhận thức được điều này, là một giáo viên mầm non tơi ln tìm hiểu các
phương pháp, hình thức hướng dẫn trẻ thực hiện một số kỹ tự phục vụ phù hợp,
dễ hiểu để giúp trẻ lĩnh hội và thực hiện một cách tốt nhất.
Hơn nữa, trẻ ở lứa tuổi mầm non rất thích tự làm những cơng việc vừa sức của
mình để phục vụ cho bản thân. Hiểu được điều này, các cơ ln khuyến khích trẻ
rèn luyện tính tự lập ngay từ khi cịn nhỏ. Các con rất hào hứng khi được giúp cô
giáo những việc đơn giản như: chuẩn bị bàn, ghế cho giờ học, giờ ăn hay tự

mình sắp xếp đồ dùng ngay ngắn để vào các góc chơi. Trong giờ ăn, các bé được
tập cách bê bát cơm một cách cẩn thận về chỗ ngồi của mình và sau khi ăn xong
các bé biết tự mang bát đến khu vực quy định…
5


Với những lý do trên, tôi mạnh dạn lựa chọn sáng kiến kinh nghiệm: “Phương
pháp rèn một số kỹ năng tự phục vụ cho trẻ 3 – 4 tuổi trong trường mầm non”.
2. Cơ sở lý luận của vấn đề:
2.1. Cơ sở lý luận
Theo tôi, khả năng tự phục vụ bản thân là một trong những hành vi văn
minh lịch sự, là nền tảng đạo đức của mỗi con người. Vì vậy, ngay từ nhỏ trẻ cần
được uốn nắn, giáo dục từ cử chỉ, lời nói, hành động văn minh, lịch sự, khi lớn
lên trẻ mới trở thành người có ích cho bản thân, gia đình và xã hội, trẻ cần được
rèn luyện tu dưỡng, từng ngày, từng giờ theo hướng tốt. Thực tế hiện nay cho
thấy, đại đa số các gia đình chỉ có từ 1 – 2 con, ơng bà ít cháu, bố mẹ ít con, bên
cạnh đó điều kiện về kinh tế lại đầy đủ hơn ngày xưa, nên rất nhiều gia đình
nng chiều con q mức. Trẻ xuất hiện tình trạng dựa dẫm, ỷ lại, dẫn đến
không biết làm một số việc đơn giản như không biết mặc quần áo, không biết tự
đi giày, dép, không thích tự đi mà thích được người lớn bế ẵm…. Có gia đình
cũng muốn cho trẻ tự làm những lại không tin vào khả năng của trẻ, trẻ muốn
làm nhưng thấy trẻ làm lóng ngóng, chậm chạp thì tỏ ra khó chịu, nên người lớn
thường “sốt ruột” và làm thay trẻ, dẫn đến trẻ có thái độ bướng bỉnh dần dần tạo
ra sự ỉ lại, lười biếng mất tự tin ở trẻ.
Như chúng ta đã biết, trẻ em là một đối tượng khá nhạy cảm, nếu trẻ em được
tiếp xúc với nền giáo dục tốt thì trẻ phát triển theo chiều hướng tốt. Ngược lại
nếu trẻ em tiếp xúc với nền giáo dục không đúng đắn sẽ dẫn đến các hậu quả
tiêu cực. Do đó việc giáo dục cho trẻ khả năng tự phục vụ cần được áp dụng
càng sớm càng tốt, và là việc làm rất quan trọng và cần thiết. Trang bị cho trẻ
một số kỹ năng tự phục vụ ngay từ nhỏ không chỉ giúp cho trẻ tự lo cho bản thân

mà còn giúp trẻ tự quyết định các vấn đề của mình, đó cũng là cách giúp cho xã
hội loài người chúng ta ngày càng văn minh, lịch sự hơn.
2. Cơ sở thực tiễn
Đảng và nhà nước ta luôn quan tâm đến sự nghiệp giáo dục tại Nghị quyết hội
nghị lần thứ 2 Ban chấp hành TW Đảng khóa VIII đã nêu:
6


“ Giáo viên là nhân tố quyết định chất lượng giáo dục và được xã hội tôn vinh,
giáo viên phải có đủ đức tài”. Xuất phát từ xu thế phát triển của thế giới hiện
nay từ những yêu cầu của đất nước ta là phải trở thành một nước “ Cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước” nhằm nâng cao dân trí và đào tạo nhân tài. Nhiệm
vụ của giáo dục là phải phát triển tồn diện cho trẻ, chính vì vậy giáo viên phải
là một tấm gương sáng về mọi mặt cho trẻ noi theo.
Thời gian qua, dư luận phản ánh khá nhiều về thực trạng trẻ thiếu kiến thức
về Kỹ năng sống mà trong đó cơ bản nhất là kỹ năng tự phục vụ các con cũng
khơng có. Ở trường cũng như ở nhà, các con hầu như hồn thiếu sự sáng tạo,
ln ỷ lại phụ thuộc vào người lớn; mỗi khi gặp tình huống trong thực tế thì lúng
túng khơng biết xử lý như thế nào. Chính vì vậy mà tơi đã chọn đề tài này để
nghiên cứu.
3. Thực trạng của vấn đề
3.1. Thuận lợi:
- Ban giám hiệu nhiệt tình, năng động, vững vàng về chun mơn, năng lực
quản lý tốt.
- Lớp học thoáng mát, đủ diện tích cho trẻ hoạt động và trang thiết bị, đồ dùng
dạy học cho trẻ 3 - 4 tuổi đầy đủ.
- Giáo viên tâm huyết với nghề, yêu nghề, mến trẻ, có tinh thần trách nhiệm cao
và ln hồn thành tốt công việc được giao.
- Được sự quan tâm của BGH đã tạo điều kiện về mọi mặt để cán bộ giáo viên,
nhân viên trong nhà trường hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của ngành.

- Các bậc phụ huynh có sự phối hợp chặt chẽ với nhà trường trong việc thống
nhất chăm sóc giáo dục trẻ, tích cực ủng hộ nhà trường về tinh thần và cơ sở vật
chất.
3.2 Khó khăn:
Một số trẻ chưa qua lớp nhà trẻ nên đầu năm học tơi gặp rất nhiều khó khăn
trong việc chăm sóc và giáo dục.

7


Trình độ nhận thức của các con khơng đồng đều, nên phần nào ảnh hưởng tới
việc chăm sóc và giáo dục trẻ. Bên cạnh đó, số trẻ có khả năng tự phục vụ bản
thân quá ít.
Trẻ bị ảnh hưởng cuộc sống hiện đại internet, tivi, trò chơi điện tử nên trẻ khơng
có hứng thú với kỹ năng tự phục vụ.
Nhiều phụ huynh cũng bận cơng việc, ít quan tâm, chăm lo hướng dẫn các con
tự làm một số kỹ năng tự phục vụ. Hơn thế nữa, với tâm lý của phụ huynh “Đợi
chúng nó làm thì mình làm cho xong”, “Chúng nó thì làm được gì”, “cháu vẫn
cịn bé”,… vậy là cha mẹ, ông bà làm hết mọi việc cho trẻ dù là việc nhỏ nhất.
3.3. Khảo sát thực trạng
Qua điều tra thực tế về vốn kỹ năng sống tự lập của trẻ trong lớp tôi, tôi nhận
thấy kết quả khảo sát trước khi thực hiện đề tài như sau:
Báng khảo sát trẻ đầu năm (tháng 10/2021)
Nội dung khảo sát

Số trẻ Số trẻ Tỷ lệ
khảo
đạt
(%)
sát


Trẻ tự đi và cất dép, cất ba lô
lên giá, tủ
Trẻ tự cởi và mặc quần áo
Trẻ biết gấp và cất quần áo
gọn gàng
Trẻ biết tự rửa tay, lau mặt
Trẻ biết cách sử dụng thìa, bát
Trẻ biết cách rót nước uống

18

khi cần
Trẻ biết tự đi lên xuống bậc

Trẻ tự đi lấy và cất đồ dùng

Số trẻ
Tỷ lệ
chưa
(%)
đạt

5

28 %

13

72 %


4

22%

14

78%

2

11%

16

89%

3
5

17%
28%

15
13

83%
72%

6


33%

12

63%

6

33%

12

63%

5
28%
13
72%
cá nhân (ghế, gối)
Qua phần khảo sát trên, tơi nhận thấy số trẻ có kỹ năng thực hiện các kỹ năng tự
phục vụ cịn rất thấp. Từ đó tơi tìm hiểu ngun nhân và tìm cách khắc phục
nhằm phấn đấu đạt chỉ tiêu chất lượng giáo dục cuối năm học là 100%.
4. Một số biện pháp thực hiện.
8


4.1. Biện pháp 1: Tìm hiểu về cách thức, phương pháp và lập kế hoạch rèn kỹ
năng tự phục vụ lồng ghép vào từng tháng, phù hợp với từng chủ đề.
Với những trẻ đã đến lớp thì cơ giáo mầm non là người có nhiều thời gian gần

gũi, tiếp xúc uốn nắn trẻ nhiều hơn cả. Chính vì thế, người giáo viên cần nắm
thật chuẩn những kiến thức mà mình muốn truyền đạt cho trẻ. Với việc rèn,
trang bị cho trẻ các kỹ năng tự phục vụ cũng vậy. Bản thân tơi ln xác định
muốn rèn luyện cho trẻ có thói quen trong việc tự phục vụ bản thân, thì việc làm
đầu tiên là cơ giáo phải có kiến thức chuẩn xác về kỹ năng thực hành. Do đó, tơi
đã lên mạng Internet và nghiên cứu sách báo để nắm được các bước hướng dẫn
trẻ thực hiện.
Tơi cịn lên mạng coppy những đoạn video hướng dẫn về để lưu lại, về nhà mở
xem để củng cố lại kiến thức và làm theo đến khi thành thạo. Nếu có vấn đề
khúc mắc, tôi mạnh dạn trao đổi với Ban giám hiệu và đồng nghiệp để cùng
nhau giải quyết. Với cách này, tôi đã đủ tự tin để hướng dẫn trẻ từng bước thực
hiện các kỹ năng tự phục vụ.
KỸ NĂNG PHỤC VỤ LỨA TUỔI 3 – 4 TUỔI
STT

Tên kỹ năng
Cách thực hiện
Cách bước xuống - Bước lần lượt từng chân từng bậc một, chân nọ

1

bậc hè

2

Cách cất ba lô

chân kia. Khi đi không xô đẩy nhau
- Trẻ cất ba lô bằng hai tay hướng mặt ba lơ lên phía
ngồi

- Biết cất ba lơ vào đúng ngăn của mình.
- Trẻ làm ướt tay, xoa xà phòng lên bàn tay, rửa sạch

3

Cách rửa tay

tay trong nước theo đúng qui trình 6 bước.
- Lau khô tay bằng một chiếc khăn.
- Trẻ biết bê ghế bằng hai tay.
- Biết xoay ngang ghế, một tay nắm trên thành của

4

Cách bê ghế

ghế, một tay nắm thành dưới của ghế bê ngang sát
người.
- Khi đặt ghế, đặt hai chân sau trước, đặt hai chân
trước xuống không phát ra tiếng động.
9


- Trẻ đứng sau ghế, biết kéo ghế nhích dần, nhích
5

Cách đứng lên và

dần về phía mình khơng gây ra tiếng động.


ngồì xuống ghế

- Biết đứng cạnh ghế, ngồi xuống chân xoay chân về
phía bên phải xoay thân mình về phía mặt bàn, nhích
dần ghế vào phía bên trong đến khi ngồi thoải mái.
- Trẻ biết tay phải cầm thìa bằng 3 ngón tay, biết xúc

6

Cách sử dụng thìa

cơm đưa lên miệng khéo léo không làm rơi vãi cơm
- Trẻ biết đứng và để giầy dép trên giá
- Đối với dép xăng đan trẻ ngồi ghế để cởi.

Cách cởi giầy, đi

7

giầy, cất dép

- Trẻ biết xoay người và xoay bàn tay để cầm dép.
- Trẻ biết vỗ dép để chất bẩn rơi ra ngồivà sau đó để
dép lên giá
- Biết để dầy dép vào đúng nơi qui định, xoay mũi

8

Cách gấp khăn


dép ra ngoài.
- Trẻ biết trải phẳng khăn ra bàn, gấp đơi khăn lại.
Sau đó gấp đơi một lần nữa.
- Chỉnh cho các mép khăn bằng nhau.
- Trẻ biết cầm cốc bằng tay phải, đưa dưới vòi, tay

9

Cách lấy nước, uống

trái gạt vòi nước. Lấy nước đủ uống, uống hết rồi cất

nước

cốc vào tủ (nếu có lượng nước thừa trẻ biết đổ vào
xô).
- Trẻ biết dùng bàn tay che miệng khi ho, sau đó

10
11

12

13

Cách xử lý khi ho quay ra ngoài.
- Trẻ biết lấy giấy, gấp khăn giấy làm đôi, dùng hai
Cách xử lý khi hỉ
mũi


bàn tay cầm khăn giấy hỉ mũi, sì thật mạnh, sau đó
cho giấy vào thùng rác.
- Cả hai tay cầm khuy cửa, xoay chốt mở nhẹ nhàng,

Cách đóng, mở

rồi kéo cửa ra một cách từ từ không gây ra tiếng

cửa

động.
- Trẻ biết sử dụng bộ tập cài khuy áo đặt trên mặt

Cách mở, cài

thảm, cởi cúc áo từ trên xuống dưới, lật hai vặt áo
10


khuy áo

lần lượt sang hai bên.
- Sau đó lần lượt đóng hai vạt áo, so hai vạt áo cho
bằng nhau và lần lượt đóng khuy áo từ dưới lên trên.
- Trẻ biết cầm bằng tay phải, sử dụng 3 ngón tay,

14

Cách sử dụng kéo


dùng 3 ngón tay lồng vào tay cầm của kéo, một tay
gồm có 1 ngón cái, một tay gồm có ngón trỏ và ngón
giữa.
- Thao tác mở đóng nhẹ nhàng để cắt các đường
thẳng, cong.
- Trải áo khoác trên sàn, vuốt áo sao cho phẳng. Trẻ

15

16

Cách mặc áo, cởi áo,
mắc áo

ngồi quỳ trên mặt sàn, tay trái cầm ống tay áo phải,
tay phải luồn vào ống tay áo trái sau đó đứng dậy và

Cách gấp quần, áo

cài khuy áo từ dưới và kéo lên trên.
- Trẻ trải mặt áo trên mặt sàn, mặt trước của áo úp
xuống dưới, gấp hai mép, tay áo ra phía sau, sau đó
gấp đơi ngược từ vạt áo lên trên cổ áo.
- Trẻ biết cầm lược bằng tay phải để trải tóc, tay trái
đỡ và giữ lấy tóc.

17

Cách chải tóc


- Chải từ trên đình đầu xuống ngọn tóc, dùng tay trái
nắm lấy tóc đã trải, sau đó dùng dây chun để buộc

lại.
Đối với trẻ 3- 4 tuổi thì nhận thức của trẻ là cịn hạn chế. Vì vậy để trẻ dễ hiểu
hơn và để dễ đánh giá kết quả của trẻ. Tôi đã định ra các kế hoạch và lồng ghép
vào các hoạt động trong ngày theo từng tháng.
Ngoài việc thường xuyên nhắc nhở, dạy trẻ các kỹ năng. Tôi vạch ra kế hoạch
đưa các kỹ năng vào các tháng để chú trọng hơn, để biết trong tháng này ngoài
các kỹ năng trẻ đã biêt thì sẽ dậy trẻ kỹ năng gì mới. Hơn nữa làm như vậy trẻ sẽ
nhớ hơn là dạy trẻ liền một lúc nhiều kỹ năng , sau rồi trẻ khơng nhớ gì. Đưa các
kỹ năng theo tháng cô giáo cũng dễ định hướng là tháng này cần dạy trẻ kỹ năng
gì mà khơng bị bỏ qn, hay sót các kỹ năng.
ST

Tháng

Thời gian thực hiện
11

Nội dung dạy trẻ kỹ năng tự


T

phục vụ
- Cách lên và bước xuống bậc

2 tuần
1


Tháng 9/2021

(20/09

-

08/ hè

10/2021)
2

- Cách cất ba lô

3 tuần

- Cách rửa tay

Tháng 10/2021 (11/10 – 2/10/2021)

- Cách bê ghế
- Cách đứng lên và ngồì xuống

3

Tháng 11/2021

4 tuần

ghế


(01/11 – 26/11/2021)

- Cách sử dụng thìa
- Cách cởi giầy, đi giầy, cất dép

4

Tháng 12/2020

5

Tháng 1/2021

6

Tháng 2/2021

7

Tháng 3/2021

8

9

Tháng 4/2021

Tháng 5/2021


4 tuần

- Cách gấp khăn

(29/11 – 24/12/2021)
5 tuần

- Cách lấy nước, uống nước
- Cách xử lý khi ho

(27/12 – 21/01/2022)
5 tuần

- Cách xử lý khi hỉ mũi
- Cách đóng, mở cửa

(24/01 – 04/03/2022)
4 tuần

- Cách cài khuy áo

(07/03 - 01/04 /2022)
4 tuần
(04/

04

-

29/ - Cách mặc áo, cởi áo, mắc áo


-

27/

04/2022)
4 tuần
(02/

05

- Cách sử dụng kéo

05/2022)

- Cách gấp quần, áo
- Cách chải tóc

4.2. Rèn kỹ năng tự phục vụ thông qua các hoạt động trong ngày.
Ngày nay nội dung giáo dục kỹ năng tự phục vụ đã được trú trọng. Tuy nhiên
việc giáo dục kỹ năng tự phục vụ chưa trở thành một mơn học với một giáo trình
chuẩn được áp dụng trong nhà trường. Trong khi đó hoạt động học là hoạt động
được tổ chức có sự định hướng và hướng dẫn trực tiếp của cô giáo. Nội dung
dạy được tổ chức có hệ thống theo sát mục dích, kế hoạch đã được hoạch định
trong giáo án nhằm cung cấp kiến thức, kỹ năng cho trẻ giúp trẻ hiểu để trẻ cảm
12


nhận đầy đủ và sâu sắc nội dung bài học liên quan đến giáo dục kỹ năng tự phục
vụ, nghĩa là kiến thức có nội dung giáo dục kỹ năng tự phục vụ. Vì vậy các nội

dung giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ cịn được tơi lồng ghép vào tất cả các
hoạt động trong ngày.
* Giờ đón trẻ: tơi đón trẻ vào lớp nhắc trẻ phải chào ba, mẹ ; chào cô, tôi hướng
dẫn trẻ kỹ năng tự cất giầy dép, ba lô đúng nơi quy định ngồi ra tơi cịn dạy trẻ
biết chào hỏi, biết nói lời xin lỗi, biết nói cảm ơn
*Trong giờ thể dục sáng: Mỗi buổi sáng các cô thường cho trẻ xuống dưới sân
tập thể dục. Tôi kết hợp dạy trẻ kỹ năng lên xuống bậc hè. Dưới sân trường tôi
kết hợp kỹ năng đi lên, xuống bậc hè cho trẻ đi đúng theo bước chân, chân nào
trước, chân nào sau, đi theo hàng lối, không chen lấn xô đẩy bạn…
* Khi trẻ uống nước: Dạy trẻ cầm cốc tay phải đưa vào miệng vịi, tay trái
gạt khố vịi nước, khơng rót nước q đầy, khơng thị tay vào thùng chứa nước
thừa khi uống khéo léo không làm đổ, không làm rơi cốc. Uống xong úp cốc lên
giá
*Trong giờ hoạt động học: Tôi thường lồng ghép nội dung rèn kỹ năng tự phục
vụ khi thấy phù hợp. Với những hoạt động có dùng đến ghế, cô luôn chú ý và
hướng dẫn trẻ cách bê ghế đúng cách, cách ngồi đúng cách.
Ví dụ: Chủ đề bản thân tôi lựa chọn kỹ năng tự phục vụ như: Tự mặc, cởi quần
áo, cách sử dụng nhà vệ sinh đúng cách, vệ sinh cá nhân, cách ăn uống, mặc
quần áo phù hợp với thời tiết, sống gọn gàng ngăn nắp. biết bảo vệ bản thân
trước những tình huống nguy hiểm, khơng chơi những nơi mất vệ sinh,
- Với hoạt động học khám phá: Các bộ phận trên cơ thể bé.
Sau khi tìm hiểu tên, chức năng các bộ phận trên cơ thể bé. Cô giáo dục các con
cách giữ gìn vệ sinh các bộ phận: Cần làm gì để đơi tay ln sạch sẽ ?
Các con rửa tay khi nào ? Rửa như thế nào? (cho trẻ thực hiện mơ phỏng trên
khơng)
Ví dụ: Chủ đề gia đình: Tơi dạy trẻ những kỹ năng, giúp đỡ bố mẹ những việc
vừa sức. Ngoài ra ở nhánh bản thân tôi lựa chọn kỹ năng tự phục vụ như: Tự
mặc, cởi quần áo, cách sử dụng nhà vệ sinh đúng cách, vệ sinh cá nhân, cách ăn
13



uống, mặc quần áo phù hợp với thời tiết, sống gọn gàng ngăn nắp. biết bảo vệ
bản thân trước những tình huống nguy hiểm, khơng chơi những nơi mất vệ sinh,
không nhận quà người lạ khi chưa được người thân cho phép, biết kêu cứu khi
gặp nguy hiểm, biết một số thông tin về bản thân như, tên, tuổi, sở thích và sử
dụng lời nói rõ ràng, mạch lạc để bày tỏ cảm xúc, nhu cầu của bản thân.
* Hoạt động ăn trưa: Giáo viên nhắc nhở, rèn cho trẻ thói quen rửa tay trước khi
ăn: Quy trình rửa tay, quy trình lau mặt.
Trong khi ăn rèn cho trẻ kỹ năng sử dụng thìa, bát, cách xúc gọn gàng, nhai từ
tốn, khơng nói chuyện trong khi ăn,……
Giờ ngủ trưa: Cơ rèn trẻ tự đi lấy gối của mình, giúp cơ chải đệm, chải chiếu,….
* Trong giờ hoạt động góc: Cơ hướng những trẻ có kỹ năng yếu tại thời điểm đó
vào góc kỹ năng để tiếp tục rèn thêm cho trẻ. Phân cơng 1 cơ ở góc đó trực tiếp
theo dõi và hướng dẫn, giúp đỡ trẻ khi cần thiết.
Ngoài góc kỹ năng, tùy thuộc vào từng chủ đề sự kiện liên quan, tôi cũng lồng
ghép rèn kỹ năng vào một số góc cho phù hợp.
Ví dụ: Tháng 9 thực hiện chủ đề trường mầm non – Trong góc phân vai có trị
chơi cơ giáo. Cơ giáo tổ chức cho trẻ rửa tay, lau mặt, …. Khi trẻ chơi, cô theo
dõi hướng dẫn cách chơi và uốn nắn thêm kỹ năng cho trẻ.
Tháng 11 thực hiện chủ đề: Gia đình thân u của bé. – Trong góc phân vai cơ
tổ chức trị chơi bác sĩ: Bác sĩ gia đình đến kiểm tra sức khỏe cho gia đình và
hướng dẫn mọi người cách hỉ mũi, xử lý khi ho, khi hắt hơi,…
Tháng 3 thực hiện chủ đề: Bé với những phương tiện giao thơng: Góc phân vai
với trị chơi: Mua vé lên tàu. – Thơng qua trị chơi giáo viên hướng dẫn trẻ cách
xếp hàng mua vé….
Tháng 5 thực hiện chủ đề: Quê hương đất nước – Trong góc phân vai với trị
chơi: Gia đình chuẩn bị đi nghỉ hè – Giáo viên củng cố hướng dẫn thêm cho trẻ
kỹ năng gấp quần áo gọn gàng xếp vào vali.
*Trong giờ hoạt động ăn, ngủ: Tôi cùng các giáo viên khác dạy trẻ những hành
vi văn hóa trong ăn uống. Qua đó dạy trẻ những kỹ năng tự lao động phục vụ,

rèn tính tự lập như biết tự đi lấy ghế, cất ghế đúng nơi quy định. Khi ăn, biết ăn
14


uống lịch sự, khơng nói chuyện trong khi ăn, và chỉ ăn uống tại bàn ăn của mình.
Biết cách sử dụng những đồ dùng, vật dụng trong ăn uống một cách đúng đắn,
biết ăn hết xuất, không làm rơi vãi khi ăn, khi ăn nhai nhỏ nhẹ không gây tiếng
ồn, ngậm miệng khi nhai thức ăn, biết mời trước khi ăn, biết cất bát thìa đúng
nơi quy định, biết ngồi ngay ngắn khơng làm ảnh hưởng đến người khác….
Ngồi ra trước những giờ ăn tôi thường lồng ghép các bài hát, bài thơ “Giờ ăn”,
“giờ ngủ”, “Bé ơi nhớ nhé” dạy lồng ghép kỹ năng vệ sinh và giờ ăn cho trẻ.
*Trong giờ hoạt động chiều: Dựa vào kế hoạch của từng tháng, tôi sẽ sắp xếp
các tiết mới hoặc tiết ôn luyện. Với những kỹ năng mới trẻ chưa biết, tơi xây
dựng thành một tiết hồn chỉnh để hướng dẫn trẻ. Với những kỹ năng đã học, tôi
tổ chức cho trẻ ơn luyện, chú ý tới những trẻ cịn lúng túng với kỹ năng đó để cơ
trực tiếp hướng dẫn thêm.
Tôi dạy trẻ các kỹ năng tự phục vụ như: Lau mặt, rửa tay bằng xà phịng, cách
trải tóc, cách gấp quần áo và đi vệ sinh đúng nơi quy định…
*Trong giờ trả trẻ: Rèn cho trẻ kỹ năng lấy ba lô, đeo ba lô, mặc áo, cài khuy áo,
kéo khóa áo (nếu là mùa đơng có áo khốc).
Việc lồng ghép rèn kỹ năng tự phục vụ vào các hoạt động trong ngày góp phần
lớn trong việc hình thành thói quen tốt cho trẻ. Trẻ đi học thấy mình tự tin hơn,
được cô khen nhiểu hơn. Phụ huynh họ thấy tự hào về con em của mình, thấy
con mình giỏi hơn tự lập và lớn hơn hẳn so với các bạn ở nhà.
4.3. Lồng ghép, sưu tầm, sáng tác một số bài thơ khi dạy kỹ năng tự phục
vụ cho trẻ:
Ngoài việc lồng ghép đan xen giáo dục kỹ năng sống vào các hoạt động trong
ngày, tơi cịn lồng ghép một số bài thơ khi dạy kỹ năng tự phục vụ cho trẻ
Với những bài này, tôi cho trẻ đọc thường xuyên để củng cố kỹ năng và nhắc
nhở trẻ thực hiện. Tôi nhận thấy trẻ hứng thú hơn và ghi nhớ lâu hơn.

Bài thơ: Bé ơi rửa mặt!

Bài thơ: Bàn tay em sạch

Bé ơi rửa mặt!

Bàn tay em sạch

Phải bằng hai tay.

Phải rửa thường xuyên
15


Khăn chải rộng ra

Trước khi ăn cơm

Lau từng bên mắt.

Sau vệ sinh nhé

Dịch khăn lau mũi

Tay em xoáy nhẹ

Rồi lau cái miệng.

Cổ tay trắng ngà


Gấp khăn làm đôi

Úp tay xuống nhé

Tay lau trán má.

Rửa mu tay này

Gấp khăn làm tư

Lồng tay rửa kẽ

Lau cằm cho sạch

Thay đổi bạn ơi

Đổi tay lau cổ.

Chụm tay rửa ngón

Chải khăn ra chậu

Xoay nhẹ nhàng thơi

Bé vào ăn cơm.

Lịng tay xoa lại

( Đọc đến đâu cho trẻ thực hành ngay Búng nhẹ tay ngoan
đến đó)

Bài thơ: Giờ ăn

Lau khô khăn hồng.
Bài thơ: Bé ơi!

Giờ ăn đến rồi.

Bé này bé ơi!

Vào bàn bạn nhé

Đừng chơi đất cát

Miệng khơng nói chuyện

Hãy vào bóng mát

Để nhai nhẹ nhàng

Khi trời nắng to

Tay trái giữ bát

Sau lúc ăn no

Tay phải cầm thìa

Đừng cho chân chạy

Xúc cho gọn gàng


Mỗi sớm ngủ dậy

Chớ có vội vàng

Rửa mặt đánh răng

Mà cơm rơi vãi.

Sắp đến bữa ăn

Bài thơ: Mặc quần áo

Rửa tay đã nhé. Bé này bé ơi!
Bài thơ: Xếp hàng

Bé tự mặc áo

Trong lúc xếp hàng

Biết cách cài khuy

Bé đừng chen lấn

Đi giày, đội mũ

Đợi chờ kiên nhẫn

Nào đâu khó gì?
Bài thơ: Chùi mũi


Có khó gì đâu!
Bài thơ : Rửa tay cho sạch
16


"Mỗi khi có mũi

"Cơ dặn bé

Bé nhớ chùi ngay

Trước giờ ăn

Chớ có dùng tay

Khi tay bẩn

Quyệt ngay lên má

Phải rửa ngay

Trơng thật xấu q

Với xà phịng

Cơ chẵng u đâu."

Bé ghi lịng
Lời cơ dặn."


Bài thơ: Bé giữ vệ sinh
Giờ ăn đến rồi
Bạn phải nhớ thôi
Rửa tay chưa nhỉ
Phải nhớ rửa kỹ
Cho sạch bạn ơi
Khi rửa xong rồi
Bạn đừng nghịch nước
Áo quần bị ướt
Cảm lạnh mất thôi
Tay rửa sạch rồi
Vào ngay bàn nhé
Ăn uống sạch sẽ
Đảm bảo vệ sinh
Giúp cho chúng mình
Nâng cao sức khỏe.
 4.4. Xây dựng góc kỹ năng cho trẻ rèn luyện
Bên cạnh việc rèn trẻ thông qua các tiết học cụ thể, thơng qua các hoạt
động hàng ngày, thì tơi cùng giáo viên trong lớp cịn xây dựng thêm một góc rèn
các kỹ năng sống cho trẻ, chủ yếu là các kỹ năng tự phục vụ cho trẻ hoạt động.
Trẻ sẽ được hoạt động khi đến giờ hoạt động góc. Với hoạt động này, tơi sẽ
hướng những trẻ cịn yếu kỹ năng vào đó để chơi và phân cơng một cô trực tiếp
hướng dẫn trẻ từng bước cho thành thạo. Ngoài việc chuẩn bị các đồ dùng cần
17


thiết, tơi cịn chụp lại từng bước thực hiện cụ thể để trẻ có thể làm theo. Với
từng bức ảnh, tơi cài vào các khung ảnh đã được đính sẵn. Các bức ảnh được
thay đổi theo từng giai đoạn dạy trẻ. Từng bước có mũi tên hướng dẫn như chỉ

đường cho trẻ cho trẻ thực hiện. Với cách làm này không những tiện cho giáo
viên (nếu muốn thay đổi kỹ năng chỉ việc lưu ảnh và cài vào khung) mà còn
giúp trẻ được củng cố kiến thức thường xuyên, trẻ có thể thực hiện theo khi
khơng có cơ bên cạnh.
Với góc kỹ năng, trẻ khơng chỉ được hoạt động trong giờ hoạt động góc mà cịn
được chơi vào các thời điểm thích hợp trong ngày:
Ví dụ: Khi trẻ thấy nóng muốn cởi bớt áo, trẻ có thể đến với góc kỹ năng.
Trẻ đến cởi áo và gấp áo gọn gàng theo đúng quy trình cơ hướng dẫn và có lưu
hình ảnh trên tường để trẻ nhớ lại. Khi trẻ cùng giúp cô chuẩn bị bàn ăn, gấp
khăn lau, trẻ cùng nhau vào góc kỹ năng để giúp cơ gấp khăn rồi để vào từng
bàn.
Hoặc khi trẻ thấy tóc rối, trẻ đến góc kỹ năng chải tóc đúng quy trình…..
Các hình ảnh được lưu lại quy trình thực hiện các kỹ năng khơng những được
cài ở góc kỹ năng, mà cịn được tơi cài ở các vị trí thích hợp xung quanh lớp.
Ví dụ: Quy trình cất dép được để ngồi cửa cạnh giá dép, quy trình cất ba lơ
được cài gần tủ để ba lơ, quy trình rửa tay, lau mặt được để trong nhà vệ sinh nơi
trẻ thường xuyên rửa tay, lau mặt, quy trình uống nước, …
Với biện pháp này trẻ được thực hiện mọi nơi, mọi lúc. Trẻ được rèn
luyện, củng cố thường xun, nó hình thành và trở thành thói quen ở trẻ từ bao
giờ khơng biết. Với phụ huynh, khi thấy con mình tự tin thực hiện các quy định
của lớp một cách thành thạo, phần nào họ cũng yên tâm tin tưởng trao con cho
các cô. Điều này khiến tôi thêm tự tin và u nghề hơn, đó là động lực mách bảo
tơi phải cố gắng và thường xuyên đổi mới các phương thức giáo dục trẻ, để đạt
được kết quả tốt hơn.
4.5. Tăng cường phối kết hợp giữa nhà trường và gia đình trong việc rèn
các kỹ năng tự phục vụ cho trẻ
a) Thơng qua góc tun truyền
18



Góc tun truyền của lớp tơi thường xun cập nhật đầy đủ mọi thông tin về sức
khỏe của trẻ cũng như các hoạt động giáo dục của lớp trong đó có nội dung rèn
trẻ kỹ năng tự phục vụ. Các nội dung được thay đổi thường xuyên phù hợp với
từng tháng, phù hợp với thời điểm hiện tại. Bên cạnh đó, tơi trang trí góc tun
truyền bằng hình ảnh trẻ trong lớp đang thực hiện các bước các kỹ năng tự phục
vụ. Mục đích thứ nhất là để phụ huynh biết được con em mình thực hiện các
việc này thường xuyên ở lớp. Mục đích thứ hai là để phụ huynh nắm được quy
trình trẻ thực hiện các kỹ năng đó để về rèn thêm trẻ ở nhà.
b) Thơng qua các buổi đón, trả trẻ, các buổi họp phụ huynh:
Giờ đón và trả trẻ, bên cạnh việc hướng dẫn trẻ tự thực hiện các kỹ năng tự phục
vụ, tôi nhắc phụ huynh cứ để cho các con tự làm, nếu vội phụ huynh đi làm
luôn, các cô sẽ hướng dẫn giúp đỡ các con, cịn nếu phụ huynh khơng vội có thể
đứng đó xem các con thực hiện. Phụ huynh sẽ cảm thấy các con của mình
trưởng thành hơn rất nhiều. Bên cạnh đó tơi cũng khơng qn việc khen ngợi
động viên các con cùng cố gắng thực hiện. Cô làm cùng trẻ và nhẹ nhàng hướng
dẫn, hoặc có thể cho trẻ quan sát bạn đang thực hiện và động viên trẻ làm theo.
Thông qua các buổi họp phụ huynh. Tôi tuyên truyền đến các bậc phụ huynh
những kỹ năng cần rèn cho phù hợp với lứa tuổi, tuyên truyền về quy trình các
bước thực hiện một số kỹ năng phù hợp để phụ huynh có thể hướng dẫn thêm trẻ
tại nhà. Việc giáo dục hướng dẫn các con thực hiện các kỹ năng tự phục vụ là rất
cần thiết cho nhân cách tốt đẹp sau này của trẻ.
5. Kết quả
Như vậy, qua một năm đi sâu và thực hiện nghiên cứu tài liệu, kinh nghiệm của
bản thân, sự ủng hộ tích cực của các bậc cha mẹ đã giúp tôi đạt được một số kết
quả và tiến hành đề tài một số biện pháp dạy kỹ năng tự phục vụ cho trẻ 3 – 4
tuổi tơi đã tìm ra những biện pháp tích cực phù hợp để nâng việc giáo dục kỹ
năng tự phục vụ cho trẻ. Để minh chứng cho kết quả đạt được của các cháu rõ
ràng hơn, dưới đây là kết quả so sánh về việc thực hiện một số biện pháp GD kỹ
năng tự phục vụ cho trẻ 3 – 4 tuổi.
Kết quả khảo sát trẻ cuối năm (tháng 02/20220)

19


Số trẻ
khảo
sát

Nội dung khảo sát
Trẻ tự đi và cất dép, cất ba lô
lên giá
Trẻ tự cởi và mặc quần áo
Trẻ biết gấp và cất quần áo
gọn gàng
Trẻ biết tự rửa tay, lau mặt
Trẻ biết cách sử dụng thìa, bát
Trẻ biết cách rót nước uống

18

khi cần
Trẻ biết tự đi lên xuống cầu
thang
Trẻ tự đi lấy và cất đồ dùng
cá nhân (ghế, gối)

Số trẻ
đạt

Tỷ lệ
(%)


Số trẻ
chưa
đạt

Tỷ lệ
(%)

18

100%

0

0%

14

78%

4

22%

14

78%

4


22%

18
18

100%
100%

0
0

0%
0%

18

100%

0

0%

18

100%

0

0%


18

100%

0

0%

Bảng so sánh kết quả

Nội dung khảo sát

Số
Đầu năm
Cuối năm
So sánh
trẻ (tháng 10/2021) (tháng 02/2022)
khảo Số trẻ Tỷ lệ
Số trẻ Tỷ lệ
Tỷ lệ
sát đạt
(%)
đạt
(%)
tăng (%)

Trẻ tự đi và cất dép,
cất ba lô lên giá
Trẻ tự cởi và mặc quần
áo

Trẻ biết gấp và cất
quần áo gọn gàng
Trẻ biết tự rửa tay, lau
mặt
Trẻ biết cách sử dụng
thìa, bát
Trẻ biết cách rót nước
uống khi cần
Trẻ biết tự đi lên

18

5

28 %

18

100%

4

22%

14

78%

2


11%

14

78%

3

17%

18

100%

5

28%

18

100%

8

33%

18

100%


6

33%

18

100%

xuống bậc hè
20

72%
56%

67%
83%
72%

67%
67%


Trẻ tự đi lấy và cất đồ
dùng cá nhân (ghế,

5

28%

18


100%

72%

gối)
6. Khả năng áp dụng sáng kiến
Qua kết quả đã đạt được ở trên tôi thấy rằng để giáo dục kỹ năng tự phục vụ
cho trẻ đạt kết quả tốt giáo viên đã :
- Lắng nghe ý kiến của trẻ không gị bó áp đặt trẻ. Cơ ln là người chỉ dẫn,
truyền cho trẻ những kinh nghiệm sống đã được đúc kết từ lâu.
- Tích cực đổi mới phương pháp dạy nhằm khuyến khích sự tích cực ở trẻ.
Khai thác tiềm năng sáng tạo ở mỗi trẻ. Giáo dục trẻ để trẻ cảm thấy thoải mái
trong mọi tình huống của cuộc sống. Luôn tạo cho trẻ cơ hội để trẻ được thể
hiện mình, được bộc lộ bản thân mình trước mọi người.
- Tổ chức các hoạt động giáo dục phát huy tính tích cực ở trẻ, giúp trẻ hứng
thú chủ động khám phá, tìm tịi, biết vận dụng vốn kiến thức, kỹ năng vào việc
giải quyết các tình huống khác nhau.
- Đưa ra các tình huống cụ thể để trẻ trải nghiệm chứ không chỉ là lý thuyết,
dập khuôn hoặc cấm đoán, hoặc chê trách trẻ sẽ khiến trẻ mất đi khả năng tự
phán đoán và tự đưa ra quyết định giải quyết .
- Tuyên truyền với các bậc phụ huynh để cùng tham gia giáo dục trẻ.
7. Lợi ích thiết thực của sáng kiến
7.1. Đối với trẻ
Trẻ có thói quen lao động tự phục vụ, được rèn luyện kỹ năng tự lập, nhận thức
thông qua các hoạt động hàng ngày trong cuộc sống của trẻ.
Trẻ đi học đều hơn, đạt tỷ lệ chuyên cần từ 90% trở lên và ít gặp khó khăn
khi đến lớp, có kỹ năng tự phục vụ: tự cất dép, tự cất ba lô, .., biết tự lau mặt...
7.2. Đối với giáo viên
Tự tin, sáng tạo hơn trong việc dạy kỹ năng tự phục vụ cho trẻ.

Kết hợp chặt chẽ với phụ huynh, tạo uy tín tiềm năng đối với phụ huynh và với
trẻ, được phụ huynh tín nhiệm.
21


Mạnh dạn dám nghĩ, dám làm, khắc phục mọi khó khăn để giúp trẻ có được
những kỹ năng tự phục vụ ngay từ khi còn nhỏ.
7.3. Đối với phụ huynh
Phụ huynh thường xuyên phối hợp chặt chẽ với cô giáo trong việc dạy trẻ các kỹ
năng tự phục vụ, trao đổi với giáo viên bằng nhiều hình thức thơng qua bảng
thông tin dành cho phụ huynh, bảng đánh giá trẻ ở lớp.
Giao tiếp giữa cha mẹ và con cái đã gần gũi thường xuyên hơn, ít la mắng trẻ,
phân việc cho trẻ, hướng dẫn trẻ tự làm những công việc phục vụ bản thân như:
trẻ tự đeo ba lô, tự vào lớp...
Cha mẹ cảm thấy hài lòng với kết quả của con mình đạt được và đã có sự
quan tâm bằng việc ủng hộ giáo viên những nguyên vật liệu để giáo viên và trẻ
làm đồ dùng đồ chơi phục vụ cho trẻ ở lớp...

22


III. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. Kết luận
Với kinh nghiệm của bản thân và những kiến thức được trang bị trong q trình
cơng tác tơi đã áp dụng những biện pháp trên vào quá trình rèn kỹ năng tự phục
vụ cho trẻ. Tôi đã rút ra một số kết luận như sau:
Giáo viên cần trau dồi kiến thức và hành vi văn minh cần thiết.
Cô giáo dành thời gian, chú ý nhiều hơn đến những cháu cá biệt để có biện pháp
giáo dục phù hợp, phải động viên khen thưởng sửa lại kịp thời cho trẻ nhằm kích
thích những việc làm tốt, và hạn chế những hành vi xấu của trẻ.

Gia đình phải thật sự là mái ấm tình thương của trẻ, bố mẹ phải là tấm gương
sáng để trẻ noi theo, phải quan tâm, yêu thương trẻ, có trách nhiệm giáo dục trẻ
ngay từ khi mới chào đời.
Tuyên truyền với phụ huynh về công tác giáo dục rèn luyện vệ sinh văn minh
cho trẻ. Do đó muốn giáo dục chăm sóc trẻ đạt kết quả tốt thì phải có sự thống
nhất phương pháp giáo dục của các cô giáo trong lớp cũng như phải có sự phối
hợp chặt chẽ giữa nhà trường, gia đình và xã hội.
2. Khuyến nghị
Thơng qua đề tài của mình tơi cũng xin một số khuyến nghị như sau:
2.1. Đối các cấp lãnh đạo:

23


- Các cấp lãnh đạo quan tâm, đầu tư kinh phí hơn nữa cho ngành học Mầm non,
đầu tư thêm về cơ sở vật chất trang thiết bị hiện đại giúp cho giáo viên có nhiều
điều kiện xây dựng thêm nhiều hoạt động hay và phong phú để đưa vào dạy trẻ.
- Thường xuyên mở các lớp bồi dưỡng nâng cao trình độ chun mơn nghiệp vụ,
tổ chức các buổi hội thảo chuyên đề, học tập kinh nghiệm, các giờ dạy mẫu tại
các trường mầm non trong và ngoài tỉnh về cách dạy ý thức và thực hành trải
nghiệm cho trẻ ý thức tự lập để giáo viên có cơ hội học hỏi, giao lưu, trao đổi
kinh nghiệm với nhau.
- Bổ sung nhiều tài liệu, sách, báo, tạp chí chuyện san về ý thức tự lập cho trẻ
trong trường mầm non.
2.2. Đối với giáo viên:
- Cần phải có ý thức hơn trong q trình dạy và học cho trẻ, khơng ngừng học
tập nâng cao trình độ chuyện mơn, học tập thêm kiến thức mới
- Tiếp thu hơn nữa những ý kiến đóng góp các các cấp lãnh đạo, nhà trường, các
bạn đồng nghiệp để giáo dục trẻ tốt hơn.
2.3. Đối với các bậc phụ huynh:

- Tích cực tham gia ủng hộ các phong trào của lớp, của nhà trường , ủng hộ thêm
kinh phí để thêm nhiều buổi giao lưu ngoại khóa,dã ngoại,các hội thi… cho trẻ
đạt hiệu quả nhất.
- Tích cực kết hợp các cơ giáo ở trên lớp dạy trẻ về các kỹ năng tự phục vụ để
trẻ có kỹ năng sống tốt thành thói quen và ý thức tốt trong sinh hoạt hàng ngày ở
trường cũng như ngoài xã hội.
Trên đây là một số kinh nghiệm nhỏ trong việc giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho
trẻ 3 – 4 tuổi trong trường mầm non. Trong quá trình thực hiện cịn nhiều thiếu
sót rất mong được sự đóng góp ý kiến của các đồng nghiệp.
Xin trân trọng cảm ơn !

24



×