Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Tiểu luận logistic Tìm hiểu lĩnh vực logistics tại Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (254.97 KB, 18 trang )

A.

TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG
PHÒNG SAU ĐẠI HỌC

TIỂU LUẬN
QUẢN TRỊ LOGICSTIC VÀ CHUỖI CUNG ỨNG

ĐỀ TÀI
Tìm hiểu lĩnh vực logistics tại Việt Nam hiện nay

Giảng viên:
Học viên:
Lớp:

TS. Nguyễn Thị Thuý Hà
Nguyễn Quang Trường
QTKD-K14A


PHẦN MỞ ĐẦU
Hiện nay các hoạt động logistics xuyên suốt từ sản xuất tới tiêu dùng giữ vai trò
quan trọng trong việc tăng GDP của một quốc gia, giảm chi phí sản xuất và tăng khả
năng cạnh tranh của hàng hóa trên thị trường. Đặc biệt đối với một quốc gia nằm ở cửa
ngõ giao thương, vận tải của khu vực như Việt Nam, ngành dịch vụ logistic ngày càng
chứng tỏ cơ hội phát triển mạnh mẽ so với thế giới. Tuy vậy hiện nay thực tế cho thấy, thị
trường này vẫn còn bỏ ngỏ và tập trung chủ yếu là các doanh nghiệp nước ngoài, tỷ lệ
doanh nghiệp nội địa còn thấp do những hạn chế về điều kiện cơ sở vật chất.
Ngoài ra, khi thời đại chứng kiện sự đột phá của cuộc cách mạng công nghệ 4.0,
ngành logistics cũng khơng nằm ngồi vịng ảnh hưởng của nó. Trong tương lai, lĩnh vực
cung ứng sẽ có nhiều đổi thay với những lợi ích lâu dài về tính hiệu quả và năng suất


dưới tác động của cuộc cách mạng này. Vậy xu hướng phát triển của logistics đã thay đổi
như thế nào dứoi tác động của làn gió mới này?
Để trả lời cho những vấn đề trên, nhóm em quyết định nghiên cứu đề tài “Tìm hiểu lĩnh
vực Logistics tại Việt Nam hiện nay”. Tiểu luận gồm có hai phần chính đó là:
1. Lý luận chung về Logistics
2. Phân tích thực trạng phát triển ngành logistics tại Việt Nam hiện nay
Do thời gian chuẩn bị có hạn và vốn kiến thức còn chưa đầy đủ nên tiểu luận của em
khơng tránh khỏi những thiếu sót, nhóm hy vọng sẽ nhận được những đóng góp của cơ để
nghiên cứu được hoàn thiện hơn.

2


CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ LOGISTIC
1. Khái niệm và đặc điểm của logistic
1.1. Khái niệm Logistics
Logistics là quá trình lập kế hoạch, tổ chức thực hiện và kiểm soát q trình lưu
chuyển, dự trữ hàng hóa, dịch vụ và những thông tin liên quan từ điểm xuất phát đầu tiên
đến nơi tiêu thụ cuối cùng sao cho hiệu quả và phù hợp với yêu cầu của khách hàng.
1.2. Đặc điểm của Logistics
a. Logistics có thể coi là tổng hợp của các hoạt động của doanh nghiệp trên các khía
cạnh chính, đó là logistics sinh tồn, logistics hoạt động và logistics hệ thống
Logistics sinh tồn có liên quan đến các nhu cầu cơ bản của cuộc sống. Tại bất kì
thời điểm nào, trong bất cứ môi trường nào, logistics sinh tồn cũng tương đối ổn định và
có thể dự đốn được. Con người có thể nhận định được về nhu cầu như: cần gì, cần bao
nhiêu, khi nào cần và cần ở đâu… Logistics sinh tồn là hoạt động cơ bản của các xã hội
sơ khai và là thành phần thiết yếu trong một xã hội cơng nghiệp hóa. Logistics sinh tồn
cung cấp nền tảng cho logistics hoạt động.
Logistics hoạt động mở rộng các nhu cầu cơ bản bằng cách liên kết các hệ thống
sản xuát các sản phẩm. Logistics liên kết các nguyên liệu thô doanh nghiệp cần trong quá

trình sản xuất, các dụng cụ sử dụng nguyên liệu đó trong q trình sản xuất và phân phối
sản phẩm có được từ sản xuất. Khía cạnh này của logistics cũng tương đối ổn định và có
thể dự đóan được. Nhưng logistics hoạt động lại khơng thể dự đốn được khi nào máy
móc có sự cố, đểsuửa chữa thì cần cái gì và thời gian sửa chữa… Như vậy, logistics hoạt
động chỉ liên quan đến sự vận động và lưu kho của nguyên liệu vào trong, qua và đi ra
khỏi doanh nghiệp và là nền tảng cho logistics hệ thống.
Logistics hệ thống liên kết các nguồn lực cần có trong việc giữ cho hệ thống hoạt
động. Những nguồn lực này bao gồm thiết bị, phụ tùng thay thế, nhân sự và đào tạo, tài
liệu kỹ thuật, các thiết bị kiểm tra, hỗ trợ và nhà xưởng… Các yếu tố này không thể thiếu
và phải được kết hợp chặt chẽ nếu muốn duy trì sự hoạt động của một hệ thống sản xuất
hay lưu thông.
Logistics sinh tồn, logistics hoạt động, và logistics hệ thống không tách rời nhau,
quan hệ chặt chẽ với nhau, làm nền tảng cho nhau tạo thành một chuỗi dây chuyển
logistics.

3


b. Logistics là một dịch vụ
Logistics tồn tại để cung cấp dịch vụ cho doanh nghiệp hoặc cho khách hàng của
doanh nghiệp, dịch vụ, đối với cả doanh nghiệp hay khách hàng đều được cung cấp thong
qua việc tập trung các yếu tố khác nhau, các yếu tố này là các bộ phận tạo thành chuỗi
logistics.
Dịch vụ logistics trong doanh nghiệp chú trọng đến các yếu tố về quản trị nguyên
vật liệu, lưu kho trong nhà máy và phân phối vật chất.Tuy nhiên, trong hoạt động của
doanh nghiệp không phải chỉ dừng lại ở yêu cầu các yếu tố cơ bản mà dịch vụ logistics
cung cấp trên đây mà có thể cần cung cấp thêm các dịch vụ khác của logistics.
c. Logistics là sự phát triển cao, hoàn chỉnh của dịch vụ vận tải và giao nhận
Logistics là sự phát triển của dịch vụ vận tải và giao nhận ở trình độ cao và hồn
thiện. Qua các giai đoạn phát triển, logistics đã làm cho khái niệm vận tải giao nhận

truyền thống ngày càng đa dạng và phong phú thêm. Từ chỗ thay mặt khách hàng để thực
hiện các công việc đơn điệu, lẻ tẻ, tách biệt như: thuê tàu. Lưu cước, chuẩn bị hàng, đóng
gói, tái chế hàng, làm thủ tục thơng quan… cho tới cung cấp trọn gói một dịch vụ vận
chuyển từ kho đến kho (door to door) đúng nơi, đúng lúc để phục vụ nhu cầu khách hàng.
Từ chỗ đóng vai trị là người được ủy thác trở thành một bên chính trong các hoạt động
vận tải giao nhận với khách hàng, chịu trách nhiệm trước pháp luật về những hành vi của
mình.
d. Logistics là sự phát triển hoàn thiện dịch vụ vận tải đa phương thức
Trước đây hang hóa đi từ nước người bán sang nước người mua dưới nhiều hình
thức hàng lẻ, phải qua tay nhiều người vận tải và nhiều phương thức vận tải khác nhau, vì
vậy xác suất rủi ro mất mát với hàng hóa rất lớn và người gửi hàng phải ký nhiều hợp
đồng với nhiều người vận tải khác nhau, trách nhiệm của mỗi người vận tải theo đó chỉ
giới hạn trong chặng đường hay dịch vụ mà anh ta đảm nhiệm. Nhờ sự ra đời của vận tải
đa phương thức, bây giờ người gửi hàng chỉ cần ký hợp đồng với một người, đó là người
kinh doanh vận tải đa phương thức (MTO). MTO sẽ chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện
tồn bộ việc vận chuyển hàng hóa từ khi nhận hàng cho tới khi giao hàng bằng một
chứng từ duy nhất (Chứng từ vận tải đa phương thức) cho dù anh ta có thể khơng phải là
người chun chở thực tế. Hợp đồng chuyên chở như vậy có thể do người kinh doanh vận
tải đa phương thức đảm nhận, nhưng chủ hàng vẫn cần một người lên kế hoạch cung ứng,
mua hàng hóa, giám sát mọi sự di chuyển của hàng hóa để đảm bảo đúng loại hàng, đến
đúng địa điểm và đúng thời gian, từ đó nâng cao hiệu quả trong kinh doanh.

4


Dịch vụ logistics chính là sự phát triển sâu rộng của dịch vụ vận tải đa phương
thức. Toàn bộ hoạt động vận tải có thể được thực hiện theo một hợp đồng vận tải đa
phương thức do người tổ chức mọi hoạt động logistics đảm nhiệm. Điểm giống nhau ở
chỗ, trên cơ sở nhiều hợp đồng mua bán, người tổ chức dịch vụ logistics sẽ nhận hàng tại
cơ sở của từng người bán, gom hàng thành nhiều đơn vị, gửi hàng tại kho hay nơi xếp dỡ

hang trước khi chúng được gửi đến nước người mua trên các phương tiện vận tải khác
nhau. Tại nước người mua, người tổ chức dịch vụ logistics sẽ thu xếp tách các đơn vị gửi
hàng và hình thành các chuyến hàng thích hợp để phân phối đến địa điểm cuối cùng theo
yêu cầu của khách hàng.
Tóm lại, logistics là sự phối hợp đồng bộ các hoạt động, là sự phát triển cao hoàn
thiện của dịch vụ giao nhận vận tải và là sự phát triển khéo léo của dịch vụ vận tải đa
phương thức. Đây chính là những đặc điểm cơ bản của logistics.
e. Logistics có chức năng hỗ trợ các hoạt động của doanh nghiệp
Logistics có chức năng hỗ trợ thể hiện ở chỗ nó tồn tại chỉ để cung cấp cho các bộ
phận khác của doanh nghiệp. Logistics hỗ trợ quá trình sản xuất, hỗ trợ sản phẩm sau khi
được di chuyển quyền sở hữu từ người sản xuất sang người tiêu dùng. Điều này khơng có
nghĩa là q trình sản xuất không bao gồm các yếu tố của logistics hệ thống hay hoạt
động hỗ trợ sau khi chuyển quyền sở hữu sản phẩm không bao gồm các yếu tố của
logistics hoạt động.
Logistics còn hỗ trợ các hoạt động của doanh nghiệp, thể hiện: sản xuất được
logistics hỗ trợ thông qua quản lý sự di chuyển và lưu trữ nguyên vật liệu đi vào doanh
nghiệp và bán thành phẩm di chuyển trong doanh nghiệp. Marketing được logistics hỗ trợ
thông qua quản lý việc di chuyển và lưu trữ thành phẩm. Logistics hỗ trợ sản xuất và
marketing có thể sẽ dẫn đến yêu cầu phải đào tạo nhân lực, dự trữ phụ tùng thay thế hay
bất kì một yếu tố nào khác của logistics
2. Phân loại hệ thống Logistics
2.1. Phân loại theo các hình thức Logistics
Hiện nay, Logistics đang tồn tại dưới các hình thức sau:

a. Logistics bên thứ nhất (First Party Logistics): Người chủ sở hữu hàng hóa tự
mình tổ chức và thực hiện các hoạt động logistics để đáp ứng nhu cầu của bản
than. Theo hình thức này, chủ hang phải đầu tư các phương tiện vận tải, kho chứa
hàng, hệ thống thông tin, nhân công để quản lý và vận hành hoạt động logistics.

5



Logistics bên thứ nhất làm phình to quy mơ của doanh nghiệp và thường làm giảm
hiệu quả kinh doanh vì doanh nghiệp khơng có đủ quy mơ cần thiết, kinh nghiệm
và kỹ năng chuyên môn để quản lý và vận hành hoạt động logistics.

b. Logistics bên thứ hai (Second Party Logistics): người cung cấp dịch vụ logstics
bên thứ hai là người cung cấp dịch vụ cho hoạt động đơn lẻ trong chuỗi các hoạt
động logistics (vận tải, kho bãi, thủ tục hải quan, thanh toán,…) để đáp ứng nhu
cầu của chủ hàng, chưa tích hợp hoạt động logistics. Loại hình này bao gồm: các
hàng vận tải đường biển, đường bộ, đường sông, đường hàng không, các doanh
nghiệp kinh doanh dịch vụ kho bãi, kê khai hải quan, trung tâm thanh toán.

c. Logistics bên thứ ba (Third Party Logistics): là người thay mặt cho chủ hàng
quản lý và thực hiện các dịch vụ logistics cho từng bộ phận chức năng, ví dụ như
thay mặt người gửi hàng thực hiện các thủ tục xuất nhập và vận chuyển nội địa
hoặc thay mặt cho người nhập khẩu làm thủ tục thông quan và vận chuyển hàng
tới điạ điểm đến quy định… Do đó logistics bên thứ ba bao gồm nhiều dịch vụ
khác nhau, kết hợp chặt chẽ việc luân chuyển, tồn trữ hàng hóa, xử lý thơng tin…
và có tính tích hợp vào dây chuyền cung ứng của khách hàng.

d. Logistics bên thứ tư (Fourth Party Logistics): là người tích hợp, gắn kết các
nguồn lực tiềm năng và cơ sở vật chất, khoa học kỹ thuật của mình với các tổ chức
khác để thiết kế, xây dựng và vận hành các giải pháp chuỗi logistics. Logistics nên
thứ tư chịu trách nhiệm quản lý dòng lưu chuyển logistics, cung cấp các giải pháp
dây chuyển cung ứng, hoạch định, tư vấn logistics, quản trị vận tải,… Logistics
bên thứ tư hướng đến quản trị cả quá trình logistics, như nhận hàng từ nơi sản
xuất, làm thủ tục xuất nhập khẩu, đưa hàng đến nơi tiêu thụ cuối cùng.

e. Logistics bên thứ năm (Fifth Party Logistics): đã được nhắc đến trong những

năm gần đây. Đây là hình thức phát triển cao hơn của logistics bên thứ tư đi cùng
với sự phát triển của thương mại điện tử.
2.2. Phân loại theo quá trình logistics

a. Logistics đầu vào (inbound logistics) là các hoạt động đảm bảo cung ứng nguyên
vật liệu đầu vào ( nguyên liệu, thông tin, vốn ,…) một cách tối ưu cả về vị trí, thời
gian và chi phí cho q trình sản xuất.

6


b. Logistics đầu ra (outbound logistics) là các hoạt động đảm bảo cung cấp thành
phẩm đến tay người tiêu dùng một cách tối ưu cả về vị trí, thời gian và chi phí
nhằm đem lại lợi nhuận tối đa cho doanh nghiệp.

c. Logistics ngược (reverse logistics) là quá trình thu hồi các phụ phẩm, phế liệu,
phế phẩm, các yếu tố ảnh hưởng đến mơi trường phát sinh từ q trình sản xuất,
phân phối và tiêu dùng trở về để tái chế hoặc xử lý.
3. Quy trình hoạt động Logistics

Quản lý
Đầu vào
Logistics
Các nguồn lực
tự nhiên
Nguồn nhân
lực
Nguồn tài
chính
Nguồn thơng

tin

Lập kế
hoạch
NHÀ
CUNG
CẤP

Kiểm tra

KHÁCH
Lợi
HÀNG

NHÀ
CUNG
CẤP

Quản trị Logistics
Ngu
n liệu
thơ

Đầu ra Logistics
Output

Thực
hiện

Q

Thành
trình lưu phẩm
kho

KHÁCH
HÀNG

thế cạnh
tranh
Tận dụng thời
gian & địa đểm
Vận chuyển
hiệu quả đến
khách
Tài sảnhàng
của
doanh nghiệp

Các hoạt động Logistics

Bảng 1. Quy trình hoạt động Logistics

7


CHƯƠNG II. PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG NGÀNH LOGISTICS
TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY
1. Thực trạng logistics tại Việt Nam hiện nay
1.1. Tình trạng chung
a. Lịch sử và quá trình phát triển Logistics Việt Nam

Những kiến thức về logistics và các hoạt động logistics mới thâm nhập vào Việt
Nam trong thời gian gần đây, trước hết và chủ yếu thông qua hoạt động của các cơng ty
vận tải giao nhận nước ngồi và một số người được đào tạo tại nước ngoài.
Tại Việt Nam, logistics mới được du nhập vào những năm 70. Đến năm 2005, dịch
vụ logistics mới xuất hiện trong Luật Thương mại Việt Nam, với khái niệm chưa thật sự
đầy đủ, đó là hoạt động giao nhận, vận chuyển hàng hóa phục vụ giao thương trong nước
và xuất nhập khẩu
Có thể trích ngang q trình phát triển ngành logistics trong chặng đường hơn 40
năm từ khi thống nhất đất nước (1975) đến nay để thấy được sự chuyển biến và bước đột
phá từ phía Nhà nước và Doanh nghiệp đã tiến hành trong thời kỳ này. Có thể chia sự
phát triển ngành logistics Việt Nam thành hai giai đoạn từ 1975-1997 và 1997-nay:

 Giai đoạn thống nhất đất nước và chuyển sang kinh tế thị trường (1975-1997)
Trong giai đoạn này, hoạt động logistics chỉ là vận tải, giao nhận hàng hóa XNK,
vật tư nguyên liệu phục vụ nhu cầu sản xuất, tiêu dùng trong nước và sử dụng phần lớn
phương thức vận tải đường bộ, đường thủy.
Có thể nói ngành logistics trong thời kỳ này đã đáp ứng một cách đầy đủ việc vận
chuyển phân phối hàng hóa phục vụ sản xuất, tiêu dùng và các nhu cầu phát triển kinh tế,
xã hội và quốc phòng. Thời kỳ đổi mới (1986-1997), theo Niên giám thống kê VN, tốc độ
XK tăng bình qn 24% (so với giai đoạn trước đó 1976-1985 là 13,5%) và nhập khẩu
tăng bình quân 16% năm (so với 7% giai đoạn trước đó).
Hiệp hội Giao nhận Kho vận Việt Nam (VIFFAS) tiền thân là Hiệp hội Doanh nghiệp
Dịch vụ Logistics Việt Nam (VLA) cũng được thành lập vào thời kỳ này (11/1993).

 Giai đoạn hội nhập quốc tế và khu vực (1997- nay):
Ba điểm nhấn quan trọng trong thời kỳ này là sự ra đời Luật Thương mại Việt
Nam 1997, Luật Thương mại Việt Nam 2005 và Cam kết Việt Nam gia nhập WTO
2006.

8



Như vậy, chặng đường hơn 40 năm kể từ khi thống nhất đất nước năm 1975 đến
nay tuy có dài, nhưng thật là ngắn ngủi so với toàn bộ quá trình phát triển một
ngành kinh tế năng động và mới mẻ. Với ba thành tựu quan trọng:
 Ngành logistics VN đã chuyển mình kịp với logistics đương đại, đặc biệt sau thời
kỳ gia nhập WTO, logistics VN đã hội nhập khu vực và quốc tế;
 Đã tạo dựng được đội ngũ DN, lao động chuyên nghiệp bước đầu nắm bắt và phát
huy tiềm năng của ngành;
 Nhà nước, các cấp quản lý nhận thức được vai trò động lực, then chốt của logistics
ứng dụng vào chiến lược phát triển kinh tế đất nước VN.
Những năm gần đây, cùng với sự phát triển về kinh tế, sự gia tăng của hoạt động
xuất nhập khẩu và đầu tư, dịch vụ logistics tại Việt Nam đang có bước phát triển mạnh
mẽ hơn bao giờ hết.
b. Các chỉ số năng lực Logistics của Việt Nam:
Logistics performance index ( LPI), có nghĩa là chỉ số năng lực quốc gia về
Logistics, do Ngân hàng thế giới tiến hành nghiên cứu và công bố trong báo cáo mang
tên “Kết nối để cạnh tranh- ngành logistics trong nền kinh tế toàn cầu”.
Theo xếp hạng năm 2014 của Ngân hàng thế giới về chỉ số hoạt động logistics (LPI), Việt
Nam hiện đứng thứ 48 thế giới. Đây là lĩnh vực mới mẻ, cịn nhiều khó khăn do nguồn
lực kinh tế từ ngân sách Nhà nước hỗ trợ cũng như nguồn lực của doanh nghiệp.

Bảng 2. Các tiêu chí đánh giá chỉ số LPI
Chỉ số LPI đánh giá trên 6 tiêu chí:

9


 Cơ sở hạ tầng (infrastructure): Những cơ sở hạ tầng liên quan đến chất lượng
thương mại và vận tải (cảng, đường sắt, đường bộ, công nghệ thông tin)


 Chuyến hàng quốc tế (shipments international): Mức độ dễ dàng khi thu xếp cho
các chuyến hàng với giá cả cạnh tranh

 Năng lực logistics (Competence Logistics): Năng lực và chất lượng của các dịch
vụ logistics (vd: các nhà điều hành vận tải, môi giới hải quan)

 Tracking & tracing: khả năng track & trace các lô hàng
 Sự đúng lịch (Timeliness): sự đúng lịch của các lô hàng khi tới điểm đích
 Hải quan (customs): hiệu quả của q trình thơng quan, chẳng hạn như tốc độ,
tính đơn giản, và tính có thể dự liệu trước của các thủ tục.
Theo báo cáo “Kết nối để cạnh tranh 2016: Logistics trong nền kinh tế toàn cầu” của
Ngân hàng Thế giới, sau những lần tăng điểm trong 4 báo cáo trước đây, báo cáo năm
2016 lần đầu tiên ghi nhận Chỉ số hoạt động logistics (LPI) của Việt Nam bị giảm điểm
kể từ khi Ngân hàng Thế giới công bố báo cáo này năm 2007.
Cũng theo báo cáo trên, Việt Nam đang đứng thứ 64/160 nước về mức độ phát triển
logistics và đứng thứ 4 trong ASEAN sau Singapore, Malaysia, Thái Lan. Mặc dù có
nhiều tiềm năng, nhưng đến nay năng lực cạnh tranh của ngành logistics Việt Nam vẫn
còn hạn chế. Cơ sở hạ tầng cả phần cứng và phần mềm cũng như cơng nghệ quản lý và
mơi trường chính sách, mặc dù đã được cải thiện trong những năm qua, nhưng vẫn cần
được đẩy mạnh hơn nữa để bắt kịp trình độ phát triển của các nước đối tác và đối thủ
cạnh tranh trong khu vực. Các doanh nghiệp logistics Việt Nam hầu hết có quy mơ nhỏ
và vừa, chỉ đáp ứng được các dịch vụ giao nhận, cho thuê kho bãi, làm thủ tục hải quan,
gom hàng lẻ, chưa tham gia điều hành cả chuỗi logistics như các doanh nghiệp FDI.
1.2. Thực trạng hoạt động Logistics tại Việt Nam
Dịch vụ logistics ở Việt Nam hiện có quy mơ khoảng 20-22 tỷ USD/năm, chiếm 20,9%
GDP của cả nước. Tốc độ tăng trưởng bình quân của ngành Dịch vụ logistics trong những
năm qua là từ 16 – 20%/năm. Theo xếp hạng của Ngân hàng Thế giới, năm 2016 Việt
Nam hiện đứng thứ 64/160 nước về mức độ phát triển logistics và đứng thứ 4 trong
ASEAN. Với tốc độ phát triển hàng năm đạt từ 16 – 20%, đây là một trong những ngành

dịch vụ tăng trưởng nhanh và ổn định nhất của Việt Nam trong thời gian qua.

10


Về thị trường, khoảng 52% công ty cung cấp dịch vụ logistics nước ta có quan hệ làm ăn
với thị trường Hoa Kỳ, 47% với Liên minh châu Âu (EU), 63% với các nước ASEAN,
57% với thị trường Nhật Bản, 49% với thị trường Trung Quốc và 43% với thị trường Hàn
Quốc.
Tuy nhiên, ngành Logistics hiện đang phải đối diện với khơng ít thách thức. Thống kê
cho thấy, DN logistics nội chiếm hơn 80% tổng số DN kinh doanh dịch vụ logistics tại
Việt Nam, song hầu hết chỉ làm dịch vụ các chuỗi cung ứng nhỏ trong lãnh thổ Việt Nam
như: Dịch vụ giao nhận, cho thuê kho bãi, làm thủ tục hải quan, gom hàng lẻ và thị phần
tại các cảng… Trong khi đó, các hoạt động lớn hơn, mang tính liên vận quốc tế đều do
thiểu số các cơng ty, tập đồn đa quốc gia đảm trách.
Năm 2017 đánh dấu một bước tiến mạnh mẽ trong việc hoàn thiện khung pháp lý và
chính sách liên quan đến logistics. Từ việc Chính phủ ban hành Kế hoạch hành động
nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển dịch vụ logistics Việt Nam đến năm 2025 cho
đến việc sửa đổi và ban hành mới các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý ngoại
thương, thủ tục hải quan và kiểm tra chun ngành.
Ngồi ra, Việt Nam cịn tham gia Hiệp định Tạo thuận lợi thương mại của WTO, thực
hiện Cơ chế Một cửa ASEAN và Cơ chế Một cửa Quốc gia, cải cách hành chính, kiểm tra
chuyên ngành và cam kết mở cửa đối với dịch vụ logistics.
Có thể thấy các doanh nghiệp kinh doanh trong ngành vận tải và kho bãi của nước
ta chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, vốn ít nên gặp khó khăn trong việc đầu tư
trang thiết bị máy móc hiện đại để hỗ trợ cho hoạt động vận tải đường bộ ngày càng phát
triển trong khu vực và trên thế giới. Đặc biệt khi nước ta tham gia vào AEC, việc trở
thành một mắt xích quan trọng trong chuỗi vận tải xun biên giới địi hỏi phải có nỗ lực
của doanh nghiệp và cũng cần có một số tiền đầu tư lớn.
Hạn chế về khả năng tài chính và trình độ quản trị doanh nghiệp là rào cản lớn cho

các doanh nghiệp logistics Việt Nam trong xu thế hội nhập kinh tế khu vực và toàn cầu.
Đa phần doanh nghiệp logistics là các doanh nghiệp trong nước (88%), 10% là các doanh
nghiệp liên doanh và chỉ có 2% là doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Phạm vi hoạt
động của các doanh nghiệp logistics bao trùm cả thị trường quốc tế với 84% số doanh
nghiệp dịch vụ logistics Việt Nam có phạm vi hoạt động cả trong và ngồi nước và có
16% doanh nghiệp chỉ hoạt động trong nước. Nhưng hoạt động đầu tư, mua bán sáp nhập
trong lĩnh vực logistics được dự báo sẽ sôi động hơn trong bối cảnh Việt Nam ngày càng
hội nhập sâu rộng vào kinh tế khu vực và thế giới.

11


2. Các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển ngành logistics tại Việt Nam
2.1. Nhân tố chủ quan
a. Nguồn nhân lực:
Trong những năm gần đây, ngành dịch vụ Logistics tại Việt Nam đang phát triển rất
nhanh chóng, từ một vài doanh nghiệp giao nhận quốc doanh của đầu thập niên 90 đến
nay đã cả nước hiện có khoảng hơn 3.000 doanh nghiệp tham gia cũng cấp dịch vụ
Logistics đang hoạt động tích cực. Đến năm 2030, Việt Nam sẽ cần hơn 200.000 nhân sự
phục vụ trong ngành này ( Theo Hiệp hội Doanh nghiệp dịch vụ logistics Việt Nam)
Nguồn nhân lực bao gồm:
 Đội ngũ cán bộ quản lý
 Đội ngũ nhân viên phục vụ
 Đội ngũ nhân công lao động trực tiếp
Theo Phó tổng thư ký Hiệp hội Doanh nghiệp dịch vụ Logistics Việt Nam, nhân lực hiện
chưa đáp ứng được yêu cầu của ngành dịch vụ logistics, thiếu cả số lượng và chất lượng
nguồn nhân lực chất lượng cao. Hiện có khoảng 200.000 nhân viên chuyên nghiệp trong
tổng số gần 1 triệu người.
Nhân lực ngành logistics thiếu kiến thức tồn diện, trình độ ICT cịn hạn chế, chưa
theo kịp tiến độ phát triển của logistics thế giới. Trình độ tiếng Anh nghiệp vụ logistics

còn hạn chế, chỉ khoảng 4% nhân lực thông thạo tiếng Anh nghiệp vụ. 30% các doanh
nghiệp phải đào tạo lại nhân viên. Trong khi đó, nhu cầu sử dụng nhân lực đến năm 2025
là khoảng 300.000 nhân viên chun nghiệp, có trình độ chun môn, ICT và tiếng Anh
đáp ứng yêu cầu trong điều kiện Cách mạng công nghiệp 4.0, trong số khoảng 1,2 triệu
người hoạt động trong lĩnh vực logistics. (Thông tin báo Vn Economy)
b. Cơ sở hạ tầng
Theo Cf. Arnold và cộng sự (2008): “cơ sở hạ tầng được hiểu là các nguồn vật
chất cấu trúc không gian kỹ thuật trong hệ thống logistics, bao gồm kho bãi, phương tiện
vận chuyển, băng bãi, kho lưu trữ, công nghệ và các cơ sở vật chất khác như hệ thống
thông tin liên lạc tương ứng.” Cơ sở hạ tầng logistics thông thường được chia thành 2
nhóm: cơ sở hạ tầng giao thơng vận tải và cơ sở hạ tầng thông tin và truyền thông.
Giao thông vận tải luôn phải dựa trên cơ sở hạ tầng, do đó cơ sở hạ tầng đóng một vai trị
rất quan trọng giúp giao thơng vận tải đảm nhiệm công tác vận chuyển xuyên suốt trong
cả chuỗi cung ứng, từ việc đưa máy móc đi khai thác nguyên liệu đầu vào, nguyên liệu

12


đầu vào về tập trung tại nhà xưởng, vận chuyển hàng hóa qua các khâu chế biến, các sản
phẩm đến tay các đại lý và người tiêu dùng. Do đó có thể nói chất lượng cơ sở hạ tầng
logistics ảnh hưởng đến độ trơn – chính xác của hoạt động logistics. Trước hết cơ sở hạ
tầng giao thông vận tải đóng vai trị rõ ràng nhất với tốc độ vận chuyển của hoạt động
logistics. Đối với giao thông đường bộ, diện tích mặt đường, mạng lưới đường xá, chất
lượng và độ bền của đường bộ, phân bổ hợp lý các đường cao tốc – cầu vượt, đường hầm
là yếu tố cần phải quan tâm. Đối với đường thủy cần phải quan tâm đến độ lớn và chắc
của đường cảng biển cùng hệ thống kho vận được bố trí xây dựng hợp lý gần đó. Với
đường hàng khơng cần quản lý, sân bay, đường bay, kho vận,….
Hạ tầng giao thông ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả logistics, cụ thể là tới thời
gian, chi phí, độ tin cậy mức độ an tồn của dịch vụ này, qua đó ảnh hưởng tới tốc độ
tăng trưởng của nền kinh tế nói chung và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp nói

riêng. Theo thống kê trung bình tại Mỹ và các nước, chi phí logistics thương mại bao
gồm chi phí vận tải (Transport costs), chi phí tồn kho (Inventory costs) và phí quản lý
(Administration costs), trong đó chi phí vận tải chiếm từ 50 - 60% .Như vậy, vận tải là
hoạt động quan trọng nhất trong các hoạt động logistics, chiếm khoảng 1/3 đến 2/3 chi
phí logistics của doanh nghiệp. Chính vì chất lượng hạ tầng giao thông và năng lực
logistics của Việt Nam còn rất nhiều hạn chế khiến năng lực tranh thương mại của quốc
gia nói chung và các doanh nghiệp tham gia hoạt động xuất nhập khẩu nói riêng bị ảnh
hưởng
c. Vốn
Vốn luôn là nhân tố tác động sâu sắc tới mọi hoạt động của nền kinh tế và logistics cũng
vậy. Nguồn vốn nhiều và được đầu tư đúng đắn cho nguồn nhân lực, cơ sở hạ tầng sẽ
đem lại hiệu quả cao cho hoạt động logistics.
Chính phủ Việt Nam đã có những ưu đãi bằng cách góp tiền hay bơm vốn cho doanh
nghiệp logistics Việt Nam. Việt Nam đang tiến hành thay đổi từng bước bằng cổ phần
hóa, khơng chỉ để giải quyết vấn đề về vốn mà còn bổ sung nhân sự quản lý, giám sát độc
lập từ bên ngồi.
Bên cạnh đó nguồn vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngồi vào Việt Nam vào ngành logistics
có sự chuyển dịch sau khi Việt Nam tham gia vào các hiệp định thương mại như AEC hay
TPP. Các doanh nghiệp FDI có đóng góp lớn vào nền kinh tế, lĩnh vực xuất khẩu thì
chiếm đến 2/3.

13


d. Quy mơ và tính chun nghiệp
Quy mơ doanh nghiệp, hoạt động, kinh nghiệm và mối quan hệ với các thị trường cũng
như tính chuyên nghiệp trong hoạt động logistics sẽ giúp các doanh nghiệp ngành
logistics nâng cao vị thế cạnh tranh của mình với các doanh nghiệp nước ngồi. Quy mô
lớn cùng việc hợp tác làm việc chuyên nghiệp giữa các doanh nghiệp logistics cùng với
việc xây dựng một chiến lược tổng thể chung cho toàn ngành là điều rất cần thiết để tạo

lên một chuỗi logistics nhanh chóng, hiệu quả, có năng lực cạnh tranh. Logistics là một
chuỗi hoạt động, chu trình do đó sự hợp tác giữa các doanh nghiệp và tính chuyên nghiệp
trong khâu quản lý thực hiện sẽ giúp mắt xích ấy làm việc có hiệu quả, tiết kiệm thời
gian, cho phí, cơng sức.
Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam tăng trưởng trung bình 8 - 10% mỗi năm và
khối lượng giao dịch ngày càng tăng. Do đó, nhu cầu cho dịch vụ logistcis như kho bãi,
đóng gói, giám định sẽ gia tăng tương ứng. Các doanh nghiệp logistics cần nhạy bén
trong vệc này để mở rộng quy mơ, chiếm lĩnh thị trường để có thể đạt được mục tiêu kinh
doanh, góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
2.2. Nhân tố khách quan
a. Pháp luật và cơ chế chính sách
- Khung pháp lý đối với hoạt động logistics
Dịch vụ logistics liên quan tới vận tải biển chịu sự tác động của các điều ước quốc tế
như: Công ước quốc tế về vận tải đơn năm 1924 tại Brussel, Nghị định thư sửa đổi năm
1968, cơng ước vận chuyển hàng hóa bằng đường biển năm 1978… Liên quan tới vận tải
hàng khơng có cước thống nhất vận chuyển năm 1929, Nghị định thư 1955, Công ước
Vacsava 1975, Montreal (Canada), 1999.
Năm 1980 có cơng ước quốc tế vận tải đa phương thức 1980… Công ước thống nhất thủ
tục hải quan tại Kyoto (Nhật) năm 1973. Hầu hết các cơng ước quốc tế như vậy được
hình thành từ các nước có kinh tế phát triển như Mỹ, Anh, Pháp, Nhật… các thành viên
khác chấp thuận. Có thể nói, các cơng ước quốc tế cũng như các tập quán thương mại
quốc tế được hình thành chủ yếu từ các nước phát triển, đó là luật chơi dẫn dắt toàn cầu.
Khi Việt Nam trở thành thành viên ASEAN, dịch vụ logistics còn chịu tác động của các
thỏa thuận tại khu vực như: Hiệp định vận tải qua biên giới (GMS) 1999; Tạo thuận lợi
cho hàng hóa quá cảnh (1968); Hiệp định khung vận tải đa phương thức ASEAN 2005.
Trong q trình kinh doanh dịch vụ logistics thời kỳ cơng nghiệp cũng phải thực hiện các
tập quán quốc tế, chẳng hạn, điều kiện giao nhận hàng (INCOTERMS); Quy tắc thực

14



hiện tín dụng chứng từ; Bảo hiểm hàng hóa trong quá trình vận chuyển, bốc xếp, lưu kho,
giao nhận…
Hệ thống luật pháp pháp Việt Nam liên quan tới logistics dần được hình thành và
hồn thiện. Luật Thương mại năm 2005 đã thay thế Luật Thương mại 1997, trong đó
thuật ngữ “logistics” được thay cho dịch vụ giao nhận trước kia. Năm 2005, Bộ Luật
Hàng hải sửa đổi Bộ Luật Hàng hải 1990, phù hợp dần với luật quốc tế. Năm 2006, Việt
Nam chính thức cơng nhận Cơng ước tạo điều kiện thuận lợi cho tàu biển ra vào cảng
biển (FAL-65). Đồng thời với luật hàng hải các luật hàng không, đường bộ, đường sắt,
đường thủy nội địa, luật hải quan, luật các tổ chức tín dụng, luật bảo hiểm… cũng ra đời.
Điều kiện kinh doanh dịch vụ logistics được quy định tại Nghị định 140/2007/NĐ-CP,
ngày 5/9/2007 “Quy định chi tiết Luật Thương mại về điều kiện kinh doanh dịch vụ lơgi-stíc và giới hạn trách nhiệm đối với thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics”. Hiện
nay Bộ Công Thương đang nghiên cứu sửa đổi nghị định này cho phù hợp hơn với tình
hình mới.
Theo ơng Nguyễn Giang Tiến, Phó tổng giám đốc Công ty Vietfracht, ngành
logistics của Việt Nam gặp khó bởi thưc tế các quy định cịn chồng chéo, không rõ ràng.
Các doanh nghiệp khi hoạt động logistics cần nắm rõ các yêu cầu về khung pháp lý để dễ
dàng hoạt động quản lý cũng như có được những bảo vệ cho doanh nghiệp mình khi tham
gia vào sân chơi chung của nền kinh tế để tránh những sai phạm, rủi ro khơng đáng có.
b. Cơ chế chính sách
Chính sách mở rộng hay thắt chặt, quan tâm hay không từ nhà nước đóng vai trị quan
trọng trong nâng cao vị thế của ngành logistics cũng như khả năng cạnh tranh của nó với
khu vực nước ngồi và tạo ra một môi trường năng động thúc đẩy các doanh nghiệp hoạt
động và phát triển.
Các chính sách được ban hành năm 2017:
- Kế hoạch hành động nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển dịch vụ logistics
Việt Nam đến năm 2025
- Nghị định số 160/2016/NĐ-CP, ngày 29/11/2016 về Điều kiện kinh doanh vận
tải biển, kinh doanh dịch vụ đại lý tàu biển và dịch vụ lai dắt tàu biển có hiệu lực từ ngày
01/7/2017 và thay thế cho Nghị định số 30/2014/NĐ-CP, ngày 14/4/2014 của Chính phủ

về Điều kiện kinh doanh dịch vụ vận tải biển và dịch vụ hỗ trợ vận tải biển.
- Luật Quản lý ngoại thương: Luật Quản lý ngoại thương đã được Quốc hội thông
qua năm 2017, chính thức có hiệu lực từ 01/01/2018, gồm 8 Chương 113 Điều quy định

15


về biện pháp quản lý ngoại thương, phát triển hoạt động ngoại thương. Luật điều chỉnh
chủ yếu công tác quản lý nhà nước về ngoại thương bao gồm: các biện pháp quản lý, điều
hành hoạt động ngoại thương có liên quan đến mua bán hàng hóa quốc tế; khơng điều
chỉnh, can thiệp vào các hoạt động cụ thể của thương nhân, giữa các thương nhân với
nhau; chỉ điều chỉnh đối tượng là hàng hóa, khơng điều chỉnh đối tượng dịch vụ.
Nhà nước tuy mở cửa nhưng vẫn có một số sự bảo hộ nhất định cho các ngành
dịch vụ; vận chuyển nội địa, đường biển, đường không; kho bãi khi tham gia các hiệp
định thương mại tự do. Điều này tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam vươn lên.
Tuy nhiên Nhà nước không thể bảo hộ mãi và các doanh nghiệp Việt Nam sẽ phải tìm
cách để bắt kịp thế giới. Cịn về chính sách phát triển ngành logistics nói chung, Chính
phủ cần có một đường lối để huy động các thành phần trong xã hội nhằm đào tạo nhân
lực, xây dựng các ngành hỗ trợ thông qua một kế hoạch hành động cụ thể.
c. Các đối thủ cạnh tranh nước ngoài
Các đối thủ cạnh tranh nước ngoài vừa là yếu tố cản trở vừa là nhân tố thúc đẩy
các doanh nghiệp logistics nội địa không ngừng nâng cao tay nghề, hiệu quả hoạt động
cũng như năng lực cạnh tranh và quy mô hoạt động.
Thống kê của tổ chức độc lập tập hợp hơn 1.000 chuyên gia trong ngành logistics là
Vietnam Suppy Chain cho thấy 25 doanh nghiệp logistics đa quốc gia đang chiếm 7080% thị phần cung cấp dịch vụ logistics ở Việt Nam với phạm vi hoạt động gần 100 quốc
gia khác nhau.
Trong khi các doanh nghiệp nước ngoài là những nhà đầu tư lão luyện với số vốn
khổng lồ thì doanh nghiệp Việt mới chỉ lặc lè làm thầu phụ, triển khai từng công đoạn,
mà không đủ khả năng thực hiện cả chuỗi vận tải. Các công ty logistics Việt Nam chỉ mới
hoạt động trong phạm vi nội địa hay một vài nước trong khu vực và chủ yếu làm đại lý

hoặc đảm nhận từng công đoạn cho các doanh nghiệp quốc tế. Điều này cản trở doanh
nghiệp Việt Nam cung cấp dịch vụ trọn gói cho khách hàng. Bởi lẽ trong xu thế tồn cầu
hóa chủ hàng thường có xu hướng th ngồi từ rất nhiều quốc gia và lãnh thổ trên thế
giới. Một số cơng ty Việt Nam cũng có các đại lý ở nước ngoài nhưng quan hệ này khá
lỏng lẻo và không đồng nhất.
Số doanh nghiệp nội địa chiếm tới 80% tổng số doanh nghiệp logistics ở Việt Nam
nhưng chỉ chiếm gần 25% thị phần. Số lượng các tập đoàn lớn trên thế giới xuất hiện và
hoạt động ngày càng nhiều như: APL Logistics, Maersk Logistics, NYK Logistics,
Schenker, BirKart, BJ, Errmey, Sunil Mezario, Hapag Lloyd, Zim, TWT, Sun Express…

16


có nguồn tài chính mạnh, dồi dào, nguồn nhân lực chất lượng cao và chuyên nghiệp đang
chiếm lĩnh tới 75% thị phần. (Theo Hiệp hội doanh nghiệp dịch vụ logistics Việt Nam)
Các doanh nghiệp nước ngoài đang đầu tư mở rộng hoạt động, ứng dụng công
nghệ mới để giữ vững vị thế đứng đầu khiến thị trường bị cạnh tranh mạnh mẽ hơn ở tất
cả các phân khúc. Đây là một trong số những nhân tố tác động mạnh đến ngành logistics
ở Việt Nam, mang đến cho ngành logistics những quy trình hiện đại, cơng nghệ tiên tiến,
tạo ra mạng lưới vận tải giao nhận hiệu quả cao góp phầnthúc đẩy tăng trưởng kinh tế đặc
biệt là hoạt động xuất nhập khẩu khi tiếp nhận một khối lượng ngày càng lớn các sản
phẩm hàng hóa. Tuy nhiên đây cũng là những đe ngại cho doanh nghiệp logistics nội địa
trong cạnh tranh thị phần nhưng cũng là động lực cho các nhà logistics nâng cao tay
nghề, nghiệp vụ, học hỏi kiến thức, đào tạo cũng như ứng dụng hệ thống thông tin hiện
đại.
d. Xu hướng phát triển ngành Logistics trên toàn thế giới
Xu hướng phát triển nganhg Logistics trên toàn thế giới cũng chính là xu hướng
mà ngành logistics Việt Nam trong tương lai từng bước để hướng tới giúp phát triển hơn
nữa ngành logistics Việt Nam.
-


Quy mô thị trường: Thị trường Logistics dự báo tăng trưởng trung bình
6.54%/năm trong giai đonạ 2017 – 2022 và đạt 15.5 nghìn tỷ USD vào năm
2024, gần gấp đơi so với mức 8.2 nghìn tỷ USD vào năm 2016.

-

Thương mại điện tử đang và sẽ là nhân tố dẫn dắt sự phát triển ngành logistics
toàn cầu trong thời gian tới. Dự kiến năm 2022, thương mại điện tử chiếm
khoảng 7.2 – 7.5 % tổng doanh thu logistics thế giới ( Armstrong Associates
2017).

-

Các thương vụ M&A sẽ đóng vai trị quan trọng ở ggiai đoạn đầu, phần nào
giúp sự phân mảnh ở thị trường này tuy nhiên về lâu dài, chính sự đầu tư vào
cơng nghệ và con người là yếu tố quyết định sự phát triển của logistics toàn
cầu.

-

Chuỗi cung ứng và logistics thân thiện với môi trường đang trở thành xu
hướng không thể thiếu trong bối cảnh thế giới phải đối mặt vối tình trạng ơ
nhiễm, cạn kiệt tài ngun.

17


KẾT LUẬN
Như vậy qua bài tiểu luận trên có thể thấy, Logistics hiện nay là một ngành dịch

vụ không thể thiếu trong chuỗi hoạt động của các doanh nghiệp Việt Nam. Nó đem lại cơ
hội cũng như thách thức cho sự phát triển kinh tế trong và ngồi nước. Có rất nhiều hạn
chế vẫn còn tồn tại trong hoạt động của kinh doanh Logistics tại Việt Nam mà không chỉ
các doanh nghiệp mà là cả các Bộ, ban ngành cũng cần tìm ra giải pháp để khắc phục
những khó khăn đó.
Ngồi ra cùng với sự phát triển của cuộc cách mạng công nghệ 4.0, xu hướng phát triển
của ngành dịch vụ Logistics cũng đã có sự biến đổi rõ rệt cả tích cực lẫn tiêu cực. Điều
cần quan tâm đối với các doanh nghiệp là việc tận dụng được những thành tựu khoa học
đó một cách có hiệu quả, khơng chỉ giúp doanh nghiệp phát triển mà còn đem lại nguồn
thu lớn cho nước nhà.

18



×