Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

ỨNG DỤNG PHƯƠNG PHÁP DẠY ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN ĐẢM BẢO NGUYÊN TẮC TÍCH HỢP – TÍCH CỰC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (166.85 KB, 22 trang )

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ BẠCH ĐẰNG

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
“ỨNG DỤNG PHƯƠNG PHÁP DẠY
ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN ĐẢM BẢO NGUYÊN TẮC
TÍCH HỢP – TÍCH CỰC
TRONG MÔN NGỮ VĂN Ở LỚP 8/1
TRƯỜNG THCS BẠCH ĐẰNG”

Người thực hiện: LÊ THỊ THANH
Tổ: Xã Hội
Năm học 2017 - 2018
1


MỤC LỤC
I.
1.
2.
3.
4.
5.

ĐẶT VẤN ĐỀ
Lý do chọn đề tài
Mục tiêu của đề bài
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu
Thời gian nghiên cứu


3
3
5
5
5
6

II.

GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
6
1. Cơ sở lý luận
6
2. Cơ sở thực tiễn
6
3. Thực trạng vấn đề
7
4. Tìm hiểu phương pháp đọc – hiểu văn bản đảm bảo nguyên tắc tích hợp –
tích cực trong dạy học
8
4.1 Phương pháp đọc – hiểu văn bản là như thế nào?
8
4.2 Đảm bảo nguyên tắc tích hợp – tích cực trong dạy học
10
a. Tích hợp
10
b. Tích cực
13
4.3 Các biện pháp tiến hành
13

a. Cơ sở đề xuất các giải pháp
13
b. Các giải pháp thực hiện
14
c. Kết quả việc thực hiện đổi mới phương pháp dạy học đọc – hiểu văn bản đảm
bảo tích hợp – tích cực mơn Ngữ văn lớp 8/1 trường THCS Bạch Đằng
18
d. So sánh đối chứng
18
5. Những bài học rút ra từ đề tài
18
5.1 Ưu điểm
18
5.2 Nhược điểm
19
III. KẾT LUẬN
1. Kết luận
2. Kiến nghị
IV. CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO

19
19
20
21
2


I. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lý do chọn đề tài:
- Theo suốt chiều dài của lịch sử dân tộc Việt Nam, nền văn học nước ta đã cùng

tồn tại và phát triển, chung lòng với đất nước và nhân dân. Mỗi chặng đường lịch sử,
đều có những tác phẩm có giá trị mang đậm dấu ấn của lịch sử, đã đóng góp quan trọng
cho văn học Việt Nam và nền văn học thế giới và sự tiến bộ của loài người. Đặc biệt, các
tác phẩm của các nhà thơ, nhà văn đã ghi lại những dấu ấn của nước ta suốt một thời
gian dài, ghi lại những trang lịch sử hào hùng, ghi dấu sự phát triển của đất nước, sự
thay đổi của các vương triều và sự đi lên con đường chủ nghĩa xã hội của nước ta. Được
thể hiện rõ nhất là các tác phẩm trong chương trình Ngữ Văn THCS.
- Ngữ Văn tự bản thân nó cũng tốt lên yêu cầu tăng cường tính thực hành giảm lý
thuyết gắn với đời sống. Xuất phát từ những căn cứ đó, chương trình đã nêu mục tiêu
tổng qt của mơn Ngữ Văn: Mơn Ngữ Văn có vị trí đặc biệt trong việc thực hiện mục
tiêu chung của trường THCS, góp phần hình thành những con người có trình độ học vấn
phố thông cơ sở, chuẩn bị cho họ tiếp tục học lên bậc học cao hơn. Đó là những con
người có ý thức tự bồi dưỡng, biết thương yêu quý trọng gia đình, bạn bè, có lịng u
nước, chủ nghĩa xã hội, biết hướng tới những tư tưởng tình cảm cao đẹp nhân ái, tinh
thần tôn trọng lẽ phải sự cơng bằng, lịng căm ghét các ác, cái xấu xa. Đó là những con
người biết rèn luyện để có tính tự lập, có tư duy sáng tạo, bước đầu có năng lực cảm thụ
các giá trị chân, thiện, mỹ cho nghệ thuật, trước hết là trong văn học, có năng lực hình
thành và năng lực sử dụng Tiếng Việt như một cơng cụ để tư duy và giao tiếp. Đó cũng
là những con người có ham muốn đem tài trí của mình cống hiến cho sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tương lai để hướng con người tới mục tiêu trên thì đối với
các mơn khác, vấn đề tên gọi mơn học có lẽ khơng cần đặt ra, nhưng đối với môn này
tên gọi ấy thể hiện một cách nổi bật một trong những điểm cải tiến căn bản của việc xây
dựng chương trình lần này là quan điểm tích hợp ba phân mơn Văn, Tiếng Việt, Tập làm
văn được sáp nhập làm một. Cho nên việc giảng dạy theo quan điểm tích hợp khơng phủ
định việc dạy các tri thức, kĩ năng riêng từng phân môn. Vấn đề là làm thế nào phối hợp
nhuần nhuyễn nhằm đạt tới mục tiêu chung của môn Ngữ Văn.
- Mục tiêu dạy học môn Ngữ văn là sự cụ thể hóa mục tiêu giáo dục nói chung
chú trọng dạy chữ, dạy người và hướng nghiệp đi vào cụ thể, môn học Ngữ văn nhấn
mạnh ba mục tiêu chính sau:
+ Trang bị những kiến thức phổ thông, cơ bản, hiện đại, có tính hệ thống về

ngơn ngữ và văn học – trọng tâm là tiếng Việt và văn học Việt Nam – phù hợp với trình
3


độ phát triển của lứa tuổi và yêu cầu đào tạo nhân lực trong thời kỳ cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước.
+ Hình thành và phát triển ở học sinh các năng lực sử dụng tiếng Việt, tiếp nhận
văn bản, cảm thụ thẩm mỹ, phương pháp học tập tư duy, đặc biệt là phương pháp tự học,
năng lực ứng dụng những điều đã học vào cuộc sống.
+ Bồi dưỡng cho học sinh tình yêu tiếng Việt, văn học, văn hóa, tình u gia
đình, thiên nhiên, đất nước, lịng tự hào dân tộc, ý chí tự lập, tự cường, lý tưởng xã hội
chủ nghĩa, tinh thần dân chủ nhân văn, giáo dục cho học sinh trách nhiệm công dân, tinh
thần hữu nghị hợp tác quốc tế, ý thức tôn trọng và phát huy các giá trị văn hóa của dân
tộc và nhân loại
- Mục tiêu của việc dạy học các tác phẩm văn học là hình thành và rèn luyện cho
học sinh năng lực đọc – hiểu cũng như tạo lập văn bản. Chính vì thế, chương trình được
tạo dựng theo hai trục tích hợp: Đọc văn và Làm văn” (Đỗ Ngọc Thống) [8, tr.10]. Phân
mơn Văn học có chức năng cung cấp một hệ thống tri thức phổ thông, cơ bản, hiện đại
về văn học Việt Nam và thế giới, thơng qua việc phân tích tác phẩm văn chương mà bồi
dưỡng cho học sinh những giá trị Chân – Thiện – Mỹ. Học sinh không chỉ được rèn
luyện năng lực phân tích, cảm thụ tác phẩm nghệ thuật, mà còn biết vận dụng kiến thức
đã học vào cuộc sống.
- Ví dụ như đây là mục tiêu cần đạt của bài “Bến quê” (lớp 9) trong giáo án của
một giáo viên:
+ Qua cảnh ngộ và tâm trạng của Nhĩ, học sinh cảm nhận được ý nghĩa triết lý
mang tính trải nghiệm về cuộc đời con người, biết nhận ra những vẻ đẹp bình dị và quý
giá trong những gì gần gũi của q hương, gia đình;
+ Thấy và phân tích được đặc sắc nghệ thuật của truyện như tạo tình huống
nghịch lý, trần thuật qua dòng nội tâm nhân vật, ngơn ngữ và giọng điệu đầy chất suy tư,
hình ảnh giàu tính biểu tượng;

+ Rèn luyện kĩ năng phân tích truyện có sự kết hợp các kiểu loại tự sự, trữ tình,
triết lý.
- Các tác phẩm của văn học Việt Nam cũng như văn học thế giới đều mang những tư
tưởng, tình cảm vơ cùng sâu sắc và ý nghĩa, là bài học cho học sinh suy ngẫm và học tập.
Thế nhưng một điều đáng buồn là học sinh gần như đang không nắm được những nét hay,
nét đặc sắc đó của các tác phẩm mà nguyên nhân là do các em đang gặp rất nhiều khó
khắn trong việc đọc – hiểu văn bản cũng như việc các em tìm cho mình những phương
pháp đọc – hiểu văn bản một cách có hiệu quả nhất, để rồi từ đó các em khơng thể nào tự
phân tích, cảm thụ được văn bản nếu khơng có giáo viên giảng dạy.
4


- Trường THCS Bạch Đằng là một ngôi trường nằm trên đảo Trí Nguyên – thuộc địa
phận phường Vĩnh Nguyên. Chính vì địa lý như vậy nên ở đây việc giáo dục cịn gặp rất
nhiều khó khăn chứ chưa nói đến việc học sinh học mơn Ngữ văn rồi tìm hiểu văn bản.
Mặc dù đã được các thầy cô bộ môn hết sức quan tâm, giúp đỡ nhưng việc học mơn Văn
đối với các em cịn rất nhiều khó khăn, cộng với việc phải dành thời gian đọc – tìm hiểu
văn bản vì các em cịn bận việc gia đình, thậm chí có em cịn phải đi biển phụ giúp gia
đình, càng khơng có thời gian để đọc văn bản.
Việc học sinh không chịu đọc văn bản khiến cho giáo viên gặp rất nhiều khó khăn
trong việc giúp các em tiếp nhận kiến thức từ văn bản. Vì vậy, tơi nhân thấy cần có những
phương pháp giúp các em vượt qua những khó khăn này để việc học mơn Ngữ văn trở nên
có hiệu quả hơn, đặc biệt là giúp các em có những phương pháp đọc – hiểu văn bản có
hiệu quả tốt nhất có thể.
2. Mục tiêu của đề bài:
- Tìm ra được một quy trình khoa học hợp lý để thực hiện tốt hướng dạy và học
theo phương pháp đọc – hiểu văn bản, đảm bảo nguyên tắc tích hợp – tích cực trong giờ
học, giúp cho quá trình nhận thức của học sinh đối với bộ môn Ngữ Văn ngày càng tốt
hơn.
- Giúp học sinh tiếp nhận văn bản và cảm thụ văn bản một cách sâu sắc vày đầy

đủ nhất, nắm được tư tưởng của tác giả và nội dung, nghệ thuật của tác phẩm.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu: Học sinh.
- Phạm vi thực hiện: Học sinh lớp 8/1 trường THCS Bạch Đằng.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Trong quá trình nghiên cứu, tơi đã sử dụng một số phương pháp như sau:
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu:
+ Tìm hiểu một số tài liệu như sách giáo khoa, sách giáo viên, một số tài liệu
liên quan đến việc phân tích, tìm hiểu tác phẩm và một số tài liệu về phương pháp học
mơn Ngữ Văn.
+ Tìm hiểu ngun nhân gây ra việc nhàm chán của học sinh trong việc đọc –
hiểu các văn bản có trong sách.
- Phương pháp phỏng vấn trực tiếp: Trực tiếp trò chuyện, trao đổi với học sinh về
suy nghĩ của các em trong quá trình đọc – hiểu và tiếp nhận văn bản.
- Phương pháp quan sát thực tiễn.
- Phương pháp điều tra tình hình học sinh.
- Phương pháp phân loại, phân tích tình hình học sinh học phân mơn Văn.
5


- Phương pháp sử dụng bản đồ tư duy.
5. Thời gian nghiên cứu:
Thời gian thực hiện: từ tháng 01/09/ 2016 – 30/05/2017
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.
1. Cơ sở lý luận:
- Tích cực hưởng ứng Nghị quyết 40 của Quốc hội, chỉ thị 14 của Thủ tướng
Chính phủ về: Ngành giáo dục thực hiên dạy sách giáo khoa mới theo phương pháp dạy
học mới.
- Thực hiện nhiệm vụ: “Hai khơng”: Nói khơng với tiêu cực trong thi cử và bệnh
thành tích trong giáo dục và xây dựng mơ hình trường học mới: “Trường học thân thiện

– Học sinh tích cực”, “Lấy học sinh làm trung tâm trong dạy học”.
- Sách giáo khoa mới được biên soạn theo hướng tích hợp giữ 3 phân môn: Văn –
Tiếng Việt – Tập làm văn, vận dụng kiến thức liên môn vào bài học.
- Sách giáo khoa là cơng trình khoa học sư phạm của tập thể các nhà nghiên cứu
đầu tư công sức biên soạn, thực nghiệm sửa chữa, hoàn thiện và được hội đồng thẩm
định đánh giá thơng qua. Vì thế chúng ta cần trân trọng cơng trình nghiên cứu này.
- Dạy Ngữ văn theo phương pháp đọc – hiểu văn bản, đảm bảo nguyên tắc tích
hợp – tích cực để phát huy được hết khả năng suy nghĩ tập thể… của mọi đối tượng học
sinh được thể hiện khả năng tích cực của bản thân đóng góp ý kiến trong giờ học.
- Thực hiện dạy sách giáo khoa theo phương pháp mới là nhiệm vụ chủ yếu của
giáo dục trong giai đoạn hiện nay.

2. Cơ sở thực tiễn
- Bản thân tôi là một giáo viên trẻ mới ra trường, thời gian công tác chưa được
nhiều nên kinh nghiệm đứng lớp còn non trẻ, thời gian tiếp xúc thực tế với học sinh và
cơng tác dự giờ rút kinh nghiệm cịn hạn chế do trường cịn thiếu giáo viên mơn Văn,
thường xun có sự thay đổi giáo viên.
- Giáo viên còn quen với lối dạy văn bản theo kiểu truyền thống là giảng nhiều,
giáo viên làm việc nhiều, học sinh chỉ tiếp nhận kiến thức từ giáo viên theo kiểu vấn
đáp, cô cho bao nhiêu thì biết bấy nhiêu.
- Về phương pháp dạy Ngữ văn theo phương pháp đọc – hiểu văn bản đảm bảo
nguyên tắc tích hợp – tích cực trong dạy học cịn nhiều lúng túng. Một là gị bó, gượng
ép, hai là lạm dụng tích hợp mà khơng đi sâu vào phân môn – tiết học đang thực hiện.
- Nhiều giáo viên nhận thức tốt bản chất của phương pháp này, rèn cho học sinh
kỹ năng đọc – hiểu văn bản, nhận thức tốt bản chất của hướng tích cực – tích hợp mong
6


muốn thực hiện vấn đề này một cách tốt nhất nhưng chưa có một quy trình khoa học,
hợp lý để vận dụng trong giảng dạy.

- Thực tế SGK Ngữ văn mới tiếp tục được biên soạn theo hướng tích cực đã có
truyền thống trong việc giảng dạy và học văn, giúp học sinh nhận thức được giá trị tác
phẩm văn chương đích thực. Tránh xa vào phương pháp xã hội học dung tục, giản đơn.
Đặc biệt phải coi trọng nhận thức tác phẩm ở một cấp độ bản chất, chỉnh thể.
- Đối với học sinh việc học tập, tiếp thu SGK mới, các em cũng chưa định rõ vấn
đề phương pháp học tập đổi mới, để theo kịp sự đổi mới trong chương trình SGK mới.
3. Thực trạng của vấn đề.
Năm học 2016 – 2017, tôi được giao nhiệm vụ giảng dạy bộ môn Ngữ Văn khối 8
trường THCS Bạch Đằng. Trên thực tế, các em đều là những học sinh đã quen với môi
trường học tập tại trường nên đã khá quen thuộc với việc học môn Ngữ Văn. Tuy nhiên
vẫn còn một số tồn tại ở các em, đặc biệt là các em học sinh cá biệt, các em học sinh có
hồn cảnh khó khăn trong việc học tập, mặc dù đã cố gắng thay đổi phương pháp học
mơn Ngữ Văn nhưng vẫn chưa có hiệu quả và cần được khắc phục. Cuộc khảo sát thực
tế tình hình học tập môn Ngữ văn của các em lớp 8/1 năm học 2016 – 2017 thông qua
bài khảo sát chất lượng đầu năm sau một tháng học đã có kết quả như sau:
Sĩ số
Từ 8 trở lên
Từ 5 – 7,9
Từ 3 – 4,9
Từ 3 trở xuống
37
8
21,6%
8
21,6%
12
32,4%
9
24,3%
Từ kết quả trên, ban đầu đã thu nhận được một số kết quả nhất định. Các em đa

phần nằm ở mức trung bình khá, số lượng giỏi còn ở mức độ thấp trong khi ở mức yếu
kém vẫn còn khá cao, chiếm đến . Yêu cầu bước đầu đặt ra cần giúp các em cần cố gắng
hơn nữa trong việc thay đổi phương pháp học tập để nâng cao chất lượng khá giỏi, giảm
chất lượng yếu kém.
Việc dạy học theo hướng đổi mới trong các giờ học là những yêu cầu quan trọng
của việc đánh giá, xếp loại giờ đạt loại giỏi. Bởi nó là như cầu cấp thiết, cơ bản quan
trọng của phương pháp dạy và học theo SGK mới.
Tiếp tục cuộc khảo sát mới theo hai phương pháp: có đổi mới và không đổi mới
phương pháp dạy học thu được kết quả tại lớp như sau:
Số giờ đã
Số giờ không Tỷ lệ
Số giờ áp
Tỷ lệ Số giờ đạt Tỷ lệ
dạy
áp dụng
%
dụng đúng
%
yêu cầu tốt
%
phương pháp
mức
15

Số giờ xếp
loại

6

40


9

Trung bình

60

Khá
7

7

46,7

Giỏi


15

6

40

5

33,3

4

26,7


Rõ ràng bảng số kiệu trên đã nói lên số giờ đạt yêu cầu dạy Ngữ văn theo phương
pháp đổi mới là cịn ít. Vì thế số giờ đạt khá, giỏi cũng chưa nhiều.
*Đối với học sinh
Số học sinh được
Số học sinh không
Số học sinh nắm
Số học sinh vận
khảo sát
nắm được phương
được phương pháp
dụng tốt
pháp dạy – học theo
dạy học mới
hướng mới
37 em

10 em

27 em

15 em

- Đây là kết quả phản ánh tình trạng chung của giáo viên trong việc giảng dạy đối
với học sinh.
- Nhà giáo THCS cũng phải có tư thế của nhà nghiên cứu khoa học, khơng chỉ
đơn thuần là một giáo viên theo nghĩa; tiếp thu ý kiến của người khác để truyền thụ cho
học sinh.
Từ đó có thể thấy được các giờ dạy thành cơng của các giáo viên giỏi, các giáo
viên yêu nghề, của những người có tâm huyết và nghiên cứu SGK, SGV, các tài liệu, tạp

chí giáo dục, báo văn học tuổi trẻ.
4. Tìm hiểu về phương pháp đọc – hiểu văn bản theo hướng đảm bảo nguyên tắc
tích hợp – tích cực trong dạy học.
4.1 Phương pháp đọc – hiểu văn bản là như thế nào?
Đây là điều giáo viên còn lúng túng nhất.
- Trước đây dạy văn học chủ yếu là nhằm làm cho học sinh thấy được cái hay, cái
đẹp của những tác phẩm văn chương. Những các cái hay, cái đẹp đó là do chính giáo
viên cung cấp, cảm nhận và phân tích hộ học sinh. Các giờ văn chủ yếu thuyết trình,
giảng giải cho học sinh nghe những điều thầy cô hiểu và cảm nhận được về tác phẩm ấy.
Còn bản thân học sinh hiểu và cảm nhận như thế nào thì chưa được chú ý đúng mức.
- Học sinh không cần đọc tác phẩm cũng được, đi thi miễn là nói đã nghe học ghi
chép được trên lớp hoặc học thuộc những tài liệu tham khảo… Đây là một hạn chế khiến
cho học sinh bị động, thiếu tính sáng tạo.
Với chương trình và SGK Ngữ văn THCS mới, dạy văn thực chất là dạy cho học
sinh phương pháp đọc văn. Đọc văn cần được hiểu một cách tồn diện. Đó là q trình
bao gồm việc tiếp xúc văn bản, thông hiểu cả về nghĩa đen và nghĩa bóng, nghĩa hàm ẩn
cũng như thấy được vai trị, tác dụng của các hình thức, biện pháp nghệ thuật ngôn từ,
8


các thơng điệp, tư tưởng, tình cảm, thái độ của người viết và cả giá trị tự thân của hình
tượng nghệ thuật.
Đọc văn thao tinh thần đó thực chất là tồn bộ q trình tiếp nhận mà văn bản (kể
cả hiểu và cảm thụ).
Muốn thế, các em học sinh phải được trang bị trên hai phương diện: những kiến
thức để đọc văn và phương pháp đọc văn. Những kiến thức và phương pháp này chỉ có
thể có được qua việc thựn hành trong q trình đọc văn thơng qua các văn bản, tác phẩm
cụ thể tiêu biểu cho các thể loại ở từng giai đoạn lịch sử văn học.
Vì vậy, một trong những nhiệm vụ quan trọng của việc dạy học Ngữ văn THCS là
tập trung hình thành cho học sinh cách đọc văn, phương pháp đọc văn theo thể loại, để

dần dần các em có thể tự đọc được văn, hiểu tác phẩm văn học một cách khoa học, đúng
đắn.
Điều này phải thông qua hệ thống văn bản – tác phẩm tiêu biểu (như những văn
liệu, ngữ liệu) và trang bị cho học sinh các kiến thức Việt Ngữ với tất cả các đơn vị và
cấp đọc ngôn từ như: từ, câu, đoạn văn, văn bản…
Bởi chính những đơn vị ngơn ngữ này tạo nên thế giới hình tượng của tác phẩm
văn học. Do đó việc phân tích, cảm nhận tác phẩm văn học thông qua các đơn vị ngơn
ngữ trong mỗi tác phẩm đó. Các kiến thức này là chìa khóa giúp các em đọc – hiểu tác
phẩm văn học có hiệu quả hơn.
Dạy học chính là trang bị cho học sinh văn hóa đọc văn. Ngược lại qua việc dạy
học, đọc văn mà hình thành và củng cố những tri thức Ngữ văn liên quan, cũng qua đó
mà thực hiện nhiệm vụ cao cả của mơn học là giáo dục tâm hồn, tư tưởng, óc thẩm mỹ,
lịng nhân ái, xây đắp những tình cảm, lối sống tốt đẹp cho học sinh.
Chính vì thế, một nhiệm vụ quan trọng của việc dạy học Ngữ Văn là tập trung
hình thành cho học sinh cách đọc văn, để phục vụ nhu cầu đọc văn trong cuộc sống hằng
ngày của các em. Dạy đọc – hiểu văn bản không đối lập việc dạy theo kiểu giảng văn
nhưng có nhiều điểm khác nhau.
Đó là những điểm khác nhau sau đây:
Giảng văn
Đọc – hiểu văn bản
- Nghiêng về công việc của thầy.
- Tổ chức cho trị thực hiện.
- Thầy nói cái hay mà thầy cảm nhận - Trò tự khám phá cái hay, cái đẹp của
được cho học sinh nghe.
văn bản theo ý mình.
- Nghiêng về khai thác nội dung, tư - Tập trung khai thác vẻ đẹp nội dung
qua hình thức văn bản.
tưởng của văn bản.
- Ít chú ý ngơn từ và các hình thức nghệ - Bám sát câu chữ của văn bản để chỉ ra
9



thuật cụ thể
-Nhiều khi học sinh không cần đọc văn
bản.
- Học sinh hiểu biết các văn bản được
học trong trường.

nội dung, tư tưởng.
- Học sinh bắt buộc phải đọc văn bản.
- Học sinh có phương pháp đọc – hiểu
các tác phẩm văn học trong và ngồi
nhà trường.

Chính vì có sự khác nhau trên mà các bước chuẩn bị giáo án, hệ thống câu hỏi các
bước lên lớp (tổ chức hoạt động dạy và học) cần có những thay đổi phù hợp với phương
pháp đọc - văn bản.
4.2 Đảm bảo nguyên tắc tích hợp – tích cực dạy học:
a. Tích hợp:
- Ngay tên môn học: Ngữ văn đã thể hiện quan điểm tích hợp và chương trình đã
khẳng định: “Lấy quan điểm tích hợp làm nguyên tắc chỉ đạo tổ chức nội dung
chương trình biên soạn sách giáo khoa và lựa chọn các phương pháp dạy học phù
hợp”.
- Ba phân môn (Văn – Tiếng Việt – Tập làm văn) phải hướng vào một là Ngữ Văn
và môn Ngữ Văn hàm chưa cả ba phân mơn trên.
Vì thế việc giảng dạy theo quan điểm tích hợp khơng phủ định việc dạy các tri
thức, kĩ năng riêng của từng phân môn. Vấn đề là làm thế nào phối hợp các tri thức, kĩ
năng thuộc từng phân môn thật nhuần nhuyễn nhằm đạt tới mục tiêu chung của môn
Ngữ Văn.
- Làm sao kết hợp thật tốt việc hình thành cho học sinh năng lực phân tích, bình

giảng và cảm thụ văn học với việc hình thành kĩ năng: Nghe – nói – đọc – viết, vốn là
q trình gắn bó hữu cơ và hỗ trợ nhau hết sức đắc lực.
- Vì thế giáo viên trực tiếp giảng dạy phải thực hiện mọi yêu cầu một cách linh
hoạt, sáng tạo. Mấu chốt của sự sáng tạo đó là ln ln suy nghĩ về mục tiêu của bộ
mơn Ngữ văn để tìm ra những yếu tố đồng quy giữa ba phân mơn, tích hợp trong từng
thời điểm, theo từng vấn đề. Tích hợp theo từng thời điểm (là tiết học, bài học là tích
hợp ngang giữa ba phân mơn.
VÍ DỤ:
- Khi dạy bài “Tức nước vỡ bờ” (Ngữ văn 8 tập 1), giáo viên cần phải giúp học
sinh đọc – hiểu văn bản lưu loát, rành mạch, thơng qua việc đọc hiểu để nhận biết được
tính cách của từng nhân vật qua hành động, cử chỉ, lời nói. Ngồi ra giáo viên cịn phải
tích hợp được với phân môn Tiếng Việt, sử dụng một số chi tiết trong bài để giảng dạy

10


tiết “Chỉ từ” và áp dụng vào việc viết bài văn tự sự có sự kết hợp các yếu tố miêu tả và
biểu cảm.
- Khi dạy bài “Lão Hạc” (Ngữ Văn 8 tập 1), giáo viên hướng học sinh đến việc
đọc – hiểu văn bản để hiểu được chiều sâu nội tâm nhân vật lão Hạc cũng như tính cách
của các nhân vật như ông giáo, vợ ông giáo... thông qua lời nói, suy nghĩ và hành động
của họ. Giáo viên tích hợp được cho học sinh kiến thức về dấu ngoặc kép... và hướng
dẫn học sinh viết bài tập làm văn có sử dụng yếu tố miêu tả nội tâm nhân vật.
Tích hợp là hợp lại để thống nhất các mặt riêng lẻ thành một tổng thể, phối hợp tối
ưu các hoạt động dạy học khác nhau, các kĩ năng phương pháp của môn học khác nhau
nhằm mục tiêu, mục đích cụ thể, theo một nguyên tắc “đồng tâm”, “đồng quy” hướng tới
một nội dung bao hàm cao hơn, sâu hơn, kĩ năng kiến thức của lớp học.
Tích hợp (theo từng vấn đề) là tích hợp dọc, là tích hợp về nội dung đang giảng
dạy của một phân môn có liên hệ đến nội dung khác hoặc sẽ học ở phân mơn kia hoặc
chính vì ở phân mơn đó nhằm củng cố kiến thức đã học, để giới chí tò mò, tạo hứng thú

học tập cho học sinh. Là tích hợp trên một vấn đề ở một kiến thức và kĩ năng của một
bài học, một chương học ở một cấp học hướng đến một trình độ cao hơn, sâu hơn trước.
Biết khái niệm (đơn vị kiến thức) – Phân biệt kiến thức – Tạo lập văn bản. Biết so sánh
mở rộng, khắc sâu kiến thức này với kiến thức khác có liên quan trong bài học, trong
chương với nhau.
Tích hợp ngang là tích hợp trong từng thời điểm của bài học từ kiến thức bài học
của phân môn này liên hệ đến các phân môn khác (Văn về Tiếng Việt – Văn về Tập làm
văn hoặc ngược lại) hoặc liên hệ môn Ngữ Văn với các môn học khác với các lĩnh vực
trong cuộc sống để làm nổi bật, đào sâu kiến thức, phát triển tư duy của học sinh. Tích
hợp ngang là hướng ngoại nội dung kiến thức về nhiều lĩnh vực nhằm bổ sang và nâng
cao. Giáo viên phải biết lựa chọn nội dung kiến thức cụ thể, có hướng sắp xếp nội dung
để giảng dạy (lựa chọn phương pháp – cơng việc để tích hợp) nên chú trọng chiều ngang
giữa phân môn văn và Tập làm văn. Tránh làm dụng tích hợp ngang quá nhiều để gây
tiết học rời rạc nặng nề đối với học sinh.
+ Khi dạy bài “Bài ca nhà tranh bị gió thu phá” của Đỗ Phủ:
• Nội dung của mỗi phần thể hiện điều gì? Thực hiện nội dung đó bằng phương
pháp nào? Vai trò chủ yếu của yếu tố tự sự - miêu tả để bộc lộ tình cảm của nhà
thơ  Làm rõ chủ đề của tác phẩm.
• Câu thơ nào trong bài văn thể hiện việc miêu tả - tự sự, mỗi phần bằng những biện
pháp nghệ thuật gì?  Thể hiện được nội dung của mỗi phần và làm rõ ý nghĩa
của tác phẩm.
11


+ Khi dạy bài “Vượt thác” của Võ Quảng trong Sách Giáo Khoa Ngữ Văn 6 tập 2
giáo viên cần triệt để khai thác mỗi liên hệ giữa văn bản là hai vấn đề đang dạy ở phần
Tiếng Việt và Tập làm văn là phép so sánh và phương pháp tả cảnh ở đó. Giáo viên sau
khi cho học sinh đọc văn bản ngay lập tức có thể hỏi: “Qua những chi tiết miêu tả cảnh
thiên nhiên, em có nhận xte gì về nghệ thuật tả cảnh của tác giả? Chỉ là nghệ thuật so
sánh và nhân hóa? Hiểu thế nào là “cổ thụ”, “mãnh liệt”... Qua các miêu tả đó, em có

nhận xét gì về hình ảnh cây cổ thụ? Nêu nhận xét của em về bức tranh thiên nhiên đó?”
Như vậy với hệ thống câu hỏi đó, học sinh hiểu bài sâu sắc hơn và thấy được trong bài
văn đó, Võ Quảng tả cảnh rất hay và sử dụng phép tu từ so sánh và nhân hóa rất thành
cơng. Đồng thời, giáo viên phải cho học sinh tìm hiểu kĩ phần chú thích để thấy được
các giải thích từ Hán Việt trong bài nhưng ko thể áp dụng một cách máy móc như ở bộ
phận văn học dân gian.
Tích hợp dọc là tích hợp trên từng vấn đề ở một kiến thức và kĩ năng của một bài
học, một chương học ở một cấp học hướng đến một trình độ cao hơn, sâu sắc hơn. Biết
khái niệm đơn vị kiến thức – phân biệt kiến thức – vận dụng kiến thức – tạo lập văn bản.
Biết so sánh, mở rộng, khắc sâu kiến thức này với kiến thức khác có liên quan trong bài
học, trong chương học với nhau.
- Tích hợp Văn – Lịch sử : Tích hợp mở rộng theo hướng vận dụng những kiến thức
về hoàn cảnh lịch sử của từng thời kỳ,về nhân vật lịch sử. . . để lý giải và khai thác giá
trị , thành công cũng như hạn chế của tác phẩm
- Tích hợp Văn – Địa lý: Tích hợp mở rộng theo hướng vận dụng kiến thức hiểu biết
về các địa danh để lý giải rõ một số chi tiết hình ảnh nghệ thuật .
- Tích hợp Văn – Âm nhạc: Ví dụ khi ta dạy một tác phẩm văn học như bài “ Đồng
chí”, “Viếng lăng Bác” Ngữ văn 9 GV có thể cho các em hát, hoặc ngâm thơ, có những
tác phẩm có thể cho học sinh đóng kịch … làm như vậy các em sẽ hứng thú học hơn và
kiến thức sẽ được khắc sâu hơn.
- Tích hợp Văn – Mỹ thuật: Khi dạy học một tác phẩm văn chương GV có thể cho
học sinh vẽ tranh minh họa một cảnh hay một nhân vật mà học sinh u thích, sau đó
các em đặt tiêu đề cho bức tranh và nêu lý do vì sao lại chọn nội dung ấy để tái hiện
bằng tranh vẽ. Cũng có thể cho học sinh nhận xét bức tranh trong SGK, so sánh với bức
tranh của mình…
Quan điểm tích hợp phải qn triệt ở mọi khâu kể cả khâu kiểm tra, đánh giá. Vì thế
khi đề bài giáo viên cũng phải chú ý đến kiến thức tích hợp để học sinh tích cực làm bài.
Học sinh chủ động tiếp cận tác phẩm theo hướng đọc – hiểu, suy ngẫm – vận dụng, liên
tưởng – tích lũy, khả năng đọc – hiểu (bao gồm cảm thụ) một tác phẩm văn chương lệ
12



thuộc vào khơng ít việc có thể trả lời được những câu hỏi đặt ra ở những cấp độ khác
nhau.
+ Đọc bài “Bài học đường đời đầu tiên” của Tô Hồi thì giáo viên đặt câu hỏi phát
hiện: “Những chi tiết miêu tả Dế Mèn?”. Học sinh sẽ phát hiện ra các chi tiết đó trong
sách giáo khoa, để rồi từ đó khái quát yêu cầu cao hơn, liên hệ với các bên ngoài bài
học: “Qua cách đối xử của Dế Mèn đối với Dế Choắt, Dế Mèn đá rút ra được bài học gì
trong cuộc sống? Câu chuyện muốn khuyên răn chúng ta điều gì? (học sinh tự rút ra bài
học cho bản thân) Sau một loạt hệ thống câu hỏi cuối bài, phần luyện tập hoặc ngay
trong phần đọc hiểu, giáo viên có thể rút ra câu hỏi cho tổ, nhóm, cá nhân: “Em hãy viết
một đoạn văn diễn tả lại tâm trạng của Dế Mèn khi chôn cất Dế Choắt?”  Giáo viên
cho học sinh thảo luận và đại diện nhóm trả lời, các nhóm khác chú ý và giáo viên nhận
xét, cho điểm.
Khám phá theo chiều học ấy, học sinh không chỉ hứng thú, hiểu sâu văn bản mà
còn liên hệ bản thân một cách sinh động, tự nhiên trong việc học môn Ngữ Văn với
những vấn đề trong cuộc sống.
b. Tích cực:
Là phát huy tối đa tính tích cực, sáng tạo của học sinh, chủ thể học tập ở tất cả các
khâu: từ việc chuẩn bị bài, sưu tầm tài liệu, phát biểu trong tổ nhóm… tự đánh giá bản
thân và đánh giá bạn…
- Học sinh biết chủ động tiếp cận tác phẩm theo hướng đọc – suy nghĩ – suy
ngẫm, liên tưởng. Việc đọc – hiểu văn bản (gồm cả cảm thụ).
- Học sinh có thể trả lời hệ thống câu hỏi ở cấp độ khác nhau. Từ cụ thể đến khái
quát, từ dễ đến khó, từ những vấn đề trong bài học đến những vấn đề ngồi bài học có
báo hoạt động Ngữ Văn, hoạt động về văn nghệ…
Bề sâu là sự suy nghĩ đào sâu những vấn đề cụ thể, tỷ mỷ như suy ngẫm kỹ về
từng chú thích, tra cứu từ khó, lập hồ sơ, bình luận, bình giảng…
- Tổ chức những hình thức hoạt động học tập phong phú, tạo điều kiện cho học
sinh phát huy tính tích cực, chủ động trong học tập (các trang thiết bị dạy học), đồ dùng

dạy học góp phần cải tiến phương pháp dạy học theo hướng tích hợp – tích cực: tranh
ảnh, máy chiếu, bảng phụ, kênh hình.
Tóm lại, dạy Ngữ văn theo phương pháp Đọc –hiểu văn bản đảm bảo nguyên tắc
tích hợp – tích cực trong dạy học.
4.3 Các biện pháp tiến hành
a. Cơ sở đề xuất các giải pháp:
13


Phương pháp đọc hiểu văn bản đảm bảo nguyên tắc tích hợp – tích cực khơng chỉ
được áp dụng trong phạm vi hẹp, trong một phân môn, một môn học cụ thể nào mà trên
nhiều môn học và lĩnh vực khoa học khác nữa.
Do thới quen còn ảnh hưởng bởi cách truyền thụ kiến thức một chiều như trước
đây, chủ yếu là phương pháp vấn đáp, giáo viên mang kiến thức đến cho học sinh tiếp
nhận một cách thụ động, phụ thuộc.
Một kiến thức học cần được xây dựng từ văn bản mẫu, theo chủ đề, theo thể loại,
theo hướng mở rộng và nâng cao. Trong khi đó khả năng thích ứng của học sinh cịn
chậm, học sinh cịn có tư tưởng ỷ lại, dựa vào các tài liệu soạn sẵn, các loại sách tham
khảo.
Người dạy cần có sự đầu tư nghiên cứu trên nhiều phân môn học, các môn học có
kiến thức liên quan. SGK thường xuyên thay đổi, tính cách của học sinh cũng khác buộc
người giáo viên cũng phải thay đổi phương pháp dạy học.
b. Các giải pháp thực hiện:
Như chúng ta đã biết, trong ba phân mơn của ngữ văn thì tác phẩm văn học chiếm
vị trí quan trọng. Trong sách giáo khoa phần Văn học được biểu hiện bằng các văn bản.
Khi học tập học sinh phải “đọc – hiểu văn bản”. Vậy “đọc - hiểu văn bản” là gì? Khái
niệm “đọc - hiểu văn bản” không diến tả hành động tách rời đọc và hiểu. “Đọc - hiểu
văn bản” là hoạt động đọc văn một cách nghiêm túc có nghiền ngẫm, cảm xúc, tưởng
tưởng và liên tưởng. Bản chất đọc – hiểu là tìm hiểu phân tích để chiếm lĩnh văn bản
bằng nhiều phương pháp và hình thức dạy học văn, trong đó phương pháp dạy học văn

bằng hệ thống câu hỏi cảm thụ văn bản được thực hiện dưới hình thức đối thoại sẽ là
hình thức và phương pháp chủ đạo. Các tác giả trong Ngữ Văn 6 tập một sách giáo viên
đã lý giải như sau “ khả năng đọc – hiểu (bao gồm cả cảm thụ) một tác phẩm văn
chương lệ thuộc khơng ít vào việc có thể trả lời được hay không những câu hỏi đặt ra ở
những cấp độ khác nhau. Mức thấp nhất là chỉ cần sử dụng những thơng tin có ngay
trong văn bản. Đó là trường hợp câu trả lời sẵn có trong bài chỉ mới biết đọc trên dòng.
Mức cao hơn là buộc phải suy nghĩ và sử dụng những thơng tin trong bài. Đó là trường
hợp phải suy nghĩ ra câu trả lời, là trình độ đã biết đọc giữa dịng. Cao hơn là yêu cầu
khái quát, liên hệ giữa những cái mà học sinh đã đọc với thế giới bên ngồi đó là trình
độ vượt ra khỏi dịng để đọc văn bản. Khám phá văn bản theo hướng ấy thì học sinh
khơn chỉ hứng thú hiểu sâu văn bản mà còn liên hệ được một cách sinh động tự nhiên
với những vấn đề trong cuộc sống.
Như vậy “đọc - hiểu văn bản” đòi hỏi người phải có thái độ chủ động tích cực và
sáng tạo trong đọc văn. Các văn bản được học trong chương trình Ngữ Văn 8 bao gồm:
14


* Một số truyện Việt Nam 1930 – 1945
- Tôi đi học (Thanh Tịnh)
- Trong lịng mẹ (trích “Những ngày thơ ấu” – Nguyên Hồng)
* Một số truyện nước ngoài
- Cô bé bán diêm (An - đéc – xen)
- Đánh nhau với cối xay gió (trích “Đơn-ki-hơ tê” – Xéc-van-téc)
- Chiếc lá cuối cùng (OHen-ri)
- Hai cây phong (Ai-man-tốp)
* Một số văn bản thơ trữ tình giàu yếu tố biểu cảm.
- Cảm tác vào nhà ngục Quảng Đông (Phan Bội Châu)
- Đập đá ở Côn Lôn (Phan Châu trinh)
- Muốn làm thằng cuội (Tản Đà)
- Ơng Đồ (Vũ Đình Liên)

- Hai chữ nước nhà (á Nam Trần Tuấn Khải)
* Một số văn bản nhật dụng: Thông tin về trái đất năm 2000. Ơn dịch
thuốc lá, giáo dục chìa khố trong tương lai.
Với các loại văn bản trên, kỹ năng “đọc - hiểu văn bản” cần đạt
tới mức độ sau:
- Biết đọc thầm, đọc thành tiếng có diễn cảm.
- Biết chọn đọc hững đoạn văn bản có minh họa cho các nhiệm
vụ học tập một cách chính xác, tốc độ vừa phải, đúng với nội dung văn
bản.
- Biết đọc nhanh các đoạn văn bản, ngữ liệu có những cách dùng
từ ngữ và cấu trúc câu phức tạp với năng lực phán đốn ngơn ngữ
nhanh nhạy.
- Biết đặt câu hỏi cho mình hoặc cho người khác để hiểu mục
đích văn bản và các
yêu cầu của nội dung học tập.
- Biết tóm tắt, chia đoạn, xác định chủ đề, mối liên hệ giữa các
phần trong văn
bản và biết đặt tên cho đoạn văn
- Biết nhận ra các câu văn, đoạn văn hay, có nội dung sâu sắc và
hiểu được nghĩa,
vai trò và tác dụng của cac từ ngữ, câu then chốt, các biện pháp nghệ
thuạt trong
15


đoạn văn đó.
- Nhớ chính xác một số câu, đoạn và văn bản hay, thơ hay biết
bình giá chi tiết
nghệ thuật trong các văn bản.
-. Đọc và hiểu được các phương thức biểu đạt khác nhau và đặc

điểm thể loại, thái độ, tình cảm và tư tưởng của tác giả.
- Xác định được các hệ thống luận điểm và tuyến lập luận trong
các văn bản qua
việc tổng kết các tác phẩm tự sự, trữ tình, nghị luận, nhật dụng và sự
kết hợp các phương thức tự sự, miêu tả, biểu cảm, lập luận, thuyết
minh trong một số tác phẩm qua việc hệ thống hoá các khái niệm:
Loại, thể loại, đặc điểm của truyện ngắn, tiểu thuyết và thể hiện đại.
Như vậy "Đọc - Hiểu văn bản" đã thực hiện phương châm tích
hợp. HS vận dụng được kỹ năng, hiểu biết về một phân môn này vào
việc học tập phân môn khác. Trong thực tế, rất hiếm những văn bản
chỉ dùng một phương thức biểu đạt mà một trong những trọng tâm
của phần tập làm văn là dạy cho học sinh biết phân tích, biết thực
hiện sự kết hợp các phương thức ấy. Chính điều đó đã tạo ra một
trường tích hợp vô cùng rộng lớn. Các câu hướng dẫn "Đọc - Hiểu văn
bản" trong SGK đãtạo ra cơ chế cho sự tích hợp ấy. Điều quan trọng là
giáo viên cần thực sự năng động, biết vận dụng linh hoạt và khi cần
vẫn có thể tạo ra những tình huống tích hợp mới. Việc đọc hiểu, phân
tích, bình giá các loại văn bản sẽ giúp HS có điều kiện tốt hơn các nội
dung làm văn tự sự, thuyết minh và nghị luận. Hoạt động "Đọc - Hiểu
văn bản" giúp HS qua việc đọc đúng sẽ cảm nhận và hiểu đúng những
thông tin, hiển ngôn và hàm ngôn trong văn bản. Nếu quan niệm văn
bản là sự tổng hợp của 3 cấu trúc: Cấu trúc ngơn ngữ, cấu trúc hình
tượng và cấu trúc ý nghĩa thì đối với HS lớp 8 thực hiện tốt hoạt động
"Đọc - Hiểu văn bản" có nghĩa là HS phải nắm và lý giải được mối liên
hệ của 3 lớp cấu trúc này không chỉ trên phương diện của từ ngữ, câu
chữ, nhịp điệu mà còn hiểu được giá trị biểu đạt và biểu cảm của ngôn
từ như là phương tiên để thể hiện hình tượng nghệ thuật, hiểu được
những quan điểm, tư tưởng về con người, về thời đại, về ý tưởng giáo
dục của tác giả gửi gắm trong văn bản.
16



Đối với một số truyện nước ngoài trong SGK Ngữ Văn 8 thì đó là
những văn bản tự sự tiêu biểu có lối kể chuyện hấp dẫn, nội dung giàu
tính nhân đạo. Các văn bản này được học song song với các nội dung
làm văn, đoạn văn tự sự kết hợp với miêu tả và biểu cảm cũng là do
dụng ý dạy tích hơp của các tác giả nhằm giúp HS có cái nhìn tồn
diện hơn về sự biến hố của tự sự cũng như sự đan xen các yếu tố
miêu tả, biểu cảm... trong văn tự sự. ở đó có sự độc đáo về cách tạo
dựng tình huống truyện, cách sắp xếp tình tiết, trình tự kể, cách khắc
hoạ nhân vật, cách chọn ngôi kể, lời kể....trong giáo án mới, hoạt động
"Đọc - Hiểu văn bản" có thể được tiến hành tuần tự theo 3 hướng
nhằm vào các nội dung của văn bản, đó là:
- Đọc - hiểu cấu trúc văn bản
- Đọc - Hiểu nội dung văn bản
- Đọc - hiểu ý nghỉa văn bản
* Hoạt động đọc - hiểu cấu trúc văn bản
Đây là hoạt động tiếp nhận các dấu hiệu cơ bảnvề thể loại của văn
bản. mỗi văn
bản được tạo ra chủ yếu từ một phương thức biểu đạt nào đó tương
ứng với các phương thứcphản ánh bằng nghệ thuật như tự sự hoặc trữ
tình .Đồng thời mỗi văn bản tồn tại trong một kiểu dáng thể nào đó
như truyện, ký , thơ....
Loại hình của văn bản quy định tính chất nội dung của văn bản,
trong khi thể của
nó quy định tính chất hình thức của văn bản. Từ đó tính chất của hoạt
động "Đọc - Hiểu văn bản" sẽ được quy đinh theo nguyên tắc: Đọc Hiểu văn bản phù hợp với đặc điểm của thể loại văn bản. điều đó cũng
đồng nghĩa với việc "Đọc - Hiểu văn bản" ở mỗi thể loại khác nhau. ở
văn bản tự sự, đọc để nắm chắc chuỗi các sự việc sung quanh nhân
vật để từ đó đánh giá tính chất xã hội của sự việc và nhân vật. Ở văn

bản trữ tình- Biểu cảm thì đọc để đồng cảm với nỗi niềm của con
người. Còn trong văn bản nghị luận thì đọc để nắm bắt các tư tưởng
của tác giả qua hệ thống luận điểm, luận cứ.
Chính vì vậy "Đọc - Hiểu cấu trúc văn bản" được coi là khởi điểm
của quá trình "Đọc - Hiểu văn bản", nó sẽ tạo cơ hội tích hợp rõ rệt
giữa văn, tập làm văn, mở luồng mạch cho hoạt động, tìm hiểu sâu
17


văn bản đồng thời rèn luyện kiến thức và kỹ năng nhận biết các kiểu
loại văn bản.
* Hoạt động: Đọc - hiểu nội dung văn bản
Đây là hoạt động đi sau vào văn bản nhằm phát hiện, phân tích,
đánh giá văn bản từ các chi tiết nổi bật. Nội dung văn bản bao gồm
nội dung đời sống và hình thức thể hiện. Nội dung của các tác phẩm
văn học không chỉ đơn thuần là nội dung đời sống mà là đời sống được
tổ chức trong các tác phẩm theo những cách thức của nghệ thuật
ngôn từ. Cái chết khủng khiếp và đau thương của một lão nông nghèo
hiện lên thật sinh động và cảm động trong lời văn miêu tả tỉ mỉ với vơ
số từ láy, từ tượng hình và từ tượng thanh ở phần kết truyện "Lão Hạc"
của Nam Cao.
Khơng có nội dung nào nằm ngồi hình thức của tác phẩm. Như
vậy thực chất của việc đọc hiểu nội dung văn bản là sự phát hiện phân
tích chiếm lĩnh các thành phần nội dung văn bản trong các dấu hiệu
hình thức của nó.
* Hoạt động đọc - hiểu ý nghĩa văn bản
Là hoạt động cuối cùng của một quá trình đọc hiểu văn bản. Là
quá trình đánh giá các phảm chất nổi trội của kết cấu nội dung hình
thức của văn bản. Hiểu văn là hiểu được cách làm, cách khám phá đời
sống của tác giả. Hiểu văn còn có nghĩa là cảm nhận vẻ đẹp của ngơn

từ, hình ảnh, nhịp điệu thể loại của văn bản . "Đọc - Hiểu ý nghĩa văn
bản" còn mở rộng tới một phương diện ngoài văn bản, điều mà lý luận
gọi là cấp độ đọc vượt ra khỏi dịng. Chẳng hạn có thể đọc trong văn
bản "Trong lòng mẹ" Ngữ Văn lớp 8 tập 1, một tình yêu đau đớn, trong
sáng bền bỉ của bé Hồng dành cho mẹ là bài ca thiêng liêng của tình
mẫu tử, nhưng cũng là hình ảnh của tuổi thơ cay đắng, tủi cực của
một nhà văn yêu thương vô hạn những cuộc đời khốn khổ- nhà văn
Ngun Hồng. Ở hoạt động này có cơ hội tích hợp cả 3 phân môn Văn
- Tập làm văn - Tiếng Việt.
Ngoài ra cũng cần thay đổi tư duy, cách truyền đạt kiến thức, vận dụng nhiều
phương pháp, nhiều biện pháp tối ưu trong mỗi tiết học; phải vận dụng các biện pháp
tích hợp – tích cực trong mỗi đơn vị kiến thức cụ thể, nhất là chọn đúng nội dung tích
hợp, tránh lạm dụng; thường xuyên học tập rút kinh nghiệm trong tổ chuyên môn, các
giáo viên khác trong các đợt thi nghiệm vụ sư phạm, thường xuyên thay đổi các hình
18


thức đọc – hiểu: đọc, đọc phân vai, xem hình ảnh, xem video, nghe bài hát được phổ
nhạc...
c. Kết quả việc thực hiện đổi mới phương pháp dạy học đọc – hiểu văn bản
đảm bảo tích hợp – tích cực môn Ngữ văn lớp 8/1 trường THCS Bạch Đằng
Sau khi áp dụng đổi mới phương pháp dạy đọc – hiểu văn bản đảm bảo nguyên
tắc tích hợp – tích cực môn Ngữ văn lớp 8/1 trường THCS Bạch Đằng và thực hiện bài
kiểm tra nhanh cuối tiết và đã thu được kết quả sau:
Giỏi
Yếu
Sĩ số
%
Khá
%

Trung bình
%
%
37
14
37,8
14
37,8
5
13,5
4
10,8
So với việc khơng sử dụng đổi mới phương pháp dạy học thì việc ứng dụng và
đổi mới phương pháp dạy học trong bộ môn Ngữ văn 8 đã làm thay đổi kết quả học tập
của học sinh, các em nắm bắt bài tốt hơn, hoạt động nhóm hiệu quả và đã nâng cao được
tinh thần đồn kết giữa các thành viên trong nhóm.
Tương tự với việc ứng dụng kiểu dạy học này trong các tiết học tiếp theo sẽ có
những chuyển biến tích cực.
d. So sánh đối chứng:
* Đối với giáo viên: nắm chắc phương pháp dạy học mới, đáp ứng với nhu cầu
học tập bộ môn Ngữ Văn của học sinh hiện nay và số giờ được xếp loại khá, giỏi tăng
lên, số giờ loại TB giảm hẳn đi.
* Đối với học sinh: năm vững phương pháp học tập mới, vận dụng tốt vào kĩ năng học
tập và làm bài của các em, giúp các em nắm vững kiến thức (SGK) được biên soạn theo
hướng mới này; các em học tập sôi nổi, hứng thú và nắm vững kiến thức. Qua đó học
sinh đã biết nhận xét đánh giá mọi vấn đề đang diễn ra trong xã hội
hiện nay đặc biệt môi trường sống có vai trị tác động đến nhận thức
của các em.
5. Những bài học rút ra từ đề tài này:
5.1. Ưu điểm:

Thực hiện đúng phương pháp đặc trưng bộ môn Ngữ Văn thấm nhuần quan điểm
tích hợp của bộ mơn.
Giúp giáo viên xác định đúng đắn mục đích, nội dung, mức độ, thời điểm và cách
thức kết hợp của bộ môn.
Giúp học sinh rèn luyện và hiểu đúng giá trị của việc đọc văn, hiểu văn không chỉ
trong trường mà còn trong đời sống hằng ngày của các em.

19


Phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo trong việc học tập và làm bài
của học sinh, rèn luyện “tư duy tích hợp” cho các em.
Nâng cao kĩ năng nghe – nói – đọc – viết của học sinh, tạo hứng thu, khơi gợi
cách học tốt bộ môn Ngữ Văn trong trường THCS.
Thực hiện đề tài này giúp tơi được nâng cao trình độ chun mơn, rèn luyện tay
nghề ngày càng vững vàng hơn, để đáp ứng tốt với sự đổi mới chương trình SGK phục
vụ các thế hệ học sinh ngày càng tốt hơn.
5.2. Nhược điểm:
Dạy Ngữ văn theo phương pháp đọc – hiểu văn bản, đảm bảo nguyên tắc tích hợp,
tích cực trong dạy học là một quá trình chuyển đồi về tư duy. Vì thế có những quan điểm
khác nhau, nhiều khi trái ngược nhau. Có quan điểm cho rằng đây là vấn đề đơn giản, có
quan điểm cho rằng đây là vấn đề khó thực hiện. Vì thế cần có một quan điểm đúng đắn,
khoa học thì mới thực hiện tốt vấn đề này.
Đối với học sinh, các em ngại đọc văn bản, chỉ thụ động nghe, ghi chép đã gây
cản trở cho việc thực hiện phương pháp dạy học đổi mới này… Vì thế việc thực hiện đề
tài này khơng hề dễ dàng, cần có quyết tâm cao mới vững vàng thực hiện tốt được.
Song tôi nghĩ với sự nhận thức đúng đắn, lòng yêu nghề, lo lắng, quan tâm, trận
trọng thể hệ trẻ thì những nhược điểm trên cũng khơng khó khắc phục đối với cả giáo
viên và học sinh.
III KẾT LUẬN

1. Kết luận:
Người giáo viên bình thường mang chân lý đến cho học sinh, người giáo viên
giỏi để học sinh đi tìm chân lý.
Dạy học Ngữ văn ở trường THCS theo phương pháp đọc – hiểu văn bản đảm bảo
nguyên tắc tích hợp – tích cực là trách nhiệm, nguồn cảm hứng của mỗi thầy cô giáo dạy
văn, đặc biệt là đối với bản thân tôi.
Học văn bản, điều đầu tiên là phải đọc rồi hiểu thì mới phân tích được tác phâm
văn học, tìm hiểu được tư tưởng, tình cảm tác giả.
Vì thế vấn đề này cần được quan tâm đúng mức để hiệu quả giáo dục, chất lượng
giáo dục ngày càng tốt hơn.
Hiện nay phương pháp dạy học thì rất nhiều nhưng quan trọng là phải biết vận
dụng chúng đúng thực tiễn bộ môn, kết hợp nhiều phương pháp để bài học thêm sinh
động, tránh lạm dụng một loại phương pháp sẽ gây nhàm chán cho tiết học.
Rất nhiều khẩu hiệu được đưa ra như "Dạy học bằng phương pháp nêu vấn
đề", "Phát huy tính tích cực của học sinh", "Lấy học sinh làm trung tâm trong dạy
20


học", "Dạy Ngữ Văn theo phương pháp tích hợp tích cực".... nhưng để thực hiện lại
không phải là chuyện dễ dàng mà cần có sự hỗ trợ, cố gắng của giáo viên và sự nỗ lực,
phấn đấu học tập của học sinh.
Tuy còn trẻ mới vào nghề, kinh nghiệm đứng lớp cịn non yếu nhưng tơi cũng xin
mạnh dạn đóng góp ý kiến để mong được các đồng nghiệp trao đổi và đánh giá để đề tài
được hoàn thiện và thực hiện có hiệu quả hơn.
2. Kiến nghị:
Khi thực hiện đề tài này, tơi xin mạnh dạn đóng góp ý kiến: Nội dung SGK tương
đối dài và nhiều khiến cho học sinh cảm thấy môn Ngữ Văn là một môn học nhàm chán,
gây buồn ngủ và phải học bài nhiều. Chính vì vậy giáo viên chúng ta cần làm thay đổi tư
tưởng của các em học sinh bằng cách tạo nên một khơng khí học tập thoải mái cho các
em, thay đổi cách thức lên lớp.

- Kiến nghị đối với nhà trường:
+ Thường xuyên tổ chức học tập, trao đổi kinh nghiệm giảng dạy lẫn nhau, nhất
là phương pháp đổi mới theo tinh thần SGK mới.
+ Nhà trường nên đầu tư nhiều sách tham khảo có chất lượng để cả giáo viên và
học sinh đọc và nghiên cứu.
Được như vậy tôi xin chân thành cảm ơn!

Người thực hiện

CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.
2.
3.
4.

Sách giáo khoa lớp 6, 7, 8, 9
Sách giáo viên lớp 6, 7, 8, 9
“Đọc văn và Làm văn” – Tác giả Đỗ Ngọc Thống – NXB Giáo dục Việt Nam.
Sách “Rèn kĩ năng cảm thụ thơ văn cho học sinh lớp 6” - Tác giả Nguyễn
Trọng Hoàn, Giang Khắc Bình – NXB Đại học Quốc Gia TP Hồ Chí Minh – Xuất
bản tháng 7 năm 2007.
5. Sách “Rèn kĩ năng cảm thụ thơ văn cho học sinh lớp 9” - Tác giả Ths Nguyễn
Trọng Hoàn,– NXB Đại học Quốc Gia TP Hồ Chí Minh Xuất bản tháng 7 năm
2007.
21


6. Sách “Kĩ năng đọc – hiểu văn 8” - Tác giả: Nguyễn Nguyễn Kim Phong (CB)
-Đặng Tường Như - Nhà xuất bản: NXB Giáo dục VN - Năm xuất bản: 2010

7. “Bài tập rèn kĩ năng tích hợp Ngữ Văn 8”- Tác giả: Vũ Nho (CB) - Nguyễn
Thúy Hồng, Trần Thị Thành - Nhà xuất bản: NXB Giáo dục VN- Năm xuất bản:
2009
8. “Hệ thống hỏi đọc – hiểu văn bản Ngữ Văn 9” - Tác giả: Trần Đình Chung Nhà xuất bản: NXB Giáo dục VN - Năm xuất bản: 9 – 2008

22



×