Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

ĐỀ vào 10

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (127.54 KB, 22 trang )

Đề thi tuyển sinh lớp 10 môn văn Đồng Nai năm 2021
I. Đọc hiểu (3 điểm)
Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu:
Em sinh ra trong sự nâng niu, đón chờ của những người thân và nhiều hơn thế nữa.
Tiếng khóc chào đời của em đã thắp thêm niềm hy vọng, niềm tin chiến thắng đại
dịch cho những chiến sĩ áo trắng nơi đây. Dù cho ngoài kia, cả thế giới đang chao
đảo vì cơn bão tử thần Covid-19, thì em ơi, cứ ngủ thật ngon lành bởi trong này
bình n lắm.Em được chở che trong vịng tay ấm êm của những con người thầm
lặng. Đó là những bác sĩ không quản ngày đêm hy sinh bản thân mình, hết lịng vì
người bệnh. Tấm chắn giọt bắn lúc nào cũng đầy hơi nước vì khơng có cơ hội được
bỏ ra, lưng áo ướt đẫm mồ hôi cho dù là đang ngữa những ngày đơng tháng giá. Đó
là những người tự nguyện ở luôn trong bệnh viện, cả cái Tết đồn viên cũng chẳng
về nhà. Đó là cơ y tá sẵn sàng gửi con nhỏ mới lên ba cho ông bà chăm sóc, và
từng đêm, khi em quấy khóc, cô lại bế bồng và hát ru em câu hát "À ơi, con cị bay
lả bay la..."
[...]Thế giới có những anh hùng thầm lặng, sẵn sàng cho đi mà không địi hỏi bất
cứ thứ gì. Nơi đây đã cho chị biết hạnh phúc không phải chỉ là được ăn ngon, mặc
đẹp, được thoả sức vui chơi mà là được sống trong niềm tin về tình u thương
giữa con người.
(Trích Thư gửi em bé có mẹ nhiễm Covid-19 giành giải nhất Viết thư UPU,
VnExpress, 11/5/2021)
Câu 1 (0.5 điểm). Từ cơn bão trong đoạn trích được sử dụng theo nghĩa gốc hay
nghĩa chuyển?
Câu 2 (05. điểm). Theo tác giả, tiếng khóc chào đời của em mang lại điều gì cho
những chiến sĩ áo trắng?
Câu 3 (1.0 điểm). Xác định và nêu tác dụng của một phép tu từ được sử dụng trong
phần in đậm
Câu 4(1.0 điểm) . Em có đồng tình với suy nghĩ "hạnh phúc không phải chỉ là được
ăn ngon, mặc đẹp, được thoả sức vui chơi mà là được sống trong niềm tin về tình
yêu thương giữa con người?" Vì sao?
II. Làm văn (7.0 điểm)




Câu 1. (2.0 điểm). Từ nội dung đoạn tích ở phần Đọc hiểu, hãy viết một đoạn văn
(khoảng 150 chữ) bàn về sức mạnh của tình yêu thương giữa con người trong cuộc
chiến chóng đại dịch Covid 19.
Câu 2 (5.0 điểm). Cảm nhận của em về nhân vật bé Thu qua hai đoạn trích sau:
[1]… Suốt ngày anh chẳng đi đâu xa, lúc nào cũng vỗ về con. Nhưng càng vỗ về
con bé càng đẩy ra. Anh mong được nghe một tiếng “ba” của con bé, nhưng con bé
chẳng bao giờ chịu gọi. Nghe mẹ nó bảo gọi ba vào ăn cơm thì nó bảo lại:
- Thì má cứ kêu đi.
Mẹ nó nổi giận quơ đũa bếp dọa đánh, nó phải gọi nhưng lại nói trổng:
- Vơ ăn cơm!
Anh Sáu vẫn ngồi im,giả vờ khơng nghe, chờ nó gọi “Ba vơ ăn cơm”. Con bé cứ
đứng trong bếp nói vọng ra:
- Cơm chín rồi!
Anh cũng khơng quay lại. Con bé bực quá, quay lại mẹ và bảo:
- Con kêu rồi mà người ta không nghe.”
[2] - Thôi ! Ba đi nghe con ! - Anh sáu khe khẽ nói.
Chúng tơi, mọi người - kể cá anh, đêu tướng con bé sẽ đứng n đó thơi. Nhưng
thật lạ lùng, đển lúc ẩy, tinh cha con như bỗng nối dậy trong người nó, trong ¡UC
khơng ai ngờ đến thi nó bỗng kêu thét lên:
- Ba...a...a... ba!
Tiếng kêu của nó như tiêng xé, xé sự im lặng và xé cả ruột gan mọi người, nghe
thật xót xa. Đó là tiếng "ba" mà nó cố đè nén trong bao nhiêu năm nay, tiếng "ba"
như vỡ tung ra từ đáy lịng nó, nó vừa kêu vừa chạy xơ tới, nhanh như một con sóc,
nó chạy thót lên và dang hai tay ơm chặt lẩy cố ba nó. [...]
Nó vừa ơm chặt lấy cổ ba nó vừa nói trong tiếng khóc:
- Ba! Khơng cho ba đi nữa! Ba ở nhà với con
Ba nó bế nó lên. Nó hon ba nó cùng khắp. Nó hơn tóc, hơn cổ, hôn vai và hôn cả
viết thẹo dài bên má của ba nó nữa

( Trích Chiếc lược ngà, Ngun Quang Sáng, SGK Ngữ văn 9, tập 1)
Đáp án đề thi vào lớp 10 môn văn Đồng Nai năm 2021
Câu 1(0.5 điểm). Từ cơn bão trong đoạn trích được sử dụng theo nghĩa chuyển.


Câu 2 (05. điểm). Theo tác giả, tiếng khóc chào đời của em mang lại niềm hy vọng,
niềm tin chiến thắng đại dịch cho những chiến sĩ áo trắng nơi đây.
Câu 3 (1.0 điểm). Biệt pháp điệp cấu trúc: "Đó là".
Tác dụng: nhấn mạnh hơn về những gì mà các bác sĩ ở tuyến đầu chống dịch nơi
đây vẫn đang kiên cường đấu tranh , những hy sinh thầm lặng.
Câu 4(1.0 điểm) . Trình bày quan điểm của bản thân em, lý giải hợp lý.
Gọi ý: Đồng ý. Lý giải:
Hạnh phúc không chỉ là tận hưởng những nhu cầu mang tính chất cá nhân mà hạnh
phúc chính là được sống trong tình yêu thương giữa con người với con người, được
yêu thương và trao đi yêu thương. Như vậy cuộc sống mới thực sự có ý nghĩa.
II. Làm văn
Câu 1.
1. Mở đoạn : Giới thiệu về đề tài cần nghị luận: Sức mạnh của tình yêu thương
giữa con người trong cuộc chiến chống đại dịch Covid 19 2.
Thân đoạn
* Giải thích: Tình u thương là sự quan tâm chăm sóc, che chở, lo lắng cho nhau
giữa con người với con người.
- > Sức mạnh của tình yêu thương giữa con người trong cuộc chiến chống đại dịch
Covid 19 giúp đem lại cuộc sống hịa bình, tốt đẹp. Mỗi người biết cách nhìn cuộc
sống một cách tích cực hơn. Chúng ta có thể nhìn thấy truyền thống dân tộc ấy
được phát huy trong tình hình chống giặc” COVID-19.
* Biểu hiện:
- Tình yêu thương được xuất phát từ trái tim, luôn yêu thương, quan tâm người
khác. - Biết giúp đỡ, sẵn sàng chia sẻ
- Biết hy sinh, tha thứ cho người khác.

- Dẫn chứng, chứng minh hành động cụ thể.
+ Dịch bệnh COVID-19 đã càn quét, gây ảnh hưởng về Sức Khỏe, kinh tế của
nhiều quốc gia trên thế giới. Là một nước nằm trong vùng ảnh hưởng của dịch
bệnh, Việt Nam đã có những cách xử lý tuyệt vời, làm thế giới thán phục. Có thể


nói, chính nhờ sức mạnh của tình u thương đã giúp đất nước ta bước đầu chiến
thắng trên mặt trận chống Tình cảm gia đình, thầy trị, hàng xóm láng giềng, chung
tay góp từ thiện ủng hộ...
+ Ngay từ lúc dịch bệnh bùng phát, giữa bối cảnh nhiều quốc gia hoang mang lo
lắng, chính phủ nước ta đã có động thái quyết tâm, thể hiện trách nhiệm bảo vệ,
giúp đỡ công dân, “Việt Nam quyết tâm không để ai bị bỏ lại phía sau, trong cuộc
chiến chống dịch bệnh COVID-19”.
+ Các hoạt động thiện nguyện, “lá lành đùm lá rách”, giúp đỡ người có hồn cảnh
khó khăn.
+ Sự hi sinh của các bác sĩ tuyến đấu chống dịch COVID-19.
+ Học sinh, sinh viên các trường đại học phát khẩu trang, nước rửa tay cho người
dân.
+ Phong trào giải cứu dưa hấu, giải cứu tôm hùm,... khắp các tỉnh thành.
* Ý nghĩa:
- Mang lại hạnh phúc cho nhân loại.
- Tình cảm giữa con người với con người ngày một bền chặt hơn.
- Xây dựng được một xã hội văn minh, giàu tình người.
- Phát huy sức mạnh tình yêu thương: Việt Nam đã vượt qua tình trạng khó khăn
do COVID 19 gây ra.
+ Cơ bản đã kiểm soát được dịch bệnh...
* Phản đề: Những người sống vô cảm, không biết yêu thương con người, đối xử tệ
bạc với nhau.



* Liên hệ, rút ra bài học: Lòng yêu thương rất quan trọng, cần yêu thương con
người nhiều hơn.
Câu 2.
Dàn ý tham khảo
1. Mở bài
- Giới thiệu khái quát về tác giả Nguyễn Quang Sáng (những nét cơ bản về con
người, cuộc đời, đặc điểm sáng tác,...) - Giới thiệu khái quát về truyện ngắn “Chiếc
Lược Ngà” (xuất xứ, hoàn cảnh ra đời, những đặc sắc về nội dung và nghệ thuật,...)
- Giới thiệu khái quát về nhân vật bé Thu.
2. Thân bài
a. Bé Thu trước khi chịu nhận ông Sáu là ba (ĐOẠN 1)
- Thu là một đứa bé giàu lịng u thương cha và ln hiện hữu khao khát đến ngày
được gặp cha.
- Ngày gặp cha, Thu có một thái độ rất khác thường, trước sự ngỡ ngàng của mọi
người.
+ Trong ba ngày ở nhà, ông Sáu luôn tìm cách bù đắp cho con thì bé Thu:
Ơng Sáu “càng vỗ về con bé càng đẩy ra
Nhất quyết không chịu gọi ơng Sáu một tiếng “ba”
Nói trống khơng với ông Sáu
Trong những tình huống cấp bách như phải chắt nước của một nồi cơm to thì cơ bé
vẫn cố loay hoay, tự tìm cách làm chứ nhất định khơng chịu nhờ tới sự giúp đỡ của
ơng Sáu,
Ơng Sáu gắp trứng cá vào chén cho bé Thu thì cơ bé “liền lấy đũa xoi vào chén, để
đó rồi bất thần hất cái trứng ra”, làm cho cơm văng hết cả ra mâm.
Khi bị ông Sáu đánh, bé Thu không phản ứng gì mà bỏ về nhà bà ngoại.
->Bé Thu là một cô bé rất ngang ngạnh, bướng bỉnh nhưng sự bướng bỉnh ấy của
cô bé không hề đáng trách. Bởi Thu khơng nhận ba khơng phải vì khơng u ba mà
bởi trong suốt những năm tháng chiến tranh, có chỉ nhìn ba qua tấm ảnh để rồi đến
ngày gặp gỡ, vết thẹo trên mặt của ông Sáu khiến cho ông khác lạ so với trong ảnh,
điều đó khiến bé Thu không nhận ba.

b, Bé Thu khi nhận ông Sáu là ba (ĐOẠN 2)


- Khi bé Thu được bà ngoại kể cho câu chuyện về vết thẹo trên gương mặt của ba,
bé Thu đã hiểu và thay đổi thái độ của mình.
+ Khn mặt bé Thu “sầm lại buồn rầu” và “nhìn với vẻ nghĩ ngợi sâu xa”.
+ Khi cô bé bắt gặp ánh mắt buồn rầu của ơng Sáu thì “đơi mắt mênh mông của
con bé bỗng xôn xao” + Cất tiếng gọi ba – một tiếng kêu đến xé lòng.
+ Chạy lại ôm ba thật chặt, hôn ba và hôn lên cả vết thẹo.
+ Muốn ba đừng đi nữa, ở nhà với mình.
+ Cơ bé chia tay ba với hi vọng ba sẽ tặng cho mình một chiếc lược ngà, để cơ ln
cảm thấy ấm áp như có ba ln bên mình.
-> Trong khoảnh khắc chia li, mọi khoảng cách đã bị xóa bỏ, chỉ cịn lại ở đó tình
cảm sâu đậm mà bé Thu dành cho ba.
-> Hai đoạn văn tái hiện lại hại khoảnh khắc và tình huống bé Thu dành cho cha
của mình. Tác giả đã thành cơng trong nghệ thuật xây dựng tâm lý nhân vật trẻ em.
Từ đó cho thấy Thu là cơ bé cá tính, mạnh mẽ, yêu cha tha thiết. Chính sự kiên
định, quyết liệt của bé Thu đã làm nên cá tính cứng cỏi, ngoan cường của cơ giáo
liên giải phóng về sau.
3. Kết bài
Khái quát những đặc điểm cơ bản của nhân vật bé Thu, nghệ thuật xây dựng nhân
vật và nêu cảm nghĩ của bản thân.
KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10
Sở GD&ĐT Đồng Nai
NĂM HỌC: 2020 - 2021
ĐỀ CHÍNH THỨC
Mơn: Văn
I. ĐỌC HIỂU (3,0 điểm)
Đọc văn bản và thực hiện các yêu cầu:
(1) Khi tôi lên 8 hay 9 tuổi gì đó, tơi nhớ thỉnh thoảng mẹ tơi vẫn nướng bánh mì

cháy khét. Một tối nọ, mẹ tơi về nhà sau một ngày làm việc dài và bà làm bữa tốt
cho cha con tôi. Bà dọn ra bàn vài lát bánh mì và đợi xem có ai nhận ra điều bất
thường của chúng và lên tiếng hay không. Nhưng cha tôi chỉ ăn miếng bánh của
ông và hỏi tôi về bài tập cũng như những việc ở trường học như mọi hơm. Tơi
khơng cịn nhớ tơi đã nói gì với ông hôm đó, nhưng tôi nhớ đã nghe mẹ tôi xin lỗi
ơng vì đã làm cháy bánh mì. Và tơi khơng bao giờ qn được những gì cha tơi nói
với mẹ tơi :"Em à, anh thích bánh mì cháy mà".
(2) Đêm đó, tơi đến bên chúc cha tơi ngủ ngon và hỏi có phải thực sự ơng thích
bánh mì cháy. Cha tơi khốc tay qua vai tơi và nói:"Mẹ Con đã làm việc rất vất vả
cả ngày và mẹ rất mệt. Một lát bánh mì cháy chẳng thể làm hại ai con ạ, những
con biết điều gì thực sự gây tổn thương cho người khác không? Những lời chê bai


trách móc cay nghiệt đấy [...] Điều mà cha học được qua nhiều năm tháng, đó là
học cách chấp nhận sai sót của người khác và chọn cách ủng hộ những khác biệt
của họ. Đó là chìa khóa quan trọng nhất để tạo nên một mối quan hệ lành mạnh,
trưởng thành và bền vững con ạ. Cuộc đời rất ngắn ngủi để thức dậy với những
hối tiếc và khó chịu. Hãy yêu quý những người cư xử tốt với con, và hãy cảm thông
với những người chưa làm được điều đó".
(Theo quatangyeu.vn)
Câu 1 (0.5 điểm). Xác định và gọi tên một thành phần biệt lập có trong đoạn (1),
Câu 2 (0.5 điểm). Theo người cha, điều gì thực sự gây tổn thương cho người khác?
Câu 3 (1,0 điểm). Xét trong ngữ cảnh văn bản, câu nói của người cha: “Em à, anh
thích bánh mì cháy mà" đã vi phạm phương châm hội thoại nào? Việc vi phạm ấy
nhằm mục đích gì?
Câu 4 (1.0 điểm). Em có đồng ý với quan điểm "Cuộc đời rất ngắn ngủi để thức
dậy với những hối việc và khó chịu" khơng? Vì sao?
II. LÀM VĂN (7,0 điểm)
Câu 1 (2.0 điểm)
Từ văn bản Đọc hiểu, hãy viết một đoạn văn (khoảng 150 chữ) trình bày ý nghĩa

của việc biết chấp nhận sai sót của người khác.
Câu 2 (5,0 điểm) Cảm nhận vẻ đẹp của người chiến sĩ lái xe qua hai đoạn thơ sau:
Khơng có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tn mưa xối như ngồi trời
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khơ mau thơi.
Và:
Khơng có kính, rồi xe khơng có đèn
Khơng có mui xe, thùng xe có xước
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim.
(Trích Bài thơ về tiểu đội xe khơng kính, Phạm Tiến Duật, SGK Ngữ văn 9, Tập 1)


Đáp án đề tuyển sinh vào lớp 10 môn Văn Đồng Nai 2020
I. ĐỌC HIỂU (3,0 điểm)
Câu 1. Thành phần biệt lập tình thái: Khi tơi lên 8 hay 9 tuổi gì đó,
Câu 2. Theo người cha, điều gì thực sự gây tổn thương cho người là những lời chê
bai trách móc cay nghiệt đấy
Câu 3 Câu nói của người cha: “Em à, anh thích bánh mì cháy mà." đã vi phạm
phương châm hội thoại về chất.
Việc vi phạm này giúp người cha muốn nói rằng, ơng biết người vợ làm việc cả
ngày rất mệt mỏi nên không thể chuẩn bị bữa tối tốt cho gia đình
Câu 4 Nêu quan điểm của em về "Cuộc đời rất ngắn ngủi để thức dậy với những
hối việc và khó chịu"
Đưa ra lập luận thuyết phục
II. LÀM VĂN (7,0 điểm)
Câu 1 (2.0 điểm)
Giới thiệu vấn đề: chấp nhận sai sót của người khác
Đoạn văn tham khảo

Đoạn trích trong phần Đọc hiểu đã mang lại cho em rất nhiều thơng điệp có ý
nghĩa, nhưng tiêu biểu nhất là hãy học cách chấp nhận sai sót của người khác. Thật
vậy, đó là một thơng điệp vô cùng quan trọng trong cuộc sống hiện nay. Thực tế đã
minh chứng, con người khơng bao giờ hồn hảo, ai cũng tồn đọng những mặt hạn
chế và mặt tích cực. Hơn hết, sẽ chẳng ai có thể thành cơng nhiều lần mà khơng
phải trải qua một lần sai sót, thất bại nào. Vậy, trước những sai lầm của họ, bạn sẽ
làm như thế nào? Có phải là trách phạt hay là mắng mỏ hay là chấp nhận sai phạm
đó, cho họ một cơ hội nữa? Chắc có lẽ, đa số bạn sẽ xử phạt và không cho họ một
cơ hội để làm lại từ đầu. Nhưng như vậy, chẳng phải là bạn sẽ rũ bỏ tất cả những
cố gắng của họ. Chính bởi lẽ đó, ta phải học cách chấp nhận sai sót của người
khác. Bên cạnh đó, hãy ủng hộ họ bởi biết đâu rằng, chính từ những sai sót đó lại
làm nên thành cơng, giá trị của mỗi con người sau này. Tuy nhiên, không phải lúc
nào chúng ta cũng chấp nhận sai phạm của người khác. Ta sẽ chẳng thể tha thứ cho
kẻ cứ tái phạm từ lỗi sai này đến lỗi sai khác. Qua đây, mỗi người hãy rèn luyện tri
thức, kĩ năng và học cách tha thứ, ủng hộ sự khác biệt của một ai đó. Có như vậy,
bạn mới sống lương thiện, nhân hậu và được mọi người yêu mến.
Câu 2 (5,0 điểm)
Mở bài: Giới thiệu tác giả, tác phẩm.
Thân bài. Nêu cảm nhận
Khổ 1. Vẻ đẹp trong bức chân dung tinh thần của người lính trong bài thơ chính là
tinh thần lạc quan, sơi nổi, bất chấp khó khăn, nguy hiểm.
Phạm Tiến Duật ghi lại những gian khổ mà người lính đã trải qua:
Khơng có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tn mưa xối như ngoài trời


Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.
- Lại một lần nữa, người đọc bắt gặp hình ảnh người lính lái xe trong cái vẻ ngang
tàn, chấp nhận mọi thử thách: “Ừ thì ướt áo” như một tiếng tặc lưỡi. Luôn luôn là

thái độ bất cần, chất chấp hồn cảnh. Khó khăn,gian khổ cũng khơng làm ảnh
hưởng đến ý chí của họ, khơng có gì ngăn nổi bánh xe lăn. Nhiệt huyết cách mạng
của người lái xe khơng cịn là trừu tượng nữa mà được tính bằng cung đường “lái
trăm cây số nữa”. Những cung đường ấy trong mưa bom bão đạn phải trả bằng mồ
hơi xương máu. Gian khổ là vậy, nhưng hình ảnh người lính lái xe vẫn phơi phới
niềm tin, tràn đầy nghị lực:
“Mưa ngừng gió lùa khơ mau thơi”
Một câu thơ với cấu trúc khá đặc biệt, có bảy từ mà đến sáu thanh bằng góp phần
diễn tả sự lâng lâng bay bổng. Trong hồn cảnh nghiệt ngã khơng chỉ có mưa bom
bão đạn của kẻ thù mà cịn có “mưa rừng Trường Sơn” – những cơn mưa lũ xối xả,
nhưng người lính lái xe vẫn khơng hề chùn bước, ngại ngùng. Trái lại,như thép đã
tôi luyện, họ càng dày dạn, vững vàng, coi mưa gió là chuyện bình thường. Ngồi
sau vô lăng, chạy xe trong mưa rừng. tranh thủ từng phút vượt qua cung đường dài
đầy nguy hiểm để đưa hàng tới đích phục vụ tiền phương. Câu thơ không chỉ là
miêu tả, không chỉ là lời tự động viên, mà còn là một tâm hồn yêu đời lạc quan,
một tính cách trẻ trung đầy chất lính.
Khổ 2. Hồn thiện vẻ đẹp của người lính, đó là lịng u nước, ý chí chiến đấu giải
phịng miền Nam:
Khơng có kính rồi xe khơng có đèn
Khơng có mui xe, thùng xe có xước
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:
hủ cần trong xe có một trái tim.
– Giờ đây những chiếc xe khơng chỉ mất kính mà lại khơng đèn, khơng mui, thùng
xe có xước. Chiếc xe đã biến dạng hồn tồn. Người lính xế lại chất chồng khó
khăn. Sự gian khổ nơi chiến trường ngày càng nâng lên gấp bội lần nhưng khơng
thể làm chùn bước những đồn xe nối đi nhau ngày đêm tiến về phía trước.
– Ngun nhân nào mà những chiếc xe tàn dạng ấy vẫn băng băng chạy như vũ
bào? Nhà thơ đã lí giải: “Chỉ cần trong xe có một trái tim”.
+ Câu thơ dồn dập cứng cáp hẳn lên như nhịp chạy của những chiếc xe khơng
kính. Từ hàng loạt những cái “khơng có” ở trên, nhà thơ khẳng định một cái có, đó

là “một trái tim”.
+ “Trái tim” là một hoán dụ nghệ thuật tu từ chỉ người chiến sĩ lái xe Trường Sơn
năm xưa. Trái tim của họ đau xót trước cảnh nhân dân miền Nam sống trong khói
bom thuốc súng, đất nước bị chia cắt thành hai miền.
+ Trái tim ấy dào dạt tình yêu Tổ quốc như máu thịt, như mẹcha, như vợ như
chồng… Trái tim ấy luôn luôn sục sôi căm thù giặc Mỹ bạo tàn.


=> u thương, căm thù chính là động lực thơi thúc những người chiến sĩ lái xe
khát khao giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Để ước mơ này trở thành
hiện thực,chỉ có một cách duy nhất: vững vàng tay lái, cầm chắc vơ lăng. Vì thế
thử thách ngày càng tăng nhưng tốc độ và hướng đi không hề thay đổi.
=> Đằng sau những ý nghĩa ấy, câu thơ còn muốn hướng con người về chân lý thời
đại của chúng ta: sức mạnh quyết định chiến thắng không phải là vũ khí mà là con
người giàu ý chí, anh hùng, lạc quan, quyết thắng.
=> Có thể coi câu thơ cuối là câu thơ hay nhất của bài thơ. Nó là nhãn tự, là con
mắt thơ, bật sáng chủ đề, tỏa sáng vẻ đẹp hình tượng người lính lái xe thời chống
Mỹ.
Kết bài: Khí thế quyết tâm giải phóng miền Nam của toàn dân toàn quân ta, khẳng
định con người mạnh hơn sắt thép. Lòng nhiệt huyết của tuổi trẻ, của những người
con đã dâng trọn đời mình cho Tổ quốc.

Đề thi vào lớp 10 môn Văn 2019 của tỉnh Đồng Nai gồm 6 câu hỏi. Thời gian
làm bài là 120 phút. Kiến thức chủ yếu trong chương trình học môn Ngữ Văn lớp 9
Chi tiết đề thi như sau:
I. ĐỌC HIỂU (3.0 điểm)
Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu:
Mỗi chúng ta đều giống một đóa hoa. Có những bơng hoa lớn và cũng có những
bơng hoa nhỏ, có những bơng nở sớm và những bơng nở muộn, có những đóa hoa
rực rỡ sắc màu được bày bán ở những cửa hàng lớn, cũng có những đóa hoa đơn

sắc kết thúc “đời hoa” bên vệ đường.
Sứ mệnh của hoa là nở. Cho dù khơng có những ưu thế để như nhiều loài hoa
khác, cho dù được đặt ở bất cứ đâu, thì cũng hãy bừng nở rực rỡ, bung ra những
nét đẹp mà chỉ riêng ta mới có thể mang đến cho đời.
[...]
Hãy bung nở đóa hoa của riêng mình dù có được gieo mầm ở bất cứ đâu.
(Kazuko Watanabe, Mình là nắng việc của mình là chói chang,
Vũ Thùy Linh dịch, NXB Thế giới, 2018)
Câu 1 (0.5 điểm). Xác định phương thức biểu đạt chính của văn bản.
Câu 2 (1.0 điểm). Chỉ ra và nêu tác dụng của một phép tu từ được sử dụng trong
câu văn: Có những bơng hoa lớn và cũng có những bơng hoa nhỏ, có những bơng
nở sớm và những bơng nở muộn, có những đóa hoa rực rỡ sắc màu được bày bán ở
những cửa hàng lớn, cũng có những đóa hoa đơn sắc kết thúc "đời hoa” bên vệ
đường.


Câu 3 (0.5 điểm). Nêu hàm ý của câu: Hãy bung nở đóa hoa của riêng mình dù có
được gieo mầm ở bất cứ đâu.
Câu 4 (1.0 điểm). Em có đồng tình với suy nghĩ của tác giả: “Mỗi chúng ta đều
giống một đóa hoa.” khơng? Vì sao?
II. LÀM VĂN (7.0 điểm)
Câu 1 (2.0 điểm) Từ nội dung văn bản phần Đọc hiểu, hãy viết một đoạn văn
(khoảng 150 chữ) với chủ đề: Tơi là một đóa hoa.
Câu 2 (5.0 điểm)
Cảm nhận của em về vẻ đẹp của các cô gái thanh niên xung phong qua hai đoạn
trích sau:
Cịn chúng tơi thì chạy trên cao điểm cả ban ngày. Mà ban ngày chạy trên cao
điểm không phải chuyện chơi. Thần chết là một tay khơng thích đùa. Hắn ta lẩn
trong ruột những quả bom. Tơi bây giờ cịn một vết thương chưa lành miệng ở đùi.
Tất nhiên, tôi không vào viện quân y. Việc nào cũng có cái thú của nó. Có ở đâu

như thế này khơng: đất bốc khói, khơng khí bàng hồng, máy bay đang ầm ì xa
dần. Thần kinh căng như chão, tim đập bất chấp cả nhịp điệu, chân chạy mà vẫn
biết rằng khắp chung quanh có nhiều quả bom chưa nổ. Có thể nổ bây giờ, có thể
chốc nữa. Nhưng nhất định sẽ nổ... Rồi khi xong việc, quay lại nhìn cảnh đoạn
đường một lần nữa, thở phào, chạy về hang.
Và:
Tơi thích nhiều bài. Những bài hành khúc bộ đội hay hát trên những ngả đường
mặt trận. Tơi thích dân ca quan họ mềm mại, dịu dàng. Thích "Ca-chiu-sa" của
Hồng qn Liên Xơ. Thích ngồi bó gối mơ màng: "Về đây khi mái tóc cịn xanh
xanh...". [...] Chị Thao hát: "Đây Thăng Long, đây Đông Đơ... Hà Nội ...". Nhạc
sai bét, cịn giọng thì chua, chị không hát trôi chảy được bài nào. Nhưng chị lại có
ba quyền số dày, chép bài hát. Rỗi là ngồi chép bài hát. Thậm chí, say mê chép cả
những lời tơi tự bịa ra nữa.
(Trích Những ngơi sao xa xôi – Lê Minh Khuê, SGK Ngữ văn 9, tập 2)
Đáp án đề thi vào lớp 10 môn Văn 2019 Đồng Nai
Lời giải đề thi Văn vào lớp 10 2019 Đồng Nai được biên soạn mang mục đích
tham khảo:
I. ĐỌC HIỂU
Câu 1. Phương thức biểu đạt chính của văn bản là nghị luận.
Câu 2.
"Có những bơng hoa lớn và cũng có những bơng hoa nhỏ, có những bơng nở sớm
và những bơng nở muộn, có những đóa hoa rực rỡ sắc màu được bày bán ở những
cửa hàng lớn, cũng có những đóa hoa đơn sắc kết thúc "đời hoa” bên vệ đường."


Phép tu từ được sử dụng trong câu văn: điệp từ"Có những...cũng có những...". Liệt
kê những cuộc đời khác nhau của hoa.
Câu 3. Hàm ý của câu: Hãy bung nở đóa hoa của riêng mình dù có được gieo mầm
ở bất cứ đâu:
Dù ta khơng có ưu thế được như nhiều người khác, cho dù ta sống trong hoàn cảnh

nào thì cũng hãy bung nở rực rỡ, phơ hết ra những nét đẹp mà chỉ riêng ta mới có
thể mang đến cho đời, hãy luôn nuôi dưỡng tâm hồn con người và làm cho xã hội
trở nên tốt đẹp hơn.
Câu 4. Em đồng tình với suy nghĩ của tác giả: “Mỗi chúng ta đều giống một đóa
hoa”. Vì:
- Mỗi người là một đóa hoa tuyệt vời trên thế giới này, tựa như mỗi một món quà
độc đáo
- Mỗi người đề có năng lực và phẩm chất tốt đẹp riêng của mình để làm đẹp cho
cuộc đời
II. LÀM VĂN
Câu 1: Viết đoạn văn ngắn với chủ đề: Tơi là một đóa hoa.
Câu 2:
Dàn ý chi tiết:
I. Mở bài:
- Giới thiệu về tác giả Lê Minh Khuê
- Giới thiệu về tác phẩm “Những ngôi sao xa xôi”
- Giới thiệu nội dung đoạn trích và nêu cảm nhận chung về nhân vật Phương Định:
Khung cảnh và công việc phá bom của Phương Định ở một cao điểm trên đường
mòn Trường Sơn đã được nhà văn tái hiện một cách chân thực và sinh động qua
đoạn trích trên. Nhân vật Phương Định trong đoạn trích đã để lại ấn tượng sâu đậm
trong lịng người đọc bởi lịng quả cảm, khơng sợ hi sinh…
II. Thân bài:
1. Hoàn cảnh sống và chiến đấu:
- Phương Định cùng với chị Thao và Nho làm thành một tổ trinh sát mặt đường.
Họ ở “trong một hang dưới chân cao điểm”…
- Công việc của Phương Định và đồng đội đặc biệt nguy hiểm. Hằng ngày, họ thay
nhau đứng trên cao điểm đếm bom rơi rồi lao ra trọng điểm sau mỗi trận bom để
đo khối lượng đất, đá phải san lấp, đánh dấu và phá những quả bom chưa nổ.
=> Cuộc sống gian khổ giữa chiến trường ác liệt, công việc đầy nguy hiểm và luôn
phải đối mặt với cái chết, nhưng Phương Định vẫn giữ được những vẻ đẹp của chủ

nghĩa anh hùng cách mạng. Nổi bật là tinh thần dũng cảm, gan dạ, không sợ hi sinh
được thể hiện sâu sắc trong một lần phá bom.
- Dù công việc của họ rất khó khăn nguy hiểm nhưng họ vẫn lạc quan và yêu đời
+ Cô thuộc rất nhiều bài hát và hay hát
+ Cô rất hay mơ mộng và nghĩ vẫn vơ


=> Phương Định là một cô gái lạc quan yêu đời và yêu nước, có tâm hồn trong
trắng, hồn nhiên.
2. Tinh thần dũng cảm, gan dạ trong một lần phá bom:
- Khung cảnh và khơng khí chưa đầy sự căng thẳng “Vắng lặng đến phát sợ. Cây
còn lại xơ xác. Ðất nóng. Khói đen vật vờ từng cụm trong khơng trung, che đi
những gì từ xa”.
=> Khơng cần tơ vẽ, tự bản thân khung cảnh ấy, với những hình ảnh của hung thần
chiến tranh đã đủ gây ấn tượng về chiến trường ác liệt, nơi hằng ngày Phương Định
cùng với những người đồng đội của mình phải sống và chiến đấu, làm nhiệm vụ.
Trang viết của Lê Minh Khuê đã ghi lại một cách ít lời nhất cuộc chiến đấu khốc
liệt của tổ trinh sát mặt đường.
- Trong khơng khí căng thẳng và vắng lặng đến rợn người, nhưng rồi một cảm giác
bỗng đến với cô làm cô không sợ nữa: “Tôi đến gần quả bom. Cảm thấy ánh mắt
các chiến sĩ dõi theo mình, tơi khơng sợ nữa. Tơi sẽ khơng đi khom. Các anh ấy
khơng thích cái kiểu đi khom khi có thể cứ đàng hồng mà bước tới”. Lịng dũng
cảm của cơ như được kích thích bởi sự tự trọng. Chính tình đồng đội đã khiến cơ
vững tâm hơn, yên tâm hơn về công việc nguy hiểm mà mình đang và sẽ phải đối
mặt ở phía trước.
- Và khi đã ở bên quả bom, kề sát với cái chết có thể đến tức khắc, từng cảm giác
của cô như cũng trở nên sắc nhọn hơn và căng như dây đàn: “thỉnh thoảng lưỡi
xẻng chạm vào quả bom. Một tiếng động sắc đến gai người cứa vào da thịt tơi, tơi
rùng mình và bỗng thấy tại sao mình làm q chậm. Nhanh lên một tí! Vỏ quả bom
nóng. Một dấu hiệu chẳng lành”. Thần chết nằm chực ở đó chờ phút ra tay. Cơ phải

nhanh hơn, mạnh hơn nó, khơng được phép chậm chễ một giây. Thật đáng sợ cái
cơng việc chọc giận Thần Chết đó. Ai dám chắc là quả bom sẽ không nổ ngay bây
giờ, lúc Phương định đang lúi húi đào đào, bới bới ấy. Thế mà cô vẫn không run
tay, không bỏ cuộc và thực hiện nhiệm vụ cho đến thao tác cuối cùng. Cô cố gắng
thực hiện các động tác nhanh, chạy đua với thời gian nhưng vẫn cẩn trọng, nhẹ
nhàng; chỉ cần sai sót nhỏ thơi là bom sẽ nổ ngay lập tức.
- Xong nhiệm vụ, Phương Định chạy tới chỗ ẩn nấp, hồi hộp chờ đợi, lo lắng, “tim
đập không rõ”, thần kinh căng thẳng cao độ. Cơ có nghĩ đến cái chết, nhưng đó là
“một cái chết mờ nhạt, khơng cụ thể”; tâm trí Phương Định chỉ cịn băn khoăn việc
“liệu mìn có nổ, bom có nổ khơng? Khơng thì làm cách nào để châm mìn lần thứ
hai”. Cơ khơng ngần ngại hi sinh; cái cơng việc khủng khiếp bóp nghẹt trái tim này
đâu chỉ diễn ra hôm nay, những nguy hiểm không kể xiết ấy diễn ra từng ngày, trở
thành một điều quen thuộc.: “Quen rồi. Một ngày chúng tôi phá bom đến năm lần”.
Cô chỉ sợ đường không thơng, khơng hồn thành nhiệm vụ. Rồi khi bom nổ - một
thứ tiếng kì qi váng óc - ngực nhói, mắt cay, cô vẫn phủi áo và chạy xuống ngay
nơi nổ.


- Trong truyện, có lẽ đây là đoạn xuất sắc nhất; tâm lí nhân vật được miêu tả vơ
cùng chi tiết. Khi cái chết im lìm và đáng sợ kề bên, mọi cảm giác của Phương
Định đều trở nên sắc nhọn. Chính sự khốc liệt của chiến trường đã tơi luyện tâm
hồn vốn nhạy cảm của một nữ sinh thành bản lĩnh của người thanh niên xung
phong kiên cường, bất khuất.
=> Cảm xúc và suy nghĩ chân thực của cô đã truyền sang cho người đọc nỗi niềm
đồng cảm yêu mến và sự kính phục. Một cơ nữ sinh nhỏ bé, hồn nhiên, giàu mơ
mộng và nhạy cảm mà cũng thật anh hùng, thật xứng đáng với những kì tích khắc
ghi trên những tuyến đường Trường Sơn bi tráng. Một ngày trong những năm
tháng Trường Sơn của cô là như vậy! Những trang lịch sử Trường Sơn không thể
quên ghi một ngày như thế!
3. Nhận xét, đánh giá về nội dung và nghệ thuật:

- Có thể nói, gan dạ, dũng cảm là nét nổi bật trong phẩm chất của Phương Định,
của biết bao người con gái, người con trai khi đến với chiến trường ác liệt, tham
gia vào việc chiến đấu và bảo vệ Tổ quốc.
- Người đọc yêu mến cơ cịn bởi lí tưởng sống cao đẹp, tình đồng đội gắn bó, tâm
hồn trong sáng giàu mơ mộng. Với tất cả những phẩm chất đáng q đó, cơ và
những người đồng đội của mình thực sự là “những ngơi sao xa xôi” toả sáng trong
trái tim độc giả, trong suy nghĩ của biết bao thế hệ con người Việt Nam hôm qua,
hôm nay và mãi mãi mai sau.
- Thành công nghệ thuật của tác giả Lê Minh Khuê khi xây dựng nhân vật: ngôi kể
thứ nhất, Phương Định là nhân vật chính cũng là người kể chuyện; giọng điệu nữ
tính; xây dựng nhân vật vừa có nét tương đồng lại có những cá tính riêng
III. Kết bài: Khẳng định lại vấn đề.
Đề thi Văn vào lớp 10 tỉnh Đồng Nai năm 2018
Đọc kĩ đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới:
Giữa năm 2015, bà Lê Thị Thảo, mẹ của Hòa, quyết định tặng thận...
[...] Tháng 3- 2016, Hòa lên bàn mổ để tặng một quả thận cho một người phụ nữ
trạc tuổi mẹ mình. Người được nhận thận quê ở Hà Nam, đã bị suy thận nhiều năm
và cần được ghép thận để tiếp tục được sống.
[...] Để tặng được quả thận, từ khi quyết định hiến tặng đến khi lên bàn mổ, bà
Thảo đã phải hơn 10 lần một mình một xe máy từ Bắc Ninh ra bệnh viện Việt Đức
ở Hà Nội để làm các xét nghiệm. Con gái bà Thảo cũng vậy, và cuối năm 2016 khi
mẹ con bà được mời lên truyền hình để nói về ý nghĩa của việc hiến tặng mô tạng,
hai mẹ con lại chở nhau bằng xe máy từ Bắc Ninh lên Hà Nội rồi vội vã trở về
ngay trong đêm... Nếu có ai hỏi về chuyện hiến thận đã qua, bà chỉ phẩy tay cười:


“Cứ nghĩ bình thường đi, bình thường với nhau đi, bây giờ tơi chẳng phải đang rất
khỏe là gì...”.
Và nhờ cái “bình thường” của mẹ con bà Thảo, giờ đây có thêm hai gia đình được
hạnh phúc vì người thân của họ khỏe mạnh trở lại. Ở Bắc Ninh, gia đình bà Thảo

cũng đang rất vui vẻ. Nỗi đau đớn của ca đại phẫu thuật đã qua đi, giờ đây trên
bụng hai mẹ con là hai vết sẹo dài, như chứng nhân về quyết định rất đỗi lạ lùng,
về việc sẵn sàng cho đi mà không băn khoăn một phần thân thể của mình.
Có lẽ bạn đọc nghĩ rằng đó là hai con người kỳ lạ, nhưng khi gặp họ và trị
chuyện, chúng tơi mới thấy mẹ con bà Thảo không kỳ lạ chút nào, họ chỉ muốn
tặng quà một cách vô tư để nhận lại một thứ hạnh phúc tinh thần nào đó mà tơi
khơng thể nào định danh được!
(Trích Hai mẹ con cùng hiến thận, Lan Anh, Báo Tuổi Trẻ ngày 31/5/2018)
Câu 1. (0,5 điểm)
Xác định phương thức biểu đạt chính của đoạn trích.
Câu 2. (0,5 điểm)
Chỉ ra lời dẫn trực tiếp được sử dụng trong đoạn trích.
Câu 3. (1,0 điểm)
Nỗi đau đớn của ca đại phẫu thuật đã qua đi, giờ đây trên bụng hai mẹ con là hai
vết sẹo dài, như chúng nhân về quyết định rất đỗi lạ lùng, về việc sẵn sàng cho đi
mà khơng băn khoăn một phần thân thể của mình.
a. Xét về mặt cấu trúc, câu trên thuộc kiểu câu gì?
b. Xác định và nêu tác dụng của phép tu từ được sử dụng trong câu trên.
Câu 4. (1.0 điểm)
Có lẽ bạn đọc nghĩ rằng đó là hai con người kỳ lạ, nhưng khi gặp họ và trị
chuyện, chúng tơi mới thấy mẹ con bà Thảo không kỳ lạ chút nào, họ chỉ muốn
tăng quà một cách vô tư để nhận lại một thứ hạnh phúc tinh thần nào đó mà tôi
không thể nào định danh được!
a. Xác định thành phần biệt lập có trong câu trên.
b. Theo em thứ hạnh phúc tinh thần mà người viết không thể nào định danh được
là gì?
II. LÀM VĂN (7,0 điểm)
Câu 1. (2,5 điểm)
Từ nội dung đoạn trích phần Đọc hiểu, em hãy viết đoạn văn khoảng 200 chữ theo
cách lập luận tổng - phân - hợp bàn về tâm niệm của Trịnh Công Sơn: "Sống trong

đời sơng cần có một tấm lịng”. Trong đó sử dụng ít nhất 2 phép liên kết. (Gọi tên
và xác định từ ngữ liên kết)
Câu 2. (4,5 điểm)
Phân tích tình cảm của ơng Sáu dành cho con gái qua đoạn trích dưới đây
[...] Từ con đường mịn chạy lẫn trong rừng sâu, anh hớt hải chạy về, tay cầm
khúc ngà đưa lên khoe với tôi. Mặt anh hớn hở như một đứa trẻ được quà.


Sau đó anh lấy vỏ đạn hai mươi ly của Mĩ, đập mỏng làm thành một cây cưa nhỏ,
ca khúc ngà thành từng miếng nhỏ. Những lúc rồi, anh cưa từng chiếc răng lược,
thận trọng, tỉ mỉ và cố công như người thợ bạc... Một ngày anh chưa được một vài
răng. Khơng bao lâu sau, cây lược được hồn thành. Cây lược dài độ hơn một tấc,
bề ngang độ ba phân rưỡi... cây lược chỉ có một hàng răng thưa. Trên sống lưng
có khắc một hàng chữ nhỏ mà anh đã gò lưng, tẩn mẩn khắc từng nét: “Yêu nhớ
tặng Thu con của ba”... Những đêm nhớ con, .... anh lấy cây lược ra ngắm nghía,
rồi mài lên tóc cho cây lược thêm bóng, thêm mượt. Có cây lược, anh càng mong
gặp lại con. Nhưng rồi một chuyện không may xảy ra...Anh bị viên đạn của máy
bay Mỹ bắn vào ngực. Trong giờ phút cuối cùng, khơng cịn đủ sức trăng trồi lại
điều gì, hình như chỉ có tình cha con là không thể chết được, anh đưa tay vào túi,
móc cây lược, đưa cho tơi và nhìn tơi một hồi lâu. Tôi không đủ lời lẽ để tả lại cái
nhìn ấy, chỉ biết rằng, cho đến bây giờ, thỉnh thoảng tôi cứ nhớ lại đôi mắt của
anh.
- Tôi sẽ mang về trao tận tay cho cháu. Tôi cúi xuống gần anh và khẽ nói. Đến lúc
ấy, anh mới nhắm mắt đi xi.
(Trích Chiếc lược ngà, Nguyễn Quang Sáng, Ngữ văn 9, tập I)
-HẾTĐáp án đề thi vào lớp 10 môn Văn tỉnh Đồng Nai năm 2018
I. Đọc Hiểu
Câu 1: Phương thức biểu đạt chính của đoạn trích: Nghị luận.
Câu 2: Lời dẫn trực tiếp: "Cứ nghĩ bình thường đi, bình thường với nhau đi, bây
giờ tơi chẳng đang rất khỏe là gì..."

Câu 3:
a) Câu ghép
b) Phép tu từ được sử dụng trong câu là: so sánh "như"
Tác dụng:
+ Khẳng định giá trị của những vết thương mà hai mẹ con phải chịu đựng.
+ Hai vết sẹo ấy là bằng chứng sáng rõ nhất của tinh thần làm việc thiện, sẵn sàng
cho đi một phần thân thể của mình mà không cần đáp lại.
=> Khẳng định tinh thần hiến dâng, biết sống vì người khác của hai mẹ con.
Câu 4:
a) Thành phần biệt lập tình thái: "Có lẽ"
b) Theo em, thứ hạnh phúc tinh thần mà người viết không thể nào định danh
được đó là niềm vui và hạnh phúc của việc cho đi, của tinh thần sẻ chia, biết sống
vì người khác, biết yêu thương với những số phận bất hạnh trong cuộc đời.
II. Làm văn.
Câu 1: Tham khảo dàn bài gợi ý sau đây (có sử dụng ít nhất 2 phép liên kết)
1. Mở đoạn: giới thiệu được vấn đề nghị luận.
2. Thân đoạn:


a. Giải thích:
- “Tấm lịng”: Là tình cảm, sự quan tâm, chia sẻ yêu thương với mọi người xung
quanh; hay đơn giản là biết cảm thơng và động lịng trắc ẩn trước những cảnh ngộ,
những mảnh đời.
=> Tâm niệm của Trịnh Công Sơn nhắn nhủ con người sống trên đời sống, cần
phải biết quan tâm, chia sẻ, biết giúp đỡ động viên mọi người xung quanh; có như
vậy cuộc sống mới trở nên đáng yêu, đáng quý, tươi đẹp và giàu ý nghĩa.
b. Bàn luận:
- Sự cần thiết của một tấm lịng trong đời sống:
+ Trong cuộc sống, khơng phải ai cũng luôn gặp những điều may mắn, không phải
ai cũng thành công ngay từ lần đầu tiên và...không phải ai sinh ra cũng đều hạnh

phúc.
+ Đó chính là lí do tại sao chúng ta cần “tấm lòng”, sự quan tâm, chia sẻ trong
cuộc sống
+ Tấm lịng cũng như tình yêu thương của con người với con người. Đời sống chỉ
có ý nghĩa khi chúng ta biết cho đi tấm lịng của mình thật trong sáng, vơ tư, khơng
vụ lợi, vẩn đục,khơng tơ vẽ, ghi danh...
- Tấm lịng trong cuộc sống hôm nay?
+ Ngày nay con người luôn ý thức về sự cần thiết của tấm lòng. Các tổ chức nhân
đạo ra đời và liên tục mở rộng quy mô góp phần giảm bớt những tổn thất, xoa dịu
những nỗi đau, hàn gắn rạn nứt trong quan hệ xã hội, đặc biệt trong tâm hồn con
người.
+ Bên cạnh đó, cuộc sống vẫn còn quá nhiều bất ổn, tiềm ẩn nhiều nguy cơ, hiểm
họa từ thiên nhiên, từ chính lịng tham và sự đố kị, ích kỉ, thói nhẫn tâm của con
người vẫn tồn tại trong cuộc sống.
+ Phê phán lối sống ích kỉ, vơ cảm, thờ ơ...
3. Kết đoạn: Khái quát lại vấn đề nghị luận.
+ Tâm niệm của cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn không chỉ nêu lên sự cần thiết của một
tấm lòng trong đời sống, mà còn nói lên cách ứng xử đầy nhân văn của con người.
+ Phải biết cho cuộc đời này những gì tốt đẹp nhất: sự yêu thương, trân trọng, cảm
thông giúp đỡ lẫn nhau cả về vật chất lẫn tinh thần mà khơng vì mục đích vụ lợi, hi
vọng được báo đáp, trả ơn…
Câu 2:
I. Mở bài:
- Giới thiệu vài nét về tác giả Nguyễn Quang Sáng và tác phẩm “Chiếc lược ngà”.
- Giới thiệu cảm nghĩ khái quát về nhân vật ông Sáu.
- Giới thiệu về vấn đề nghị luận: Tình yêu của ông Sáu dành cho bé Thu, được thể
hiện trong đoạn văn kể chuyện khi ông trở về khu căn cứ và làm cho con cây lược
ngà.
II. Thân bài:



1. Khái quát
- Ông Sáu xa nhà đi kháng chiến, mãi đến khi con gái ông lên tám tuổi, ông mới có
dịp về thăm nhà, thăm con. Bé Thu khơng chịu nhận cha vì vết theo trên mặt làm
ba em không giống với người chụp chung với má trong bức ảnh mà em đã biết.
- Thu đối xử với ba như người xa lạ, đến lúc hiệu ra, tình cảm cha con thức dậy
mãnh liệt trong em thì cũng là lúc ông Sáu phải lên đường.
- Ở khu căn cứ, bao nỗi nhớ thương con sông dồn vào việc làm cho con cây lược.
Ông hi sinh trong một trận càn của Mỹ nguy. Trước lúc nhắm mắt, ơng cịn kịp trao
cây lược cho một người bạn.
2. Tình cảm của ơng Sáu dành cho con khi ông ở căn cứ kháng chiến.
- Kiếm được ngà voi, mặt ông “hớn hở như một đứa trẻ được quà”. Những lúc rỗi,
ông “ngồi cưa từng chiếc răng lược, thận trọng tỉ mỉ và khổ công như người thợ
bạc”. Trên sống lưng cây lược, ông đã tận mẩn khắc một dòng chữ nhỏ: “Yêu
nhớ tặng Thu con của ba”. Dòng chữ nhỏ mà chứa bao tình cảm lớn lao.
=> Việc làm chiếc lược vừa là cách ông giải tỏa tâm trạng mong nhớ, ân hận vừa là
cách gửi vào đó những yêu thương khao khát cháy bỏng dành cho đứa con gái yêu
của mình. Chiếc lược ngà giờ đây đã trở thành một vật quí giá thiêng liêng với ơng
Sáu. Nó làm dịu đi nỗi ân hận và chứa đựng bao nhiêu tình cảm yêu mến, nhớ
thương, mong đợi của của người cha đối với đứa con xa cách.
- Lòng yêu con đã biến người chiến sĩ trở thành một nghệ nhân - nghệ nhân chỉ
sáng tạo ra một tác phẩm duy nhất trong đời. Ông gửi vào đó bao lời nhắn nhủ
thiêng liêng, gửi vào đó bao nỗi nhớ mong con.
- Chiếc lược ngà là kết tinh tình phụ tử mộc mạc mà đằm thắm, đơn sơ mà diệu kì
là hiện hữu của tình cha con bất hủ giữa ông Sáu và bé Thu. Tình thương ơng dành
cho con cháy bỏng, như một dịng sơng chảy mãi từ suối nguồn, như dịng máu
chảy sâu vào tim ông, vào tâm hồn ông đến phút cuối vẫn bùng cháy chẳng ngi.
- Một tình cảnh đau thương lại đến với cha con ông Sáu; trong một trận càn của
quân Mỹ ngụy, ông Sáu bị một viên đạn bắn vào ngực và ông đã hi sinh. “Trong
giờ phút cuối cùng, khơng cịn đủ sức trăng trồi lại điều gì, hình như chỉ có tình

cha con là khơng thể chết được”, tất cả tàn lực cuối cùng chỉ còn cho ơng làm một
việc “đưa tay vào túi, móc cây lược” đưa cho người bạn chiến đấu.
=> Đó là điều trăng trối khơng lời nhưng nó thiêng liêng hơn cả những lời di chúc.
Nó là sự ủy thác, là ước nguyện cuối cùng, ước nguyện của tình phụ tử. Chiếc lược
ngà như là biểu tượng của tình thương yêu, săn sóc của người cha dành cho con
gái, cho dù đến khi khơng cịn nữa anh chưa một lần được chải tóc cho con.
- Những dịng cuối cùng của đoạn trích khép lại trong nỗi buồn mênh mang mà
chứa chan ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Chiến tranh là hiện thực đau xót của nhân
loại. Chiến tranh đã làm cho con người phải xa nhau, chiến tranh làm khuôn mặt
ông Sáu biến dạng, chiến tranh khiến cuộc gặp gỡ của hai cha con vô cùng éo le, bị


thử thách rồi một lần nữa chiến tranh lại khắc nghiệt để ông Sáu chưa kịp trao
chiếc lược ngà đến tận tay cho con mà đã phải hi sinh trên chiến trường.
=> “Chiếc lược ngà” như một truyện cổ tích hiện đại dẫn người đọc dõi theo số
phận của nhân vật. Người còn, người mất những kỉ vật gạch nối giữa cái mất mát
và sự tồn tại là chiếc lược ngà nói với chúng ta nhiều điều về tình người, tình đồng
chí, tình cha con. Cảm động nhất, đề lại ấn tượng nhiều nhất cho người đọc là tình
phụ tử thiêng liêng, sâu đậm – tình u thương mà ơng Sáu dành cho đứa con gái.
3. Đặc sắc nghệ thuật:
- Có thể nói nhân vật ơng Sáu được nhà văn xây dựng bằng những nét nghệ thuật
đặc sắc, ngòi bút miêu tả tâm lí tinh tế đã phát hiện bao cung bậc cảm xúc của tình
phụ tử.
- Ngơn ngữ kể chuyện vừa truyền cảm, vừa mang đậm chất địa phương Nam Bộ
đem đến cho người đọc nhiều xúc động.
- Những chi tiết nghệ thuật rất đắt giá như lời dặn mua cho con cây lược của bé
Thu, ông Sáu hớn hở khi kiếm được chiếc ngà voi... Tất cả đã góp phần tơ đậm vẻ
đẹp của người chiến sĩ Cách mạng, của người cha yêu con nồng thắm.
III. Kết bài:
- Khẳng định thành công của tác giả trong việc thể hiện tình phụ tử thiêng liêng.

- Khẳng định giá trị tác phẩm.
Đề thi môn văn vào lớp 10 tỉnh Đồng Nai năm 2017- 2018
I. ĐỌC HIỂU(3,0 điểm)
Đọc kĩ hai khổ thơ sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới:
(1) Mặt trời xuống biển như hịn lửa
Sóng đã kèn then, đêm sập cửa,
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,
Câu hát căng buồm cùng gió khơi
(2) Câu hát căng buồm với gió khơi
Đồn thuyền chạy đua cùng mặt trời
Mặt trời đội biển nhơ màu mới
Mắt cá huy hồng mn dặm phơi.
(Trích khổ đầu và khổ cuối Đoàn thuyền đánh cá, Huy Cận, Ngữ văn 9, tập 1,
trang 139-140)
Câu 1. Xác định các phương thức biểu đạt của hai khổ thơ trên. (0,5 điểm)
Câu 2. Chỉ ra các phép tu từ và tác dụng của chúng trong hai đoạn thơ sau: (1,0
điểm)
Mặt trời xuống biển như hòn lửa.
và: Mặt trời đội biển nhô màu mới


Câu 3. Khổ đầu và khổ cuối bài Đoàn thuyền đánh cá có những hình ảnh, chi tiết
nào được lặp lại? Cách lặp lại như vậy cũng có trong bài thơ nào em đã học? (0,5
điểm)
Câu 4. Nêu nội dung chính của mỗi khổ thơ (1,0 điểm)
II. LÀM VĂN (7,0 điểm)
Câu 1. (3,0 điểm)
Trong xã hội hiện nay, bên cạnh rất nhiều bạn bè sống tự lập, tự mình làm việc và
khẳng định chính mình, vẫn cịn một bộ phận không nhỏ các bạn trẻ sống ỉ lại, dựa
dẫm vào người khác. Viết bài văn ngắn (khoảng một trang giấy thi) trình bày suy

nghĩ của em về hiện tượng sống dựa.
Câu 2. (4,0 điểm)
Cảm nhận của em về nhân vật anh thanh niên trong đoạn trích sau:
[...] Cháu ở đây có nhiệm vụ đo gió, đo mưa, đo nắng, tính mây, đo chấn động mặt
đất, dự vào việc báo trước thời tiết hàng ngày, phục vụ sản xuất, phục vụ chiến đấu.
[...] Cháu lấy những con số, mỗi ngày báo về "nhà" bằng máy bộ đàm bốn giờ,
mười một giờ, bảy giờ tối, lại một giờ sang. Bản báo ấy trong ngành gọi là "ốp".
Cơng việc nói chung dễ, chỉ cần chính xác. Gian khổ nhất là lần ghi và bào về lúc
một giờ sang. Rét, bác ạ. Ở đây có cả mưa tuyết ấy. Nửa đêm đang nằm trong chắn,
nghe chuông đồng hồ chỉ muốn đưa tay tắt đi. Chui ra khỏi chăn, ngọn đèn bão vặn
to đến cỡ nào vẫn thấy là không đù sang. Xách đèn ra vườn, giỏ tuyết và lặng im ở
bên ngoài như chỉ chực đợi mình ra là ào ào xơ tới. Cái lặng im lúc đó mới thật sự
dễ sợ: nó như bị gió chặt ra từng khúc, mà gió thì giống những nhát chồi lớn muốn
quét đi tất cả, ném vứt lung tung... Những lúc im lặng lạnh cóng mà lại hừng hực
như cháy. Xong việc, trở vào, không thể nào ngủ được.
Đáp án đề thi môn văn vào lớp 10 tỉnh Đồng Nai năm 2017
I. ĐỌC HIỂU
Câu 1. Phương thức biểu đạt của hai khổ thơ trên: Biểu cảm và miêu tả
Câu 2.
Phép tu từ trong: Mặt trời xuống biển như hịn lửa. So sánh: Mặt trời được ví như
một hòn lử khổng lồ đang từ từ lặn xuống -> làm cho câu thơ trở nên sinh động
hơn, miêu tả cho ta thấy cảnh biển hồng hơn vơ cùng tráng lệ, hùng vĩ.
Phép tu từ trong Mặt trời đội biển nhơ màu mới: nhân hóa (mặt trời đội biển) ->
cho đoạn thơ được sinh động, gần gũi với con người, biểu thị được những suy nghĩ
của con người một cách chân thật. Làm người đọc dễ dàng hiểu được hành động
của đồ vật, cây cối,.....
Câu 3. Khổ đầu và khổ cuối bài Đồn thuyền đánh cá có những hình ảnh, chi tiết
nào được lặp lại: mặt trời, đoàn thuyền, câu hát căng buồm cùng (với) gió khơi
Cách lặp lại như vậy cũng có trong bài thơ nào em đã học: Hình ảnh tre trong bài
Viếng lăng Bác của Viễn Phương: Tre xuất hiện ở khổ 1 và lặp lại ở khổ cuối.

Câu 4.


Nội dung chính của khổ đầu: Miêu tả cảnh đồn thuyền đánh cá ra khơi
Nội dung chính của khổ cuối: Hình ảnh đồn thuyền đánh cá trở về
II. LÀM VĂN (7,0 điểm)
 1. Giải thích vấn đề
Ỷ lại là tự bản thân khơng có ý thức trách nhiệm, khơng cố gắng trong cuộc
sống mà dựa dẫm, trông chờ vào sự giúp đỡ của người khác một cách thái
quá.
 Căn bệnh đang hủy diệt sức trẻ: là cách nói hình ảnh diễn tả tác hại của thói
ỷ l ại đến thế hệ trẻ, khiến họ trở nên thụ động, khơng có khả năng đối phó
với những thử thách trong cuộc sống.
 Ý nghĩa: câu nói nhấn mạnh đến tác hại của thói ỷ lại và cảnh báo về một
hiện tượng trong đời sống: thói ỷ lại đang là căn bệnh nguy hiểm đối với con
người, đặc biệt là thế hệ trẻ.
2. Bàn luận vấn đề
- Thực trạng hiện nay về sự ỷ lại: Nhiều bạn trẻ sống tự lập, tự mình làm việc và
khẳng định chính mình, vẫn cịn một bộ phận không nhỏ các bạn trẻ sống ỷ lại, dựa
dẫm vào người khác.
- Biểu hiện của thói ỷ lại: thờ ơ với cuộc sống, cơng việc học tập của chính mình,
khơng suỵ nghĩ cho tương lai, để mặc bố mẹ sắp đặt mọi việc, bé thì được mua
điểm, lớn thì được chạy việc cho. Hay đơn giản hơn, từ những việc nhỏ nhất như
dọn dẹp phòng ở, giặt giũ,... cũng lười nhác, để bố mẹ làm; gặp bài tập khó thì nhờ
vả bạn bè,...
- Ngun nhân dẫn tới thói ỷ lại:
 Do sự lười biếng trong cả vận động và tư duy.
 Do được gia đình nng chiều.
Video Player is loading.
PauseXEM THÊMUnmute

Remaining Time 7:03
- Hậu quả của thói ỷ lại:
 Người sống ỷ lại, quen dựa dẫm thường lười lao động, suy nghĩ, tư duy,
thiếu năng lực đưa ra quyết định trong những hồn cảnh cần thiết.Từđó, họ
khơng làm chủ được cuộc đời, khơng có bản lĩnh, khơng có sáng tạo,... dễ
gặp thất bại trong mọi việc.
 Họ trở thành gánh nặng cho gia đình, xã hội.
 Tương lai của đất nước không thể phát triển tốt đẹp nếu những chủ nhân
tương lai của đất nước đều lười biếng, ỷ lại như vậy.
=> Đó là quan niệm sống lệch lạc.
3. Bài học nhận thức và hành động


 Thế hệ trẻ cần học cách tự đứng trên đơi chân của mình, khơng được tự biến
mình thành cây tầm gửi trong cuộc sống.
 Thế hệ trẻ hôm nay cần tích cực rèn luyện, trau dồi kiến thức, kỹ năng sống
thật tốt đểln là người có bản lĩnh, có chính kiến và chủ động đưa ra những
quyết định tỉnh táo, sáng suốt trong mọi việc.
 Gia đình, nhà trường, xã hội cần thay đổi quan niệm về tình yêu thương và
giáo dục, không nuông chiều hay quá bao bọc, cần hình thành và rèn luyện
tính tự lập cho con em mình.



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×