Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Một số biện pháp giáo dục tính tự lập cho trẻ 4-5 tuổi tại trường Mầm Non

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (179.23 KB, 26 trang )

1

LỜI MỞ ĐẦU
Giáo dục mầm non là cấp học đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân,
đã và đang được Đảng và nhà nước ta rất quan tâm. Tâm hồn trẻ thơ như một
trang giấy trắng rất non nớt, rất trong sáng và rất dễ tiếp thu những cái tốt cũng
như những cái xấu từ bên ngồi. Chính vì vậy người lớn chúng ta cần phải rèn
luyện cho trẻ những thói quen tốt ngay từ khi cịn nhỏ. Ơng bà ta thường có câu:
“Dạy con từ thuở con thơ”.
Việc giáo dục tính tự lập cho trẻ là vơ cùng cần thiết đặc biệt là đối với
lứa tuổi mầm non. Đây là phương tiện không thể thiếu để giúp trẻ có tính tích
cực, chủ động, tự tin vững bước trước mọi khó khăn thử thách. Tính tự lập là
những thói quen sinh hoạt thường ngày trong giao tiếp ứng xử đối với bản thân
và những người xung quanh. Tập những kỹ năng sống, tính tự lập cho trẻ từng
bước hình thành nhân cách sống cho trẻ một trong những nhiệm vụ trọng tâm
cần được đưa lên hàng đầu. Các con khơng có tính tự lập sẽ dẫn đến hệ lụy lười
biếng, thụ động và khó khăn khi tham gia vào các các hoạt động của tập thể. Vì
thế muốn trẻ nên người, chúng ta cần rèn tính tự lập cho trẻ ngay từ những bậc
học nhỏ nhất.
Giáo dục tính tự lập cho trẻ ngay từ lứa tuổi mầm non là một trong
những mặt quan trọng của việc giáo dục con người mới phát triển tồn diện, có
ảnh hưởng sâu sắc đến sự hình thành nhân cách trẻ. Giáo dục tính tự lập cho trẻ
ngay từ khi cịn bé khơng những tạo ra cho trẻ khả năng tự lập trong sinh hoạt
hàng ngày mà còn là một trong những điều kiện quan trọng để hình thành sự tự
tin, năng động, sáng tạo, làm cơ sở hình thành các kỹ năng sống sau này. Để tạo
điều kiện cho trẻ phát triển toàn diện, mục đích của giáo dục mầm non là định
hướng tất cả khả năng tự lập của trẻ, góp phần hình thành cho trẻ những cơ sở
chuẩn mực ban đầu về nhân cách, phẩm chất cần thiết như: Mạnh dạn, tự tin, tự
lập, sáng tạo, linh hoạt và tự giác... đưa trẻ tham gia vào các hoạt động trong đời
sống hàng ngày. Từ những biểu hiện của trẻ chúng ta nhận thấy khả năng tự lập
có ảnh hưởng mạnh mẽ, trực tiếp đến trí tuệ, cảm xúc và trong các hoạt động trẻ




2

có thể tự tin, kiểm sốt, điều khiển các hành vi của mình. Tính tự lập quyết định
việc hình thành nhân cách, trí tuệ, cảm xúc của trẻ.
Hiện nay việc giáo dục tính tự lập cho trẻ đã được xã hội và các bậc phụ
huynh quan tâm. Tại trường mầm non Tân Ninh bản thân tôi cũng đã luôn tạo
điều kiện cho trẻ được rèn luyện tính tự lập thơng qua các hoạt động học tập và
các hoạt động sinh hoạt tự phục vụ bản thân phù hợp với khả năng của trẻ. Tuy
nhiên, do xã hội ngày càng phát triển, mỗi gia đình chỉ có từ 1 đến 2 con, điều
kiện kinh tế đủ đầy, con cái lại ít nên một số phụ huynh thường hay nuông chiều
con, làm hộ trẻ nhiều việc mà trẻ có thể làm được, từ đó dẫn tới trẻ bị thụ động,
thiếu kỹ năng lao động, thiếu tự tin, sinh ra thói quen dựa dẫm, ỉ lại vào người
khác, làm cho tính tự lập của trẻ khó phát triển.
Tuổi mầm non là lứa tuổi cần sự quan tâm đặc biệt của cha mẹ và cô giáo.
Ở giai đoạn này, những mối quan hệ, sự vật, hiện tượng xảy ra xung quanh trẻ
đều có tác động rất lớn đến bản thân trẻ. Vì vậy nhờ sự giáo dục đúng đắn của
người lớn, tạo cơ hội cho trẻ được trải nghiệm và hoàn thành nhiệm vụ được
giao một cách tốt nhất. Phát triển tính tự tin, tự lập cho trẻ là tạo cơ hội cho trẻ
phát huy khả năng của mình, khen ngợi, động viên, khuyến khích của người lớn
đối với trẻ. Tự lập là một đức tính tốt nhưng nó khơng tự nhiên mà có, để hình
thành là cả một quá trình rèn luyện, giáo dục và phải bắt đầu ngay từ khi trẻ còn
nhỏ.
Trong những nghiên cứu khoa học gần đây về sự phát triển bộ não của trẻ
đã chỉ ra rằng “Trẻ ở lứa tuổi này hồn tồn có khả năng giao tiếp, có khả năng
tự kiểm sốt thích nghi và tự kiểm sốt bản thân mình, trẻ cũng hồn tồn có khả
năng hòa nhập, tự giải quyết vấn đề một cách tự lập, cho chính mình”. Đây là
giai đoạn của sự tăng trưởng rất nhanh về thể chất và phát triển các mặt của trí
tuệ, tình cảm và ý thức xã hội, giai đoạn tạo tiền đề quan trọng của sự hình thành

nhân cách con người. Đó chính là tiền đề gieo mầm hạt giống nhằm hình thành
tính tự lập cho trẻ. Vậy làm thế nào để có thể có một phương pháp hướng dẫn trẻ
tính tự lập đạt hiệu quả nhất? Và dạy dưới hình thức nào?


3

Xuất phát từ vấn đề trên, nhận thức được tầm quan trọng đó hơn nữa bản
thân tơi là một giáo viên trực tiếp đứng lớp chăm sóc giáo dục các cháu 4-5 tuổi
nên tôi đã suy nghĩ và chọn đề tài: “Một số biện pháp giáo dục tính tự lập cho
trẻ 4-5 tuổi tại trường Mầm Non”.
Đề tài này có nhiều đồng nghiệp nghiên cứu, tuy nhiên mỗi người có cách
viết khác nhau. Do đó năm học 2020-2021 tơi đã thực hiện và năm học 20212022 tôi đã đúc kết: “Một số biện pháp giáo dục tính tự lập cho trẻ 4-5 tuổi tại
trường Mầm Non Tân Ninh” làm đề tài nghiên cứu.
Mục đích nghiên cứu của tơi là nêu lên những kinh nghiệm mà tôi đã thực
hiện và đạt kết quả khả thi và có thể áp dụng cho tất cả lớp chồi trường Mầm
Non Tân Ninh.


4

PHẦN I: NỘI DUNG
THỰC TRẠNG ĐỀ TÀI
Năm học 2021-2022, tôi được phân công dạy lớp chồi, từ thực trạng của
học sinh ở lớp: Một số trẻ được cha mẹ quá nuông chiều, một số trẻ lại quá hiếu
động nhưng không biết tự phục vụ bản thân, khơng biết giữ gìn vệ sinh cơ thể
mà thường phụ thuộc vào cha mẹ và cô giáo, nên khả năng tự lập trong học tập
và trong sinh hoạt hằng ngày của trẻ khó được phát triển.
Bên cạnh đó do diễn biến tình hình dịch bệnh covid-19 nên trẻ chưa được
đến trường. Hệ lụy của việc trẻ ở nhà quá lâu, không tới trường sẽ gây ra nhiều

bất lợi cho sự phát triển của trẻ. Việc tun truyền trực tiếp đến trẻ cịn khó
khăn, trong khi đó trẻ chưa được đến trường, trẻ sẽ khơng được hoạt động tập
thể, không được giao tiếp trực tiếp với bạn bè, thầy cô và xã hội, trẻ sẽ mất đi cơ
hội quan sát, thực hành và tiếp xúc với mơi trường bên ngồi, khả năng tự lập
của trẻ bị hạn chế. Khi trẻ chưa được đến trường trẻ sẽ ít được thực hành, ít
tương tác trong q trình học, ít hoạt động nhóm, dễ mất động lực học tập, quên
dần các kỹ năng, đặc biệt là các thói quen, khả năng tự lập trong sinh hoạt hằng
ngày của trẻ. Kĩ năng tự lập không chỉ dừng lại ở chỗ trẻ làm được gì cho bản
thân mà cịn là thái độ đối với những người xung quanh, do vậy trong thời gian
này tính tự lập của trẻ cần được giáo dục, cần được quan tâm.
Thực trạng giảng dạy khi giúp trẻ có tính tự lập bản thân suy nghĩ làm
cách nào để giáo dục tính tự lập cho trẻ ngay cả khi trẻ chưa được đến trường và
đến khi trẻ được đến trường, đồng thời trang bị cho mình vốn kiến thức, kinh
nghiệm và phương pháp giảng dạy, góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy,
chia sẻ kinh nghiệm với bạn đồng nghiệp, góp phần thực hiện các mục tiêu của
nhà trường, mục tiêu giáo dục tôi gặp một số thuận lợi và khó khăn sau.
* Thuận lợi:
Được sự quan tâm của Ban Giám Hiệu nhà trường trong việc cung cấp
đầy đủ các phương tiện dụng cụ, tài liệu, tranh ảnh có liên quan..., thường xuyên
cùng nhau trao đổi học tập kinh nghiệm.
Giáo viên được bồi dưỡng chuyên môn thường xuyên ở trường.


5

Phòng học khang trang, tạo điều kiện cho trẻ tham gia tốt các hoạt động.
Trường có trang bị đầy đủ các thiết bị thuận lợi trong việc giáo dục tính
tự lập cho trẻ.
Lớp được phân chia theo đúng độ tuổi.
Một số trẻ cũng có những biểu hiện khá tốt về tính tự lập; tự phục vụ bản

thân tốt.
Bản thân ln cố gắng trong q trình cơng tác, khơng ngừng tích lũy kiến
thức, hiểu biết về các phương pháp giáo dục tính tự lập cho trẻ 4-5 tuổi.
Đa số phụ huynh có sự quan tâm đến việc chăm sóc và giáo dục trẻ, đa số
trẻ trong lớp đều nhanh nhẹn, tích cực.
* Khó khăn:
Đa số trẻ chưa học qua lớp Mầm dẫn đến trẻ có tính tự lập chưa cao.
Do diễn biến tình hình dịch bệnh covid-19 đầu năm học trẻ chưa được
đến trường, nên tuyên truyền trực tiếp đến trẻ cịn khó khăn, việc tiếp thu của trẻ
cịn hạn chế.
Một số trẻ nhút nhát không tự tin khi tham gia vào các hoạt động, một số
trẻ lại quá hiếu động nên khi hoạt động chưa chú ý vào sự hướng dẫn của cơ,
nên chưa có tính tự lập.
Đa số trẻ tính tự lập chưa cao, giáo viên phải mất rất nhiều thời gian để
hướng dẫn trẻ.
Một số phụ huynh làm ăn xa, chưa có thời gian quan tâm và chưa có biện
pháp phối hợp, kết hợp giữa cha mẹ và cơ giáo.
Do đó, khi vào học trực tiếp tại trường tôi kết hợp với Ban Giám Hiệu
khảo sát thực trạng tính tự lập của lớp tơi như sau:

( Bảng khảo sát thực trạng tính tự lập của trẻ năm học 2020-2021 và đầu năm
học 2021-2022 )


6

Qua số liệu khảo sát cho thấy:
Năm học 2020-2021:
+ Trẻ biết làm vệ sinh cá nhân: 46.9%.
+ Trẻ biết cất đồ dùng, đồ chơi: 50%.

+ Trẻ biết cởi, mặc, gấp quần áo. Biết cởi, cất giày dép: 46.9%.
+ Trẻ có thói quen tự lập trong giờ ăn: 50%.
+ Trẻ có ý thức bảo vệ môi trường: 56,3%.
Đầu năm học 2021-2022:
+ Trẻ biết làm vệ sinh cá nhân: 48%.
+ Trẻ biết cất đồ dùng, đồ chơi: 48%.
+ Trẻ biết cởi, mặc, gấp quần áo. Biết cởi, cất giày dép: 44%.
+ Trẻ có thói quen tự lập trong giờ ăn: 40%.
+ Trẻ có ý thức bảo vệ mơi trường: 44%.
Theo tơi tỷ lệ khảo sát trên cho thấy trẻ biết làm vệ sinh cá nhân, trẻ biết
cất đồ dùng đồ chơi, trẻ biết cởi, mặt, gấp quần áo. Biết cởi cất giày dép, trẻ có
thói quen tự lập trong giờ ăn, trẻ có ý thức bảo vệ mơi trường chưa cao là do
những nguyên nhân sau:
+ Giáo dục tính tự lập cho trẻ không được sự quan tâm đúng mức của các bậc
phụ huynh trong việc dạy trẻ.
+ Sự giáo dục chưa đồng bộ, thiếu thống nhất giữa gia đình và nhà trường.
+ Sự không đồng đều về khả năng tự lập của trẻ.
+ Giáo viên khơng có đủ thời gian và sức lực quan tâm từng trẻ.
+ Trẻ được người lớn trong gia đình q nng chiều.
+ Trẻ yếu về thể chất, luôn cần người lớn giúp đỡ trong mọi việc.
+ Thời gian đầu trẻ đến lớp một số trẻ rất ít nói và rụt rè, tính tự lập của trẻ
cịn hạn chế như: Không biết tự cởi áo, cởi giày dép, xúc cơm ăn, lấy nước uống,
… tính tự lập của trẻ cịn rất yếu.
Với những thuận lợi và khó khăn trên, tôi đã đề ra một số biện pháp sau:
1. Xây dựng kế hoạch.
2. Tạo môi trường để phát huy tính tự lập cho trẻ.


7


3. Tổ chức lồng ghép giáo dục tính tự lập cho trẻ vào các hoạt động.
4. Tạo điều kiện cho trẻ thực hiện công việc, kết hợp động viên trẻ, nêu
gương trẻ kịp thời.
5. Phối kết hợp với phụ huynh về việc giáo dục tính tự lập cho trẻ.

PHẦN II: BIỆN PHÁP
1. Xây dựng kế hoạch.
Giáo dục tính tự lập cho trẻ là một nhiệm vụ quan trọng đang được ngành
giáo dục triển khai và thực hiện trong các trường mầm non. Việc rèn kỹ năng tự
phục vụ giúp trẻ nâng cao các kỹ năng thực hành và hình thành cho trẻ các thói
quen tự phục vụ, khơng ỉ lại vào người khác.
Chính vì vậy, ngay từ khi xây dựng kế hoạch giáo dục năm học, tôi đã
trao đổi và thống nhất với giáo viên trong lớp bám sát với kế hoạch của nhà
trường, để lồng ghép các tính tự lập cho trẻ theo từng tháng sao cho phù hợp với
khả năng của trẻ theo từng giai đoạn.
Với những ngày đầu năm học, khi trẻ vừa trải qua kì nghỉ hè dài, và phải
trải qua thêm thời gian nghỉ nữa để phịng chống dịch bệnh covid-19, trẻ khơng
được thực hành thường xun các tính tự lập. Chính vì thế, vào thời gian trẻ
chưa được đến trường tơi có kế hoạch tuyên truyền đến trẻ những kỹ năng phù
hợp với lứa tuổi của trẻ: Rèn kỹ năng cởi giày, đi giày, cất giày dép, cất đồ dùng
cá nhân đúng nơi quy định để tuyên truyền đến trẻ qua nhóm zalo của lớp để trẻ
có thể làm quen dần và khi vào học trực tiếp trẻ sẽ được áp dụng không bỡ ngỡ.
Ví dụ: Tơi sẽ cho trẻ xem hình ảnh, video qua nhóm zalo của lớp về trẻ
cởi giày, cất giày dép đúng quy định hoặc hình ảnh, video về trẻ khi vào lớp biết
cất đồ dùng cá nhân đúng nơi quy định để trẻ có nhận biết và làm quen thực


8

hành ở nhà, khi đến trường trẻ sẽ có thói quen tự lập về cất đồ dùng của mình

mà khơng phải bỡ ngỡ.
Ngồi ra tơi sẽ tun truyền rèn cho trẻ thêm một số kỹ năng giao tiếp với
người khác một cách chủ động như: Chào cô, chào bố mẹ, chào khách...và nhận
biết một số kí hiệu cơ bản như: Kí hiệu nhà vệ sinh, kí hiệu tủ đồ cá nhân trẻ....
Bên cạnh đó trẻ phải trải qua thời gian nghỉ quá lâu, tôi thường xuyên
tuyên truyền đến trẻ qua zalo nhóm lớp về các thói quen tự lập như: Có thói
quen giữ gìn vệ sinh cơ thể, cách chải răng rửa mặt, cách đeo khẩu trang đúng
cách, thực hiện các biện pháp phịng chống dịch bệnh covid-19.
Ví dụ: Khi đeo khẩu trang đúng cách và thực hiện phòng chống dịch bệnh
tôi gởi các bài tuyên truyền và các video về cách đeo khẩu trang đúng cách và
thực hiện phòng chống dịch để trẻ làm quen dần, trẻ thực hiện, và đến khi vào
học trực tiếp trẻ sẽ áp dụng một cách thành thạo và đúng cách.
Bài tuyên truyền cách đeo khẩu trang đúng cách:
 Đối với khẩu trang y tế:
Chỉ sử dụng 1 lần rồi vứt vào thùng rác an tồn, có nắp đậy. Khi đeo khẩu
trang phải để mặt có màu đậm hơn như xanh, xám, tím ra phía ngồi do mặt này
có tính chống nước. Mặt màu trắng có tính hút ẩm, nên quay vào trong, để hơi
thở thoát ra thấm vào khẩu trang. Khẩu trang phải che kín cả mũi lẫn miệng. Khi
mang khẩu trang tuyệt đối khơng sờ tay vào, vì động tác sờ tay sẽ vơ tình làm
cho bàn tay lây nhiễm vi rút và các tác nhân gây bệnh khác, sau đó truyền bệnh
lại cho chính mình và những người xung quanh. Khi tháo khẩu trang chỉ được
cầm vào dây đeo phía sau tai, tháo ra cho vào thùng rác an toàn. Tuyệt đối
không dùng tay cầm vào khẩu trang để tháo ra, thói quen lấy tay vo khẩu trang
lại, sẽ gây lây nhiễm vi rút và các tác nhân gây bệnh khác cho bàn tay của chúng
ta. Rửa tay ngay sau khi tháo bỏ khẩu trang.
 Còn đối với khẩu trang vải:


9


Khi đeo cũng phải che kín cả mũi và miệng, tuyệt đối không sờ tay vào
bề mặt khẩu trang trong suốt thời gian đeo. Chỉ cầm vào dây đeo phía sau tai khi
tháo khẩu trang. Giặt khẩu trang hàng ngày bằng xà phòng để dùng cho lần sau.
Khi trẻ vào học trực tiếp tôi sẽ cho trẻ thực hành những kỹ năng mà tôi
đã tuyên truyền trong thời gian trẻ nghỉ để phòng chống dịch bệnh, khi trẻ đã
dần quen với nề nếp và giờ sinh hoạt của lớp, tôi sẽ tiếp tục hướng dẫn trẻ các
kỹ năng tự phục vụ như kỹ năng chải răng, thói quen giữ gìn vệ sinh, cách rót
nước... Đồng thời, tơi sẽ dạy trẻ các kỹ năng tự cởi, mặc quần áo, gấp quần áo;
kỹ năng xử lý khi ho,... Khi thực hiện các kỹ năng này sẽ giúp trẻ có tính tự lập,
có thói quen gọn gàng, ngăn nắp, sạch sẽ. Ngồi ra những kỹ năng này sẽ hướng
trẻ tới việc giúp đỡ người khác, trẻ có thể giúp đỡ cơ trong việc chuẩn bị giờ ăn,
dọn lớp sau giờ ăn trưa, trẻ cịn có cơ hội giúp đỡ những người thân của mình.
Ở giai đoạn tiếp theo, khi trẻ đã dần phát triển cả về thể chất và tinh thần,
tôi muốn rèn cho trẻ một số kỹ năng như: Sử dụng muỗng, đũa... như vậy giúp
trẻ biết cách sử dụng các đồ dùng khi ăn uống.
Những tháng cuối năm tôi muốn rèn cho trẻ các tính tự lập một cách thành
thạo để trẻ có thể phát triển các khả năng của bản thân, ngồi ra trẻ cịn có thể biết
giúp đỡ người khác.
Dưới đây tơi đã xây dựng kế hoạch rèn tính tự lập cho trẻ 4-5 tuổi khi trẻ
vào học trực tiếp tại trường tại lớp tôi như sau :
STT

Tháng

Các kỹ năng
- Biết đi đại, tiểu tiện đúng nơi qui định

1

Tháng 2


- Biết sử dụng đồ dùng kí hiệu đúng nơi qui định
- Cách cởi giầy, đi giầy, cất dép.
- Có thói quen giữ gìn vệ sinh cơ thể.

2

3

Tháng 3

Tháng 4

- Cách chải răng rửa mặt, cách đeo khẩu trang
đúng cách.
- Cách mời khi ăn uống.
- Có thói quen giữ vệ sinh trong và ngoài lớp, vệ

Ghi chú


10

sinh công cộng.
- Cách xử lý khi ho, hắt hơi.
- Cách rót nước, rửa cốc.

4

Tháng 5


5

Tháng 6 - Cách gấp quần áo.
Ví dụ: Khi học trực tiếp trở lại vào tháng 3 tôi sẽ cho trẻ thực hành về

- Cách sử dụng chén, muỗng, đũa.
- Cách chải tóc.

tính tự lập “cách đánh răng”. Thay vì ỉ lại vào người lớn, tôi sẽ dạy trẻ cách đánh
răng nhằm vệ sinh cá nhân trước khi đi ngủ và sau khi ngủ dậy. Để dạy trẻ một
cách hiệu quả tôi sẽ dạy trẻ theo từng nhóm vào các giờ hoạt động góc thơng
qua mơ hình hàm răng và lời nói hướng dẫn của tôi. Như vậy lần lượt trẻ sẽ
được quan sát kỹ hơn và mời trẻ trực tiếp trải nghiệm.
Ngồi ra, tơi sẽ cho trẻ thực hiện lại các bước đánh răng vào các buổi
hoạt động chiều, cho trẻ xem video các bước đánh răng và dán hình ảnh các thao
tác đánh răng ở khu vực nhà vệ của trẻ. Đồng thời tôi sẽ trao đổi, phối kết hợp
với phụ huynh thường xuyên rèn trẻ và theo dõi trẻ đánh răng vào các buổi sáng
và buổi tối.
Thơng qua đó, tơi thấy trẻ lớp tôi đã thực hiện các bước đánh răng một
cách thuần thục và tạo cho trẻ một nếp sống vệ sinh răng miệng sạch sẽ trước
khi đi ngủ và sau khi ngủ dậy.
Tơi giáo dục cho trẻ về tính tự lập: “Có thói quen giữ gìn vệ sinh cơ thể”.
Tơi cho trẻ thực hiện các thói quen rửa tay bằng xà phòng để phòng chống dịch
bệnh: Rửa tay sau khi đi vệ sinh, trước khi ăn,….Tôi cho trẻ thực hành rửa tay
đúng cách khi ở lớp, hướng dẫn trẻ từng bước cho trẻ thực hiện và trẻ sẽ thực
hành đúng cách theo hướng dẫn sau khi đi vệ sinh, trước khi ăn. Trẻ sẽ có thói
quen tự lập về giữ vệ sinh cơ thể mà không cần sự nhắc nhỡ của cô khi ở trường,
và khi ở nhà phụ huynh cũng sẽ an tâm khi trẻ có thói quen tự lập giữ vệ sinh cơ
thể.

Như vậy việc lựa chọn, xây dựng kế hoạch cụ thể đã mang lại hiệu quả
cao trong q trình thực hiện đề tài.
2. Tạo mơi trường để phát huy tính tự lập cho trẻ.


11

Một trong những bí quyết dạy trẻ tính tự lập chính là tạo mơi trường gần
gũi, an tồn giúp trẻ phát huy tính tự lập của bản thân. Bởi bất cứ đứa trẻ nào
cũng có năng lực tự lập, chỉ cần cơ giáo, người lớn chúng ta biết khuyến khích
và cho trẻ có cơ hội được thực hành thì trẻ sẽ thực hiện được theo yêu cầu. Và
việc tạo môi trường gần gũi, an tồn cho trẻ chính là một trong những điều kiện
giúp trẻ phát huy tính tự lập của mình.
Khi trẻ chưa vào học trực tiếp tơi sẽ tun truyền đến trẻ những thói
quen, giờ giấc thích hợp để trẻ dần làm quen thích nghi mơi trường và thực hiện.
Ví dụ: Khi trẻ ở nhà thường sẽ có những thói quen, giờ giấc khơng như ở
trường, tơi sẽ tuyên truyền đến phụ huynh về giờ học của trẻ, phụ huynh ở nhà
sẽ hướng dẫn trẻ ở trường con sẽ học vào giờ này. Hoặc tôi sẽ tuyên truyền cho
trẻ thói quen tự phục vụ về tự rót nước, tơi sẽ cho trẻ xem hình ảnh, video về các
bạn tự rót nước uống để trẻ tự thực hiện rót nước uống khi ở nhà và khi đến
trường trẻ sẽ tự phục vụ bản thân mà không cần sự giúp đỡ của cô.
Tôi tuyên truyền về giờ ăn, ngủ khi ở trường đến cho phụ huynh để tạo
thói quen giờ giấc cho trẻ, trẻ dần sẽ có thói quen ăn, ngủ đúng giờ. Trẻ sẽ có
một mơi trường lành mạnh khi được sinh hoạt tại nhà.
Khi trẻ vào học tôi tiến hành thiết kế các khu vực của lớp học ngăn nắp,
trật tự, phù hợp, thuận tiện để phục vụ cho sinh hoạt hằng ngày của trẻ, phù hợp
với khả năng của trẻ theo độ tuổi, phù hợp với chủ đề trong năm.
Tôi đã tận dụng các đồ dùng đơn giản dễ kiếm, lành tính, hạn chế tối đa sự
nguy hiểm cho trẻ khi va chạm để tạo ra nhiều đồ dùng đồ chơi hấp dẫn. Cụ thể:
Đồ dùng, dụng cụ để trẻ tự phục vụ cá nhân (ca, bàn chải, khăn mặt, chậu, xơ...

có hình dạng gần gũi với sở thích của trẻ như hình mặt cười, hình con vật, hình
quả táo, quả cam...). Dán các ký hiệu cho từng cá nhân cho từng trẻ đảm bảo ký
hiệu đó phải được trẻ yêu thích, dễ nhớ, gần gũi với trẻ để trẻ dễ nhận ra đồng
thời thu hút sự chú ý, kích thích trẻ thích thú tham gia vào thực hiện lao động tự
phục vụ trong sinh hoạt hằng ngày. Nhờ vào những hình ảnh ngộ nghĩnh đó sẽ
thu hút trẻ tham gia vào các hoạt động và phát huy tính tự lập của bản thân.


12

Lựa chọn đồ dùng, đồ chơi dễ làm, dễ thực hiện để khuyến khích trẻ tự làm
trong các hoạt động, mặt khác để giúp trẻ dễ dàng tự thực hiện được mong
muốn, nhu cầu tự hoạt động của mình. Chẳng hạn, muốn trẻ tự cất, lấy đồ dùng
đúng nơi qui định, tự đi giày dép, tự mặc quần áo... thì tôi lựa chọn tủ đựng đồ
dùng cá nhân, giá để giày dép có chiều cao phù hợp với trẻ để trẻ tự cất, tự lấy…
Mọi sự quy định của cô ln đi cùng các ngun tắc, mục đích và có kết
quả nhất định. Và cơ giáo chính là người làm gương cho trẻ về vấn đề thực hiện
nguyên tắc đó. Ví dụ cặp, ba lơ sẽ cất ở đâu, giày dép phải đặt ở đâu, khăn
mặt phơi khô phải gấp gọn gàng hoặc treo lên như thế nào…, cô giáo nên nói
cho trẻ biết và hiểu. Qua đó, bản thân trẻ sẽ ý thức được những công việc, hoạt
động mà chúng có thể làm khi khơng có cơ cũng như người lớn ở bên.
Bên cạnh đó mơi trường hiện nay là phải phòng chống dịch bệnh covid19, khi thời gian trẻ nghỉ phịng dịch tơi đã tun truyền đến trẻ về cách đeo
khẩu trang, và khi vào học trực tiếp trẻ nhỏ khi đến trường phải thực hiện đeo
khẩu trang để phịng bệnh, tơi muốn mang đến cho trẻ một mơi trường an tồn,
tơi tập cho các cháu thói quen cần đeo khẩu trang thường xuyên, đúng cách để
trẻ có thói quen, ý thức tự lập trong chống phịng dịch bệnh.
Xây dựng môi trường tinh thần cho trẻ để mang lại xúc cảm, tình cảm và
sự tự tin, cảm giác an tồn, thơi thúc trẻ tự hoạt động. Cho trẻ thấy được gần gũi
như ở nhà của mình.
Ví dụ:

Quan tâm đến biểu hiện của trẻ để kịp thời phát hiện những biểu hiện vui,
buồn, những biểu hiện khác lạ, kịp thời động viên, khích lệ trẻ trong khi trẻ hoạt
động.
Cho trẻ tự chọn hoạt động để làm, tự chọn trò chơi để chơi. Cô làm cùng
trẻ, chơi cùng trẻ, nghĩ cách nghĩ của trẻ, chơi kiểu chơi của trẻ... tạo cho trẻ
cảm giác cô thực sự là một “người bạn nhỏ” của chúng.
Khuyến khích trẻ nói lên những cảm xúc, suy nghĩ của mình trong các
hoạt động. Chẳng hạn, “con tự làm việc giúp cô con thấy thế nào?”, “con được


13

tự chơi theo ý mình con thấy thế nào?”, “con có khó khăn gì khi tự làm
khơng?”... qua đó giáo viên nắm được nhu cầu, nguyện vọng, khả năng của trẻ
để có tác động phù hợp.
Cùng trẻ lưu lại những kết quả trong các hoạt động thông qua sản phẩm,
những hình ảnh đáng u của cơ và trẻ trong các hoạt động. Cuối ngày cô cùng
trẻ xem lại, trẻ tự xem, tự nói lên cảm xúc, nhận xét của mình về bức ảnh, về các
sản phẩm của mình. Cơ khen ngợi để tạo động cơ, thúc đẩy nhu cầu hoạt động
của trẻ.
3. Tổ chức lồng ghép giáo dục tính tự lập cho trẻ vào các hoạt động.
Giáo dục tính tự lập cho trẻ không phải thực hiện một lúc, một thời điểm
trong ngày mà phải được thực hiện một cách thường xun. Để có được thành
cơng thì phải trải qua việc rèn luyện, học tập. Việc giáo dục tính tự lập cho trẻ 45 tuổi là một việc làm đòi hỏi chúng ta cần tìm ra một số biện pháp hữu hiệu
giáo dục tính tự lập cho trẻ ngay. Bởi tính tự lập là nền tảng của nhiều phẩm chất
tốt sau này như: Kích thích lịng ham học hỏi, ưa khám phá, chủ động, kỉ luật,
tinh thần khơng ngại khó khăn, tư duy logic của trẻ. Chính vì thế tơi ln thực
hiện giáo dục tính tự lập cho trẻ một cách thường xuyên, và lồng ghép vào các
hoạt động.
* Hoạt động đón, trả trẻ.

Ngay từ đầu năm học khi trẻ đến lớp tơi quan sát giờ đón trẻ, trả trẻ và thấy
hầu như trẻ không cất được ba lô của mình, có khi cất được lại cất nhầm tủ hoặc có
những trẻ cịn phụ thuộc vào người lớn.
Bằng kinh nghiệm dạy trẻ 4-5 tuổi của mình, khi trẻ đến lớp tôi đưa từng trẻ
đến nhận tủ cá nhân và hướng dẫn trẻ cất đồ dùng cá nhân của mình, khi trẻ về tôi
hướng dẫn trẻ cách mở tủ và lấy đồ dùng cá nhân của mình. Sau một thời gian thực
hành và trải nghiệm tơi thấy trẻ lớp tơi có thể tự lấy và cất đồ dùng cá nhân của mình
gọn gàng, đúng nơi quy định. Ngồi lồng ghép tính tự lập cho trẻ, bên cạnh đó tơi
lồng ghép kỹ năng sống cho trẻ khi đến lớp, hay khi tan học trẻ biết chào cô giáo, các
bạn và bố, mẹ,… Giáo dục trẻ biết lễ phép chào hỏi mọi người.


14

Ví dụ : Khi trẻ đến lớp tơi rèn cho trẻ tính tự lập, trẻ biết cất ba lơ, cặp,
giày, dép, mũ nón,…vào đúng nơi quy định và biết lấy ghế về tổ ngồi, khi ra về
trẻ biết tự cất ghế lấy đồ dùng cá nhân.
Buổi sáng đến lớp nhiều trẻ để dép ngay cửa ra vào, ba lô, cặp thì cịn lúng
túng khơng biết cất ở đâu, tơi phải hướng dẫn trẻ tự làm bằng cách trò chuyện và
dạy trẻ: tôi hỏi trẻ khi đến lớp con thấy các bạn để dép và cặp ở đâu? Con thấy
bạn làm có giỏi khơng? Con sẽ làm được giống bạn? Và tôi bắt đầu hướng dẫn
trẻ tự để dép lên kệ, sau đó mang ba lơ cất lên giá đựng đồ dùng. Khi trẻ tự làm
tôi khen trẻ và nhắc trẻ lần sau nhớ làm đúng như vậy. Và những ngày tiếp theo
tơi để ý theo dõi xem trẻ có làm đúng không, nếu trẻ quên tôi nhắc trẻ và trong
thời gian 1- 2 tuần trẻ bắt đầu quen và có ý thức cất đồ đúng nơi quy định, ngoài
* Hoạt động học.
Để giáo dục tính tự lập cho trẻ trong các giờ hoạt động học trên lớp tôi
thường cho trẻ tự lấy và cất đồ dùng học tập của mình qua đó tơi thấy trẻ rất vui
vẻ, hứng thú và luôn muốn học hỏi khám phá xem hôm nay được học những gì
từ các đồ dùng mà cơ giáo đã chuẩn bị cho mình.

Ví dụ: Trong giờ học tốn tơi đã chuẩn bị rổ đồ dùng và bảng cho mỗi
trẻ nhưng tôi đặt chung vào một bàn, tôi cho trẻ lên lấy một rổ và một bảng về
chỗ của mình để học. Sau khi học xong tôi cũng cho trẻ cất đồ dùng về đúng vị
trí. Hay trong giờ học tạo hình tơi cho trẻ đi lựa chọn các ngun liệu trẻ thích
để tạo sản phẩm theo ý tưởng của mình. Được tự lấy đồ dùng học tập như vậy
tơi thấy trẻ rất tích cực, hứng thú học và ln muốn khám phá xem mình được
học gì ở các đồ dùng đó, giờ học nào của lớp tơi đều thấy trẻ hứng thú từ đầu giờ
Ví dụ: Hoạt động làm quen văn học.
Đề tài: Thơ “lấy tăm cho bà”.
Rèn tính tự lập: Cách rót nước.
Sau khi đàm thoại về bài thơ: Cô hỏi trẻ khi bà ăn song bạn nhỏ đã làm những
cơng việc gì? thơng qua bài thơ rèn cho trẻ tính tự lập là kỹ năng rót nước. Ở hoạt
động này tơi rèn tính tự lập cách rót nước cho trẻ: Khi rót con lấy tay phải cầm


15

bình, tay trái đỡ lấy bình. Khi tơi rèn cho trẻ kỹ năng này giúp cho trẻ có sự
khéo léo của đơi tay trẻ rót nước khơng đổ ra ngồi.
Bên cạnh đó tơi sẽ giáo dục dạy trẻ cách tự đi lấy nước uống khi ở lớp, trẻ
có thể tự mình xin phép cơ và tự rót nước trong bình để uống mà không cần sự
giúp đỡ của cô.

Tuy nhiên sự tích hợp cần phải lựa chọn sao cho phù hợp với nội dung
bài dạy không quá lạm dụng, tránh gị bó áp đặt, gượng ép đối với trẻ tạo cho trẻ
một khơng khí giờ học sinh động trẻ tự học tính tự lập một cách tự nguyện, hứng
thú và tích cực.
Trong các hoạt động của trẻ ở trường mầm non tôi luôn cố gắng lồng ghép
để rèn trẻ các kỹ năng tự phục vụ. Nếu các kỹ năng chúng ta dạy trẻ không được
củng cố bằng cách luyện tập thường xuyên thì chúng sẽ dần mất đi. Ngược lại

nếu ta có kế hoạch cho trẻ luyện tập thường xuyên thì các kỹ năng đó sẽ thành
kỹ xảo, phát triển bền vững và không bị lãng quên. Việc tổ chức cho trẻ luyện
tập phải có kế hoạch cụ thể, được tiến hành thường xun và khơng ngừng sáng
tạo, có như vậy mới gây được hứng thú cho trẻ.
* Hoạt động chơi ở các góc.
Với trẻ mầm non hoạt động vui chơi là hoạt động chủ đạo qua đó là “Học
mà chơi, chơi mà học”. Vì vậy trong giờ hoạt động chơi ở các góc tơi gợi ý để
trẻ tự chọn góc chơi, vai chơi mà trẻ thích, hướng dẫn trẻ cách sử dụng đồ chơi,
quan sát trẻ chơi, có lúc tơi tạo ra các tình huống để trẻ tự giải quyết, tôi chơi
cùng trẻ giúp trẻ khám phá những điều mới lạ, hấp dẫn…khi hết giờ chơi tôi cho
trẻ tự cất đồ chơi ở các góc mà trẻ chơi ngăn nắp, gọn gàng, động viên, khuyến
khích trẻ để giờ sau trẻ chơi tốt hơn.
Ví dụ: Trong hoạt động góc có rất nhiều góc chơi, trong mỗi góc lại có
nhiều nhóm chơi nhỏ. Khi cơ giới thiệu các góc chơi, nhiệm vụ của từng vai
chơi, trẻ bắt đầu tự chọn hoạt động của mình. Có trẻ chọn góc phân vai, góc xây
dựng… Khi tham gia chơi, trẻ được đóng làm chú cơng nhân, được đóng vai bố,


16

mẹ, vai y tá, bác sĩ,… (Làm chú công nhân phải xây nhà, xây hàng rào và xây
nhiều cơng trình khác. Khi đó trẻ sẽ nghĩ ra cách làm cho đẹp, cho nhanh. Được
đóng vai bố, mẹ trẻ sẽ tự làm công việc của bố hoặc của mẹ như: Chăm sóc em,
quét dọn nhà cửa, nấu cơm…); (Làm y tá, bác sĩ trẻ sẽ khám bệnh, kê đơn thuốc,
tiêm thuốc…).
Khi trẻ hoạt động cơ giáo tạo tình huống để trẻ giải quyết. Đồng thời gợi ý,
hướng dẫn thêm để mở rộng vốn hiểu biết cho trẻ trong lúc chơi. Chuyển sang
giai đoạn sau, giáo viên không can thiệp quá sâu vào trò chơi của trẻ mà để trẻ
tự bộc lộ khả năng tự lập của mình. Khi trẻ tự chơi với các đồ chơi thì trẻ cũng
lĩnh hội được những qui tắc, hành vi ứng xử trong xã hội ẩn chứa trong q trình

hành động đó. Từ đó trẻ học được cách tự lập trong các thao tác hành động với
đồ vật, giúp trẻ tự tin, tự lập hơn trong cuộc sống.
* Hoạt động ngoài trời và hoạt động lao động.
Hoạt động ngoài trời là một trong những hoạt động vui chơi mà trẻ
mong đợi và tích cực tham gia. Vì trong một khoảng thời gian học tập cũng như
tham gia các hoạt động trong lớp khi được ra ngoài trời, được thay đổi khơng
gian hoạt động. Chính vì vậy khi tham gia hoạt động ngồi trời với nhiều trị
chơi dân gian, trò chơi vận động, chơi với các đồ chơi tự do trẻ sẽ tham gia hoạt
động mạnh và tích cực hơn.
Tơi thường xun tổ chức cho trẻ tham gia một số hoạt động như: Nhặt lá
rụng sân trường, nhặt rác bỏ vào thùng rác, nhổ cỏ, tưới nước cho cây…tơi chia
trẻ ra thành các nhóm nhỏ cho trẻ tự chọn cơng việc mà mình thích, mỗi nhóm
5-6 trẻ, trong q trình trẻ thực hiện tơi quan sát thấy trẻ nào cịn lúng túng thì
hướng dẫn và cùng làm với trẻ, trị chuyện với trẻ về mục đích, ý nghĩa và cơng
việc trẻ đang làm …từ đó trẻ và yêu quý cây xanh, yêu thiên nhiên, biết giữ gìn
bảo vệ môi trường xanh - sạch - đẹp… Khi trẻ làm tốt công việc được giao cô
tuyên dương, khen ngợi, trẻ cảm thấy hứng thú, tự tin hơn và thích tham gia vào
các hoạt động tập thể của lớp hơn.
( Hình ảnh trẻ chăm sóc hoa )


17

Ví dụ: Khi ra sân trong giờ lao động phải biết nhặt rác bỏ vào thùng, tưới
cây, nhặt cỏ, lau lá cây,.... Khi thực hiện các hoạt động này tôi cùng làm với trẻ
và giải thích cho trẻ hiểu ý nghĩa tác dụng của từng hoạt động. Từ đó trẻ sẽ hiểu
và học tập theo cô, dần dần hoạt động có ý thức đó sẽ trở thành kỹ năng giúp trẻ
thực hiện hoạt động một cách tự nguyện mà không có cảm giác ép buộc, sai
khiến. Trẻ cịn cảm thấy vui vẻ vì đã làm được một việc nên làm.
* Hoạt động trong giờ ăn, giờ ngủ.

Đầu năm học trẻ mới đến lớp vẫn cịn bỡ ngỡ, tơi thường giúp đỡ trẻ
như: Chia ăn, đúc cơm, vệ sinh cá nhân cho trẻ…Sau một thời gian được tôi rèn
luyện, tuy do tình hình dịch bệnh trẻ chỉ ăn ngủ ở trường với thời gian hai tuần,
nhưng tôi cũng rèn cho trẻ được một số thói quen tự lập như: Thấy trẻ lớp tôi
biết tự xúc cơm ăn hết suất, khi ăn xong trẻ biết tự cất chén, muỗng, ghế đúng
nơi quy định…khi trẻ thực hiện tất cả các thao tác tôi quan sát, động viên trẻ và
chỉ giúp đỡ trẻ khi thực sự cần thiết. Dần dần những việc đó trở thành thói quen
đồng thời trẻ cũng có những kĩ năng tự phục vụ bản thân rất tốt.
Qua việc tổ chức bữa ăn cho trẻ, tôi tập cho trẻ làm một số cơng việc tự
phục vụ qua đó hình thành ở trẻ một số kỹ năng sử dụng đồ dùng, ăn uống đúng
cách, biết rửa mặt rửa tay trước khi ăn và súc miệng lau miệng, uống nước sau
khi ăn cơm xong.
Khi đến giờ ngủ, lúc đầu trẻ còn lúng túng không biết cách trải nệm ra
sao, tôi hướng dẫn cho trẻ tính tự lập về cách trải niệm khi ngủ, khi ngủ dậy phải
xếp nệm ra sao, dần dần trẻ sẽ biết cách thực hiện và sẽ trở thành thói quen làm
một cách thành thạo.
4. Tạo điều kiện cho trẻ thực hiện công việc, kết hợp động viên trẻ, nêu
gương trẻ kịp thời.
Phần lớn ở trẻ tính tự lập đã phát triển. Trẻ thường thích tự làm mọi việc,
tuy nhiên các thao tác còn vụng về, lúng túng dễ làm hỏng việc, cần phải có sự
hướng dẫn trẻ trong cơng việc để trẻ làm đúng theo yêu cầu của người lớn.


18

Bản thân người lớn cần tạo điều kiện trẻ hoạt động một cách tự lập tức là
tạo cho trẻ tự tin thực hiện. Trẻ làm sai người lớn chỉ dẫn trẻ làm lại thì sẽ được,
có như vậy trẻ mới được trải nghiệm cơng việc mình làm nó khó và dễ như thế
nào. Tôi thường giúp đỡ trẻ bằng các câu hỏi gợi ý, khuyến khích trẻ tích cực
hoạt động và sử dụng những kinh nghiệm sẵn có của mình vào trong quá trình

hoạt động. Việc làm này được lặp đi, lặp lại trong ngày, dần dần khả năng tự lập
của trẻ càng phát triển.
Chính vì vậy tơi đặc biệt chú trọng đến rèn trẻ kỹ năng lao động tự phục
vụ, kỹ năng vệ sinh môi trường..... Hàng ngày tôi thường chú trọng dạy trẻ
những hành vi tốt trong mọi hoạt động như: Biết rửa tay sạch sẽ trước khi ăn,
biết ăn uống văn minh …., hoặc biết giúp cô giáo dọn dẹp, xếp đồ dùng đồ chơi
đúng chỗ, ngồi ngay ngắn không làm ảnh hưởng đến người khác.... Khi thấy rác
phải biết nhặt rác bỏ vào thùng rác theo đúng quy định. Khi chăm sóc góc thiên
nhiên trẻ biết tưới cây, nhặt cỏ, lau lá cây ....
Trong quá trình trẻ thực hiện tôi cùng làm với trẻ nhưng vẫn phải theo
dõi, giám sát và cho trẻ tự giải quyết một số tình huống xảy ra. Tơi quan sát và
xử lý các tình huống kịp thời, tơi có thể gợi ý cho trẻ cách giải quyết tình huống
như: Gợi ý, đưa ra ý kiến, hoặc nhắc nhở nhóm trưởng cách xử lý. Nếu được bạn
góp ý mà trẻ khơng xoay chuyển thì cơ mới giải quyết. Từ đó hình thành cho trẻ
bản lĩnh, sự linh hoạt giải quyết các tình huống xảy ra.
Mỗi trẻ đều muốn thể hiện khả năng của mình, muốn chứng tỏ mình vì
vậy tơi đã tổ chức phân công nhiệm vụ cho trẻ phù hợp với năng lực của trẻ.
Ví dụ: Trẻ có thể giúp cơ xếp đồ dùng, đồ chơi vào đúng nơi quy định, tự
bỏ gối vào tủ… và các hành động này nên được khuyến khích lặp lại thường
xun.
Tơi đã cùng giáo viên cùng lớp lựa chọn ra danh sách một số việc mà trẻ
lớp tơi có khả năng làm được như: Tự đi vệ sinh, tự dọn dẹp đồ chơi sau khi
chơi xong, tự rửa tay bằng xà phòng , tự xúc cơm ăn và ăn sạch sẽ, lấy và cất gối
đúng nơi quy định … tơi ln động viên, khích lệ trẻ phải hồn thành cơng việc
được giao để trẻ cảm thấy là mình đã lớn.


19

Đơi khi tơi cũng có thể đưa ra một số cơng việc có mức độ khó khăn

hơn để thử thách trẻ, tạo cho trẻ thích được tìm hiểu về cơng việc mới, từ đó trẻ
sẽ tích cực tham gia hoạt động hơn, hồn thành cơng việc tốt hơn.
Tơi thường xun quan sát động viên khen ngợi trẻ kịp thời mỗi khi trẻ
làm tốt công việc được giao, nêu gương trẻ trước cả lớp cho các bạn học tập, trẻ
rất hứng khởi và luôn cố gắng phấn đấu để được cô khen, tính tự lập của trẻ từ
đó cũng ngày càng phát triển tốt hơn.
Ví dụ: Trong giờ ăn cơm bạn Bảo Thy ăn cơm xong trước được tôi
khen: Bạn Bảo Thy giỏi quá bạn tự xúc ăn hết suất rồi cuối tuần cô sẽ thưởng bé
ngoan cho bạn Bảo Thy nhé và động viên các bạn khác trong lớp cũng cố gắng
tự xúc ăn nhanh hết suất để được cô khen giống bạn…Hoặc khi ở giờ học: Dạy
trẻ kĩ năng tự thay quần áo bạn Thiên Phúc thực hiện rất tốt nên được tôi tuyên
dương trước lớp…cháu tỏ ra rất vui vẻ và ham học hỏi hơn nữa.
Có thể đơi khi trẻ chưa làm tốt nhiệm vụ được như mong đợi nhưng thay
vì trách mắn trẻ tơi thường xun động viên khuyến khích trẻ để trẻ thêm tự tin,
tự lập và làm tốt hơn vào lần sau.
5. Phối kết hợp với phụ huynh về việc giáo dục tính tự lập cho trẻ.
Gia đình là lớp học đầu tiên của con trẻ, bố mẹ là người thầy giáo đầu
tiên của con, ở nhà “mẹ cũng là cô giáo”. Hiểu được tầm quan trọng đó nên tơi
đã thường xun gặp gỡ và trao đổi với phụ huynh. Ngoài việc giáo dục trẻ tính tự
lập lồng ghép ở các tiết học tơi cịn thơng qua các hoạt động khác như : Hoạt động
đón trả trẻ, hoạt động góc, hoạt động ngồi trời, hoạt động lao động, hoạt động ăn,
ngủ, hoạt động chiều....Trong các giờ học này tơi giáo dục trẻ dưới hình thức củng cố
bài và ở góc kỹ năng hay hoạt động chiều tôi dạy cho trẻ một số kỹ năng mới.
Tôi mong muốn phụ huynh hiểu rõ tầm quan trọng của việc giáo dục tính
tự lập cho trẻ, từ đó tạo sự thống nhất giữa nhà trường, giáo viên và phụ huynh
trong việc rèn trẻ.
Môi trường tiếp xúc của trẻ chủ yếu là gia đình và nhà trường. Có thể nói
rằng cơng tác phối kết hợp giữa gia đình và nhà trường là một việc vô cùng cần



20

thiết và quan trọng. Chính vì vậy, việc kết hợp giáo dục tính tự lập cho trẻ giữa
gia đình và nhà trường là một biện pháp không thể thiếu.
Tôi nhận thấy rằng gia đình và nhà trường là mơi trường giáo dục gần gũi
nhất đối với trẻ. Bố mẹ và cơ giáo là người trực tiếp chăm sóc giáo dục trẻ. Vì
thế đây là một trong những biện pháp khơng kém phần quan trọng, nhằm góp
phần nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ nói chung và tổ chức hoạt động
giáo dục tính tự lập cho trẻ nói riêng.
Trước hết, cha mẹ và người lớn phải gương mẫu, yêu thương, tôn trọng,
đối xử công bằng với trẻ và đảm bảo an toàn cho trẻ. Tạo mọi cơ hội cho trẻ
nhìn thấy việc làm và cách thức làm của mình, đồng thời nên giải thích cho bé
về việc làm đó. Sau đó nên khuyến khích trẻ tham gia vào cơng việc phù hợp với
khả năng.
Ví dụ: Giúp mẹ dọn bàn ăn, lau dọn bàn ghế,…Trẻ được làm quen với
những đồ dùng, vật dụng khác nhau, (bộ đồ bếp, bộ đồ ăn, bộ đồ uống). Sự sạch
sẽ gọn gàng, một số thói quen nề nếp, sự sắp đặt ngăn nắp, ngay ngắn những bộ
đồ dùng cá nhân hay những đồ dùng, vật dụng trong gia đình,... Tất cả những
yếu tố trên sẽ giúp trẻ có thói quen tốt để hình thành những kỹ năng tự phục vụ
bản thân cho trẻ và ý nghĩa hơn là kỹ năng sống tự lập sau này.
Giáo viên và phụ huynh dạy trẻ các kỹ năng trong quá trình ăn uống như:
kỹ năng sử dụng đồ dùng ăn uống như: Chén, muỗng, đũa con dùng ăn cơm,...
biết ăn nhiều loại thức ăn khác nhau để đảm bảo các chất dinh dưỡng. Qua đây
trẻ sẽ được sử dụng các đồ dùng đúng cách việc này được thực hiện ngay ở
trường ở nhà trong bữa ăn gia đình. Những yếu tố trên sẽ giúp trẻ có thói quen
tốt để hình thành kỹ năng tự phục vụ và kỹ năng tự lập sau này.
Cha mẹ cần phối hợp với giáo viên một cách chặt chẽ và hợp lý. Vì vậy
tôi yêu cầu phụ huynh tham gia đầy đủ các buổi trao đổi với giáo viên, tham gia
các buổi họp của nhà trường, dự các hoạt động ngoại khoá về rèn luyện kỹ năng
tự phục vụ của trẻ.

Khi trẻ chưa đến trường: Tơi tun truyền đến phụ huynh qua nhóm zalo
về thói quen tự phục vụ cho trẻ, rèn cho trẻ các thói quen tự lập trong sinh hoạt,


21

trong học tập để giáo dục tính tự lập cho trẻ một cách hiệu quả khi trẻ ở nhà cho
đến khi trẻ vào học.
Khi học trực tiếp: Một vài trẻ chưa có kỹ năng tơi sẽ gặp trực tiếp vào giờ
đón, trả trẻ trao đổi với phụ huynh về tình hình của trẻ ở lớp đặc biệt là về tính
tự lập của trẻ để việc dạy trẻ tính tự được tốt hơn, tôi phối hợp với phụ huynh
cùng với tôi nhắc nhở trẻ, phân công công việc cho trẻ ở nhà cũng như ở lớp, để
cho việc rèn kỹ năng tự lập cho trẻ được tốt hơn.
Tôi thường xuyên trao đổi với phụ huynh về tình hình hoạt động của trẻ
trên lớp qua đó phụ huynh nắm bắt được chương trình chăm sóc giáo dục hiện
hành. Để có sự kết hợp trong việc giáo dục trẻ tốt hơn.
Bên cạnh việc trao đổi với phụ huynh học sinh tơi cịn vận động phụ
huynh hỗ trợ nguyên vật liệu: Lịch cũ, chai nhựa, vải vụn,... để làm đồ dùng đồ
chơi, trang trí và tạo môi trường lớp học hợp lý sẽ tạo cho trẻ khơng gian hoạt
động tích cực, giúp trẻ khắc sâu kiến thức đã học.
Việc rèn tính tự lập cho trẻ 4-5 tuổi cần sự phối hợp giữa phụ huynh và
giáo viên chặt chẽ và thường xuyên để việc rèn tính tự lập cho trẻ đạt kết quả
cao.


22

PHẦN III: KẾT QUẢ
Qua gần một năm thực hiện các biện pháp nêu trên tôi đã thu được 1 số
Qua số liệu cho thấy:

+ Trẻ biết làm vệ sinh cá nhân tăng: 48%.
+ Trẻ biết cất đồ dùng, đồ chơi tăng: 48%.
+ Trẻ biết cởi, mặc, gắp quần áo. Biết cởi, cất giày, dép tăng: 48%.
+ Trẻ có thói quen tự lập trong giờ ăn tăng: 52%.
+ Trẻ có ý thức bảo vệ môi trường tăng: 52%.
* Đối với trẻ:
Sau một thời gian thực hiện tơi thấy trẻ đã có những chuyển biến rõ
ràng, trẻ khỏe mạnh, sạch sẽ, mạnh dạn, hồn nhiên, có ý thức học tập tốt, biết lao
động tự phục vụ bản thân, có thói quen vệ sinh ở mọi lúc, mọi nơi. Nắm chắc
kiến thức yêu cầu đề ra.
Trẻ được củng cố, rèn luyện các kỹ năng tự phục vụ ( rửa mặt, rửa tay,
rót nước, gấp khăn, đi dép,...)
Trẻ tiến bộ rất nhiều, nhiều cháu có thói quen tự phục vụ rất tốt, trẻ thích
thú được giúp cô và tự tin đề nghị với người lớn để trẻ được làm.
Trẻ chủ động và không mong chờ được cơ giáo và bố mẹ nhờ giúp.
Chính những điều này tạo cho tôi niềm phấn khởi và yêu nghề hơn.
* Đối với phụ huynh:
Phụ huynh quan tâm nhiều đến trẻ hơn, một số phụ huynh còn hỗ trợ
mua đồ dùng đồ chơi cho lớp.
Phụ huynh đã nhận thức rõ tầm quan trọng của cha mẹ đối với việc giáo
dục tính tự lập cho trẻ. Ln quan tâm đến sự phát triển sau này của con em
mình.
Phụ huynh tích cực trao đổi với cơ giáo nhiều hơn về tình hình học tập
rèn luyện của trẻ, phối hợp tốt với giáo viên rèn tính tự lập cho trẻ.


23

Phụ huynh nhận thức đúng hơn về ngành giáo dục mầm non.
* Đối với giáo viên:

Trình độ chun mơn tay nghề có tiến bộ rất nhiều: Biết cách tuyên
truyền phối hợp với phụ huynh, ln tự trao dồi trình độ chuyên môn, thường
xuyên đầu tư phương pháp giáo dục, dạy học linh hoạt, sáng tạo trong tiết dạy,
biết tạo môi trường vui chơi học tập nhằm gây hứng thú cho trẻ khi đến lớp giúp
trẻ thích đến lớp.
Với các biện pháp trên tôi thực hiện trong năm học vừa qua đã thu được
kết quả đáng kể. Để nâng cao chất lượng giáo dục tính tự lập cho trẻ tơi rút ra
bài học kinh nghiệm như sau:
Giáo viên cần nâng cao trình độ của chính bản thân mình, thường xun
đầu tư phương pháp dạy học linh hoạt, sáng tạo trong các hoạt động.
Đầu năm nên khảo sát khả năng của từng trẻ, chú ý những trẻ có vấn đề
về tính tự lập.
Giáo viên phải thật sự yêu trẻ và nhẫn nại, nắm rõ đặc điểm tâm sinh lý
lứa tuổi của trẻ, hồn cảnh mơi trường giáo dục trẻ.
Động viên khích lệ trẻ kịp thời, nêu gương, đánh giá kết quả tự lập của
trẻ, khuyến khích trẻ phát huy tính tự lập.
Rèn thói quen tự lập cho trẻ là hoạt động thường xuyên, liên tục. Tận
dụng mọi thời điểm, mọi cơ hội để hình thành tính tự lập cho trẻ.
Sưu tầm nhiều trị chơi mới có nội dung phù hợp, trao đổi kiến thức tự
học qua sách báo, qua các bạn đồng nghiệp.
Đồ dùng dạy học tranh ảnh đẹp, mới lạ, đơn giản hấp dẫn với trẻ, luôn sử
dụng đồ dùng dạy học có khoa học, có hiệu quả.
Giờ học phải ln tạo khơng khí vui tươi, thoải mái, nhẹ nhàng khơng
áp đặt trẻ.
Luôn phối hợp tốt với phụ huynh trong điều kiện có thể để giúp trẻ có
mơi trường học tập tốt nhất.
Khai thác triệt để internet và cập nhật kịp thời để vận dụng vào việc soạn
giảng, tranh ảnh minh họa một cách phù hợp và sáng tạo.



24

KẾT LUẬN
Đối với trẻ mầm non chúng ta cần rèn luyện trau dồi rất nhiều đức tính,
phẩm chất tốt đẹp để trở thành một con người hoàn thiện cả về nhân cách lẫn tri
thức. Tự lập là một đức tính tốt cần được rèn luyện và phát huy thật tốt ngay
khi trẻ cịn đang nhỏ, có như vậy chúng ta mới đạt được thành cơng khi trưởng
thành. Tính tự lập là một trong những đức tính cần thiết để làm nên thành cơng.
Tự lập là một nét tâm lí quan trọng có ảnh hưởng nhiều đến tính cách, lối
sống và sự thành cơng của con người nói chung và trẻ em nói riêng. Vì vậy, việc
giáo dục tính tự lập cho trẻ cần phải được tiến hành ngay từ khi trẻ cịn nhỏ.
Giáo dục tính tự lập cho trẻ là một trong những nội dung quan trọng trong việc
hình thành và phát triển nhân cách toàn diện cho trẻ.
Nhận thức được vai trị vị trí và tầm quan trọng của điều đó bản thân tơi
đã khơng ngừng học tập nghiên cứu sáng tạo tìm tịi ra những phương pháp thật
hiệu quả để đem đến những kiến thức thật bổ ích cung cấp đến cho trẻ. Bên cạnh
đó giáo dục tính tự lập làm tăng kinh nghiệm sống cho trẻ, góp phần đào tạo cho
thế hệ chủ nhân tương lai của đất nước trở thành những con người phát triển,
năng động và toàn diện hơn về mọi mặt.


25

Là một giáo viên mầm non tôi phải cần nhận thức sâu sắc tầm quan trọng
và vai trò trách nhiệm với cái tên “Người mẹ thứ hai” của trẻ. Thật sự u mến
trẻ, nhiệt tình và say mê với cơng việc, có tấm lịng u thương trẻ, dẫn dắt trẻ
để trẻ có được sự tự tin vững bước tiếp con đường trở thành người có ích cho xã
hội.
Do đề tài được áp dụng trong phạm vi hẹp của một lớp, vì thế một số kinh
nghiệm tơi đưa ra khơng tránh khỏi nhiều thiếu sót. Tơi rất mong các cấp lãnh đạo

góp ý, xây dựng, bổ sung thêm để sáng kiến kinh nghiệm của tơi được hồn thiện
hơn.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. TS. Bùi Văn Sơm: “Hướng dẫn cán bộ quản lí trường học và giáo viên
viết sáng kiến kinh nghiệm” NXB tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh.
2. Tạp chí giáo dục mầm non của nhà xuất bản giáo dục.
3. Một số SKKN các bạn đồng nghiệp
4. Chương trình giáo dục tính tự lập cho trẻ ở trường mầm non.


×