Tải bản đầy đủ (.docx) (51 trang)

đề tài tốt nghiệp cây ngô

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (314.94 KB, 51 trang )

LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này ngoài sự nỗ lực của bản thân tôi đã nhận được
sự giúp đỡ nhiệt tình của các tổ chức cá nhân, các thầy cơ giáo, bạn bè đồng nghiệp
và gia đình. Nhân dịp này tôi xin trân thành bày tỏ sự biết ơn sâu sắc tới:
Cô giáo hướng dẫn: TS. Phan Thị Vân - Khoa Nông học, Trường Đại học
Nông Lâm Thái Ngun, đã tận tình giúp tơi trong suốt q trình thực hiện đề tài
và hồn thành luận văn.
Tơi xin chân thành cảm ơn sự quan tâm của Ban Giám hiệu Trường Đại học
Nông Lâm Thái Nguyên; Các Thầy Cô Giáo, Khoa nông học - Trường Đại học
Nông Lâm Thái Nguyên đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập.
Luận văn này được hồn thành cịn có sự giúp đỡ tận tình của nhiều bạn bè
và đồng nghiệp, cùng với sự động viên khuyến khích của gia đình trong suốt thời
gian học tập và nghiên cứu.
Xin chân thành cảm ơn!
Thái Ngun, tháng 05năm 2015
Tác giả khóa luận

Hồng Đình Hiếu

1


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Cây ngơ (Zea mays L.) được biết đến với những giá trị rất thiết thực trong cuộc
sống. Ngô được dùng làm lương thực, dùng làm thức ăn chăn nuôi. Ngô đã trở
thành cây đảm bảo an ninh lương thực, góp phần chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp
theo hướng trồng trọt sang chăn nuôi, cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp và
sản phẩm hàng hoá cho xuất khẩu ở nhiều nước và trên phạm vi tồn thế giới.
Ngày nay cây ngơ cịn biết đến một giá trị mà với nước ta vẫn còn là điều mới mẻ,


đó là sử dụng làm thực phẩm cao cấp như ngô rau, ngô đường.
Khái niệm ngô thực phẩm với người dân Việt Nam vẫn còn mới mẻ. Ở nước
ta, ngô được trồng cách đây khoảng 300 năm, cho đến nay ngô đã trở thành cây
lương thực quan trọng đứng thứ hai sau lúa nước. Trong khi đó, ngơ đường mới chỉ
được nhập nội từ khoảng hơn 10 năm qua, chưa mở rộng được diện tích sản xuất,
ban đầu phát triển mạnh ở các tỉnh phía Nam, đến nay đã được trồng ở một số tỉnh
phía Bắc, tập trung ở vùng ngoại thành Hà Nội và một số tỉnh lân cận như Hưng
Yên, Hà Tây… Các giống hiện nay đang được trồng phổ biến ngoài sản xuất là các
giống nhập nội từ Mỹ, Thái Lan, Trung Quốc, Đài Loan… có giá thành hạt giống
2


rất cao. Đây là một trong những nguyên nhân làm cho khả năng mở rộng diện tích
ngơ đường bị hạn chế.
Mục tiêu của những nhà chọn tạo giống là mở rộng diện tích sản suất, thay thế
các cây trồng nơng nghiệp truyền thống bằng cây có giá trị kinh tế cao mang lại
hiệu quả cho người sản suất, giảm giá thành hạt giống, thay thế dần các giống ngô
ngoại bằng các giống nội địa và chọn tạo ra những giống ngơ đường có chất lượng,
năng suất cao, thích nghi rộng, chống chịu tốt với điều kiện bất thuận và sâu bệnh,
đáp ứng nhu cầu thị hiếu của người tiêu dùng trong nước và từng bước hướng ra
xuất khẩu.
Con đường từ khi chọn lọc, lai tạo ra một tổ hợp lai cho đến khi tổ hợp lai đó
được cơng nhận giống chính thức là một con đường dài, nó địi hỏi việc nghiên cứu
bài bản và công phu, sự lao động gian khổ và nghiêm túc của các nhà khoa học.
Trong đó việc nghiên cứu, khảo nghiệm phản ứng của các giống với các điều kiện
sinh thái, mùa vụ khác nhau là việc mà bất cứ giống cây trồng nào cũng phải trải
qua trước khi được công nhận giống, áp dụng vào sản xuất đại trà.
Thái Nguyên là một tỉnh nằm ở khu vực trung du và miền núi phía Bắc Việt
Nam, có điều kiện đất đai, khí hậu tiêu biểu đại diện cho vùng. Thái Nguyên cũng
là nơi có hoạt động sản xuất nơng nghiệp phát triển trong đó ngơ được xem là một

trong những cây trồng chính góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển, ổn định và
nâng cao đời sống cho người dân.

Xuất phát từ vấn đề thực tiễn trên chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài:
‘‘Nghiên cứu khả năng sinh trưởng, phát triển của một số giống ngơ lai
vụ Xn 2015 tại Thái Ngun”.
2. Mục đích, yêu cầu của đề tài

3


Đánh giá được khả năng sinh trưởng, phát triển, khả năng chống chịu của các
tổ hợp tham gia thí nghiệm làm cơ sở để chọn được giống thích hợp cho vụ Xuân tại
Thái Nguyên cũng như các tỉnh thuộc khu vực miền núi phía Bắc.
2.2. Yêu cầu
- Theo dõi các chỉ tiêu sinh trưởng, phát triển của các tổ hợp ngơ lai mới tại Thái
Ngun tham gia thí nghiệm
- Đánh giá khả năng chống chịu sâu bệnh và điều kiện ngoại cảnh của các tổ
hợp ngô lai mới tại Thái Nguyên tham gia thí nghiệm.
- Nghiên cứu các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất của các tổ họp ngơ
lai mới tại Thái Ngun tham gia thí nghiệm.
- Xác định các tổ hợp ngô lai mới tại Thái Nguyên có triển vọng để giới thiệu
cho ra sản xuất.
3. Ý nghĩa của đề tài
3.1. Ý nghĩa trong học tập và nghiên cứu khoa học
- Ý nghĩa trong học tập: giúp cho sinh viên củng cố kiến thức, có điều kiện tiếp cận
với phương pháp nghiên cứu khoa học.
- Ý nghĩa trong nghiên cứu khoa học: xác định sự ảnh hưởng của mật độ trồng và
liều lượng đạm cần thiết đến sinh trưởng , phát triển giống ngô lai mới tại Thái
Nguyên làm cơ sở cho việc chọn tạo giống và phục vụ sản xuất

3.2. Ý nghĩa thực tiễn sản xuất
- Nâng cao thu nhập cho người dân.

4


- Cung cấp nguyên liệu cho các ngành công nghiệp chế biến, đáp ứng nhu cầu thị
trường trong nước cũng như xuất khẩu.

PHẦN II: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1 Cơ sở khoa học của đề tài.
Giống là yếu tố quan trọng quyết định đến năng suất và hiệu quả kinh trong sản
xuất nơng nghiệp. Chính vì vậy, để phát triển sản xuất nông nghiệp phải chú ý đến
việc cải tạo giống. Đối với sản xuất ngô, muốn phát triển theo hướng hàng hố với
sản lượng cao, quy mơ lớn nhằm phục vụ nhu cầu thị trường, cần phải có các biện
pháp hữu hiệu như thay thế các giống ngô cũ năng suất thấp bằng các giống ngô
mới năng suất cao, chống chịu tốt. Đặc biệt là ở các tỉnh miền núi sử dụng giống có
khả năng chịu hạn, chịu rét tốt, năng suất cao vừa phát huy hiệu quả kinh tế của
giống vừa góp phần xóa đói giảm nghèo cho đồng bao các dân tộc.
Trong những năm gần đây, Việt Nam đã tạo ra nhiều giống ngô lai năng
suất cao, chất lượng tốt phù hợp với các vùng sinh thái. Các giống ngơ lai của Việt
Nam có khả năng chống chịu với điều kiện ngoại cảnh bất thuận tốt hơn và giá
thành rẻ hơn so với các giống được sản xuất bởi các cơng ty nước ngồi. Tuy
nhiên, các giống mới trước khi đưa ra sản xuất, cần đánh giá đầy đủ, khách quan
khả năng thích nghi của giống với vùng sinh thái cũng như khả năng sinh trưởng
phát triển, khả năng chống chịu với những điều kiện bất lợi khác.
Trong quá trình khảo nghiệm, so sánh giống sẽ loại được các giống có
những yếu điểm về các đặc tính nơng sinh học như: Thời gian sinh trưởng quá dài,
cây quá cao, chống đổ kém và dễ nhiễm sâu bệnh … Chọn lựa theo kiểu hình sẽ
loại bỏ được những đặc tính khơng mong muốn, tuy nhiên để có kết quả tin cậy

5


phải thực hiện thí nghiệm ở nhiều thời vụ.
Các kết quả nghiên cứ về thời gian sinh trưởng, đặc điểm hình thái, khả năng
chống chịu, năng suất .... của các giống thí nghiệm là cơ sở khoa học lựa chọn
giống phù hợp với điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của tỉnh Thái Nguyên.
1.1 1.2. Tình hình sản xuất, tiêu thụ và nghiên cứu ngơ trên thế giới
1.2.1. Tình hình sản xuất ngơ trên thế giới.
Trong các cây lương thực chính, ngơ có tốc độ tăng trưởng về năng suất cao
nhất. Sản xuất ngô trên thế giới phát triển khá vững chắc từ thế kỷ 20 đến nay do
không ngừng cải tiến các biện pháp kỹ thuật canh tác và đặc biệt ứng dụng những
thành tựu mới trong chọn tạo giống.
Năm 2005, năng suất ngơ trung bình thế giới chỉ đạt khoảng 48,37 tạ/ha,
nhưng đến năm 2013 năng suất đã đạt 55,2 tạ/ha trên diện tích 184,19 triệu ha với
sản lượng đạt 1.016,74 triệu tấn (FAO, 2014) [15].
Bảng 1.1. Tình hình sản xuất ngơ trên thế giới giai đoạn 2005-2013
Diện tích

Năng suất

Sản lượng

(triệu ha)

(tạ/ha)

(triệu tấn)

2005


147,53

48,37

713,62

2006

148,96

48,09

706,84

2007

158,31

49,90

789,93

2008

162,87

50,98

830,26


2009

158,84

51,63

820,15

2010

163,82

51,87

849,79

2011

171,78

51,55

885,29

2012

177,00

49,44


875,10

2013

184,19

55,2

1.016,74

Năm

6


(Nguồn: FAO, 2014[15])
Trong gần 10 năm qua, diện tích trồng ngô trên thế giới tăng 24,85%, năng
suất tăng 14,12% và sản lượng tăng 42,48%. Sự gia tăng sản lượng rất lớn vào năm
2013 là do tăng về diện tích gieo trồng ngơ, mặt khác cịn do việc ứng dụng những
thành tựu chọn tạo giống và kỹ thuật công nghệ cao trong canh tác nên năng suất
ngô được cải thiện đáng kể.
Đặc biệt với những thành công trong nghiên cứu tạo giống biến đổi gen nên
các giống ngô biến đổi gen đã được phát triển trong sản xuất. Năm 2013, sản lượng
ngơ biến đổi gen trên tồn thế giới đã chiếm 32% tổng sản lượng ngơ (GMOCOMPASS, 2013) [16].
Vị trí của cây ngô đã được khẳng định ở nhiều vùng, nhiều quốc gia trên thế
giới. Tuy nhiên do sự khác nhau về điều kiện tự nhiên, khí hậu và kỹ thuật canh tác
nên sản xuất ngơ có sự khác biệt rất lớn giữa các vùng, các châu lục.
Bảng 1.2. Tình hình sản xuất ngô ở một số châu lục năm 2013
Châu lục

Châu Mỹ
Châu Á
Châu Âu
Châu Phi

Diện tích

Năng suất

Sản lượng

(triệu ha)

(tạ/ha)

(triệu tấn)

70,70
73,9
59,39
51,2
18,97
61,9
35,02
20,4
(Nguồn: FAO, 2014 [15])

522,63
304,31
117,45

71,61

Trên thế giới, diện tích trồng ngơ tập trung chủ yếu ở Châu Mỹ và Châu Á,
chiếm 70,63% diện tích, 81,33% về sản lượng ngơ của tồn thế giới. Khu vực có
năng suất và sản lượng cao nhất là Châu Mỹ. Năm 2013, năng suất của Châu Mỹ
7


đạt 70,7 tạ/ha, cao hơn 28,08% so với năng suất trung bình của thế giới, sản lượng
đạt 522,63 triệu tấn, chiếm 51,4% sản lượng ngơ tồn thế giới. Hai châu lục có
năng suất cao nhất là Châu Âu và Châu Mỹ (đạt 61,9-73,9 tạ/ha) vì có trình độ
khoa học kỹ thuật cao, có khả năng đầu tư thâm canh hơn các nước đang phát triển.
Khu vực có diện tích ngơ lớn thứ 2 trên thế giới là châu Á với 59,39 triệu ha.
Mặc dù diện tích trồng ít hơn châu Mỹ không đáng kể (11,31 triệu ha), nhưng năng
suất ngô ở khu vực này thấp chỉ đạt 51,2 tạ/ha, nên sản lượng ngô của Châu Á chỉ
bằng 58,23% sản lượng ngơ của Châu Mỹ.
Châu Phi có năng suất ngơ thấp nhất thế giới, năm 2013 đạt 20,40 tạ/ha, bằng
37,0% năng suất trung bình của thế giới và bằng 27,6% năng suất trung bình của
Châu Mỹ.
Hiện nay, trên thế giới có khoảng 75 nước trồng ngô, bao gồm cả các nước
phát triển và các nước đang phát triển. Trong số 25 nước sản xuất ngơ hàng đầu thế
giới, có 8 nước phát triển, 17 nước đang phát triển (9 nước châu Phi, 5 nước châu
Á và 3 nước châu Mỹ La tinh). Những nước sản xuất ngô hàng đầu thế giới là Mỹ,
Trung Quốc, Brazil, Mexico...
Bảng 1.3. Tình hình sản xuất ngơ của một số nước năm 2013

Diện tích

Năng suất


Sản lượng

(triệu ha)

(tạ/ha)

(triệu tấn)

Mỹ

35,48

99,7

353,70

Trung Quốc

35,28

61,7

217,83

Brazil

15,32

52,6


80,54

Mexico

7,10

31,9

22,66

Ấn Độ

9,50

24,5

23,29

Nước

8


Indonesia

3,82

48,4

18,51


Argentina

4,86

66,0

32,12

Pháp

1,85

81,4

15,05

Israel

0,05

225,6

0,11

(Nguồn: FAO, năm 2014 [15])

Mỹ luôn được coi là cường quốc số một về sản xuất ngô trên thế giới. Năm
2013, diện tích trồng ngơ của Mỹ là 35,48 triệu ha, năng suất bình quân đạt 99,7
tạ/ha và tổng sản lượng đạt 353,7 triệu tấn chiếm 34,79% sản lượng ngô tồn thế

giới. Sản xuất ngơ ở Mỹ phát triển rất mạnh là do Mỹ là quốc gia hàng đầu ứng
dụng nhiều tiến bộ khoa học trong chọn tạo và phát triển các giống ngô ưu tú. Từ
những năm 1950, 100% diện tích ở vùng vành đai ngơ Mỹ đã trồng các giống ngô
lai kép và năm 1960 các giống lai kép đã được thay thế bằng các giống lai đơn
(Jenkins, 1978) [17].
Những năm gần đây, do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu năng suất ngơ ở hầu
hết các nước phát triển tăng không đáng kể, nhưng năng suất ngô ở Mỹ vẫn gia
tăng. Kết quả đó có được là nhờ ứng dụng công nghệ sinh học trong sản xuất. Năm
2013, diện tích canh tác cây trồng CNSH là 70,2 triệu ha, trong đó có 50.000 ha là
ngơ chịu hạn [1].
Trung Quốc là nước có diện tích trồng ngơ lớn thứ 2 trên thế giới, đứng đầu
châu Á với diện tích là 35,28 triệu ha, sản lượng 217,83 triệu tấn, chiếm 21,38%
tổng sản lượng ngô của thế giới. Mặc dù, diện tích trồng ngơ của Trung Quốc năm
2013 chỉ ít hơn Mỹ 0,2 triệu ha, nhưng do năng suất ngô của Trung Quốc thấp, chỉ
bằng 61,89% năng suất ngô của Mỹ nên sản lượng ngô của Trung Quốc chỉ bằng
61,59% sản lượng ngô của Mỹ.

9


Isarel là quốc gia có điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, diện tích trồng ngơ nhỏ
(0,05 triệu ha) nhưng với trình độ khoa học cao, đầu tư lớn nên Isarel có năng suất
ngơ cao nhất thế giới đạt 225,6 tạ/ha cao gấp 4,1 lần so với năng suất trung bình
của thế giới (năm 2013).
1.2.2. Tình hình tiêu thụ ngơ trên thế giới
Trên thế giới, ngơ là cây trồng có vai trị quan trọng đối với tất cả các quốc
gia chính vì vậy nhu cầu sử dụng ngơ ngày càng tăng. Theo thống kê của Bộ Nông
nghiệp Hoa Kỳ (USDA), niên vụ 2013-2014, ngô được tiêu thụ nhiều nhất ở Mỹ
(chiếm 30,7%), Trung quốc (24,25%) và Brazil (21,2%) so với tổng sản lượng ngơ
tồn thế giới. Ở các quốc gia này ngô chủ yếu được sử dụng làm thức ăn cho gia

súc và nguyên liệu cho công nghiệp chế biến. Mỹ và Brazil là hai nước xuất khẩu
ngô lớn nhất thế giới. Lượng ngô xuất khẩu của Mỹ chiếm 57,67% và các nước
khác chiếm 42,33% tổng sản lượng (USDA, 2104)[18].
Hiện nay nhu cầu nhiên liệu sinh học ngày càng gia tăng ở các nước phát triển,
đặc biệt là ở Bắc Mỹ. Theo số liệu mới nhất của Liên minh nhiên liệu tái tạo toàn
cầu (GRFA), sản lượng ethanol thế giới năm 2010 tăng 17% và tăng thêm 15% năm
2011. Cục Bảo vệ môi trường Mỹ (EPA) cho biết doanh số bán hàng của ethanol tại
Mỹ năm 2010 là 13 tỷ gallon, năm 2011 tăng lên đạt 14 tỷ gallon (tương đương với
54,3 tỷ lít) (Cục xúc tiến thương mại, 2013)[6].
Quốc gia nhập khẩu ngô lớn nhất hiện nay là Nhật Bản (16,1 triệu tấn), sau đó
là Mexico (10,5 triệu tấn), Hàn Quốc (8 triệu tấn).
Nhu cầu về ngô tại Trung Quốc tăng mạnh do gia tăng nhu cầu về thức ăn
chăn ni, vì vậy năm 2012, Trung Quốc đã nhập 5 triệu tấn ngô để làm thức
ăn cho gia súc và dự kiến sẽ nhập khẩu ít nhất 8 triệu tấn ngô năm 2013 . Năm
2013, sản lượng ngô của Trung Quốc tăng 12,1 triệu tấn so với năm 2012, nhưng
10


mức tăng sản lượng này vẫn không đủ cung cấp cho nhu cầu nội địa ở Trung Quốc.
Giá ngô trên thị trường thế giới trong thời gian qua đã có sự biến động đáng
kể, bình quân thời kỳ 1994-1999 là 138-142 USD/tấn; hiện nay là 367-300
USD/tấn. Theo ngân hàng Standard Chartered, thị trường ngô đang phải đối mặt
với nhu cầu suy giảm từ Trung Quốc, tuy nhiên, ngân hàng này cũng cho rằng giá
ngô sẽ tiếp tục tăng, bất chấp tăng trưởng kinh tế toàn cầu sẽ chậm lại [12].

1.3. Tình hình sản xuất ngơ và tiêu thụ ngơ ở Việt Nam
1.3.1. Tình hình sản xuất ngơ của Việt Nam
Ở Việt Nam ngô là một trong những cây màu được trồng ở hầu hết các vùng
trong cả nước. Trải qua hàng trăm năm, sự phát triển của cây ngô đã thay đổi liên
tục với nhiều mức độ khác nhau.

Bảng 1.4. Tình hình sản xuất ngơ của Việt Nam giai đoạn 1961-2013
Diện tích

Năng suất

Sản lượng

(1.000 ha)

(tạ/ha)

(1.000 tấn)

1961

260,20

11,2

292,20

1975

267,0

10,5

280,60

1990


432,0

15,5

671,0

1994

534,6

21,4

1143,9

2000

730,2

25,1

2005,9

2005

1052,6

36,0

3787,1


2006

1033,1

37,0

3819,4

2007

1096,1

39,6

4250,9

2008

1440,2

31,8

4573,0

2009

1089,2

40,1


4371,7

2010

1126,4

40,9

4606,8

Năm

11


2011

1121,3

43,1

4835,7

2012

1118,2

50,0


4803,2

2013

1.170,3

44,4

5190,9

Nguồn: FAO, 2013 [15]
Trong suốt 20 năm (1961-1980), năng suất ngô của nước ta gần như không
thay đổi, điều này cho thấy các tiến bộ kỹ thuật ở giai đoạn này cịn hạn chế,
chủ yếu sử dụng các giống ngơ địa phương với kỹ thuật canh tác lạc hậu. Năm
1980, năng suất ngô Việt Nam chỉ bằng 34% so với trung bình thế giới.
Từ năm 1990 đến nay sản xuất ngơ ở Việt Nam đã có những bước tiến vượt
bậc. Năm 1990, diện tích trồng ngơ ở nước ta là 432.000 ha với tỉ lệ giống lai chưa
đến 1% nhưng đến năm 2013 diện tích đạt 1118,2 nghìn ha trong đó diện tích trồng
ngơ lai đã chiếm khoảng 95%. So với năm 2008, diện tích trồng ngơ giảm 269,9
nghìn ha, đây cũng là xu hướng chung của các nước trên thế giới. Dân số tăng,
công nghiệp phát triển, những biến đổi bất thường của điều kiện ngoại cảnh, là
những yếu tố hạn chế đến việc mở rộng diện tích đất canh tác. Vì vậy để đáp ứng
nhu cầu sử dụng ngô ngày càng tăng của xã hội, giải pháp quan trọng nhất là tăng
năng suất.
Việc tăng cường chọn tạo phát triển các giống ngô lai mới và áp dụng kỹ
thuật canh tác phù hợp đã giúp năng suất ngô nước ta tăng liên tục với tốc độ
nhanh hơn so với năng suất trung bình của thế giới. Từ năm 1993 đến nay các
giống ngô thụ phấn tự do năng suất thấp đã được thay thế bằng các giống ngô lai
năng suất cao. Theo báo cáo của Tổng Cục Thống kê năm 1993 cả nước mới chỉ
có 12% diện tích được sử dụng giống ngơ lai thì đến năm 2013 tỷ lệ này đã đạt

trên 95%.
Tháng 8/2014, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nơng thơn chính thức cơng bố
phê duyệt 4 sản phẩm ngô biến đổi gen đủ điều kiện sử dụng làm thực phẩm, thức
12


ăn chăn nuôi gồm Bt11 và MIR162 của công ty trách nhiệm hữu hạn Syngenta Việt
Nam



MON

89034



NK603

của

công

ty

trách

nhiệm

hữu hạn Dekalb Việt Nam (Monsanto). Đây là 4 sản phẩm biến đổi gen đầu tiên

được công nhận đủ điều kiện sử dụng làm thực phẩm và thức ăn chăn ni tại Việt
Nam.
1.3.2. Tình hình tiêu thụ ngô ở Việt Nam
Việt Nam là nước nông nghiệp nhưng hàng năm vẫn phải nhập khẩu một
lượng ngô lớn để phát triển chăn nuôi. Năm 2013 kim ngạch nhập khẩu ngô về
Việt Nam từ các thị trường đạt 2.188,98 nghìn tấn, trị giá 674.843,57 nghìn USD,
tăng 35,6% về lượng và tăng 34,9% về trị giá so với cùng kỳ năm trước. Chỉ 6
tháng đầu năm 2014, lượng ngô nhập khẩu đã là 2.394.081 tấn, trị giá 617.971.247
USD.
Bảng 1.5. Tình hình nhập khẩu ngơ ở Việt Nam năm 2012-2013
Năm 2012
Nước

Số lượng
(1000 tấn)

Năm 2013

Giá trị
(1000USD)

Số lượng
(1000 tấn)

Giá trị
(1000USD)

Ấn Độ

238,89


75.087,30

1.019,68

304.430,43

Braxin

59,86

16.885,44

779,84

212.764,76

Thái Lan

12,24

25.903,98

123,05

65.520,33

Achentina

238,86


75.087,30

147,53

45.006,61

Campuchia

34,74

11.039,50

72,28

21.835,15

Lào

21,58

5.680,36

23,27

6.194,56

0,50

468,84


0,57

437,29

1614.47

500.343,87

2.188,98

674.843,57

Hoa Kỳ
Tổng

Nguồn : Tổng cục hải quan, năm 2014 [13]
13


Việt Nam nhập khẩu ngô từ 7 thị trường khác nhau trên thế giới. Năm 2013,
lượng ngô nhập khẩu tăng 574.506 tấn so với năm 2012.
Ấn Độ là thị trường lớn nhất cung cấp ngô cho Việt Nam với 1.019.681 tấn,
trị giá 304.430.430 USD. Brazil là thị trường thứ hai với lượng ngô cung cấp cho
Việt Nam, năm 2013 tăng 719.981 tấn, tăng 13,0 lần về lượng và 12,6 lần về giá trị
so với năm 2012.
Trong tám tháng đầu năm 2014 lượng ngô nhập khẩu của Việt Nam đã đạt
tới 2,9 triệu tấn, lớn gấp 2,3 lần so với cùng kỳ năm trước.
Trong bối cảnh nguồn cung ngô nội địa năm nay bị sụt giảm, nhu cầu xuất
khẩu bắp đi Trung Quốc lớn, giá trong nước có chiều hướng tăng, cịn giá thế giới

vẫn đang giảm, thì rất có thể đây sẽ là động lực để các doanh nghiệp tăng nhập
khẩu. Đặc biệt là trong tình hình hiện nay, hoạt động chăn nuôi gia súc, gia cầm
của Việt Nam đang có nhiều dấu hiệu khởi sắc, nhu cầu tiêu thụ thức ăn chăn nuôi
trong thời gian tới sẽ tăng (Nguyễn Hồng Cơng, 2014)[4].
Nhiều khả năng sản lượng ngơ năm nay cũng không đủ đáp ứng nhu cầu sử
dụng ngô trong nước do giá ngô năm 2013 thấp nên nông dân nhiều vùng bỏ trống
đất khơng trồng ngơ.
1.4. Tình hình sản xuất ngô ở một số vùng trên cả nước
Sản xuất ngơ ở nước ta đã có sự phát triển nhưng vẫn còn thấp hơn so với sự
phát triển chung của thế giới. Năng suất ngô nước ta tăng nhanh liên tục với tốc độ
cao hơn trung bình thế giới trong suốt hơn 20 năm qua. Năm 1980, năng suất ngô
Việt nam chỉ bằng 34% so với trung bình thế giới, năm 2013 đã bằng 80,25 % năng
suất trung bình của thế giới. Tuy nhiên diện tích, năng suất và sản lượng ngô phân
bố không đều giữa các vùng trong cả nước.

14


Bảng 1.6. Tình hình sản xuất ngơ ở một số vùng năm 2013
Diện tích

Năng suất

Sản lượng

(nghìn ha)

(tạ/ha)

(nghìn tấn)


Đồng bằng sơng Hồng

88,3

46,1

406,7

Trung du và miền núi phía Bắc

505,8

37,6

1904,2

Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung

205,6

43,2

888,9

Tây Nguyên

252,4

51,7


1306,1

Đông Nam Bộ

80,1

57,6

461,5

Đồng bằng sông Cửu Long

40,3

56,1

226,1

Vùng

Nguồn: Tổng cục thống kê, 2014[14]
Trung du và miền núi phía Bắc là vùng có diện tích trồng ngơ lớn nhất
nước với 505,8 nghìn ha, chiếm 43,14% tổng diện tích trồng ngơ của cả nước.
Đây cũng là vùng có sản lượng đạt cao nhất (1904,2 nghìn tấn) chiếm 36,67%
tổng sản lượng ngô của cả nước. Tuy nhiên, đây lại là vùng có năng suất đạt thấp
nhất (37,6 tạ/ha) bởi vùng này có điều kiện tự nhiên và địa hình khắc nghiệt nhất,
phần lớn ngô được trồng trên nương rẫy, địa hình dốc, tập qn canh tác cịn theo
kiểu trồng “chay”. Ngồi ra cịn do một số ngun nhân như:
Phần lớn diện tích trồng ngơ của các tỉnh Trung du và miền núi phía Bắc tập

trung chủ yếu trong vụ Xuân, Xuân Hè và Hè Thu không chủ động nước tưới, ít
thâm canh. Do đó, năng suất cây ngơ đạt thấp so với tiềm năng năng suất của giống
và không ổn định, dễ mất mùa khi gặp hạn và mưa lũ. Hầu hết diện tích ngơ vụ Hè
Thu tại các tỉnh Bắc Trung bộ thường bị hạn hán cuối vụ và diện tích ngơ vụ Đơng
bị mưa lũ đầu vụ gây mất mùa

15


Diện tích sản xuất ngơ tại các tỉnh Trung du và miền núi phía Bắc và Bắc
Trung Trung bộ có độ dốc cao, hiện tượng rửa trôi lớp đất bề mặt là rất lớn, suy
thoái dinh dưỡng đất ngày càng nhanh qua nhiều năm canh tác ngô.
Thiếu các giống ngô có đặc tính thích nghi với điều kiện bất thuận của thời
tiết: ngập úng vào mùa mưa, hạn hán vào mùa khơ.
Trình độ khoa học kỹ thuật cịn thấp và không đồng đều giữa các vùng trồng
ngô, điều kiện kinh tế khó khăn, thiếu vốn đầu tư cho sản xuất. Việc đưa các tiến bộ
kỹ thuật vào sản xuất gặp rất nhiều hạn chế.
Phần lớn địa bàn sản xuất ngô xa, diện tích sản xuất ngơ manh mún ở vùng
đồng bằng sông hồng nên hiệu quả sản xuất bị giảm do tăng chi phí vận chuyển (đầu
vào và đầu ra), tăng chi phí lao động (khó thực hiện cơ giới hóa sản xuất).
Cơng nghệ sơ chế, bảo quản sau thu hoạch còn thiếu, hàng năm tổn thất sau
thu hoạch đối với ngô là khá lớn (13 - 15%).
Chưa gắn kết giữa sản xuất và tổ chức tiêu thụ của các doanh nghiệp, nhất là
doanh nghiệp chế biến thức ăn chăn ni (Cục Trồng Trọt, 2011) [5].
Vùng có năng suất ngơ đạt cao nhất là Đông Nam Bộ với 57,6 tạ/ha, cao hơn
30,02% so với năng suất ngơ trung bình của cả nước và cao hơn 4,35% so với năng
suất ngô trung bình của thế giới.
Tỉnh có diện tích trồng ngơ lớn nhất nước là Sơn La, với 162,8 nghìn ha,
chiếm 13,88% diện tích trồng ngơ của cả nước, tuy nhiên tỉnh có sản lượng đạt cao
nhất lại là tỉnh Đắc Lắc (663,2 nghìn tấn) chiếm 12,77% tổng sản lượng của cả

nước. Tỉnh có năng suất cao nhất là Đồng Tháp (75,3 tạ/ha) cao hơn 70% so với
năng suất ngô trung bình của cả nước và cao hơn 36,41 % so với năng suất ngơ
trung bình của thế giới.
16


1.5. Điều kiện tự nhiên, xã hội và tình hình sản xuất ngô của
tỉnh Thái Nguyên
1.5.1. Điều kiện tự nhiên, xã hội của tỉnh Thái Nguyên
Thái Nguyên là một trong những trung tâm chính trị, kinh tế, giáo
dục của khu Việt Bắc nói riêng, của vùng Trung du miền núi phía Bắc nói chung.
Thái Ngun là cửa ngõ giao lưu kinh tế - xã hội giữa vùng trung du miền núi với
vùng đồng bằng Bắc Bộ.
Phần lớn lãnh thổ Thái Ngun có lịch sử hình thành suốt thời kỳ trung sinh
(bắt đầu cách đây 240 triệu năm và kết thúc cách đây 67 triệu năm). Lãnh thổ Thái
Nguyên ngày nay tồn tại dưới chế độ lục địa, địa hình Thái Nguyên ngày nay được
san bằng và trở thành bình nguyên. Đến kiến tạo sơn Hymalaya cách đây khoảng
25 triệu năm, do vận động nâng lên mãnh liệt, Thái Nguyên cũng được nâng cao từ
200 đến 500m, làm cho địa hình trẻ lại. Những miền đất được nâng cao có địa hình
bị cắt xẻ, các vật liệu trầm tích trẻ, mềm bị ngoại lực bóc mịn, các núi cổ được cấu
tạo bằng nham thạch cổ hơn, cứng hơn lại lộ ra, tái lập lại địa hình như lúc mới
hình thành cuối trung sinh.
Địa hình của Thái Ngun khơng phức tạp so với các tỉnh trung du, miền núi
khác, đây là một thuận lợi của Thái Nguyên cho canh tác nông lâm nghiệp và phát
triển kinh tế - xã hội. Chính vì vậy, Thái Nguyên được chọn là một trong những
điểm khảo nghiệm trong q trình chọn tạo giống.
Tỉnh Thái Ngun có tổng diện tích là 356.282 ha. Đất đồi chiếm 31,4% diện
tích tự nhiên chủ yếu hình thành trên cát kết, bột kết phiến sét và một phần phù
sa cổ kiến tạo. Đây là vùng đất xen giữa nông và lâm nghiệp. Đất ruộng chiếm
12,4% diện tích đất tự nhiên, trong đó một phần phân bố dọc theo các con suối, rải

rác, không tập trung, chịu sự tác động lớn của chế độ thủy văn khắc nghiệt (lũ đột
ngột, hạn hán...) khó khăn cho việc canh tác [9].
17


Trong tổng quỹ đất 356.282 ha, đất đã sử dụng là 246.513 ha (chiếm 69,22%
diện tích đất tự nhiên) và đất chưa sử dụng là 109.669 ha (chiếm 30,78% diện tích
tự nhiên). Trong đất chưa sử dụng có 1.714 ha đất có khả năng sản xuất nơng
nghiệp và 41.250 ha đất có khả năng sản xuất lâm nghiệp. Những diện tích này nếu
biết vận dụng các biện pháp kỹ thuật canh tác hợp lý có thể mở rộng được diện tích
trồng ngơ [9].
Khí hậu ở Thái Ngun có sự biến động giữa các tháng trong năm. Nhiệt độ
trung bình của Thái Nguyên là 25 °C; chênh lệch giữa tháng nóng nhất (tháng 6:
28,9 °C) với tháng lạnh nhất (tháng 1: 15,2 °C) là 13,7 °C. Tổng số giờ nắng trong
năm dao động từ 1.300 đến 1.750 giờ và phân phối tương đối đều cho các tháng
trong năm. Khí hậu Thái Nguyên chia làm 2 mùa rõ rệt, mùa mưa từ tháng 5 đến
tháng 10 và mùa khô từ tháng 10 đến tháng 5. Lượng mưa trung bình hàng năm
khoảng 2.000 đến 2.500 mm; cao nhất vào tháng 8 và thấp nhất vào tháng 1. Chính
vì vậy đầu vụ Xn và cuối vụ Đơng sản xuất nơng nghiệp thường gặp khó khăn vì
hạn và rét.
Thái Ngun là tỉnh có dân số trẻ với nhóm tuổi lao động từ 15 đến 60 là
779.261 người, chiếm 69,38% tổng dân số. Nhóm tuổi dưới 15 có 249.001 người,
chiếm 22,17% tổng dân số cịn nhóm người trên 60 tuổi có 94.854 người, chiếm
8,45% [9]. Trên địa bàn Tỉnh Thái Nguyên có 46 dân tộc anh em cùng chung sống
trong đó đa số dân cư là người Kinh (73,1%). Đây cũng là thuận lợi rất lớn để
chuyển giao các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất nơng nghiệp trong đó có
cây ngơ.
1.5.2. Tình hình sản xuất ngô của tỉnh Thái Nguyên
Cây ngô đã được gieo trồng tại Thái Nguyên từ rất lâu đời, nhưng từ năm
1995 trở về trước, sản xuất ngô ở Thái Nguyên chủ yếu dùng các giống cũ, giống

địa phương có thời gian sinh trưởng dài, năng suất thấp. Sau một thời gian với sự
nỗ lực của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân địa phương, có sự tham gia tích cực
18


của đội ngũ các nhà khoa học, diện tích trồng ngô lai ngày càng tăng, thay thế dần
các giống ngô địa phương. Đến nay, diện tích trồng ngơ lai tăng mạnh, chiếm trên
90% diện tích, chính vì vậy năng suất ngô của Thái Nguyên đã được cải thiện đáng
kể.
Bảng 1.7. Tình hình sản xuất ngơ ở Thái Ngun (2006-2013)
Chỉ tiêu

Diện tích

Năng suất

Sản lượng

(nghìn ha)

(tạ/ha)

(nghìn tấn)

2006
2007
2008
2009
2010


15,3
17,8
20,6
17,4
17,9

35,2
42,1
41,1
39,1
42,0

53,9
74,9
84,6
68,0
75,2

2011

18,6

43,3

80,6

2012

17,9


42,2

75,5

2013

19,0

42,6

81,0

Năm

Nguồn: Cục thống kê tỉnh Thái Nguyên, năm 2013[14]
Kết quả thống kê ở bảng 1.8 cho thấy từ năm 2006 đến 2013, năng suất ngô
của Thái Nguyên đã tăng 7,4 tạ/ha, sản lượng tăng 27,1 nghìn tấn. Có được những
kết quả trên là nhờ áp dụng các tiến bộ khoa học mới vào sản xuất, đặc biệt là có
các cơ chế, chính sách hỗ trợ cho nông dân như trợ giá giống, vật tư, thủy lợi .....
Thái Nguyên là một tỉnh có lợi thế rất lớn vì là trung tâm chính trị, kinh tế,
giáo dục của vùng nên việc tiếp thu những tiến bộ khoa học kỹ thuật thuận lợi hơn
so với các tỉnh khác ở khu vực miền núi. Sản xuất ngô ở đây cũng đã được tiếp cận
được với nhiều giống ngô lai mới.

19


Ở Thái Nguyên, nhiều giống ngô lai tốt đã được phát triển ra sản xuất ở như:
LVN4, LVN99, LVN61, CP999, NK4300, NK66, B06..... Tuy nhiên cây ngô ở tỉnh
Thái Nguyên vẫn chưa phát huy hết tiềm năng thế mạnh của nó, năng suất và sản

lượng cịn ở mức rất thấp, vì vậy cần phải có những lộ trình, giải pháp phù hợp hơn
cho sản xuất.
1.5.3. Một số giống ngô lai mới đã thử nghiệm tại tỉnh Thái Nguyên
Để phát triển sản xuất ngô ở Thái Nguyên tương xứng với tiềm năng kinh tế
và xã hội của tỉnh, một trong các giải pháp quan trọng là cải tạo cơ cấu giống, sử
dụng các giống ngô lai mới phù hợp với địa phương.
Vụ Đông 2008-2009, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Thái
Nguyên đã tiến hành thử nghiệm giống LVN61 do Viện nghiên cứu ngô lai tạo. Kết
quả thử nghiệm cho thấy LVN61 thích ứng rất tốt với điều kiện sinh thái của Thái
Nguyên, năng suất đạt 70 tạ/ha, vì vậy LVN61 đã được bổ sung vào cơ cấu giống
ngô lai của tỉnh (Báo Thái Nguyên, 2010)[3].
Một trong những lợi thế rất lớn của Thái Nguyên là có Trường Đại học Nơng
Lâm đóng trên địa bàn, đây là một trong những điểm khảo nghiệm giống của
Viện Nghiên cứu ngô Việt Nam, vì vậy việc tiếp cận với những giống ngơ mới
thuận lợi và nhanh hơn các tỉnh khác trong vùng. Vụ Xuân 2009, giống ngô
LVN154 do Viện Nghiên cứu Ngô lai tạo, có năng suất cao, chất lượng tốt đã
được tiến hành khảo nghiệm tác giả, khảo nghiệm CVU tại Trường Đại học
Nông Lâm Thái Nguyên, đối chứng là giống ngơ C919, kết quả cho thấy giống
ngơ LVN154 có thời gian sinh trưởng là 119 ngày tương đương giống ngô C919,
trạng thái bắp, trạng thái cây tương tự đối chứng, năng suất giống ngô LVN154
đạt 85,56 tạ/ha (Báo Nông nghiệp Việt Nam, 2011) [2].
Ở Thái Nguyên những huyện miền núi như Định Hóa, Phú Lương, Võ Nhai ...
điều kiện tự nhiên khí hậu khắc nghiệt hơn các huyện vùng thấp, bên cạnh đó trình
20


độ dân trí và điều kiện kinh tế của vùng này cũng hạn chế hơn, vì vậy để phát triển
sản xuất ngơ ở đây cần có những giống ngơ có thời gian sinh trưởng ngắn, chống
chịu tốt, yêu cầu thâm canh thấp. Chính vì vậy, vụ Xn 2013, Trung tâm Giống
cây trồng tỉnh đã thử nghiệm giống ngô lai mới VS36 do Viện nghiên cứu ngô lai

tạo và thực hiện chế độ trồng, chăm sóc, bón phân theo đúng tập quán truyền thống
của bà con vẫn đang làm với các giống ngô khác tại địa phương. Kết quả theo dõi
cho thấy: VS36 có nhiều ưu điểm như khả năng sinh trưởng khỏe, có thể trồng với
mật độ dày (hàng cách hàng 60 cm, cây cách cây 25 cm), bộ lá xanh bền tới khi lá
bi bao bắp đã khô, thân cây cứng, bộ rễ chân kiềng phát triển mạnh, đặc biệt chiều
cao đóng bắp thấp (72,4 cm) nên khả năng chống đổ tốt. Năng suất trung bình của
VS36 đạt trên 80 tạ/ha, cao hơn năng suất ngơ bình qn của huyện Võ Nhai vụ
Xuân 2013 (Trần Thị Giang Hảo, 2014)[7].
Thái Ngun là tỉnh có điều kiện khí hậu tương đối khắc nghiệt. Vụ xuân
2014, thời tiết diễn biến khác thường so với các năm gần đây. Giai đoạn trồng ngơ,
khí hậu ấm và hạn đã ảnh hưởng đến tỷ lệ và thời gian nảy mầm, giai đoạn cây sinh
trưởng thì mưa phùn kéo dài, cường độ ánh sáng quá thấp. Khi cây trỗ cờ, phun râu
lại gặp thời tiết nắng nóng kéo dài trên 35 0C làm ảnh hưởng đến q trình thụ
phấn. Nhiều giống ngơ trồng tại Võ Nhai Thái Nguyên đã bị ảnh hưởng rất lớn đến
năng suất nhưng hai giống HT 818, HT119 đã tỏ ra thích ứng tốt với thời tiết, khí
hậu vùng cao. Đó là khả năng chống chịu sâu bệnh, chống đổ gãy và đặc biệt là
mức độ chịu hạn rất cao, năng suất đạt 82 - 83 tạ/ha.
Những năm gần đây, với sự biến đổi của khí hậu, điều kiện thời tiết diễn biến
rất bất thường, đặc biệt là sự thay đổi về nhiệt độ và lượng mưa. Vì vậy, những
giống có khả năng chịu hạn, rét tốt là hướng nghiên cứu quan trọng để tạo ra các
sản phẩm ứng phó với biến đổi khí hậu. Năm 2004, Viện nghiên cứu ngơ Việt Nam
đã lai tạo thành cơng giống VN8960 có khả năng chịu hạn rất tốt và vụ Xuân 2014
VN8960 được thử nghiệm tại huyện Võ Nhai tỉnh Thái Nguyên. Kết quả tại mô
21


hình cho thấy, giống ngơ lai VN8960 có thời gian sinh trưởng trung bình 105 ngày
(ngắn hơn 8-15 ngày so với các giống ngô khác tại địa phương); thân cây to, cứng,
bộ rễ chân kiềng khỏe nên khả năng chống chịu hạn và sâu bệnh tốt; năng suất đạt
69,8 tạ/ha (cao hơn các giống ngô khác ở địa phương từ 6-8 tạ/ha) (Nguyên Ngọc,

2014)[11].
Vụ Xuân 2014, giống ngô lai DK8868 do Công ty Monsanto đã được thử
nghiệm tại huyện Võ Nhai. Mặc dù, thời tiết khắc nghiệt, nhiều giống ngô được
trồng tại địa phương giảm năng suất gây thiệt hại cho các hộ trồng ngô nhưng
giống DK8868 vẫn đạt năng suất 78tạ/ha. Giống DK8868 có ưu điểm là cứng cây,
bộ rễ chân kiềng phát triển nên khả năng chống hạn, chống đổ rất tốt, trong giai
đoạn cây trỗ cờ phun râu gặp điều kiện thời tiết khô hạn nhưng vẫn cho tỷ lệ hạt rất
cao (Dương Trung Kiên, 2014) [8].

1.6 Các loại giống ngô
1.6.1. Giống ngô thụ phấn tự do (TPTD - open pollinated variety)
Giống ngô TPTD là một danh từ chung để chỉ các loại giống mà trong quá
trình sản xuất hạt giống con người không cần can thiệp vào quá trình thụ phấn,
chúng được tự do thụ phấn (thụ phấn mở), đây là những khái niệm tương đối
nhằm phân biệt với giống ngô lai.
Giống ngô TPTD bao gồm giống ngô địa phương (Local Variety), giống
ngô tổng hợp (Improvel Variety) và giống ngơ hỗn hợp (Ngơ Hữu Tình, 1997)[30].
Hiện nay sản xuất ngô ở Việt Nam giống thụ phấn tự do còn tồn tại trong sản xuất
chủ yếu là giống địa phương.
Giống địa phương có đặc điểm như thích ứng cao với điều kiện khí hậu,
điều kiện canh tác và tập quán sản xuất địa phương, có chất lượng tốt, dễ bảo quản
nhưng năng suất thấp. Giống ngô địa phương là nguồn vật liệu khởi đầu quan trọng
để lai với nguồn nhập nội nhằm tạo ra các giống lai có năng suất cao và khả năng
22


chống chịu tốt (Trần Như Luyện và Luyện Hữu Chỉ, 1982) [10].
Hiện nay ở rất nhiều vùng trong cả nước, đặc biệt là khu vực miền núi vẫn
sử dụng các giống ngơ thụ phấn tự do là nhóm giống địa phương. Với ưu thế là có
chất lượng tốt và khả năng thích nghi cao, các giống ngơ địa phương vẫn là nguồn

cung cấp lương thực cho đồng bào dân tộc miền núi. Các giống ngô địa phương
đang sử dụng như: Nếp tím (Sapa), tẻ đỏ (Bắc Hà), tẻ đỏ (Hà Giang), Nếp tím (Sơn
La)...
1.6.2. Giống ngơ lai (Maize Hybrid)
Ngơ lai là kết quả của ứng dụng ưu thế lai trong tạo giống, có năng suất và
độ đồng đều cao. Ngơ lai được chia thành hai nhóm: Giống lai khơng quy ước
(Nonconventional hybrid) và giống lai quy ước (Conventional hybrid) (Viện
nghiên cứu ngô, 1996) [18].
Hiện nay ở các nước đang phát triển, sử dụng chủ yếu là lai không quy uớc.
Việt Nam mặc dù là nươc đang phát triển nhưng đã đạt được trình độ cao trong
nghiên cứu và sản xuất ngơ lai, chính vì vậy hiện nay sản xuất ngơ ở Việt Nam chỉ
tồn tại các giống lai quy ước cịn các giống ngơ lai khơng quy ước được sử dụng
rộng rãi vào giai đoạn 1990 - 1995.
Giống lai quy ước là giống ngô tạo ra bằng cách lai các dịng thuần, đây là
phương thức sử dụng có hiệu quả nhất của hiện tượng ưu thế lai. Các giống
lai quy ước bao gồm lai đơn, lai ba, lai kép.
+ Lai đơn: L giống tạo ra giữa 2 dòng thuần, (A x B) trong đó A, B là dịng thuần.
Các giống ngô lai đơn đang sử dụng phổ biến trong sản xuất như LVN4,
LVN24, LVN99, VN8960, LVN9, LCH9... đây là những giống ngơ lai Việt Nam
có tiềm năng năng suất cao, khả năng chống chịu tốt với điều kiện ngoại cảnh bất
thuận.
Để phong phú cơ cấu giống, các công ty nước ngịai cũng nhập nội nhiều
giống ngơ lai đơn tiềm năng năng suất cao phục vụ sản xuất và cạnh tranh với các
giống ngô lai trong nước như: B9999, DK9901, C919, NK4300, DK9955....
+ Lai ba: là giống lai giữa một lai đơn và một dòng thuần, [(A x B) x C] trong đó
A, B, C là dịng thuần: U38, T1, LVN17, T7, LVN32, LVN33, ...
+ Lai kép: Lai giữa hai giống lai đơn, [(A x B) x (C x D)], trong đó A, B, C, D là
23



dịng thuần.
Các giống ngơ lai kép trong sản xuất ngơ của Việt Nam như: P11, P60, LVN12, T5,
LVN31,...

PHẦN III: NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Vật liệu nghiên cứu
Vật liệu nghiên cứu gồm 07 tổ hợp ngô tham gia thí nghiệm và 01 giống làm
giống đối chứng (Bảng 2.1).
Bảng 2.1. Các giống ngơ tham gia thí nghiệm và đối chứng
Số thứ tự
1

Tên tổ hợp lai
B15

2
3
4
5
6
7

B16
B17
B18
B19
B20
B21

8


DK 8868

Nguồn gốc giống
Viện nghiên cứu ngô
Viện nghiên cứu ngô
Viện nghiên cứu ngô
Viện nghiên cứu ngô
Viện nghiên cứu ngô
Viện nghiên cứu ngô
Viện nghiên cứu ngô
Công ty Monsanto Thái Lan tại Việt
Nam

1.2 2.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu
2.2.1. Địa điểm nghiên cứu
- Địa điểm nghiên cứu được tiến hành tại thành phố Thái Nguyên.
- Đặc điểm đất trồng: Đất cát pha.
- Loại cây trồng trước: Cây ngô
- 2.2.2. Thời gian nghiên cứu
- - Vụ Đông Xuân năm 2015
24


- - Thời gian gieo hạt: 25/02/2015
- - Thời gian thu hoạch:
2.3. Quy trình trồng trọt áp dụng trong thí nghiệm
Áp dụng theo quy trình kỹ thuật canh tác ngơ của Bộ NN&PTNT
* Thời vụ: Vụ Thu Đông năm 2014
* Làm đất: Làm đất tơi, xốp, bằng phằng, sạch cỏ dại, đảm bảo độ ẩm đất

lúc gieo khoảng 75-80% độ ẩm tối đa đồng ruộng.
* Mật độ trồng: 5,7 vạn cây/ha. Khoảng cách: 70cm x 25cm x 1 cây
* Phân bón:
+ Phân hữu cơ: 10 tấn/ha
+ Phân vơ cơ: 150N : 90P2O5 : 90K2O /ha
Tương đương với lượng phân:
Đạm urê: 326,09 kg/ha
Supe lân: 562,5 kg/ha
Kaliclorua: 150kg/ ha
- Phương pháp bón:
+ Bón lót 100% Phân vi sinh và 100% phân lân supe
+ Bón thúc:
Lần 1: Bón với lượng là 1/2 N+1/2 K 2O, khi cây có 3 - 5 lá, kết hợp xới xáo
lần 1 cho ngơ.
Lần 2: Bón với lượng phân cịn lại và bón khi cây có 7 - 9 lá, kết hợp vun
cao thành luống.
* Chăm sóc:
+ Theo dõi, phòng trừ sâu bệnh, tiến hành diệt trừ khi sâu bệnh phát triển rộ
trên đồng ruộng.
+ Mọc- 3 lá: Dặm cây, thường xuyên kiểm tra đồng ruộng, gặp mưa xới nhẹ.
+ Khi ngơ có 3-5 lá: Tiến hành tỉa định cây kết hợp với xới phá váng, nhổ cỏ
đồng thời bón thúc lần 1.
+ Khi ngơ 7- 9 lá: Bón thúc lần 2 kết hợp vun cao gốc chống đổ.

25


×