Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

Tài liệu LUẬN VĂN: Một số giải pháp tăng cường xuất khẩu các mặt hàng rau quả Việt nam sang thị trường Mỹ của Tổng công ty XNK rau quả Việt nam pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (728.74 KB, 83 trang )





z













LUẬN VĂN:

Một số giải pháp tăng cường xuất khẩu
các mặt hàng rau quả Việt nam sang
thị trường Mỹ của Tổng công ty XNK
rau quả Việt nam








Lời mở đầu

Chuyển đổi nền kinh tế cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường,
hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp nước ta đã có sự thay đổi to lớn. Xuất
khẩu trở thành một hoạt động vô cùng quan trọng trong hoạt động kinh doanh của các
doanh nghiệp. Nó đóng vai trò quyết định sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp
chuyên về hoạt động xuất khẩu trong sản xuất kinh doanh.
Trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, số lượng các doanh nghiệp tham
gia vào kinh doanh trên thị trường ngày càng tăng lên nhanh chóng và kéo theo khối
lượng, danh mục hàng hoá sản phẩm đưa vào tiêu thụ trên thị trường cũng tăng lên gấp
bội. Do đó tính cạnh tranh trên thị trường ngày càng trở nên khốc liệt hơn. trong điều
kiện đó, ngành sản xuất và chế biến thực phẩm nói chung, Tổng công ty XNK rau quả
Việt nam nói riêng hoạt động xuất khẩu sản phẩm gặp rất nhiều khó khăn trở ngại. Sau
thời gian thực tập tại Tổng công ty XNK rau qu Việt nam, xuất phát từ tình hình thực
tế hoạt động xuất khẩu của công ty, em lựa chọn đề tài
“Một số giải pháp tăng cường xuất khẩu các mặt hàng rau quả Việt nam sang thị
trường Mỹ của Tổng công ty XNK rau quả Việt nam “
làm đề tài chuyên đề tốt nghiệp.
Mục tiêu ngiên cứu của đề tài nhằm phân tích, so sánh giữa lý thuyết về hoạt
động xuất khẩu em đã được học với thực tế hoạt động xuất khẩu ở Tổng công ty XNK
rau quả Việt nam để rút ra những kinh nghiệm và đưa ra một số biện pháp nhằm đẩy
mạnh hoạt động xuất khẩu của công ty để nghiên cứu và ứng dụng trong thực tế.
Tổng công ty XNK rau quả Việt nam là một công ty lớn kinh doanh trên lĩnh
vực rau quả. Do vậy phạm vi nghiên cứu của đề tài là hoạt động xuất khẩu của công ty
trên thị trường Mỹ
Phương pháp nghiên cứu với đề tài này là phương pháp lí luận học kết hợp với
nghiên cứu thực tế. Lí luận mang tính khái quát hệ thống và lô gích, còn thực tế thì





phong phú đa dạng, phức tạp và có tính cụ thể về thời gian, địa điểm. Vì vậy phân tích
thực tế để thấy được sự khái quát sâu sắc và củng cố lí luận đã học và từ đó ứng dụng
lí luận vào trường hợp tình huống cụ thể.
Hoạt động xuất khẩu tuy là một đề tài truyền thống và đã được nhiều người quan
tâm nghiên cứu song nó có vai trò hết sức quan trọng đối với doanh nghiệp đặc biệt
trong nền kinh tế thị trường hiện nay. Nội dung chính của đề tài em trình bày gồm ba
chương:
Chương I: Lý luận chung về hoạt động xuất khẩu
Chương II: Thực trạng xuất khẩu của tổng công ty rau quả Việt Nam sang
thị trường Mỹ.
Chương III: phương hướng và giải pháp thúc đẩy xuất khẩu rau quả sang thị
trường Mỹ
Để hoàn thành đề tài này em đã nỗ lực cố gắng học hỏi kinh nghiệm trong thực tế
cùng với việc sử dụng kiến thức đã học. Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo
đã giảng dạy, truyền đạt kiến thức cho em trên giảng đường, sự giúp đỡ hướng dẫn
nhiệt tình của cô giao TS Nguyễn Thị Xuân Hương và các bác, các cô, các chú đang
công tác tại Tổng công ty xuất nhập khẩu rau quả Việt nam.



















Chương I: lý luận chung về hoạt động xuất khẩu

I. Vai trò của hoạt động xuất khẩu đối với Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp
hoá - hiện đại hoá đất nước.
1. Khái niệm về hoạt động xuất khẩu.
Bước vào thế kỷ 20, sự tiến bộ của khoa học, kỹ thuật có những bước nhảy vọt
làm thay đổi bộ mặt toàn thế giới. Kinh nghiệm của các nước đi trước cho thấy để có
thể phát triển được trên lĩnh vực kinh tế khi mà trên thế giới xu thế hội nhập và toàn
cầu hoá ngày càng mạnh mẽ thì phải thực hiện chính sách kinh tế mở hay còn có thể
nói là phải có ngoại thương. Việt Nam đang trên con đường phát triển và còn chậm
hơn so với thế giới trong nhiều lĩnh vực. Đẩy mạnh hoạt động ngoại thương là vô cùng
cần thiết, vì khi thực hiện hoạt động ngoại thương thì cũng đồng thời đẩy mạnh hay
góp phần đẩy mạnh các hoạt động khác, lĩnh vực khác.
Xuất khẩu là một bộ phận của hoạt động ngoại thương, trong đó hàng hoá và
dịch vụ bán cho nước ngoài nhằm thu ngoại tệ.
Nếu xét trên góc độ kinh doanh quốc tế thì xuất khẩu là hình thức cơ bản đầu
tiên của doanh nghiệp khi bước vào kinh doanh quốc tế. Mọi công ty luôn hướng tới
xuất khẩu những sản phẩm của nước mình ra nước ngoài. Xuất khẩu còn tồn tại ngay
cả khi công ty đã thực hiện được các hình thức cao hơn trong kinh doanh quốc tế. Các
lý do để một công ty thực hiện xuất khẩu là:
Thứ nhất: sử dụng khả năng vượt trội của công ty hay lợi thế của công ty với
các đối thủ cạnh tranh khác.
Thứ hai: giảm được chi phí cho một đơn vị sản phẩm do nâng cao khối lượng
sản xuất.

Thứ ba: nâng cao được lợi nhuận công ty.




Thứ tư: giảm được rủi ro do tối thiểu hoá sự dao động của nhu cầu.
Khi một thị chưa bị hạn chế bởi thuế quan, hạn ngạch các quy định về tiêu
chuẩn kỹ thuật, trên thị trường còn ít đối thủ cạnh tranh hay năng lực kinh doanh quốc
tế chưa đủ để thực hiện các hình thức cao hơn thì hình thức xuất khẩu thường được lựa
chọn. Bởi vì, so với đầu tư thì xuất khẩu đòi hỏi một lượng vốn ít hơn, rủi ro thấp hơn
và đặc biệt thu được hiệu quả trong một thời gian ngắn.
2. Vai trò của hoạt động xuất khẩu đối với Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp
hoá - hiện đại hoá của Việt Nam.
Đối với mọi quốc gia trên thế giới, hoạt động xuất khẩu đóng một vai trò quan
trọng và không thể thiếu được trong mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Hoạt động xuất khẩu không chỉ phản ánh một hình thức của mối quan hệ xã hội và sự
phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa những người sản xuất kinh doanh với nhau mà nó
là một mắt xích trong tổng thể các mối quan hệ xã hội tức là nó có mối quan hệ biện
chứng với rất nhiều mối quan hệ khác. Tuy nhiên vai trò của hoạt động xuất khẩu là
không thể phủ nhận được nó biểu hiện qua những điểm sau.
2.1. Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu phục vụ công nghiệp hoá - hiện đại hoá
đất nước.
Công nghiệp hoá đất nước theo những bước đi thích hợp là con đường tất yếu
để khắc phục tình trạng nghèo và cậm phát triển của nước ta. Để công nghiệp hoá đất
nước trong một thời gian ngắn đòi hỏi phải có một số vốn lớn để nhập khẩu máy móc,
thiết bị, công nghệ tiên tiến.
Nguồn vốn để nhập khẩu có thể được hình thành từ các nguồn như đầu tư
nước ngoài, vay, viện trợ, thu từ hoạt động dịch vụ, du lịch thu ngoại tệ, xuất khẩu lao
động Các nguồn vốn như đầu tư nước ngoài, vay nợ và viện trợ tuy quan trọng
nhưng rồi cũng phải trả bằng cách này hay cách khác ở thời kỳ sau này. Như vậy,

nguồn vốn quan trọng nhất để nhập khẩu CNH- HĐH đất nước là xuất khẩu. Xuất
khẩu quyết định quy mô và tốc độ tăng của nhập khẩu. Xuất khẩu quyết định qui mô
và tốc độ của nhập khẩu.
2.2-Xuất khẩu đóng góp vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản
xuất phát triển





Cơ cấu sản xuất và tiêu dùng trên thế giới đã và đang thay đổi vô cùng mạnh
mẽ. Đó là thành quả của cuộc cách mạng khoa học, công nghệ hiện đại. Sự chuyển
dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình công nghiệp hoá phù hợp với xu hướng phát triển
của kinh tế thế giới là tất yếu đối với nước ta.
Có hai cách nhìn nhận về tác động của xuất khẩu đối với sản xuất và chuyển
dịch cơ cấu kinh tế:
Một là: xuất khẩu chỉ là việc tiêu thụ những sản phẩm thừa do sản xuất vượt
quá nhu cầu nội địa. Theo cách này nếu một nền kinh tế còn lạc hậu và chậm phát
triển, sản xuất chưa đáp ứng đủ cho nhu cầu tiêu dùng trong nước mà cứ chờ đợi sự
“thừa ra’’ của sản xuất thì xuất khẩu sẽ cứ nhỏ bé và tăng trưởng chậm chạp.
Hai là: coi thị trường thế giới là hướng quan trọng để tổ chức sản xuất. Ta sẽ
tập trung đi sâu vào quan điểm này. Theo quan điểm này, xuất khẩu có tác động tích
cực tới dịch chuyển cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển thể hiện ở:
Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành khác có cơ hội phát triển thuận lợi.
Chẳng hạn, khi phát triển ngành dệt xuất khẩu sẽ tạo cơ hội đầy đủ cho việc phát triển
ngành sản xuất nhiên liệu như bông hay thuốc nhuộm. Sự phát triển của ngành công
nghiệp chế biến thực phẩm xuất khẩu sẽ có thể kéo theo phát triển của ngành công
nghiệp chế tạo thiết bị phục vụ nó.
- Xuất khẩu tạo ra khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ góp phần cho sản
xuất phát triển ổn định.

- Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất,
nâng cao năng lực sản xuất trong nước.
- Xuất khẩu tạo ra những tiền đề kinh tế - kỹ thuật nhằm cải tạo và nâng cao
năng lực sản xuất trong nước.

- Xuất khẩu đòi hỏi các doanh nghiệp phải luôn luôn đổi mới và hoàn thiện
công việc quản trị sản xuất kinh doanh để nâng cao khả năng cạnh tranh của
hàng hoá trên thị trường thế giới.
2.3-Xuất khẩu có tác động tích cực đến việc giải quyết công ăn việc làm và cải
thiện đời sống của nhân dân





Tác động của xuất khẩu đến đời sống bao gồm rất nhiều mặt. Trước hết sản
xuất hàng xuất khẩu là nơi thu hút hàng triệu lao động vào làm việc và có thu nhập
không thấp. Xuất khẩu còn tạo nguồn vốn để nhập khẩu vật phẩm tiêu dùng thiết yếu
phục vụ đời sốngvà đáp ứng ngày một phong phú thêm nhu cầu tiêu dùng của người
dân.
2.4 -Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại
Xuất khẩu và các quan hệ kinh tế đối ngoại có tác động qua lại phụ thuộc lẫn
nhau. Xuất khẩu là một hoạt động kinh tế đối ngoại. Có thể hoạt động xuất khẩu có
sớm hơn các hoạt động kinh tế đối ngoại khác tạo điều kiện thúc đẩy các quan hệ này
phát triển. Chẳng hạn, xuất khẩu và công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu thúc đẩy
quan hệ tín dụng, đầu tư, mở rộng vận tải quốc tế Mặt khác, chính các quan hệ kinh
tế đối ngoại nêu trên lại tạo tiền đề cho mở rộng xuất khẩu.

II. Nội dung của hoạt động xuất khẩu hàng hoá.
Hoạt động xuất khẩu hàng hoá bao gồm nhiều công đoạn khác nhau từ khâu

điều tra nghiên cứu thị trường đến các khâu như lập phương án kinh doanh, lựa chọn
đối tác giao dịch, tổ chức tạo nguồn, đàm phán ký kết hợp đồng, thực hiện hợp đồng,
giải quyết những vấn đề còn tồn tại và thực hiện đánh giá. Mỗi nghiệp vụlà một nội
dung cần phải nghiên cứu đầy đủ kỹ lưỡng.
1. Điều tra nghiên cứu thị trường.
Đây là quá trình tìm kiếm, thu thập, xử lý các thông tin liên quan đến thị
trường xuất khẩu nhằm đưa ra các quyết định của doanh nghiệp cho phù hợp với thị
trường đó. Quá trình này bao gồm các bước sau:
 Nhận biết sản phẩm xuất khẩu.
Việc nhận biết mặt hàng kinh doanh trước tiên phải dựa voà nhu cầu của sản
xuất và tiêu dùng về các khía cạnh như chủng loại, kích cỡ, thời vụ, giá cả, thị hiếu
cũng như tập quántiêu dùng của từng vùng, từng địa phương, từng lĩng vực sản xuất.
Từ đó, xem xét các khía cạnh hàng hoá trên thị trường thế giới. Về khía cạnh thương
phẩm cần hiểu rõ giá trị, công dụng, các đặc tính, quy cách, phẩm chất, mẫu mã. Nắm





bắt đầy đủ các mức giá cho từng điều kiện mua bán và phẩm chất hàng hoá, khả năng
sản xuất và nguồn cung cấp chủ yếu của các công ty cạnh tranh, các hoạt động dịch vụ
cho hàng hoá. Ngoài ra còn phải xác định nắm rõ vị trí của ản phẩm trong chu kỳ sống
của nó. Cuối cùng phải chú ý đến tỷ giá ngoại tệ của mặt hàng xuất khẩu.
 Nắm vững thị trường nước ngoài.
Mỗi quốc gia đều có những nét riêng biệt đặc thù về văn hoá, chính trị, kinh
tế, vì thế cần phải tìm hiểu kỹ về thị trường xuất khẩu của sản phẩm. Những nội dung
cần nắm vững về thị trường nước ngoài đó là: Những điều kiện về chính trị, kinh tế,
pháp luật, chính sách thương mại và đặc biệt là thuế xuất nhập khẩu, điều kiện tiền tệ,
điều kiện vận tải, giá cước. Bên cạnh đó, doanh nghiệp doanh nghiệp còn phải tìm hiểu
những đặc điểm về thị trường có liên quan tới sản phẩm xuất khẩu như: dung lượng thị

trường, tập quán tiêu dùng, giá cả, các sản phẩm cạnh tranh cùng loại và kênh tiêu
thụ
2. Lập phương án kinh doanh.
Trên cơ sở kết quả thu được trong quá trìnhnghiên cứu tiếp cận thị trường kết
hợp với khả năng của doanh nghiệp, nguồn vốn của doanh nghiệp mà từ đó doanh
nghiệp lập phương án kinh doanh.
Nội dung của phương án kinh doanh phải thể hiện được như sau:
- Đánh giá tổng quát tình hình thị trường và đối tác, phân tích những khó
khăn, thuận lợi trong kinh doanh.
- Lựa chọn mặt hàng, thời cơ, điều kiện và phương thức kinh doanh trên
cơ sở phân tích tình hình thực tế
- Đề ra những mục tiêu cụ thể: khối lượng bán hàng, giá cả, xâm nhập thị
trường nào
- Đề ra những biện pháp nhằm thực hiện những mục tiêu đã đề ra như:
Đầu tư vào sản xuất, kí kết hợp đồng kinh tế, đẩy mạnh quảng cáo, lập chi
nhánh ở nước ngoài, mở rộng mạng lưới tiêu thụ
- Sơ bộ đánh giá hiệu quả kinh doanh thông qua việc tính toán các chỉ tiêu
như tỷ xuất ngoại tệ, thời gian hoà vốn, điểm hoà vốn




3. Tạo nguồn hàng xuất khẩu
Có nhiều cách tạo nguồn hàng xuất khẩu và do vậy có nhiều cách để phân loại
nguồn hàng, có thể phân loại nguồn hàng như sau:
3.1 Phân loại theo đơn vị giao hàng
Các đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu có thể mua, huy động từ:
- Các xí nghiệp công nghiệp trung ương và địa phương
- Các xí nghiệp nông, lâm nghiệp trung ương và địa phương
- Các cơ sở sản xuất tiểu thủ công nghiệp

- Các công ty hợp doanh
- Các hợp tác xã, tư nhân, hộ gia đình
- Các xí nghiệp bán buôn
- Các xí nghiệp sản xuất của xí nghịêp thương nghiệp
- Các xí nghiệp trực thuộc cơ quan mình quản lý
3.2. Phân loại nguồn hàng theo phạm vi phân công của đơn vị kinh doanh
xuất nhập khẩu
- Nguồn hàng trong trong địa phương là nguồn hàng nằm trong khu vực
hoạt động kinh doanh của đơn vị. Ví dụ: Đối với một công ty liên hiệp ngoại
thương tỉnh, nguồn hàng trong tỉnh là nguồn hàng trong địa phương
- Nguồn hàng ngoài địa phương là nguồn hàng không thuộc phạm vi phân
công cho đơn vị ngoại thương đó thu mua nhưng đơn vị đã tranh thủ lâpj được
quan hệ cung cấp hàng xuất khẩu
- Trong mối quan hệ giữa hai nguồn hàng trên đây, phương châm giải
quyết là: Cố gắng tận thu mua đối với nguồn hàng trong địa phương, tranh thủ
điều kiện thuận lợi khai thác nguồn hàng ngoài địa phương, hết sức tránh việc
tranh mua với tổ chức ngoại thương ở địa phương sở tại.
3.3. phân loại nguồn hàng theo phương thức thu mua




Trong thu mua tạo nguồn hàng, doanh nghiệp ngoại thương thường sử dụng
nhiềo phương thức khác nhau. Các phương thức thu mua chủ yếu bao gồm:
- Bao tiêu (thu mua toàn bộ )
- Đặt hàng
- Gia công
- Đổi hàng
- Bán nguyên liệu ra, mua thành phẩm vào
- Ký kết hợp đồng sản xuất, khai thác, đánh bắt, khai thác

- Thu mua tự do từ những ngưòi sản xuất nhỏ
- Thu mua từ các đơn vị thành viên của doanh nghiệp (với các doanh
nghiệp là các Tổng công ty)
- Sử dụng hệ thống đại lý, các doanh nghiệp khác và tư nhân để thu mua
4. Lựa chọn đối tác giao dịch
Trong hoạt động xuất khẩu, việc lựa chọn đối tác giao dịch phù hợp sẽ tránh
cho doanh nghiệp phiền toái hoặc thiệt hại có thể gặp trong quá trình kinh doanh trên
thị trường, đồng thời có điều kiện thực hiện thành công kế hoạch kinh doanh của
doanh nghiệp. Việc lựa chọn đối tác giao dịch phải dựa trên những tiêu chuẩn sau:
- Tình hình sản xuất kinh doanh ổn định, lĩnh vực và phạm vi kinh doanh,
khả năng tiêu thụ thường xuyên.
- Có khả năng về vốn, cơ sở vật chất kỹ thuật.
- Thái độ và quan điểm kinh doanh cụ thể như: Có thiện chí trong quan hệ
làm ăn với doanh nghiệp, có độ tin cậy cao.
- Có uy tín trên thị trường
Khi lựa chọn đối tác kinh doanh, các doanh nghiệp phải thận trọng tìm hiểu
đối tác về tất cả các mặt mạnh yếu của họ. Các doanh nghiệp có thể lựa chọn đối tác
trên cơ sở bạn hàng sẵn có hoặc có thể thông qua các công ty môi giới, tư vấn, cơ sở
giao dịch hoặc phòng thương mại và công nghiệp các nước có quan hệ. Tuy có nhiều




cách lựa chọn đối tác giao dịch nhưng tốt nhất khi lựa chọn đối tác giao dịch nên chọn
đối tác trực tiếp, tránh lựa chọn những đối tác gián tiếp, trung gian, trừ trường hợp
doanh nghiệp muốn thâm nhập vào thị trường mới mà doanh nghiệp chưa có kinh
nghiệm hay chưa thực sự hiểu biết nhiều về thị trường đó.
Việc lựa chọn đối tác giao dịch có căn cứ khoa học là điều kiện cần thiết để
thực hiện thắng lợi các hợp đồng thương mại quốc tế, chọn được đối tác làm ăn thích
hợp, ổn định và sẽ là bạn hàng trung thành, quan hệ làm ăn lâu dài.

5. Giao dịch, đàm phán, ký kết hợp đồng.
Trong giao dịch ngoại thương, các bên tham gia thường có sự khác biệt nhau
về chính kiến, về pháp luật, tập quán, ngôn ngữ, tư duy truyền thống và về quyền lợi.
Những khác biệt đó làm cho các bên khi tham gia vào hoạt động xuất nhập khẩu phải
thoả thuận với nhau để cùng thống nhất ý kiến chung, sự thoả thuận này trong quan hệ
mua bán quốc tế gọi là đàm phán thương mại.
Đàm phán thương mại là quá trình trao đổi ý kiến của các chủ thể trong một
xung đột nhằm đi đến thống nhất cách nhận định, thống nhất quan niệm, thống nhất
cách sử lý các vấn đề nảy sinh trong quan hệ mua bán giữa hai hay nhiều bên.
Có ba hình thức giao dịch đàm phán trong thương mại như sau:
5.1. Đàm phán giao dịch qua thư tín
Ngày nay với sự phát triển của khoa học- kỹ thuật, việc giao tiếp với nhau qua
thư tín rất rễ ràng, thông dụng, và được các nhà xuất nhập khẩu tận dụng triệt để.
Thông thường những cuộc tiếp xúc ban đầu của những người xuất nhập khẩu cũng
thường qua đường thư từ sau đó mới đến gặp gỡ trực tiếp và có thể sau khi gặp vẫn
duy trì quan hệ qua đường thư tín.
Giao dịch qua thư tín tiết kiệm được nhiều chi phí. Hơn nữa, trong cùng một
thời điểm có thể giao dịch được với nhiều khách hàng khác nhau. Người viết thư tín có
điều kiện để cân nhắc, suy nghĩ, tranh thủ ý kiến của nhièu ngưòi, khéo léo giấu kín ý
đồ của mình.
Nhược điểm của giao dịch qua thư tín là đòi hỏi nhiều thời gian chờ đợi, có
thể cơ hội tốt nhất sẽ trôi qua. Việc sử dụng điện tín khắc phục được phần nào nhược





điiểm này. Khi sử dụng phương pháp đàm phán qua thư tín, nhà kinh doanh phải nhận
thức rõ rằng đối tác sẽ đánh giá mình qua thư từ mình gửi đến. Bởi vậy cần phải hết
sức lưu ý trong việc viết thư. Những nhà kinh doanh lâu năm bằng thư tín thấy rằng:

giao dịch bằng thư tín phải đảm bảo những yêu cầu: lịch sự, chính xác, khẩn trương và
kiên nhẫn.
5.2. Giao dịch, đàm phán qua điện thoại
Việc trao đổi qua điện thoại nhanh chóng, giúp người giao dịch nhanh chóng
khẩn trương trong việc tiến hành giao dịchvào đúng thời cơ cần thiết. Nhưng chi phí
cho tiền cước điện thoại giữa các nước khá cao do vậy các cuộc trao đổi bằng điện
thoại thường bị hạn chế về mặt thời gian, các bên tham gia không thể trình bày chi tiết
các vấn đề qua điện thoại, mặt khác trao đổi qua điện thoại là trao đổi bằng miệng do
vậy không có cơ sở pháp lý cho việc xác định vấn đề trao đổi nên no chỉ được dùng
trong trường hợp cần thiết, khẩn trương, sợ lỡ thời cơ hoặc trong điều kiện mọi thoả
thuận cần thiết đã xong rồi, chỉ còn chờ xác nhận một vài chi tiết Khi sử dụng điện
thoại, cần chuẩn bị thật chu đáo để có thể trả lời ngay mọi vấn đề được nêu một cách
trính xác. Sau khi trao đổi bằng điện thoại, cần có thư xác nhận nội dung đã đàm phán
thoả thuận.
5.3. giao dịch, đàm phán bằng cách gặp gỡ trực tiếp
Việc gặp gỡ trực tiếp gữa hai bên trao đổi về mọi điều kiện giao dịch, về mọi
vấn đề liên quan đến việc ký kết và thực hiện hợp đồng mua bán, là hình thức đàm
phán đặc biệt quan trọng. Hình thức đàm phán này đẩy nhanh tốc độ giải quyết mọi
vấn đề giữa hai bên và đôi khi là lối thoát cho những đàm phán bằng thư tínhay điện
thoại quá lâu mà không có hiệu quả. Nhiều khi đàm phán qua thư từ kéo dài nhiều
thánh mới đi đến ký kết hợp đồng. Trong khi đó, đàm phán tực tiếp chỉ có 2, 3 ngày là
đã có kết quả. Hiềnh htức đàm phán này thường được dùng khi hai bên có nhiều điều
kiện phải giải thích cặn kẽ để thuyết phục nhau, khi đàm phán về những hợp đồng lơn,
những hợp đồng có tính chất phức tạp
Việc hai bên mau bán trực tiếp gặp nhau tạo điều kiện cho việc hiểu biết nhau
tốt hơn và duy trì quan hệ tốt lâu dài với nhau. Tuy nhiên đây là hình thức khó khăn
nhất trong các hình thức đàm phá. Đàm phá trực tiếp đòi hỏi người đàm phán phải





chắc chán về nghiệp vụ, tự chủ, phản ứng nhanh nhạy để có thể tỉnh táo bình tĩnh
nhận xét nắm được ý đồ, sách lược của đối phương, nhanh chóng có biện pháp đối phó
trong những trường hợp cần thiét hay có thể quyết định ngay khi thấy thời cơ ký kết đã
chín mồi.
Để hợp đồng được ký đết thì những nội dung trong hợp đồng phải đươcj chấp
nhận, đó chính là nhứng điều khonả về hợp đồng ma khi donah nghiệp tham gia vào
kinh doanh quốc tế phải nhận biết được. Về điều khoản hợp đồng có những điều khoản
cơ bản sau:
- Điều khoản tên hàng: tên hàng phải chính xác để các bên tham gia không
hiểu nhầm. Do ngoài tên chung, tên thương mại phải gắn với ký mã hiệu địa
danh sản xuất, tên khoa học, tên hãng sản xuất
- Điều khoản phẩm chất: phẩm chất hàng hoá là tổng hợp các chỉ tiêu về tính
năng (cơ, lý, hoá) quy cách, công suất, hiệu suất, thẩm mỹ để phân biệt giữa
hàng hoá này với hàng hoá khác. Khi đánh giá phẩm chất hàng hoá thì cần
phải căn cứ vào tiêu chuẩn quốc tế, tập quán các nước hay quy định của các
bên, đồng thời thống nhất cách giải thích và ghi rõ cáhc xác định trong hợp
đồng.
- Điều khoản số lượng: trên thị trường thế giới tồn tại niều cách tính số lượng
khác nhau. Khi giao dịch thống nhất cách tính số lượng theo nội dung: kích
thước, dung tích, trọng lượng, chiều dài, đơn vị và đơn vị đóng kiện.
- Điều khoản giá cả: thông thường hai bên phải xác định đồng tiền giá có thể
dùng đồng tiền nước nhập khẩu, xuất khẩu hoặc bên thứ ba nhưng phải là
đồng tiền ấn định và tự do chuyển đổi được. Mức giá nêu ra phải là giá quốc
tế. Tuỳ thuộc từng điều kiện cụ thể mà doanh nghiệp thảo luận phương pháp
định giá, có thể là giá cố định, có thể là giá điều chỉnh lại, giá cả thường liên
quan đến điều kiện cơ sở giao hàng và các chi phí có liên quan đến trách
nhiệm của các bên mua bán vì vậy cần ghi rõ trong hợp đồng giá cả và điều
kiện kèm theo.
Trong điều khoản giá cả cần ghi rõ mức giá và tổng số tiền lô hàng trong hợp

đồng đó.




- Điều khoản về bao bì: các bên thoả thuận với nhau về các vấn đề như
chất liệu, chất lượng, phương thức cung cấp và giá bao bì.
- Điều kiện cơ sở giao hàng: điều khoản này có ảnh hưởng giá cả. Điều
kiện giao hàng phải ánh mối quan hệ giữa giá hàng hoá và địa điểm giao hàng.
Cơ sở của điều kiện giao hàng là sự phân trách nhiệm giữa hai bên mua và bán
về giao nhận hàng như thuê phương tiện vận tải bốc dỡ hàng, bẩo hiểm, hải
quan, nộp thuế xuất nhập khẩu.
- Điều khoản về giao hàng: đó là việc quy định thời hạn, địa điểm, phương
thức và việc thông báo giao hàng.
- Điều khoản về thanh toán: quy định rõ đồng tiền thanh toán, thời hạn và
phương thức trả tiền.
- Điều khoản về khiếu nại: quy cách thời hạn, thể thức khiếu nại.
- Điều khảo bảo hành: hợp đồng quy định phạm vi bảo đảm, trách nhiệm
của người bán trong thời gian bảo hành.
- Điều khoản bất khả kháng.
- Điều khoản giải quyết tranh chấp.

6. Thực hiện hợp đồng xuất khẩu.
Sau khi hợp đồng xuất khẩu đã ký kết, đơn vị kinh doanh nhập khẩu với tư
cách là một bên ký kết phải thực hiện hợp đồng đó. Đây là công việc rất là phức tạp.
Nó đòi hỏi phải tuân theo luật quốc giá và quốc tế, đồng thời đảm bảo quyền lợi quốc
gia và đảm bảo uy tín kinh doanh của đơn vị về mặt kinh doanh, trong quá trình thực
hiện các khâu công việc để thực hiện hợp đồng, đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu
phải cố gắng tiết kiệm chi phí, nâng cao tính doanh lợi và hiệu quả của toàn bộ nghiệp
vụ giao dịch.

Việc tổ chức thực hiện hợp đồng xuất khẩu, trên thực tế không có trình tự mẫu
chuẩn nào cả, bởi vì cách tổ chức thực hiện hợp đồng xuất khẩu phụ thuộc voà những
yếu tố như:




+ Điều kiện thương mại lựa chọn: FOB, FCA, CIF
+ Hình thức kinh doanh xuất khẩu: xuất khẩu trực tiếp, xuất khẩu uỷ thác, tạm
nhập tái xuất
+ Sự quản lý nhà nước đối với mặt hàng được xuất khẩu.
+ Phương thức thanh toán lựa chọn
Tuy nhiên việc thực hiện một hợp đồng xuất khẩu có thể được tiến hành theo
những công việc sau:
6.1. Chuẩn bị hàng hoá để giao
Để thực hiện cam kết trong các hợp đồng xuất khẩu, chủ hàng xuất khẩu phải
tiến hành chuẩn bị hàng xuất khẩu với ba khâu chủ yếu sau:
- Thu gom tập trung thành từng lô hàng xuất khẩu: ở khâu này chủ hàng
xuất khẩu phải chủ động tìm kiếm và thu gom các nguồn hàng để được
những lô hàng cần thiết phục vụ cho việc thực hiện hợp đồng đã ký.
Nguồn hàng mà chủ hàng xuất khẩu có thể thu gom ttập trung gồm nhiều loại:
có thể do đơn vị tự sản xuất, hàng thu mua trong dân, hàng đơn vị tự sản xuất, hàng
của đơn vị thu mua
Nhìn chung, trong điều kiện hàng xuất khẩu ở nước ta về cơ bản là một nền
sản xuất nhỏ, phân tán, điều đó đòi hỏi phải thu mua tập trung làm thành từng lô từ
nhiều nguồn hàng ( chân hàng ).
Cơ sở pháp lý để tiến hành công việc đó là kí kết hợp đồng kinh tế giữa chủ
hàng xuất khẩu với các chân hàng.
- Đóng gói bao bì hàng xuất khẩu:
Chủ hàng xuất khẩu phải lựa chọn bao bì đóng gói phù hợp với các quy định

trong hợp đồng. Lựa chọn bao bì cho hàng hoá vật tư phải tính đến các nhân tố như:
điều kiện khí hậu, điều kiện vận tải, điều kiện về pháp luật, thuế quan và điều kiện chi
phí vận chuyển.
Bao vì đóng gói vật tư hàng hoá phải đáp ứng được các nhu cầu đặt ra là an
toàn,tẻ tiền, thẩm mỹ.




- Kẻ ký mã hiệu hàng hoá:
- Ký mã hiệu quả hàng hoá có vai trò rất quan trọng cho việc đảm bảo
thuận lợi cho công tác giao nhận và hướng dẫn phương pháp, kỹ thuật bảo quản, vận
chuyển, bốc dỡ hàng hoá. Chính vì vậy việc kẻ ký mã hiệu cho hàng hoá phải rõ ràng,
viết bằng mực không phai màu, ghi đúng địa chỉ, ghi đủ và cả ký hiệu cần thiết (hàng
tránh ẩm, hàng tránh lạnh, dễ vỡ ) tóm lại theo 4 nguyên tắc: dễ viết, dễ làm, dễ thấy,
dễ kiểm tra.
Ký mã hiệu phải làm bằng sơn hoặc mực không phai nhạt, không làm ảnh
hưỏng đến chất lượng mùi vị hàng hoá vật tư.
6.2. Kiểm tra chất lượng hàng xuất khẩu.
+ Đối với hàng xuất khẩu:
Trước khi giao hàng người giao hàng có nghĩa vụ phải kiểm tra về phẩm chất,
số lượng, trọng lượng, bao bì tức là kiểm nghiệm hoặc nếu hàng hoá xuất khẩu là động
vật, thực vật phải kiểm tra về khả năng lây lan bệnh tật.
- Kiểm nghiệm ở cấp cơ sở: do tổ chức kiểm tra chất lượng sản phẩm
(KCS) tiến hành. Tuy nhiên thủ trưởng đơn vị vẫn là người chịu trách nhiệm
chính về phẩm chất hàng hoá.
- Đối với động thực vật phải qua kiểm dịch ở cấp cơ sở, phòng bảo vệ
thực vật, (huyện, quận, nông trường) tiến hành kiểm dịch động thực vật.
- Kiểm tra ở cấp cửa khẩu: bước này do chi nhánh hoặc các trung tâm
thuộc các cơ quan trung ương tiến hành, thông thường chậm nhất là 7 ngày

trước khi bốc hàng xuống tàu, chủ hàng xuất khẩu phải khai báo cho các cơ
quan liên quan tiến hành, sắp xếp hàng hoá thuận tiện để kiểm tra.
+ Đối với chủ hàng xuất khẩu:
Khi thấy có tổn thất hàng hoá hoặc nghi ngờ có tổn thất phải nhờ các cơ quan
hữu quan lập biên bản xác nhận.
6.3. Thuê tầu lưu cuớc




Việc thuê tầu chở hàng được tiến hành dựa vào các căn cứ sau: Những điều
khoản của hợp đồng mua bán, đặc điểm của hàng hoá mua bán và điều kiện vận tải.
Trong điều kiện cơ sở giao hàng của hợp đồng xuất khẩu là CIF hoặc C and F
(cảng đến ) thì chủ hàng xuất phải thuê tàu biển đến chở hàng.
+ Đối với hàng hoá có khối lượng ít, không cồng kềnh thì thường thuê tàu chợ
để chở, gồm các bước sau:
- Chủ hàng điện đẻ đăng ký thuê tàu
- Hãng tàu xác nhận đồng ý
- Khi bốc hàng lên tàu lấy vận đơn
- Thanh toán cước phí
+ Đối với hàng có khối lượng lớn và để trần thì thue tàu chuyến ( như chở
than< quặng, ngũ cốc ) gồm các bước sau:
- Chủ hàng phải nghiên cứu thị trường để thuê tàu
- Chủ tàu phát giá cước
- Hai bên hoàn giá
- Sau khi tàu đến đúng thời gian thì bốc hàng lên tàu và lấy vận đơn
- Thanh toán tiền cước (tiền thưởng, phạt bốc dỡ nếu có )
Trong trường hợp điều kiện cơ cở giao hàng của hợp đồng xuất khẩu là
CPT (cảng đến ) hoặc CIP (cảng đi ) thì chủ hàng xuất khẩu phải thuê
container. Chủ hàng chịu các chi phí chở container rỗng về, đóng hàng rồi

chuyển đến cho người vận tải.
Nếu hàng không đủ một container chủ hàng phải giao cho người gom
hàng hoặc người kinh doanh vận tải đa phương thức ( MTO ) tại ga container.
Cơ sở pháp lý để điều tiết mối quan hệ giữa chủ hàng xuất khẩu với
hãng tàu là hợp đồng vạn tải ký kết giữa các bên. Nếu chủ hàng xuất khẩu uỷ
thác việc thuê tàu lưu cước cho một công ty hàng hải ( công ty đại lý biển
VOSA ) thì cơ sở pháp lý điều tiết mối quan hệ giữa các bên uỷ thác thuê tàu,
nhận uỷ thác thuê tàu là hợp đồng uỷ thác thuê tàu.




6.4. Mua bảo hiểm
Nhà kinh doanh xuất khẩu buộc phải mua bảo hiểm cho hàng hoá trong các
trường hợp sau:
- Khi hợp đồng mua bán ngoại thương quy định người bán hoặc người mua
bảo hiểm.
- Khi nhà xuất khẩu xuất thoa điều kiện CIF, CIP
- Để ký các hợp đồng bảo hiểm cần nắm vững các điều kiện bảo hiểm. Hiện
nay trên thế giới người ta áp dụng rộng rãi điều khoản bảo hiểm Luân Đôn (
áp dụng từ ngày 1/1/1982 ), bao gồm điều khoản:
+ Điều kiện A
+ Điều kiện B
+ Điều kiện C
+ Điều kiện boả hiểm trong chiến tranh
+ Điều kiện bảo hiểm đình công
Lựa chọn điều kiện bảo hiểm thường dựa trên các căn cứ sau:
- Tính chất hàng hoá
- Điều khoản của hợp đồng
- Tình trạng của bao bì và phương thức xếp hàng

- Loại tàu chuyên chở
- Tình hình chính trị xã hội
6.5. Làm thủ tục hải quan
+ Làm thủ tục xuất khẩu về mặt giấy tờ tại cơ quan địa phương
Chủ hàng xuất khẩu làm giấy khai hải quan bao gồm:
- Bản sao hợp đồng hoặc L/C
- Hoá đơn tính thuế
- Bản kke chi tiết hàng hoá




+ Bước kê khai tại kho hàng, chủ hàng phải xắp xếp hàng hoá thuận tiện cho
kiểm tra, cung cấp nhân công và dụng cụ đóng mở hàng hoá. Hải quan phải đối chiếu
hàng hoá trong giáy tờ thực tế.
+ Quyết định xử lý của hải quan:
Sau khi kiểm tra đối chiếu, cán bộ hải quan quyết định xử lý theo các phương
án sau:
- Cho hàng hoá đi, xác nhận đã làm thủ tục hải quan
- Cho đi nhưng phải nộp thuế (nếu hàng thuộc loại phải nộp thuế )
- Cho đi nhưng phải bổ xung giấy tờ, thủ tục.
- Không cho đi
6.6. Giao nhận hàng hoá với tàu
Giao nhận hàng hoá xuất khẩu phải nắm vững những chi tiết hàng hoá và nộp
bản đăng ký chuyên chở gồm:
- Tên hàng, mã ký hiệu, số lượng, trọng lượng, kích thước, bao bì, tên địa chỉ
người nhận, trao bản đăng ký này cho hãng tàu để đổi lấy sơ đồ xếp hàng.
- Theo dõi điều độ để biết được ngày giờ đến lượt tàu mình
- Xem xét và đưa hàng vào cảng
- Bốc hàng lên tàu dưới sự giám sát của hải quan

- Đổi lấy vận đơn hoàn hảo ( B/L )
6.7. Làm thủ tục thanh toán
Nếu hợp đồng thanh toán bằng L/C thì người xuất khẩu, phải đôn đốc người
nhập khẩu mở L/C đúng hạn. Sau khi nhận được L/C thì phải tiến hành kiểm tra:
- Ngân hàng mở L/C là ngân hàng nào
- Số tiền L/C có đủ không
- Thời hạn hiệu lực của L/C
- Những yêu cầu về chứng từ của L/C




Việc kiểm tra này để xem xét khả năng thuận tiện và an toàn trong việc thu
tiền hang xuất khẩu bằng L/C đó
Nếu L/C đó không đáp ứng được những yêu cầu đặt ra thì cần yêu cầu nhà
nhập khẩu sửa đổi lại rồi mới giao hàng.
6.8. Khiếu nại và giải quyết khiếu nại
Khi thực hiện hợp đồng xuất khẩu, nếu chủ hàng xuất khẩu bị khiếu nại đòi
bồi thường. Cần có thái độ nghiêm túc, thận trọng trong việc xem xét yêu cầu của
khách hàng. Việc giải quyết phải khẩn trương kịp thời và có tình lý.
Khiếu nại của khách hàng là có cơ sở, chủ hàng xuất khẩu có thể giải quyết
bằng một trong những phương pháp như:
- Giao hàng thiếu
- Giao hàng tốt thay thế hàng kém chất lượng
- Giảm giá hàng mà số tiền giảm giá được trang trải bằng hàng hoá giao vào
thời gian sau đó.
Nếu việc khiếu nại không được giải quyết thoả đáng, hai bên có thể kiện nhau
taqị hội đồng trọng tài ( nếu có thoả thuận trọng tài ) hoặc tại toà án.

III. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu.


Trong điều kiện kinh tế thị trường nó đòi hỏi các doanh nghiệp hoạt
động xuất khẩu phải thường xuyên nắm bắt được các yếu tố của môi trường xuất khẩu,
xu hướng vận động và tác động của nó đến toàn bộ quá trình của hoạt động xuất khẩu.
Các nhân tố này đã trở nên thật sự quan trọng đối với hoạt động xuất khẩu.
1. Yếu tố kinh tế quốc tế
Có thể nói đây là yếu tố quan trọng nhất tác động đến hoạt động xuất nhập
khẩu.
Rất nhiều yếu tố riêng biệt của môi trường kinh tế quốc tế tác động vào doanh
nghiệp. Chúng ảnh hưởng tới doanh nghiệp xuất khẩu qua tác động của chúng về tiềm




năng thị trường ở mọi thời điểm với định hướng hiện thực hoá thị trường. Thu nhập và
của cải của dân tộc là hai điều thực sự quan trọng vì chúng quyết định sức mua. Thu
nhập là yếu tố quyết định chính quyền sở hữu hàng tiêu dùng lâu bền.
2. Điều kiện sản xuất trong nước
2.1. Điều kiện tự nhiên
Điều kiện tự nhiên là yếu tố khách quan, không nằm trong sự kiểm soát của
con người. Đó là cái mà thiên nhiên ban tặng cho mỗi nước. Điều kiện tự nhiên có thể
kể đến là khí hậu, đất đai, tài nguyên thiên nhiên và vị trí địa lý. Và sự ảnh hưởng của
nó không nhỏ đối với hoạt động sản xuất và hoạt động xuất khẩu. Chúng ta đều biết
đất đai và tài nguyên thiên nhiên là hai trong số năm yếu tố đầu vào của hoạt động sản
xuất. Vì thế khi chúng ta có được hai yếu tố này hoạt động sản xuất sẽ được thúc đẩy
mạnh mẽ hơn, góp phần tăng sản lượng sản phẩm xuất khẩu. Bên cạnh đó khí hậu
cũng là nhân tố ảnh hưởng đến năng suất và kế hoạch của xuất khẩu. Chẳng hạn khi
chúng ta đã ký hợp đồng xuất khẩu rau quả sang Mỹ nhưng khi sắp được thu hoạch thì
bão ập đến và vụ này thất thu chúng ta không thể có đủ hàng để xuất sang Mỹ. Đây là
một điều khó có thể lường trước được.

Không phải quốc gia nào cũng có được điều kiện tự nhiên thuận lợi cho hoạt
động sản xuất nói chung và hoạt động xuất khẩu nói riêng. Với những quốc gia điều
kiện tự nhiên thuận lợi hơn đó sẽ là động lực không nhỏ cho sản xuất phát triển. Đặc
biệt là đối với các nước chậm phát triển, nó sẽ là bàn đạp cho phát triển kinh tế đất
nước.
2.2. Năng lực về vốn, công nghệ và nguồn nhân lực.
Đây là một trong những nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến chiến lược và thời
cơ xuất khẩu. Vốn, công nghệ và nguồn nhân lực là cơ sở hạ tầng đảm bảo cho sự phát
triển sản xuất và phát triển kinh tế đất nước.
Hiện nay, nền kinh tế nước ta vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý vĩ
mô của nhà nước, Đảng và Nhà nước ta chủ trường đa dạng hoá các thành phần kinh t
tế và mở cửa ra bên ngoài tự do buôn bán, xuất khẩu trong khuôn khổ luật pháp cho
phép. Các doanh nghiệp hoạt động xuất khẩu sẽ phải đương đầu với các doanh nghiệp
nước ngoài với những sản phẩm chất lượng cao mà giá thành hạ. Chính điều này đã




buộc các doanh nghiệp hoạt động xuất khẩu phải nhạy bén, linh hoạt hơn, chú trọng
đầu tư vốn, công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực lành nghề cho hoạt động xuất khẩu.
Vốn quyết định đến quá trình xuất khẩu và kết quả của hoạt động xuất khẩu.
Có vốn hoạt động xuất khẩu được mở rộng, các nguồn hàng cho xuất khẩu phong phú
hơn với chất lượng cao hơn đáp ứng được nhu cầu của khách hàng. Mặt khác, thị
trường xuất khẩu sẽ được mở rộng sang các nước và khối nước có nhu cầu cao về hàng
xuất khẩu của chúng ta mà trước kia chúng ta không vào được.
Cuộc cách mạng khoa hoc công nghệ đã tác động tích cực đến các mặt của đời
sống kinh tế xã hội. Yếu tố công nghệ có tác động đến năng suất và chất lượng của
hàng xuất khẩu. Chính nhờ sự phát triển của hệ thống bưu chính viễn thông các doanh
nghiệp ngoại thương có thể đàm phán trực tiếp với khách hàng qua điện thoại, telex,
fax giảm bớt được chi phí đi lại.

Nguồn nhân lực là yếu tố trọng tâm để hoạt động xuất khẩu được thực hiện.
Cụ thể đó là những con người đang dẫn dắt, thực hiện hoạt động xuất khẩu. Con người
chính là chủ thể hoạt động xuất khẩu, điều khiển mọi bước đi của nó. Vì vậy, có được
một nguồn nhân lực dồi dào giàu kinh nghiệm, có trình độ cao là mục tiêu của các
doanh nghiệp xuất khẩu nhằm đưa xuất khẩu sớm đi đến đích của nó.
3. Yếu tố chính trị luật pháp
Những nhân tố thuộc về môi trường này là những điều kiện tiền đề ngoài kinh
tế có tác động mạnh mẽ đến mở rộng hay kìm hãm sự phát triển cũng như khai thác
các cơ hội kinh doanh xuất khẩu của các doanh nghiệp ngoại thương.
Nước ta có môi trường chính trị ổn định tạo điều kiện thuận lợi cho các đối tác
yên tâm buôn bán với ta.
Với chính sách đối ngoại “ đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế,
Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước”. Đến nay, Việt Nam đã có quan hệ ngoại
giao với hơn 120 nước thuộc các châu lục khác nhau trên thế giới. Trên cơ sở các mối
quan hệ ngoại giao tạo điều kiện thuận lợi cho việc hợp tác, liên doanh, liên kết sản
xuất kinh doanh giữa Việt Nam và các nước, mở ra cho các doanh nghiệp ngoại
thương nước ta nhiều cơ hội kinh doanh đầy triển vọng. Đặc biệt sự kiện Mỹ bình
thường hoá quan hệ với Việt Nam mà cụ thể là 3/2/1994 Tổng thống Mỹ B.Clinton




tuyên bố bãi bỏ lệnh cấm vận chống Việt Nam. Tháng 7/1995, hai nước thiết lập quan
hệ ngoại giao và ngày 13/7/2000, Hiệp định thương mại Việt - Mỹ được ký kết đã mở
đường cho các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam có cơ hội mở rộng thị phần của
mình tại Mỹ.
Hoạt động xuất khẩu chịu sự điều chỉnh của pháp luật quốc gia và luật quốc tế.
Hiện nay, luật pháp nước ta vẫn chưa hoàn chỉnh, cụ thể: luật thương mại vẫn chưa có
gây khó khăn cho hoạt động xuất khẩu. Bên cạnh đó, các chínhh sách, các quy định
đối với hoạt động xuất nhập khẩu liên tục thay đổi, và thêm vào đó vẫn còn các thủ tục

hành chính rườm rà, mất nhiều thời gian có thể làm mất đi nhiều cơ hội xuất khẩu.
Nhà nước cần điều chỉnh chính sách xuất khẩu theo hướng có lợi hơn nữa cho các
doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu, đặc biệt sớm ban hành các văn bản hướng dẫn rõ
ràng, cụ thể đồng nhất và thống nhất với các nghị định có liên quan.
Tuy nhiên, Nhà nước đã và đang thực hiện các biện pháp nhằm khuyến khích
xuất khẩu, như: cho phép một số doanh nghiệp được xuất khẩu trực tiếp, giảm thuế
xuất khẩu gạo xuống 0%. Đây là dấu hiệu đáng mừng cho hoạt động xuất khẩu.
4. Yếu tố văn hoá xã hội
Môi trường văn hoá xã hội được cọi là:” một tổ hợp phức tạp bao gồm nhiều
yếu tố, tín ngưỡng, luật pháp, nghệ thuật, luân lý và tất cả những thói quen khác mà
con người đã thu nhận được”. Vùng ảnh hưởng của nền văn hoá có thể trải qua nhiều
nước hoặc nhiều vùng. Đây là điều mà các doanh nghiệp hoạt động xuất khẩu cần phải
chú ý. Chẳng hạn, những người dân ấn độ không bao giờ ăn thịt bò, những người theo
đạo Hồi không được ăn mặc hở hang các doanh nghiệp cần phải biết những nét đặc
trưng của từng dân tốc để có chiến lược xuất khẩu phù hợp. Bên cạnh đó, dân số, xu
hướng vận động của dân số, thu nhập của khách hàng là các yếu tố quyết định đến chất
lượng và cơ cấu hàng xuất khẩu. Vì vậy, khi nghiên cứu thị trường trước hết phải
nghiên cứu các tham số của môi trường này bao gồm: dân số, xu hướng biến động của
dân số, thu nhập, chủng tộc, tôn giáo, nền văn hoá





Chương II: Thực trạng xuất khẩu của tổng công ty rau quả Việt Nam sang thị
trường Mỹ.
I. Giới thiệu chung về tổng công ty rau quả Việt Nam.
1. Quá trình hình thành và phát triển.
Từ năm 1988 trở về trước, việc sản xuất và kinh doanh xuất nhập khẩu rau quả
đã được hình thành và phát triển theo 3 khối: Sản xuất rau quả ( do Công ty rau quả

trung ương thuộc bộ nông nghiệp quản lý ); Khối chế biến rau quả ( do Liên Hiệp các
xí nghiệp Đồ hộp I và II thuộc Bộ Công nghiệp Thực phẩm quản lý ); Khối kinh doanh
xuất nhập khẩu rau ( do Tổng công ty xuất nhập khẩu rau quả thuộc Bộ Ngoại thương
quản lý ). Song song với việc chia cắt đó, công tác nghiên cứu khoa học kỹ thuật của
nghành rau quả cũng bị phân tán, không có một tổ chức chịu trách nhiệm chung như
nghiên cứu tạo giống mới, áp dụng ciing nghệ tiên tiến, đào tạo đội ngũ cán bộ
Trước tình hình đó, tháng 2/1988, Nhà nước đã quyết định hợp nhất 3 khối
trên về một đầu mối, thành lập Tổng công ty Rau quả Việt Nam, do Bộ Nông nghiệp
và Công nghiệp Thực phẩm quản lý. Từ đó Tổng công ty Rau quả Việt Nam trở thành
một đơn vị kinh tế chuên nghành rau quả lớn nhất với hơn 37.000 cán bộ công nhân
viên, 72 đầu mối trực thuộc, trải khắp trên 17 tỉnh, thành phố trên phạm vi cả nước.
Tổng công ty có trụ sở chính đặt tại số 2 đường Phạm Ngọc Thạch, quận Đống Đa,
Hà Nội, với tên giao dịch Vegetexco.
1.1. Thời kì 1988 – 1990.
Sau khi Tổng công ty được thành lập và tổ chức lại, hoạt động sản xuất kinh
doanh và xuất nhập khẩu rau quả đã có bước chuyển biến thực sự về chất, đạt đỉnh cao
về 4 mặt: Sản xuất Nông nghịêp, chế biến công nghiệp, kinh doanh xuất nhập khẩu
nghiên cứu khoa học chuyên ngành, so với bình quân năm của hai thời kỳ 1981 –1985
và 1986 – 1987, thì bình quân năm của thời kỳ 1988 – 1990 đạt như sau:
- Kim ngạch xuất nhập khẩu đạt 51,6 triệu rúp + USD/ năm, tăng 116% và
17%.
- Sản xuất nông nghiệp đạt 28.700 tấn/ năm, tăng 33% và 22%.




- Sản xuất công nghiệp: Sản phẩm chủ yếu đạt 29000 tấn/ năm, tăng 33% và
22%.
1.2. Thời kỳ 1991 – 1995.
Đây là thời đầu cả nước bước vào hoạt động theo cơ chế thị trường. Hàng loạt

chính sách mới của nhà nước ra đời và tiếp tục được hoàn thiện. Nền kinh tế của đất
nước bắt đầu tăng trưởng từ Nông nghiệp, Công nghiệp đến kinh xuất nhập khẩu và
đầu tư phát triển. Những thành tựu về kinh tế xã hội của đất nước đạt được đã tạo cơ
hội cho Tổng công ty thêm môi trường thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh và
đầu tư phát triển. Tuy nhiên, đây cũng là thời kỳ Tổng công ty phải chịu nhiều khó
khăn do chương trình hợp tác rau quả Việt –Xô không còn nữa, tình hình biến động về
trính trị, kinh tế ở Liên Xô và Đông Âu nên thị trường bị thu hẹp, nền kinh tế chuyển
từ bao cấp sang cơ chế thị trường.
1.3. Thời kỳ 1996 đến nay.
Mặc dù còn gặp nhiều khó khăn, nhưng những năm qua tổng công ty vẫn liên
tục hoạt động có hiệu quả. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu không ngừng gia tăng, nếu
năm 1996 đạt trên 36 triệu USD thì năm 2000 đạt trên 43 triệu USD. Tổng doanh thu
cũng không ngừng gia tăng, 1996 đạt trên 510 tỷ VND thì 2000 đạt 719 tỷ VND. Lãi
ròng năm 1996 mới có 2,4 tỷ VND thì đến năm 2000 đã là 10,7 tỷ.
2. Chức năng và nhiệm vụ của tỏng công ty rau quả Việt Nam.
2.1. Chức năng.
Quản lý sử dụng vốn, đất đai, tài nguyên, các nguồn khác. Đầu tư, liên doanh
liên kết, góp vốn cổ phần, chuyển nhượng thay thế, cho thuê, thế chấp cầm cố tài sản.
Tổ chức quản lý kinh doanh:
+ Tổ chức bộ máy kinh doanh phù hợp, đổi mới trang thiết bị, đặt chi nhánh,
văn phòng đại diện của Tổng công ty trong và ngoài nước.
+ Mở rộng kinh doanh, lựa chọn thị trường, thống nhất thị trường giữa các đơn
vị thành viên được xuất khẩu, nhập khẩu theo quy định của nhà nước.
+ Quyết định khung giá, xây dựng và áp dụng các định mức lao động mới và
các đối tác kinh doanh nước ngoài.

×