Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

tư tưởng chính trị ở trung quốc và hy lạp la mã thời cổ đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (121.05 KB, 20 trang )

Đề bài:
Câu 1: Trình bày khái qt tư tưởng chính trị ở Trung Quốc và Hy Lạp La Mã thời cổ đại. Vì sao nói hình thức chính thể cộng hịa trong điểm của
Aritxtốt vẫn là chính thể của thiểu số? (6 điểm)
Câu 2: So sánh nét tương đồng và khác biệt giữa tư tưởng chính trị ở
Trung Quốc cổ đại và tư tưởng chính trị Hy Lạp - La Mã cổ đại? (3 điểm)
Bài làm
Câu 1: Trình bày khái quát tư tưởng chính trị ở Trung Quốc và Hy Lạp La Mã thời cổ đại. Vì sao nói hình thức chính thể cộng hịa trong điểm của
Aritxtốt vẫn là chính thể của thiểu số? (6 điểm)
1. Tư tưởng chính trị ở Trung Quốc cổ đại
1.1. Tư tưởng chính trị của phái Nho gia
1.1.1. Khổng Tử
Tư tưởng Nho gia chiếm vị trí đặc biệt quan trọng trong lịch sử tư tưởng
chính trị Trung Quốc. Nó đã ảnh hưởng sâu sắc mọi mặt của đời sống xã hội
Trung Quốc và các nước láng giềng trong suốt hơn 2000 năm lịch sử. Hai nhân
vật tiêu biểu của trường phái Nho gia là Khổng Tử và Mạnh Tử.
Tư tưởng chính trị của Khổng Tử trước hết là vì sự bình ổn xã hội – một
xã hội “thái bình thịnh trị”. Theo ơng, chính trị là chính đạo, đạo của người làm
chính trị phải ngay thẳng, phải lấy chính trị để dẫn dắt dân, nhà Nho phải tham
chính… Từ nhận thức đó, Khổng Tử cho rằng, xã hội loạn lạc là do mỗi người
không ở đúng vị trí của mình, Lễ bị xem nhẹ. Để thiên hạ có “đạo”, quay về Lễ,
phải củng cố điều Nhân, coi trọng Lễ nghĩa, mỗi người phải hành động trong
khn khổ của mình, từ đó xã hội sẽ ổn định. Để thực hiện lý tưởng chính trị của
mình, ông đề ra học thuyết “Nhân – Lễ - Chính danh”.
a) Nhân
Nhân là phạm trù trung tâm trong học thuyết chính trị của Khổng Tử. Nó
là thước đo, là chuẩn mực quyết định thành hay bại, tốt hay xấu của chính trị.
1


Nội dung điều Nhân rất rộng, bao hàm các vấn đề về đạo đức, lý luận xã hội.
Trong chính trị, điều Nhân thể hiện ở các nội dung:


Thương yêu con người, trong đó thương u người thân của mình hơn và
yêu người nhân đức hơn. Từ thương người đi đến hai ngun tắc: “Điều mình
khơng muốn thì đừng đối xử với người khác” và “Mình muốn thành đạt thì phải
làm cho người khác thành đạt”. Tu dưỡng bản thân, sử mình theo lễ. Tơn trọng
và sử dụng người hiền.
Nhân là trung thành, là vị tha. Người có Nhân phải thực hiện 5 điều: Cung
kính, khoan nhượng, giữ chữ tín, siêng năng, làm lợi cho người khác. Hiều với
cha mẹ và hữu ái là gốc của đức Nhân.
Như vậy, nội dung Nhân là nhân đạo, yêu thương con người, coi người
như mình, giúp đỡ lân nhau. Khi điều Nhân đã bao trùm thì khơng cịn mâu
thuẫn, xung đột, lễ nhà Chu được phục tùng, xã hội sẽ tự ổn định. Theo Khổng
Tử, đạo Nhân không phải để cho tất cả mọi người mà chỉ có ở người “qn tử”
(q tộc, trí thức thuộc giai cấp thống trị), còn kẻ “tiểu nhân” (người lao động,
giai cấp bị trị) thì khơng bao giờ có. Để đạt được điều Nhân, cần phải có Lễ.
b) Lễ
Lễ vốn là những quy định, nghi thức trong cúng tế. Khổng Tử đã lý luận
hóa, biến Lễ thành những quy định, trật tự phân chia thứ bậc trong xã hội, được
thể hiện trong phong cách sinh hoạt: hành vi, ngôn ngữ, trang phục, nhà cửa…
Lễ là chuẩn mực đạo đức, là khuôn mẫu cho mọi hành động của cá nhân
và các tầng lớp trong xã hội. Lúc này, Lễ mang tính pháp lý, có tác dụng khống
chế các hoạt động thái quá. Ai ở địa vị nào thì chỉ được dùng Lễ ấy, tùy vào tính
chất cơng việc khác nhau. Lễ là bộ phận của Nhân. Lễ là ngọn, Nhân là gốc.
Người có đức Nhân là người “khơng nhìn cái không hợp Lễ, không nghe cái
không hợp Lễ, không nói những điều khơng hợp Lễ, khơng làm những điều
khơng hợp Lễ”…
Lễ tạo cho con người biết phân biệt trên dưới, biết thân phận, vai trị, địa
vị của mình trong xã hội, biết phục tùng làm theo điều lành và xa rời điều ác.

2



Theo Khổng Tử, Lễ quy định chuẩn mực cho các đối tượng quan hệ cơ
bản: vua – tôi, cha – con, chồng – vợ, anh – em, bạn bè. Các quan hệ này đều có
hai chiều, phụ thuộc vào nhau. “Vua sai khiến bề tôi phải theo Lễ, bề tôi thờ vua
theo đạo trung, cha đối với con phải nhân từ, con thờ cha phải hiếu thảo…”
Khổng Tử xem Lễ như luật lệ. “Một ngày sửa mình theo Lễ thì thiên hạ sẽ theo
về”. Lễ không phải dùng cho tất cả mọi người mà chỉ đem áp dụng cho người có
Nhân. Cung kính là gốc của Lễ. Nhân có trước, Lễ có sau.
c) Chính danh
Chính danh là danh phận đúng đắn, ngay thẳng. Đây là phạm trù cơ bản
trong học thuyết chính trị của Khổng Tử. Chính danh là xác định và phân biệt
quan hệ danh phận, đẳng cấp giữa các giai cấp, thực chất là khẳng định tính hợp
lý của giai cấp quý tộc trong việc thực thi quyền lực của mình. Nó vừa là điều
kiện, vừa là mục đích của chính trị. Chính danh thể hiện ở các nội dung:
Xác định danh phận, đẳng cấp và vị trí của từng cá nhân, tầng lớp trong
xã hội. Ai ở vị trí nào thì làm trịn bổn phận ở vị trí ấy: vua phải giữ đúng đạo
làm vua, tơi phải giữ đúng đạo làm tôi, cha phải giữ đúng đạo làm cha, con phải
giữ đúng đạo làm con; không được làm quá chức năng, bổn phận của mình.
“Danh” phải phù hợp với “thực”, nội dung phải phù hợp với hình thức.
Trong chính trị, lời nói phải đi đơi với việc làm. Đặt con người vào đúng vị trí
và chức năng. Phải xác định “danh” trước khi có “thực” vì “danh” là điều kiện
thi hành “thực”. Khi có danh thì thực mới có ý nghĩa “danh khơng chính thì
ngơn khơng thuận, ngơn khơng thuận thì việc khơng thành”.
Giữa Chính danh và Lễ có mối quan hệ chặt chẽ với nhau: muốn “danh”
được “chính” (đúng đắn, phù hợp với thực) thì phải thực hiện Lễ. Chính danh là
điều kiện để thực hiện, trau dồi Lễ.Chính danh là một biện pháp quy định và
giúp mọi người nhận rõ cương vị, quyền hạn và nghĩa vụ của mình trong quan
hệ với chức vụ và đẳng cấp tương ứng. Có xác định được danh phận thì mới
điều hịa được các mối quan hệ. Đây là vấn đề cơ bản của cách ứng xử chính trị.
Học thuyết chính trị của Khổng Tử được xây dựng trên ba phạm trù cơ

bản: Nhân – Lễ - Chính danh. Nhân là cốt lõi của vấn đề, vừa là điểm xuất phát
3


nhưng cũng là mục đích cuối cùng của hệ thống. Do vậy, có thể gọi học thuyết
của chính trị của Khổng Tử là “đức trị” vì lấy đạo đức làm gốc hay “nhân trị”.
Điều nhân được biểu hiện thông qua lễ, chính danh là con đường đạt đến điều
nhân. Ba yếu tố đó có quan hệ biện chứng với nhau, tạo nên tính chặt chẽ của
học thuyết. Về bản chất, học thuyết chính trị của Khổng Tử là duy tâm và phản
động, vì nó khơng tính đến các yếu tố vật chất của xã hội mà chỉ khai thác yếu tố
tinh thần – đạo đức. Mục đích của học thuyết này là bảo vệ chế độ đẳng cấp,
củng cố địa vị thống trị của giai cấp quý tộc đã lỗi thời, đưa xã hội trở về thời
Tây Chu.
1.1.2. Mạnh Tử
Mạnh Tử là người nước Trâu. Ông đã kế thừa và phát triển sáng tạo
những tư tưởng của Khổng Tử, xây dựng học thuyết “Nhân chính” (chính trị
nhân nghĩa) của mình. Tư tưởng chính trị của ơng có những nội dung cơ bản
sau:
Thuyết tính thiện: Theo Mạnh Tử, bản tính tự nhiên của con người là
thiện. Con người có lịng trắc ẩn thì tự nhiên biết xấu hổ, nhường nhịn, biết phải
trái. Lòng trắc ẩn là nhân, biết xấu hổ là nghĩa, biết nhường nhịn là lễ, biết phải
trái là trí. Nhân, lễ, nghĩa, trí là bốn thứ vốn có ở tâm ta. Con người trở thành ác
vì khơng biết tu tâm, dưỡng tính, để cho vật dục chi phối, chạy theo lợi ích cá
nhân.
Quan niệm về vua – tơi – dân: Mạnh Tử cho rằng, Thiên từ là do mệnh
trời trao cho thánh nhân và vận mệnh trời nhất trí với ý dân. Trời ngấm ngầm
trao quyền cho người có đức, hợp lịng dân. Quan hệ vua – tơi là quan hệ hai
chiều: “Vua coi bầy tôi như chân tay thì bầy tơi coi vua như ruột thịt, vua coi
bầy tơi như chó ngựa thì bầy tơi coi vua như người dưng, vua coi bầy tơi như cỏ
rác thì bầy tôi coi vua như cừu địch”. Tiến thêm một bước, ông cho rằng: “Ta

phải hiểu là giết thằng Trụ chứ không nên hiểu là giết vua vậy”. Mạnh Tử đề
xuất tư tưởng “nhường ngơi”. Thiên tử có thể nhường ngơi cho vua chư hầu, căn
cứ vào đức hạnh và khăn năng thực hành nhân chính của ơng ta.

4


Mạnh Tử là người đầu tiên đưa ra luận điểm tôn trọng nhân dân: “Dân là
quý nhất, quốc gia đứng thứ hai, vua là không đáng trọng”. Như dân ở đây là chỉ
thần dân, kẻ phụ thuộc, bị thống trị. Coi trọng dân chỉ là thủ đoạn chính trị để
thống trị tốt hơn mà thôi.
Quan niệm về quân tử - tiểu nhân: Quân tử là hạng người lao tâm, cai trị
và được cung phụng. Tiểu nhân là hạng người bạo lực, bị cai trị và phải cung
phụng người. Mạnh Tử đề xuất chủ trương dùng người hiền để thực hành chính
trị nhân nghĩa. Trị nước là nghề cao quý và quan trọng nhất, nên người cai trị
phải được tuyển chọn công phu, chu đáo. Nhưng bất đắc dĩ mới để cho có ngoại
lệ “kẻ hèn vượt người tơn q”.
Chủ trương vương đạo: Mạnh Tử kịch liệt phản đối chiến tranh, bạo lực,
nguồn gốc của mọi rối ren, loạn lạc. Chính trị “vương đạo” là nhân chính, lấy
dân làm gốc. “Vương đạo” chỉ nhằm vào nhân nghĩa để mỗi người “tự ni lấy
bản thân mà chờ số mệnh” thì thiên hạ sẽ bình n vơ sự. Muốn cho tâm trí dân
ổn định khơng làm loạn, thì phải tạo điều kiện cho họ có một mức sống vật chất
tối thiểu. Thực chất của “vương đạo” là người cai trị phải giáo dục dân tuyệt đối
phục tùng bề trên, thực hiện “tam cương, ngũ thường”, trói buộc ý thức và luân
lý Nho giáo để dễ bề cai trị họ.
Học thuyết “chân chính” của Mạnh Tử có nhiều tiến bộ hơn so với Khổng
Tử. Tuy vẫn đứng trên lập trường của giai cấp thống trị, nhưng ơng đã nhìn thấy
được sức mạnh của nhân dân, chủ trương thi hành nhân chính, vương đạo. Đó là
những yếu tố dân chủ, tiến bộ. Điểm hạn chế của ơng là cịn tin vào mệnh trời và
tính thần bí trong lý giải vấn đề quyền lực.

1.2. Tư tưởng chính trị của phái Pháp gia
Vào cuối thời Chiến quốc, quá trình phát triển kinh tế - xã hội mạnh mẽ
cùng với sự phân hóa giai cấp ngày càng sâu sắc đã cho ra đời một tầng lớp mới
là địa chủ mới và thương nhân. Do áp dụng phương thức sản xuất tiến bộ và
chính sách kinh tế phù hợp nên tầng lớp này đã nắm giữ, chi phối nền kinh tế đất
nước. Tuy vậy, tầng lớp quý tộc cũ nắm giữ quyền lực chính trị và đang trở
thành vật cản của phát triển xã hội. Yêu cầu bức xúc lúc này là tập phân trung
5


kinh tế và quyền lực để kết thúc tình trạng phân tranh, cát cứ, mở đường cho lực
lượng sản xuất phát triển. Pháp gia ra đời đã đáp ứng được yêu cầu trên. Tư
tưởng Pháp gia được áp dụng thành công và đưa vào thời Tần trở thành bá chủ,
thống nhất Trung Quốc vào năm 221 trước Công Nguyên.
Phái Pháp gia gồm nhiều nhà tư tưởng, nhiều trường phái khác nhau như
phái trọng pháp, phái trọng thuật, phái trọng thế. Hàn Phi Tử là người tổng kết
và phát triển tư tưởng của những nhà Pháp gia tiền bơi, hồn chỉnh học thuyết
này.
Hàn Phi Tử (khoảng 280 – 233 TCN) là nhà tư tưởng cuối cùng của thời
Tiên Tần, là con của cơng tử (con vua) nước Hàn. Ơng cùng với Lý Tư (Tể
tưởng của Tần Thủy Hồng) là học trị của Tuân Tử, nhà tư tưởng lớn nhất
đương thời. Ông muốn dùng học thuyết của mình để giúp vua làm cho đất nước
phú cường, nhưng không được vua Hàn trọng dụng. Đến nước Tần, ông bị Lý
Tư hãm hại buộc phải tự sát trong ngục. Tác phẩm Hàn Phi Tử của ông là tác
phẩm kinh điển của phái Pháp gia.
Hàn Phi Tử cho rằng, xã hội lồi người ln biến đổi, phát triển theo
hướng đi lên. Bản tính con người là ham lợi. Điều lợi ảnh hưởng và chi phối các
mối quan hệ trong xã hội. Chính trị đương thời khơng nên bàn chuyện nhân
nghĩa cao xa mà cần có biện pháp cụ thể, cứng rắn, kiên quyết. Từ nhận thức đó,
học thuyết chính trị của ơng được xây dựng trên cơ sở thống nhất pháp – thuật –

thế:
Pháp luật là những quy ước, khuôn mẫu, chuẩn mực do vua ban ra, được
phổ biến rộng rãi để nhân dân thực hiện. Pháp luật phải hợp thời, đáp ứng được
những yêu cầu, không phát triển của xã hội, rõ ràng, dễ hiểu, phù hợp với trình
độ dân chúng. Pháp luật phải công bằng, để kẻ mạnh không lấn át kẻ yếu, đám
đông hiếp áp số yếu. Quyền lực cần phải tập trung vào một người là vua. Vua đề
ra pháp luật, quan lại theo dõi việc thực hiện, dân là người thi hành pháp luật.
Thuật là thủ đoạn hay thuật cai trị của người làm vua, để kiểm tra, giám
sát, điều khiển bầy tôi. Thuật là phương pháp tuyển chọn, sử dụng người đúng
chức năng, tạo cho họ làm tròn bổn phận của mình. Như vậy, thuật là yếu tố cần
6


thiết, bổ trợ và làm cho pháp luật được thi hành nghiêm chỉnh. Thuật phải được
giữ bí mật, kín đáo, không được tiết lộ với bất cứ ai. Vua không được để lộ sự
u ghét của mình, đề phịng quần thần lợi dụng. Ơng ta khơng phải làm gì mà
bắt các quan phải làm việc cai trị dân chúng.
Thế là uy thế, quyền lực của người cầm quyền. Quần thần phục tùng nhà
vua khơng phải theo tình cốt nhục, mà chịu sự ràng buộc bởi quyền lực. Yếu tố
để quẩn thần buộc phải tuân theo đó là thế. Thế là quyền lực đảm bảo cho việc
thi hành pháp luật. Thế phải tuân thủ theo nguyên tắc tập trung, không được chia
sẻ, không được để rơi vào tay người khác. Vua phải nắm chắc hai phương tiện
cưỡng chế, đó là “nhị bính”: thưởng và phạt. Thưởng, phạt phải căn cứ vào cơ
sở pháp luật chứ không thể tùy tiện, Vua cũng phải phục tùng pháp luật. Khi có
thể, quyền uy của vua cũng sẽ tăng lên, lời nói có thêm sức mạnh.
Hàn Phi Tử cho rằng: “pháp”, “thuật”, “thế” cần phải kết hợp làm một,
trong đó “pháp” là trung tâm, “thuật” và “thế” là những điều kiện tất yếu trong
việc thi hành luật. Pháp luật phải vì lẽ phải và phục vụ lợi ích chung, “việc phạt
tội khơng trừ bậc đại thần, việc thưởng cơng khơng bỏ sót kẻ thất phu”
“Pháp trị” đối lập với “Nhân trị” của Nho gia. Theo Hàn Phi Tử, nguồn

gốc làm rối loạn pháp luật là do bọn du sĩ và các học thuyết chính trị đua nhau
làm hỏng pháp độ, cho nên phải dùng pháp luật để ngăn cấm và khơng cho họ
tham gia chính trị.
Như vậy, đứng trên lập trường của giai cấp địa chủ mới, tư tưởng Pháp gia
đã khai thông các bế tắc xã hội, tạo điều kiện cho lực lượng sản xuất phát triển.
Tư tưởng Pháp gia đã phục vụ đắc lực cho chế độ phong kiến trung ương tập
quyền, góp phần không nhỏ trong việc củng cố chế độ phong kiến đời Tần. Tuy
nhiên, học thuyết Pháp trị bị giai cấp cầm quyền cực đoan hóa, dẫn đến sự thống
trị hà khắc tàn bạo (như vụ án lịch sử Tần Thủy Hồng ra lệnh đốt sách, chơn kẻ
sỹ).
1.3. Tư tưởng đạo gia

7


Lão tử là người nước Sở từng làm quan giữ kho sách cho nhà Chu (về
năm sinh, năm mất của ông chưa rõ nhưng các ý kiến đều khẳng định ông sống
cùng thời với Khổng tử). Ông là một triết gia và tư tưởng của ông được phản
ánh trong cuốn Đạo đức kinh
1.3.1. Lão tử chủ trương xây dựng một xã hội bình yên trong phạm vi một
quốc gia bê nhỏ, ít dân, một xã hội lý tưởng gắn bó và hoà đồng với thiên
nhiên
Xuất phát từ nhận thức như trên, ông chủ trương chia đất nước lớn ra
thành nhiều nước nhỏ, dân ít (tiểu quốc, quả dân) – trong đó mỗi nước nhỏ được
quyền sống theo phong tục tập quán của địa phương mình; mọi người sống
thuần phát, hiền lành; không cần: học vấn, phương tiện đi lại, binh khí, bang
giao: “Nước nhỏ dân ít, có dụng cụ gấp năm gấp mười cũng khơng dùng... Tuy
có xe có thuyền mà khơng ai đi. Tuy có khí giới mà khơng bày biện,...
Từ đó, Lão tử ứng dụng nhận thức nói trên để giải thích thực tế: Ơng đưa
ra một ngun lý: “Người theo phép tắc của đất, đất theo phép tắc của trời, trời

theo phép tắc của đạo”. Bậc trị nước mà giữ được Đạo – tức là biết thi hành Đạo
“vơ vi nhì vơ bất vở” (khơng làm gì mà khơng gì khơng làm) thì “vạn vật sẽ tự
nó thay đổi, mà khơng hay có mình trị nước”.
Lão tử chủ trương xây dựng một chế độ xã hội dựa trên sự bình đẳng của
tất cả mọi người và khơng có áp bức, bóc lột giữa người với người. Ơng phê
phán sự áp bức bóc lột của giai cấp địa chủ phong kiến đương thời, lên án sự
lộng hành và tàn bạo của vua chúa đồng thời vạch trần những quan niệm về
nguồn gốc thần thánh của quyền lực nhà vua.
Lão tử chủ trương xây dựng một xã hội mà ở đó con người giữ được bản
chất của mình – chất phác, tự nhiên, ban đầu. Xã hội mà con người sống là xã
hội hợp với vũ trụ tự nhiên – ông quan tâm đến con người tự nhiên, coi nó là
một sinh vật tự nhiên, một bộ phận của tự nhiên; những quan hệ trong xã hội chỉ
là những cái có sau, khơng tất yếu.
1.3.2. Để đạt tới một xã hội bình yên như trên thì người cầm quyền không
cần dùng đến bạo lực, mà phải dùng “Đạo” – Vô vi nhi trị
8


“Đạo” là sự khái quát cao nhất trong từ tưởng của Lão tử: Đạo là bản
nguyên của thế giới “có trước trời đất”; nó rất huyền diệu, khó nói rõ danh trạng,
khơng thể dùng ngơn ngữ khái niệm để nói và nhận thức về nó. Đạo chỉ quy luật
chung của sự biến hố sự vật, vừa có trước sự vật, vừa nằm trong sự vật. Nếu
đạo đức trong học thuyết Nho giáo là thuộc về phạm trù luân lý chính trị thì Đạo
của Đạo gia lại là một phạm trù thuộc vũ trụ quan – nó chỉ cái nguyên lý tuyệt
đối đã có trước trời đất; khơng sinh, khơng diệt, khơng tăng, khơng giảm. Đạo là
một ngun lý “bình qn” (cân bằng) và “phản phục” (quay trở lại cái ban đầu)
– không thái quá, bất cập. Cũng như Đạo, Lão tử đưa ra khái niệm “Vô vi” với
nghĩa là không làm gì cả cho ta thấy nhưng khơng có gì là không làm – vô vi mà
vẫn làm việc, không nói mà vẫn dạy dỗ. “Vơ vi” theo nghĩa tích cực là trừ khử
những gì thái quá, đồng thời nâng đỡ những gì hèn kém. Vơ vị khơng phải là

khơng làm gì mà khơng cái gì khơng làm; đem cái tự nhiên mà giúp một cách tự
nhiên, không tư tâm, không vị kỷ. Bậc thánh nhân trị nước mà dùng đạo vơ vi
thì “vạn vật sẽ tự nó thay đổi” mà khơng hay có mình trị nước và dân khơng hay
là mình bị trị.
Nó chỉ ra chiều sâu trong hoạt động nhận thức và thực tiễn của con người
đặc biệt là trong lĩnh vực chính trị – yếu tố chiến lược được thể hiện sinh động
trong mối quan hệ với yếu tố sách lược Mình là bậc dũng lực kinh có lúc phải
biết làm như kẻ nhút nhát. Trị nước lớn như nấu nướng cá nhỏ – nấu cá nhỏ mà
lật lên lật xuống, động tới nó nhiều quá, nó sẽ nát; trị nước lớn mà chính lệnh
phiền hà, pháp lệnh thay đổi nhiều quá, can thiệp vào việc dân nhiều quá, dân sẽ
trá ngụy, chống đối.
1.4. Tư tưởng chính trị Mặc gia
Mặc gia là một trường phái triết học Trung Quốc cổ đại do Mặc tử sáng
lập. Nó phát triển cùng thời với Nho gia, Đạo gia, Pháp gia và là một trong bốn
trường phái triết học chính trong thời Xuân Thu và Chiến Quốc, là một
trong bách gia chư tử , tại Trung Quốc cổ đại bị cho là một chi nhánh của Đạo
Gia chịu ảnh hưởng từ tư tưởng Đạo gia.
9


Mặc Gia từng có một thời kỳ huy hồng, vào thời điểm đó Pháp Gia Hàn
Phi xưng Mặc Gia cùng Nho Gia là "Thế chi hiển học" (thế gian nổi tiếng học
thuyết), Nho Gia. Mạnh Tử cũng từng nói "Thiên hạ chi ngôn, bất quy Dương
tắc quy Mặc", chứng minh tư tưởng Mặc gia từng trải qua huy hoàng. Cuối
thời Chiến quốc, tầm ảnh hưởng của Mặc học thậm chí vượt qua Khổng học. Tư
tưởng chính trị của ơng gồm những vấn đề sau:
*Lý thuyết thương yêu lẫn nhau và cùng có lợi ( Kiêm Ái):
Kiêm ái là yêu thương tất cả mọi người không phân biệt đẳng cấp, sang
hèn. Theo Mặc Tử con người phải kiêm ái, vì “trời muốn con người yêu thương
nhau, làm lợi cho nhau chứ không muốn con người ghét nhau, làm hại nhau”.

“Ái” là “nhân”, “kiêm” là “nghĩa”, “kiêm ái” là “nhân nghĩa”. Cho nên khi thực
hiện được cái đức căn bản ấy sẽ làm cho đạo đức luân lý xã hội trở nên tốt đẹp
và người ta có thể đạt được tất cả những phẩm chất đạo đức khác như huệ, trung,
từ, hiếu, kính đễ…, người người no đủ, nhà nhà hạnh phúc, quốc gia yên lành,
thiên hạ bình trị. Tuy nhiên, “kiêm ái” đối với ông không chỉ là mọi người yêu
thương những người thân với mình, gần với mình, mà nó cịn có một bước phát
triển cao hơn. Do chỗ trong xã hội có sự khác nhau về thứ bậc sang hèn, giàu
nghèo nên “kiêm ái” ở đây phải là “thương yêu rộng khắp, không kể thân sơ,
không phân biệt thứ bậc”, chỉ lấy tình yêu thương của con người để đối đãi với
nhau.
*Tôn trọng người hiền và học tập người trên:
Quan điểm của ông là tôn trọng người xứng đáng và trừng phạt những kẻ
bất nhân, không phụ thuộc vào những quan hệ thân thuộc. Ông cho rằng những
người làm nghê nơng, cơng, thương có khả năng thì phải được tiến cử, người có
tài, đức thì được trọng thưởng. Ơng phản đối chế độ cha truyền con nối của xã
hội đương thời. Ông muốn lấy tài năng và đức hạnh làm tiêu chuẩn để thay thế
chế độ cha truyền con nối của bọn lãnh chúa phong kiến, đây chính là mầm
mống của những tư tưởng dân chủ.
2. Tư tưởng chính trị Hy Lạp - La Mã cổ đại
10


Văn minh Hy Lạp cổ đại đã tạo tiền đề hình thành và phát triển khá sớm
những tư tưởng chính trị của nhân loại. Những vấn đề căn bản của chính trị, tư
duy chính trị đã được đặt ra và luận giải trên những nét chính ngay ở thời kỳ
này. Trong quá trình phát triển từ chế độ cộng sản nguyên thủy sáng chiếm hữu
nô lệ, ở Hy Lạp đã xuất hiện các quốc gia thành thị chiếm hữu nô lệ. Mâu thuẫn
xã hội giữa các tập đoàn trong giai cấp chủ nô nhằm tranh giành quyền lực và
mâu thuẫn giữa chủ nô với nô lệ và tầng lớp thị dân tự do ngày càng gay gắt dẫn
đến hình thành các phe phái chính trị và xuất hiện những chính trị gia xuất sắc.

2.1. Hêrêđốt (484 – 425 TCN)
Hêrêđốt được coi là người cha của chính trị học. Ơng là người đầu tiên
phân biệt và so sánh các thể chế chính trị khác nhau. Theo ơng, có ba thể chế
chính trị: quân chủ, quý tộc và dân chủ.
Quân chủ: là thể chế độc quyền của một người là vua. Vua có cơng lập
quốc, sống vì nước, vì dân. Vua có quyền cấm tất cả những ý kiến phản biện,
phản kháng. Đặc quyền và lạm dụng quyền lực khiến vua dễ trở thành tội lỗi.
Quý tộc: là thể chế được xây dựng trên cơ sở cầm quyền của một nhóm
người ưu tú nhất của đất nước, vì lợi ích chung. Tuy nhiên, thể chế này dễ có sự
khác biệt, bất hịa, chia bè kéo phái dẫn đến tranh giành, tàn sát lẫn nhau.
Dân chủ: là thể chế mà quyền lực do đông đảo nhân dân nắm bằng con
đường bỏ phiếu để trao những chức vụ công cộng một cách đúng đắn và ngăn
chặn sự lạm dụng quyền lực, xây dựng nhà nước trên nguyên tắc cơ bản: tất cả
đều bình đẳng trước pháp luật. Nhưng khi dân chúng có trình độ thấp thì dễ bầu
ra những người lãnh đạo kém hiểu biết. Họ dễ bị kích động bởi các cá nhân cầm
quyền, từ đó xảy ra tình trạng vơ chính phủ.
2.2. Xênơphơn (khoảng 427 – 355 TCN)
Ơng thuộc tầng lớp q tộc. Khi bàn về chính trị, ơng bàn về cách cai trị
và cách quản lý. Ơng thấy chính trị có một nghệ thuật thực hành, nghệ thuật cao
nhất – nghệ thuật của bậc đế vương. Ai nhận thức được các vấn đề chính trị sẽ
trở thành người trung thực, người tốt. Ai ngu dốt về chính trị sẽ rơi vào hàng nô
lệ.
11


Tư tưởng chính trị của ơng thể hiện ở quan điểm về thủ lĩnh chính trị.
Theo ơng, thủ lĩnh chính trị là người biết chỉ huy, giỏi kỹ thuật, giỏi thuyết phục,
biết cảm hóa người khác. Nhưng người thủ lĩnh cũng phải có những phẩm chất
đặc biệt như biết bảo vệ lợi ích chung, có khả năng tập hợp sức mạnh của quần
chúng. Thiên tài của thủ lĩnh không phải tự nhiên mà có. Nó sinh ra từ sự kiên

nhẫn, từ khả năng chịu đựng lớn vể mặt thể chất, với ý chí sống và rèn luyện
theo phong cách thanh liêm.
2.3. Platôn (428 – 347 TCN)
Platôn là nhà triết học thiên tài, đồng thời cịn là nhà chính trị xuất sắc. Tư
tưởng chính trị của ơng được phản ánh trong tác phẩm: “Nước cộng hịa”, “Các
đạo luật và Nền chính trị”. Ông là người đầu tiên đạt tới quan niệm giá trị phổ
biến, tầm vĩ mơ của chính trị và hoạt động chính trị, tiêu chuẩn của nền chính trị
đích thực.
Khi bàn về khái niệm chính trị, Platơn cho rằng chính trị là sự thống trị
của trí tuệ tối cao, là nghệ thuật dẫn dắt xã hội con người. Chính trị tự phân chia
thành pháp lý, hành chính, tư pháp, ngoại giao… Chính trị là nghệ thuật cai trị.
Cai trị bằng sức mạnh là độc tài, cai trị bằng thuyết phục mới đích thực là chính
trị. Chính trị phải là sự chuyên chế, tất cả các cá nhân phải phục tùng quyền uy.
Tự do chỉ dẫn đến hỗn loạn, gây tai họa cho đời sống công dân.
Xã hội lý tưởng của Platơn là xã hội được trị vì bởi sự thơng thái. Ơng
chia xã hội thành ba hạng người: Các nhà triết học thơng thái đảm nhận vai trị
lãnh đạo, cai trị, quản lý nhà nước. Tầng lớp chiến binh bảo vệ an ninh xã hội.
Tầng lớp nông dân, thợ thủ công làm ra của cải, vật chất, đảm bảo cuộc sống
cho xã hội.
Công lý là ở chỗ, mỗi hạng người làm hết trách nhiệm của mình, hoạt
động phù hợp với chức năng của mình. Theo Platơn, điều kiện và cơ sở để duy
trì một xã hội được cai trị bởi những người thông thái là phải thực hiện cộng
đồng về tài sản và hơn nhân. Ơng chủ trương xóa bỏ sở hữu cá nhân (vì nó là
nguồn gốc sinh ra cái ác) và tình yêu gia đình, thay vào đó là những tổ chức
cộng đồng. Như vậy, xóa cá nhân vì một xã hội lý tưởng, Platơn đã biến phương
12


tiện thành mục đích. Đó là khởi nguồn của “chủ nghĩa cộng sản khơng tưởng”.
Ơng cho rằng, khi lãnh đạo nhà nước, cần gạt sang một bên ý chí cá nhân, trước

tiên phải dựa vào tôn giáo và pháp luật. Sự chuyển hóa quyền lực trong xã hội là
do có sự đối kháng về quyền lợi và những vận động về chính trị.
Quan điểm chính trị của Platơn cịn nhiều mâu thuẫn: vừa địi hỏi xóa bỏ
tư hữu, vừa muốn duy trì chế độ đẳng cấp. Ơng đưa ra mơ hình xã hội lý tưởng
và cơng lý nhưng đồng thời lại bảo vệ lợi ích của tầng lớp quý tộc, chủ nơ. Tuy
nhiên, ơng đã có những quan niệm cụ thể và hệ thống về chính trị và sự phát
triển của xã hội nói chung.
2.4. Arixtốt (384 – 322 TCN)
Arixtốt là nhà bác học vĩ đại của văn minh Hy Lạp. Trong hai cơng trình
nghiên cứu và chính trị là “Chính trị” và “Hiến pháp Aten”, ơng đã tổng kết và
phát triển tài tình các kết luận của các bậc tiền bối về nguồn gốc và bản chất,
hình thức và vai trò của nhà nước pháp quyền.
Theo Arixtốt, nhà nước xuất hiện tự nhiên, được hình thành do lịch sử.
Con người là “động vật chính trị” Bản tính của con người là sống trong cộng
đồng. Hình thức tổ chức cuộc sống cộng đồng trong một thể chế xã hội nhất
định được gọi là nhà nước. Nhà nước ra đời trên cơ sở gia đình, chính quyền nhà
nước và sự tiếp tục chính quyền trong gia đình. Nhà nước khơng phải là kết quả
của sự thỏa thuận giữa mọi người với nhau dựa trên ý chí của họ. Nó được phát
triển từ gia đình và làng xã. Thể chế chính trị là trật tự làm cơ sở để phân bố
chính quyền nhà nước. Thể chế chính trị điều hành, quản lý xã hội về ba phương
diện: lập pháp, hành pháp và phân xử. Sứ mệnh của nhà nước là lãnh đạo tập thể
các công dân, quan tâm tới các quyền chung của công dân, làm cho mọi người
sống hạnh phúc. Điều đó lại chính là bản chất và chức năng của pháp luật. Cơng
lý chính là hành động một cách cơng bằng theo pháp luật. Thông qua pháp luật,
các quyền chung của cơng dân được thể hiện và củng cố.
Ơng cho rằng, khơng một loại hình chính phủ nào là duy nhất có thể phù
hợp với tất cả mọi thời đại và các nước. Ơng phân loại chính phủ theo tiêu chuẩn
số lượng (người cầm quyền) và chất lượng (mục đích của sự cầm quyền). Kết
13



hợp hai mặt đó, có thể sắp xếp chính phủ theo hai loại: chính phủ chân chính là:
quân chủ, quý tộc, cộng hịa, chính phủ biến chất là: độc tài, quả đầu, dân trị.
Ông nhiệt thành ủng hộ chế độ quân chủ, coi như hình thức tổ chức nhà nước
thần thánh và ưu việt nhất.
Tư tưởng chính trị của Arixtốt chứa đựng những giá trị tích cực sau
Con người có khuynh hướng tự nhiên gắn bó với nhau thành xã hội. Do
đó, con người là động vật cơng dân, động vật chính trị, sống có trách nhiệm với
cộng đồng.
Chính trị là làm sao trong đời sống cộng đồng, cái chung cao cả hơn cái
cá nhân riêng biệt, con người sống ngày càng tốt hơn.
Chính trị phải giáo dục đạo đức và phẩm chất cao thượng cho cơng dân.
Chính trị là khoa học lãnh đạo con người, khoa học kiến trúc xã hội của
mọi công dân.
Chế độ dân chủ sẽ chuyển thành chế độ mị dân hoặc độc tài nếu: ý chí cá
nhân thay thế pháp luật, chế độ bị trao cho những tên nịnh bợ, gian xảo, ham
quyền lực…
Không thể hoạt động chính trị nếu bị dục vọng của cải chi phối và sự dốt
nát chế ngự.
Chế độ quân chủ là hình thức sơ khai vì khơng có ai uy tín bằng lãnh tụ
chiến thắng. Nhưng khi xã hội phát triển, người tốt, người giỏi có nhiều thì chế
độ chính trị phải thay đổi.
Mặc dù hạn chế bởi mục tiêu giai cấp, bởi quan điểm cổ đại hẹp hòi về
quyền tự do cá nhân cho những người nô lệ và lao động… song với nhãn quan
uyên thâm và sâu sắc, tư tưởng chính trị của Arixtốt có ý nghĩa là sự tổng hợp và
khái quát hóa những giá trị cơ bản của tư tưởng chính trị Hy Lạp cổ đại.
3. Vì sao nói hình thức chính thể cộng hịa trong điểm của Aritxtốt vẫn là
chính thể của thiểu số?
Chính thể Cộng Hịa là hình thức nhà nước, trong đó ngun thủ quốc gia
được lập theo một chế độ bầu cử nhất định. Quyền lực tối cao của nhà nước theo

14


chính thể cộng hồ khơng thuộc về một người mà được thực hiện thông qua các
cơ quan đại diện do cử tri bầu ra. Điểm khác nhau cơ bản giữa nhà nước cộng
hoà và nhà nước quân chủ là ở cách thức thiết lập người đứng đầu nhà nước.
Việc bầu cử người đứng đầu nhà nước thay thế cho việc kế truyền được coi là
một bước phát triển trong tư tưởng chính trị và pháp luật của nhân loại.
Chính thể cộng hịa là hình thức tổ chức nhà nước dân chủ, văn minh của
nhân loại, trong đó quyền lực tối cao của nhà nước thuộc về một cơ quan được
bầu ra trong một thời gian nhất định. Chính thể cộng hịa có 2 biến dạng chủ yếu
là cộng hịa đại nghị và cộng hoà tổng thống. Cộng hoà đại nghị được tổ chức ở
những nước có nguyên thủ quốc gia do nghị viện bầu ra. Chính phủ chịu trách
nhiệm trước nguyên thủ quốc gia và trước nghị viện. Nguyên thủ quốc gia
không đứng đầu hành pháp và cũng không là thành viên của ngành hành pháp.
Cộng hoà tổng thống là hình thức tổ chức nhà nước trong đó tổng thống vừa là
nguyên thủ quốc gia vừa là người đứng đầu bộ máy hành pháp, do nhân dân trực
tiếp hoặc gián tiếp bầu ra. Mọi thành viên của chính phủ đều do tổng thống bổ
nhiệm, chịu trách nhiệm trước tổng thống và khơng chịu trách nhiệm trước nghị
viện, khơng có chức danh thủ tướng. Các bộ trưởng không hợp thành một cơ
quan, bàn bạc và chịu trách nhiệm tập thể mà các bộ trưởng chịu trách nhiệm
trước tổng thống. Trong chính thể cộng hoà tổng thống, áp dụng triệt để nguyên
tắc phân chia quyền lực nhà nước. Ngồi ra, cịn có hình thức chính thể cộng
hồ lưỡng tính là hình thức tổ chức nhà nước vừa có đặc điểm của cộng hồ tổng
thống, vừa có đặc điểm của cộng hồ đại nghị. Tuy nhiên, nếu căn cứ vào cách
thức thực hiện quyền bầu cử, hình thức chính thể cộng hồ có 2 biến dạng là
cộng hoà dân chủ (quyền tham gia bầu cử được quy định về hình thức pháp lí
với các tầng lớp nhân dân lao động) và cộng hoà quý tộc (quyền bầu cử chỉ quy
định cho tầng lớp q tộc).
Chính thể cộng hịa là hình thức tổ chức nhà nước trong đó quyền lực tối

cao của nhà nước thuộc về một cơ quan được bầu ra trong nhiệm kì nhất định.
Đây cũng là hình thức tổ chức chính quyền nhà nước phổ biến nhất hiện nay ở
các nhà nước tư sản.
15


Hình thức chính thể cộng hịa của Aristot là của thiểu số vì chúng mang
quá nhiều tư tưởng hướng về giai cấp tư sản trong xã hội. Lựa chọn những thành
viên giàu để trở thành lãnh đạo. Không thể hiện sự bình đẳng trong thành phần
điều hành. Thể hiện rõ sự phân biệt về giai cấp quá nhiều. Không thể hiện tính
bình đẳng trong xã hội.
Câu 2: So sánh nét tương đồng và khác biệt giữa tư tưởng chính trị ở
Trung Quốc cổ đại và tư tưởng chính trị Hy Lạp - La Mã cổ đại? (3 điểm)
1. Nét tương đồng giữa tư tưởng chính trị ở Trung Quốc cổ đại và tư
tưởng chính trị Hy Lạp - La Mã cổ đại
- Về bản chất: theo học thuyết Mác - Lênin, quyền lực chính trị trong các nhà
nước ở Tư tưởng chính trị Trung Quốc cổ đại và Tư tưởng chính trị Hy Lạp - La
Mã cổ đại thuộc về giai cấp chủ nô. Cơ cở kinh tế của nhà nước là dựa trên chế
độ chiếm hữu của chủ nô đối với tồn bộ tư liệu sản xuất và nơ lệ. Cơ sở xã
hội là một hệ thống kết cấu giai cấp khá phức tạp trong đó về cơ bản có hai giai
cấp chủ nơ và nơ lệ.
- Về chức năng: Hoạt động chủ yếu của nhà nước thời kỳ này là bảo vệ, củng cố
chế độ sở hữu của chủ nô đối với tư liệu sản xuất, tiến hành các cuộc chiến tranh
xâm lược, đồng thời phòng thủ, bảo vệ đất nước và tiến hành các hoạt động
ngoại giao, bn bán với các quốc gia khác.
- Về hình thức nhà nước: Trước hết xét về hình thức chính thể thì các nhà nước
ở Trung Quốc cổ đại được tổ chức theo chính thể qn chủ chun chế chủ
nơ với các mức độ tập trung quyền lực khác nhau . Ở Hy Lạp - La Mã cổ đại,
các nhà nước được tổ chức chủ yếu theo chính thể quân chủ và cộng hịa chủ
nơ. Các nhà nước cộng hịa chủ nơ tồn tại dưới hai dạng thức là cộng hịa dân

chủ chủ nơ và cộng hịa q tộc chủ nơ. Hình thức cấu trúc cơ bản của nhà nước
chủ nơ là cấu trúc đơn nhất, tuy nhiên ở Hy Lạp La Mã cổ đại xuất hiện các nhà
nước thành bang có tính tự trị cao. Chế độ chính trị phổ biến thời kỳ này là chế
độ độc tài chuyên chế với việc áp dụng công khai các biện pháp thực hiện quyền
16


lực nhà nước bằng bạo lực và phản dân chủ, tuy nhiên cũng có nhà nước áp
dụng những biện pháp dân chủ sơ khai, điển hình như thiết chế Hội nghị cơng
dân, việc bỏ phiếu bằng vỏ sị ở nhà nước Aten ở Hy Lạp cổ đại.
- Về tổ chức bộ máy nhà nước: Bộ máy nhà nước ở cả Trung Quốc cổ dại và Hy
Lạp La Mã cổ đại đã bao gồm các cơ quan chuyên trách với chức năng, nhiệm
vụ khác nhau và trong bộ máy đều có một bộ phận quan trọng là các cơ quan
quản lý về quân sự, cảnh sát.
Tóm lại về nét tương đồng: Đều cũng muốn xây dựng một chế độ, một xã hội
mới, một đất nước mới. Muốn phát triển tư duy, đạo đức của con người. Xây
dựng xã hội có kỷ cương, có trật tự. Hướng con người hướng tới chân - thiện mỹ. Cảm thương cho số phận con người.
2. Sự khác biệt giữa tư tưởng chính trị ở Trung Quốc cổ đại và tư tưởng
chính trị Hy Lạp - La Mã cổ đại
2.1. Hình thức nhà nước
Hình thức chính thể ở Trung Quốc cổ đại hầu hết là hình thức quân
chủ. Vua đứng đầu nhà nước, có quyền lực cao nhất về mọi mặt, vua được thần
thánh hoá, được coi là vị thần vĩ đại, là thiên tử hoặc tăng lữ tối cao. Quần chúng
nhân dân phải phục tùng vô điều kiện giai cấp thống trị và hầu như khơng được
tham gia bất cứ sinh hoạt chính trị nào của đất nước.
Ở Hy Lạp La Mã cổ đại, hình thức chính thể được biểu hiện rất đa dạng
gồm dân chủ chủ nơ, cộng hồ q tộc, qn chủ chun chế. Ví dụ nhà nước
Xpác (nhà nước cộng hồ q tộc chủ nơ); nhà nước Aten (nhà nước cộng hịa
dân chủ chủ nơ); nhà nước La mã (cộng hồ và quân chủ chuyên chế). Những
nhà nước được tổ chức theo chính thể cộng hịa thì các thiết chế quan trọng được

hình thành bằng phương thức bầu cử. Ví dụ: Thiết chế Hội nghị công dân ở nhà
nước Aten; Hai vua trong nhà nước Xpac được hình thành bằng phương thức
bầu cử
Về hình thức cấu trúc nhà nước,đa phần các nhà nước là đơn nhất. Ở Hy
Lạp và La Mã cổ đại đã lần lượt xuất hiện các nhà nước thành bang.
17


Về chế độ chính trị, một trong những lý do khiến tính chất, mức độ dân
chủ của nhà nước ở Hy Lạp La Mã cổ đại cao hơn Trung Quốc cổ đại thời kỳ
này là do những nhà nước ở thời kỳ này liên tục có những cuộc cải cách rất tồn
diện từ chính trị, kinh tế đến xã hội. Tuy nhiên cũng phải thừa nhận, về tính chất
và mức độ của dân chủ ở đây chỉ dừng lại ở dân chủ đa số và chứa đựng những
hạn chế nhất định. Khái niệm "dân" ở đây cũng chỉ được hiểu là những người
dân tự do chứ không phải là một bộ phận lớn trong xã hội lúc này là những
người nô lệ
2.2. Vấn đề "nô lệ" và "kiểu nhà nước"
Ở Hy Lạp La Mã cổ đại, theo học thuyết Mác - Lênin, chế độ nơ lệ là điển
hình (hay cịn gọi là kiểu nhà nước chiếm hữu nô lệ điển hình). Sự điển hình thể
hiện ở tính chất, số lượng và vai trị nơ lệ trong các ngành sản xuất. Hy Lạp và
La Mã là nơi mà số lượng nô lệ hết sức đông đảo, là lực lượng lao động chính
tạo ra của cải và sự giàu có cho chủ nơ. Ví dụ: Ở Hy lạp trong thời kỳ chiến
tranh Ba Tư, con số nô lệ ở Ca-ran-tơ lên đến 46 vạn, ở E-gi-i-nơ lên đến 47
vạn, tức là tính theo dân số thì trung bình cứ 10 nơ lệ mới có 1 người tự do.
Kiểu nhà nước ở Trung Quốc thời cổ đại mang những đặc trưng riêng.
Khác với Hy Lạp La Mã cổ đại, chế độ nô lệ Trung Quốc cổ đại là chế độ nô lệ
không điển hình, mang nặng tính chất gia trưởng, căn cứ vào nhiều yếu tố, song
quan trọng nhất là nô lệ thời kì này khơng phải là lực lượng đơng đảo và lao
động chính trong xã hội, chủ yếu chỉ phục dịch trong gia đình các q tộc. Nơ lệ
có nguồn gốc xuất thân chủ yếu từ các tù binh chiến tranh, hoặc những người

nông dân, thợ thủ công bị phá sản
2.3. Về bộ máy nhà nước
Ở Trung Quốc cổ đại, hệ thống các cơ quan giúp việc cho nhà vua từ
trung ương đến địa phương được phân chia theo chức năng, lĩnh vực. Ở Hy Lạp
La Mã cổ đại, cũng có thiết chế nhà vua (hai nhà vua) - người đứng đầu nhà
nước, nhưng hai vua không phải là thiết chế nắm nhiều quyền hành. Ở nhà nước
Hy Lạp La Mã cổ đại, sự chun mơn hóa trong hoạt động của các cơ quan nhà

18


nước cũng cao hơn, xuất phát từ nguyên nhân những nhà nước này liên tục có
các cuộc cải cách rất toàn diện.
Về cơ quan xét xử, ở Trung Quốc cổ đại nhìn chung cơ quan xét xử khơng
tách riêng thành cơ quan độc lập với cơ quan hành chính. Cụ thể quyền xét xử
tối cao thuộc về người đứng đầu nhà nước và thường được nhà vua uỷ nhiệm
cho một cơ quan đặc biệt ở trung ương. Tại các địa phương, hoạt động xét xử
thuộc thẩm quyền của viên quan đứng đầu đơn vị hành chính đó. Ở Hy Lạp La
Mã cổ đại ngay từ đầu tính chuyên nghiệp và tính độc lập trong hoạt động xét xử
đã cao hơn. Các cơ quan xét xử thường được tách khỏi cơ quan hành chính và
phân nhóm để xét xử những loại vụ việc cụ thể.
2.4. Pháp luật
Thời cổ đại đã có những sản phẩm lập pháp rất đồ sộ và thể hiện tính pháp
điển hóa cao như Bộ luật Hammurabi và Bộ luật Manu, Luật 12 Bảng và Bộ
pháp điển Corpus Iuris Civilis năm 533 SCN ở La Mã. Đây là những thành tựu
nổi bật về lập pháp thời cổ đại.
Điểm khác biệt rõ nhất giữa pháp luật Trung Quốc và Hy Lạp La Mã thời
cổ đại là ở chỗ: Nếu so sánh Hy Lạp La Mã thời cổ đại tthì pháp luật dân sự ở
Trung Quốc kém phát triển hơn Hy Lạp La Mã. Ở Trung Quốc cổ đại, lĩnh vực
pháp luật hình sự với các qui định về tội phạm và hình phạt được qui định nhiều

hơn hơn pháp luật dân sự.
Điểm hạn chế rõ nhất của các Bộ luật cổ là các chế định hình sự. Sự hàm
hỗn giữa hình luật và dân luật chính là nét đặc trưng cơ bản của luật pháp thời
kỳ này. Hay nói theo ngôn ngữ hiện đại là nhiều bộ luật đã hình sự hố hầu hết
các quan hệ xã hội. Ngồi ra các qui định hình sự cũng thể hiện sự bất bình đẳng
rõ nét và sự tiếp thu các tàn dư của cách xử sự trong xã hội công xã nguyên
thuỷ.
Tóm lại sự khác biệt
Ở Trung Quốc cổ đại: Đa phần muốn hướng con người, xã hội đến với
những điều kiện tốt đẹp trong phẩm chất đạo đức. Thương cảm cho số phận dân
19


nghèo, khẳng định trách nhiệm, bổn phận con người trong xã hội. Qua đó, nói
lên cái tiêc cực của xã hội
Ở Hy Lạp La Mã cổ đại: Thể hiện sự tiết nuối của một chế độ đã đi qua,
khát khao xây dựng xã hội cơng bằng, đứng về phía dân nghèo và hướng tới
nhân dân. Đồng thời cũng có tư tưởng xem thường nhân dân, lộng quyền của
giai cấp thống trị.

20



×