Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

VĂN hóa CHÍNH TRỊ nét TIÊU BIỂU của văn hóa CHÍNH TRỊ ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (103.9 KB, 17 trang )

MỞ ĐẦU
Văn hóa được xem là sản phẩm của con người, là một sức mạnh trong cải
tạo, chinh phục tự nhiên, xã hội, là yếu tố quan trọng đảm bảo cho sự phát triển
và tồn tại của mỗi con người, mỗi cá nhân, tổ chức, mỗi dân tộc và mỗi quốc
gia.
Trong xã hội lồi người bắt đầu có sự phân chia giai cấp, đấu tranh giai
cấp lẫn nhau dẫn đến một trình độ nhất định sẽ xuất hiện chính trị và văn hóa
chính trị. Văn hóa chính trị là một bộ phận, phương diện của văn hóa, lại là bộ
phận ra đời trong quá trình con người ứng xử với quyền lực nhà nước, có vai trị
quyết định thúc đẩy hay kìm hãm sự phát triển của xã hội.
Văn hóa chính trị là nghệ thuật sử dụng quyền lưc nhà nước, quyền lực
chính trị, quyết định đến sự phát triển của hệ thống chính trị và nền chính trị.
Văn hóa chính trị có vai trị quan trọng đối với mỗi quốc gia và mỗi dân tộc, giữ
vai trò quan trọng trong việc tổ chức xã hội, định hướng các hành vi và quan hệ
xã hội.
Đối với Việt Nam, văn hóa chính trị đã hình thành và phát triển lâu dài.
Văn hóa chính trị ở Việt Nam là sự kế thừa và phát huy những giá trị của Chủ
nghĩa Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh. Song đó đảng ta cũng hướng tới
mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Định
hướng xã hội chủ nghĩa, thống nhất giữa tính cách mạng và tính khoa học, giữa
truyền thống và hiện đại, dân tộc và quốc tế. Cũng chính vì vậy đã tạo nên
những nét riêng biệt của văn hóa chính trị ở Việt Nam.

1


NỘI DUNG CHÍNH
Chương 1. Những cơ sở lý luận về văn hóa chính trị
1.1. Khái niệm văn hóa
Văn hóa là sản phẩm do con người sáng tạo ra, từ thuở bình minh của xã
hội lồi người. Cho tới ngày nay, con người vẫn chưa thống nhất được khái niệm


văn hóa.
Ở phương Đơng, từ văn hóa đã có trong đời sống ngôn ngữ từ rất sớm.
Trong “Chu Dịch”, quẻ Bi đã có từ văn và hóa: Xem dáng vẻ con người, lấy đó
mà giáo hố thiên hạ. Chu Hướng thới Tây Hán là người sử dụng từ văn hóa
sớm nhất, với nghĩa như là một phương thức giáo hóa con người - văn trị giáo
hóa, văn hóa ở đây được dùng với nghĩa đối ngược lại với phương thức dùng vũ
lực.
Ở phương Tây, các nước phương Tây sử dụng các từ mà chúng có chung
nguồn gốc Latin là chữ “cultus animi” - trồng trọt tinh thần. Được hiểu văn hóa
với 2 khía cạnh. Trồng trọt thích ứng với tự nhiên và khai khác tự nhiên và giáo
dục đào tạo cá thể hay cộng đồng để họ khơng cịn là con vật tự nhiên, họ có
những phẩm chất tốt đẹp.
Thế kỷ XIX, theo E.B Taylor: văn hóa là tồn bộ phức thể bao gồm hiểu
biết, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, phong tục, những khả năng và
tập quán khác mà con người có được với tư cách là một thành viên của xã hội.
Thế kỷ XX, theo F.BoasL: ý nghĩa văn hóa được quy định do khung giải
thích riêng chứ khơng bắt nguồn từ cái cao siêu như “trí lực”, vì thế sự khác
nhau về mặt văn hóa của từng dân tộc cũng khơng phải là tiêu chuẩn trí lực. Văn
hóa khơng xem xét ở mức độ thấp cao mà ở góc độ khác biệt.
2

Trên thế giới có nhiều khái niệm văn hóa khác nhau được các nhà nghiên
cứu đã vận dụng khái niệm văn hóa của UNESSCO: “Văn hóa ngày hơm nay có
thể coi là tổng thể những nét riêng biệt tinh thần và vật chất, trí tuệ và xúc cảm


quyết định tính cách của một xã hội hay của một nhóm người trong xã hội. Văn
hóa bao gồm nghệ thuật và văn chương, những lối sống, những quyền cơ bản
của con người, những hệ thống giá trị, những tập tục và những tín ngưỡng. Văn
hóa đem lại cho con người khả năng suy xét bản thân. Chính văn hóa làm cho

chúng ta trở thành những sinh vật đặc biệt nhân bản, có lí tính, óc phê phán và
dấn thân một cách đạo lý. Chính nhờ văn hóa mà con người thể hiện, tự ý thức
được bản thân, tự biết mình là một đáp án chưa hồn thành, đặt ra để xem xét
những thành tựu của bản thân, tìm tịi không mệt mỏi những ý nghĩa mới mẻ và
sáng tạo nên những cơng trình vượt trội lên bản thân”1.
Ở Việt Nam văn hóa cũng được định nghĩa khác nhau và có nét riêng của
mỗi cá nhân, Hồ Chí Minh: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống,
lồi người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật,
khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày
về mặt ăn ở và phương thức sử dụng. Toàn bộ những phát minh sáng tạo đó
được gọi là văn hóa”2.
Theo cựu thủ tướng Phạm Văn Đồng: “Văn hóa là quá trình con người và
cộng đồng con người ở từng nơi và ở mọi nơi đoàn kết và phấn đấu qua biết bao
gian khổ và hy sinh để từng bước, từng phần tự khẳng định mình, từng bước,
từng phần thốt khỏi thân phận bị tha hóa, dần trở thành con người tự do”3.
Tóm lại, các định nghĩa về văn hóa rất đa dạng và phong phú, đề cập đến
nhiều vấn đề khía cạnh khác nhau trong xã hội. Mỗi định nghĩa đều mang những
nét riêng biệt của của những vấn đề đề cập đến. Qua đó, đã đưa ra một thống
nhất chung để định nghĩa về văn hóa: Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị
vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động
thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội.
1.2. Khái niệm chính trị
3

1 Tun ngơn phổ qt về Đa dạng văn hóa của UNESSCO năm 1992 (theo n/c quốc tế số 1/3-2009, tr21)
2 Hồ Chí Minh tồn tập, Nxb CTQG, H.1995, t3, tr431
3 Phạm Văn Đồng, Nxb CTQH, Hà Nội, 1994, tr11


Chính trị là một trong những hiện tượng xã hội gắn liền với sự ra đời của

giai cấp và Nhà nước. Có sức ảnh hưởng đối với q trình tồn tại và phát triển
của mỗi quốc gia, mỗi cộng đồng, mỗi dân tộc. Chính trị là một phạm trù phức
tạo. Có rất nhiều quan điểm, tư tưởng khác nhau về chính trị.
Ở phương Tây thời kỳ cổ đại đã có những nhà triết gia, chính trị:
Theo Hê-rơ-đốt: Được mệnh danh là người “cha của chính trị học”.
Khẳng định chính trị tốt nhất là thể chế hỗn hợp của các chính thể này. Từ chỗ
nghiên cứu và phân tích sự khác biệt giữa các hình thức chính thể: Qn chủ,
Qúy tộc và Dân chủ, ơng.
Theo Platon: Chính trị là “nghệ thuật cung đình” liên kết trực tiếp của
người anh hùng và sự thơng minh. Sự liên kết đó được thực hiện bằng sự thống
nhất tư tưởng và tinh thần hữu ái. Chính trị là nghệ thuật cai trị. Cai trị bằng sức
mạnh là độc tài, cai trị bằng nghệ thuật mới là đích thực.
Theo Aristotle: Chính trị là sản phẩm của sự phát triển tự nhiên- là hh́nh
thức giao tiếp cao nhất của con người; con người là động vật chính trị; quyền lực
chính trị có thể được phân chia thành lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Ở phương Đông cổ đại, nhất là ở Trung Quốc thời kỳ “bách gia chư tử” trăm hoa đua nở - trăm nhà đua tiếng cũng xuất hiện những tư tưởng chính trị
kiệt xuất. Nổi bật nhất là các quan niệm của Khổng tử, Hàn Phi tử, Lăo tử ...
Khổng tử: Chính trị là cơng việc của người qn tử, là làm cho chính đạo,
chính danh. Ơng xây học thuyết về Nho gia với các quan điểm Tam cương, Ngũ
thường - là cơ sở nền tảng cho các xã hội phong kiến phương Đông lúc bấy giờ
và cả sau này.
Hàn Phi tử: Ông quan niệm để thực hiện hoạt động chính trị cần thiết phải
xây dựng và ban hành pháp luật. Với luận thuyết nổi tiếng về thế, thuật và pháp ông là đại diện tiêu biểu của phái Pháp gia.
Lão tử: Với quan điểm “vơ vi nhi trị” - khơng làm gì mà mọi người tự
4

thuần phục, tự tìm đến với con đường chính đạo thì đó là cái gốc của nghệ thuật
trị nước.



Quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin về chính trị: “Chính tị là lợi ích, là
quan hệ lợi ích, là đấu tranh giai cấp trước hết vì lợi ích giai cấp. Cái căn bản
nhất của chính trị là việc tổ chức quyền lực nhà nước, là sự tham gia vào công
việc Nhà nước, là định hướng cho nhà nước, xác định hình thức, nội dung,
nhiệm vụ của Nhà nước. Chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế. Đồng thời,
chính trị khơng thể khơng chiếm vị trí hàng đầu so với kinh tế. Chính trị là lĩnh
vực phức tạp, nhạy cảm nhất, liên quan tới vận mệnh hàng triệu người. Giải
quyết những vấn đề chính trị vừa là khoa học, vừa là nghệ thuật”4.
Từ đó, rút ra kết luận chung nhất về khái niệm chính trị: “Chính trị là hoạt
động trong lĩnh vực quan hệ giữa các giai cấp, cũng như các dân tộc và các quốc
gia với vấn đề giành, giữ, tổ chức và sử dụng quyền lực Nhà nước; là sự tham
gia của nhân dân vào công việc của Nhà nước và xã hội, là hoạt động chính trị
thực tiễn của giai cấp, các đảng phái chính trị, các nhà nước nhằm tìm kiếm
những khả năng thực hiện đương lối và những mục tiêu đã đề ra nhằm thỏa mãn
lợi ích”.
1.3. Khái niệm văn hóa chính trị
Thực chất văn hóa chính trị là một khái niệm đã có từ rất lâu, ngay từ thời
cổ đại các nhà tư tưởng chính trị của Hy Lạp - La Mã và Trung Quốc cổ đại như
Platon, Aristole, Khổng Tử, Lão Tử, ... cũng đã đề cập đến những vấn đề văn
hóa chính trị ở những khía cạnh khác nhau.
Platon (428 - 347 TCN) và Aristole (384 - 322 TCN), đại diện cho tư
tưởng phương Tây đã đưa ra quan niệm coi chính trị là khoa học và nghệ thuật,
nhưng về mặt triết lý về chính trị - xã hội của Platon và Aristole còn nhiều hạn
chế nhưng lại chứa đựng nhiều hạt nhân và những lý luận quan trọng về quan
niệm văn hóa chính trị.
Khổng Tử (551 - 479 TCN) là đại diện cho những tư tưởng phương Đông,
5

tư tưởng chính trị về nhân và lễ, chính danh định phận, tơn trọng người hiền, ...


4 Chính trị học Đại cương, Đại học Thái Nguyên, 2011, tr6


hàm chứa những giá trị sâu sắc, mang ý nghĩa thời đại đặc biệt đối với văn hóa
chính trị phương Đơng.
Văn hóa chính trị là thể hiện sự tác động qua lại giữa chính trị và văn hóa,
giữa văn hóa và chính trị. Là hệ thống các giá trị, các quy tắc, chuẩn mực gắn
liền với một nền chính trị nhất định, từ những góc độ có thể phân chia thành
nhiều hình thức văn hóa chính trị gắn liền với các chế độ khác nhau. Văn hóa
chính trị cịn gắn với văn hóa lãnh đạo, văn hóa quản lý, những thiết chế ngầm,
nhưng lại có tác dụng điều chỉnh hành vi của các cá nhân trong mơi trường
chính trị - xã hội tồn tại.
GS.TS. Hồng Chí Bảo cho rằng: “Văn hóa chính trị là chất lượng tổng
hịa của tri thức, tình cảm, niềm tin chính trị, tạo thành ý thức chính trị cơng dân,
thúc đẩy họ tới những hoạt động chính trị tích cực phù hợp với lý tưởng chính trị
của xã hội, là thói quen và nhu cầu tham gia một cách tự giác chủ động vào các
quan hệ chính trị - xã hội, trở thành giá trị xã hội của cơng dân, góp phần hướng
dẫn họ trong cuộc đấu tranh vì lợi ích nhu cầu xã hội vì tiến bộ và phát triển”5.
Văn hóa chính trị là tổng hợp những giá trị về vật chất, tinh thần được
hình thành trong thực tiễn chính trị. Chi phối hoạt động của các cá nhân, các nhà
chính trị, định hướng hoạt động của họ trong việc tham gia vào đời sống chính
trị để phục vụ lợi ích căn bản của một giai cấp.
Văn hóa chính trị ở mỗi quốc gia, mỗi dân tộc đều có sự khác nhau, sự
khác biệt về văn hóa chính trị giữa giới tinh hoa và quần chúng nhân dân, giữa
các dân tộc, giữa tôn giáo, và các khu vực, ... Nếu sự khác biệt ấy đã đủ mạnh,
lúc đó hình thành nên một nền văn hóa chính trị riêng.
1.4. Đặc trưng văn hóa chính trị
1.4.1. Tính giai cấp
Mỗi một giai cấp, tầng lớp sẽ xây dựng cho mình một nền văn hố chính
6


trị phù hợp. Hệ tư tưởng chính trị của giai cấp đó là điều cốt lõi của nền văn hóa.
Trong xã hội lồi người mỗi giai cấp thống trị xã hội sẽ tương ứng với một văn
5 Viện Mác - Lênin, Hà Nội, 4/1994


hóa chính trị khác nhau. Từ hệ tư tưởng chính trị, nền tảng pháp lý cũng được
xây dựng sao cho phù hợp với lợi ích của giai cấp, của xã hội.
1.4.2. Tính lịch sử
Thể hiện sự gắn bó chặt chẽ với một giai cấp và với một thời kỳ lịch sử
xác định. Trải qua quá trình phát triển của lịch sử, văn hố chính trị cũng có
những bước thăng trầm, thay đổi. Trong từng dấu mốc lịch sử ta có thể chỉ ra
những lát cắt của một nền văn hoá chính trị xác định.
1.4.3. Tính kế thừa
Chế độ chính trị ra đời sau sẽ tiếp nối những giá trị văn hóa của của các
chế độ trước. Sự kế thừa ln có sự chọn lọc phù hợp với nền văn hóa chính trị
đương đại, phù hợp với chuẩn mực đạo đức của cộng đồng, dân tộc và quốc gia.
1.4.4. Tính đa dạng
Tính đa dạng về giai cấp thống trị, đa dạng về các hình thái kinh tế - xã
hội, đa dạng về các chế độ chính trị, hình thức nhà nước, cả về các giá trị, chuẩn
mực và các quy định.

7


Chương 2. Nét tiêu biểu của văn hóa chính trị ở Việt Nam
2.1. Cơ sở hình thành văn hóa chính trị ở Việt Nam
Ở Việt Nam, nhà nước xuất hiện cách đây hàng ngàn năm từ đó đã xuất
hiện văn hóa chính trị. Trong đó, văn hóa chính trị Việt Nam hiện nay có cả
những giá truyền thống và giá trị hiện đại.

2.1.1. Cơ sở văn hóa chính trị Việt Nam truyền thống
Việt Nam với hơn 4000 năm văn hiến. Văn hóa chính trị Việt Nam là lịng
tin, thái độ, chủ nghĩa yếu nước, tình cảm con người Việt Nam. Khi đế quốc Mỹ
mở rộng chiến tranh ra miền Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa ra một chân lý
mang giá trị mọi thời đại: “Khơng có gì q hơn độc lập tự do”. Nó là thành quả
hàng nghìn năm lao động, sáng tạo, kiên cường đấu tranh dựng nước và giữ
nước của dân tộc.
Những tư tưởng có giá trị tạo nên truyền thống văn hóa chính trị Việt Nam
được khái quát qua những đặc trưng tiêu biểu sau đây:
Một là, nêu cao tinh thần dân tộc và truyền thống u nước, động viên
sức mạnh tồn dân vì độc lập tự do.
Yêu nước là truyền thống quý báu của dân tộc ta, yêu nước là yêu tổ
quốc; đó là một trong những tư tưởng phổ biến trong nền văn hóa chính trị trên
thế giới. Truyền thống yêu nước của người Việt Nam mang đậm nét của dân tộc
Việt Nam. Với hàng ngàn năm lịch sử phải chịu nhiều hy sinh trong quá trình
đấu tranh giữ nước và dựng nước. Tinh thần dân tộc, sức mạnh tồn dân vì độc
lập tự do. Có dân tộc thì hẵn sẽ có tư tưởng độc lập dân tộc. Dân tộc nào cũng
muốn cho mình có quyền được tự quyết dân tộc. Và về vấn đề dân tộc đã được
8

Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ trong Tun ngơn độc lập: “Nước Việt Nam có
quyền hưởng tự do, độc lập và trở thành một nước tự do, độc lập”. Dân tộc độc


lập là một trong những tư tưởng nổi bật trong truyền thống văn hóa chính trị của
Việt Nam.
Hai là, tư tưởng đoàn kết trong dân tộc Việt Nam
Việt Nam là một nước nhỏ nhưng người Việt Nam lại rất tự hào về dân tộc
mình. Đồn kết của dân tộc Việt Nam xuất hiện từ nhiều nguyên nhân khác
nhau, đoàn kết có đủ sức mạnh để chống lại giặc ngoại xâm, chống lại thiên tai,

dịch bệnh. Tư tưởng đồn kết có thể được đút kết qua câu ca dao sau: “Bầu ơi
thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”. Ý nghĩa của
câu ca dao ấy là mượn hình ảnh có thực mà con người có thể nhận thấy, ông cha
ta xưa nay nhắc nhở con cháu: “bầu, bí” tượng trưng cho những người cùng
sống chung với nhau trên một mãnh đất, một lãnh thổ, cùng dân tộc, ... Người
Việt Nam cũng như dây bầu, dây bí, phải ln u thương, u q, đồn kết,
giúp đỡ lẫn nhau.
Ba là, thể hiện tinh thần nhân bản sâu sắc. Trọng nhân nghĩa, yêu thương
người bị áp bức, bóc lột, yêu hịa bình, lên án bất cơng, tàn bạo, phi nhân tính,
chống chiến tranh xâm lược và nơ dịch dân tộc.
Nhân nghĩa được xem là một giá trị văn hóa truyền thống của các dân tộc
trên thế giới. Nhưng đối với người Việt Nam, nhân nghĩa được xem là phẩm
chất đạo đức quan trọng của con người, sống hịa thuận, đồn kết, thủy chung,
và có trách nhiệm đối với xã hội. Tuy nhiên, tư tưởng nhân nghĩa của con người
Việt Nam được hình thành trong quá trình dựng nước và giữ nước lâu dài, vì thế
nó khơng thể đồng nhất với các tư tưởng nhân nghĩa của các dân tôc khác.
Bốn là, đề cao trí tuệ, trọng dụng nhân tài.
Hiền tài là tinh hoa của văn hóa của một dân tộc. “Hiền tài là nguyên khí
của quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh mà hưng thịnh, ngun khí
suy thì thế nước yếu mà thấp hèn”. Có nghĩa là người vừa có tài, vừa có đức sẽ
là phần cốt lõi giúp cho đất nước ngày càng phát triển thịnh vượng và tốt đẹp
9

hơn. Cùng với chính sách đào tạo, Việt Nam cũng có những chính sách thu hút
nguồn nhân lực trình độ cao về phục vụ cho địa phương, đất nước. Hiện nay, xu
thế tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế dang tác động mạnh mẽ đến các nước trên


thế giới. Với tình hình đó, Việt Nam đã có những chính sách thu hút và trọng
dụng nhân tài về Việt Nam làm việc tránh tình trạng chảy máu chất xám ở các

nước phát triển.
Với văn hóa chính trị truyền thống Việt Nam đã có hàng ngàn năm lịch
sử. Trong quá trình xây dựng và bảo vệ đất nước lâu dài. Người Việt Nam đã
tiếp thu những tinh hoa văn hóa chính trị nhân loại và đã tạo nên những tư tưởng
ấy. Văn hóa chính trị truyền thống của Việt Nam là tài sản tinh thần vơ giá đang
góp phần tạo nên sức mạnh cho Việt Nam.
2.1.2. Cơ sở văn hóa chính trị Việt Nam hiện đại
Văn hóa chính trị Việt Nam hiện đại bắt đầu được hình thành từ sau khi
cuộc cách mạng chính trị dành thắng lợi, khi Đảng Cộng sản trở thành Đảng
cầm quyền, nhà nước kiểu mới ra đời.
Nền văn hóa chính trị hiện đại phải dựa trên cơ sở kinh tế xã hội chủ
nghĩa. Đó là nền kinh tế phát triển dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ
công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu.
Đối với nước ta hiện nay, với sự thừa nhận nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần, cũng có nghĩa là thừa nhận tính đa dạng của các hình thức sở hữu,
song với việc khẳng định vị trí chủ đạo của chế độ cơng hữu về tư liệu sản xuất
chủ yếu là đảm bảo định hướng xã hội cho sự phát triển kinh tế, đồng thời cũng
là bảo đảm về mặt kinh tế cho việc hình thành và phát triển văn hóa chính trị.
Do việc thừa nhận nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần nên trong xã
hội tất yếu còn tồn tại nhiều giai cấp và tầng lớp xã hội. Dưới sự lãnh đạo của
Đảng để tạo ra khả năng khách quan, thu hẹp khoảng cách giữa nơng thơn và
thành thị, giữa lao động trí óc và lao động chân tay, hình thành quan hệ tốt đẹp
giữa các dân tộc từng bước khắc phục sự bất bình đẳng, sự bất cơng, cùng với
nền giáo dục mới hướng vào mục đích tồn xã hội mà trực tiếp là nâng cao dân
chủ, là cơ sở xã hội cho việc hình thành và phát triển văn hóa chính trị.
10

Chân lý khoa học, bản chất nhân văn và nhân đạo của chủ nghĩa Mác –
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với những giá trị văn hóa truyền thống
chính là cơ sở khoa học cho những thái độ Mácxít đối với việc nhận thức và



phát triển xã hội. Bởi vậy, chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là
nền tảng tinh thần của xã hội, cơ sở tư tưởng của văn hóa chính trị.
2.2. Đặc điểm tiêu biểu của văn hóa chính trị ở Việt Nam
2.2.1. Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư
tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng, đó cũng là nền tảng tư
tưởng và kim chỉ nam cho hoạt động chính trị, của văn hóa chính trị.
Khi nói đến truyền thống văn hóa dân tộc Việt Nam, chúng ta thường nói
đến phần chủ yếu, cốt lõi của nó, tư tưởng đạo lý chứa đựng rất đa dạng và
phong phú, thể hiện tâm hồn, cốt cách và bản lĩnh của dân tộc ta là chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đây là hệ tư tưởng khoa học, tiến bộ soi
sáng con đường cách mạng Việt Nam. Trong giai đoạn hiện nay việc bảo vệ, vận
dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào
thực tiễn cách mạng Việt Nam là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách trong công tác
tư tưởng, lý luận của Đảng ta.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là ngọn cờ thắng lợi của cách mạng Việt Nam suốt
bao nhiêu năm qua, xây dựng một nước Việt Nam hịa bình, thống nhất, độc lập,
dân chủ và xã hội chủ nghĩa, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng, làm kim chỉ nam cho mọi
hành động cách mạng. Soi đường, chỉ lối cho cách mạng Việt Nam từ thắng lợi
này đến những thắng lợi khác. Trong nền văn hóa chính trị đó, độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Từng bước dần hoàn thiện nhà nước của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân cùng với sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam.
Đảng ta đã phát huy truyền thống yêu nước của dân tộc kết hợp với sức
mạnh dân tộc thời đại của Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh để
đem lại độc lập, hịa bình cho dân tộc Việt Nam.
11


2.2.2. Đảng Cộng sản lãnh đạo cách mạng Việt Nam
Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân, đồng thời là
đảng của dân tộc Việt Nam. Ngay từ khi ra đời đến nay, Đảng Cộng sản Việt


Nam luôn là người đại diện xứng đáng cho lợi ích của giai cấp công nhân, nhân
dân lao động và cả dân tộc. Tại Đại hội lần thứ II của Đảng (tháng 2 - 1951), Hồ
Chí Minh khẳng định: “Trong giai đoạn này, quyền lợi của giai cấp công nhân,
nhân dân lao động và của dân tộc là một. Chính vì Đảng Lao động Việt Nam là
Đảng của giai cấp cơng nhân và nhân dân lao đọng nên nó phải là Đảng của dân
tộc Việt Nam”.
Hơn 90 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam,nhân
dân ta đã vượt qua những khó khăn thử thách và giành được những thắng lợi vĩ
đại. Vị trí vai trị lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam được khẳng định ở tính
đúng đắn trong việc tiếp thu, vận dụng sáng tạo và phát triển lý luận khoa học
của Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Vai trị lãnh đạo của Đảng đã được quy định trong Điều 4 Hiến pháp năm
2013: “Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng
thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu
trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc,
lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là
lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật
thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu
trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình. Các tổ chức của
Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiếp
pháp và pháp luật”6.
Tinh thần dân chủ trong tư duy chính trị của Đảng được thể hiện rất rõ ở tư
tưởng lấy “dân làm gốc”, và, “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Một
nền chính trị nhân văn phải là nền chính trị tơn trọng quyền lợi của đa số nhân
dân, thực sự do dân làm chủ, nhà nước là cơ quan được ủy quyền để thực thi

quyền lực nhân dân, để thực hiện lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân
dân. Những bước tiến trong nhận thức lý luận và tư duy chính trị của Đảng được
12

thể hiện rõ trong hàng loạt các văn kiện ban hành trong thời kỳ đổi mới.
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
6 Điều 4, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Chính trị Quốc gia, 2020,tr10


hội (năm 1991) đã chính thức sử dụng khái niệm "hệ thống chính trị". Hệ thống
chính trị của chúng ta được vận hành theo cơ chế: "Đảng lãnh đạo, Nhà nước
quản lý và nhân dân làm chủ".
2.2.3. Văn hóa chính trị Việt Nam hiện nay là sự kế thừa văn hóa
chính trị Việt Nam truyền thống
Văn hóa chính trị Việt Nam hình thành và phát triển gắn liền với lịch sử
dân tộc Việt Nam. Những giá trị truyền thống ngày nay đã được áp dụng vào
thực tế hiện nay, không ngừng phát triển, bổ sung và hoàn thiện cho phù hợp với
điều kiện hoàn cảnh đất nước Việt Nam hiện nay. Văn hóa chính trị Việt Nam
truyền thống là hệ giá trị độc lập dân tộc và bảo vệ chủ quyền thì trong giai đoạn
hiện nay độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội - đây là một giá trị thiêng
liêng trong giai đoạn hiện nay. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, là
mục tiêu là lý tưởng, là điều kiện đảm bảo cho cuộc sống ấm no, tự do hạnh
phúc của nhân dân là một trong những nhân tố quyết định đảm bảo vững chắc
nền độc lập dân tộc.
2.3. Phương hướng giáo dục, nâng cao văn hóa chính trị ở Việt Nam
hiện nay
Xây dựng văn hóa chính trị trở thành một bộ phận không tác rời của chiến
lược xây dựng và phát triển văn hoá ở nước ta, trước hết cần chú trọng đặc biệt
tới các nhân tố tư tưởng, đạo đức lối sống và đời sống văn hoá tinh thần là
những vấn đề nổi bật và bức xúc hiện nay.

Xây dựng văn hóa chính trị gắn liền mật thiết giữa giáo dục tuyên truyền
đường lối quan điểm của Đảng, chính sách và pháp luật của nhà nước với việc
nâng cao ảnh hưởng thực tế của đường lối, chính sách ấy trong đời sống xã hội,
thực hiện công phu lâu dài việc giáo dục ý thức chính trị, giáo dục đạo đức và
13

tình cảm cách mạng, nâng cao trình độ học vấn và dân trí nối chung để quần
chúng tham gia vào hoạt động chính trị một cách chủ động, tích cực và sáng tạo.


Nâng cao văn hóa chính trị gắn liền với việc nâng cao nhận thức về chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Lý luận đóng vai trị quan trọng vì
nó là hệ thống tư tưởng chủ đạo được hình thành trên cơ sở tổng hợp các tri thức
và kinh nghiệm của lồi người tích lũy được trong quá trình lịch sử. Lý luận
được đem ra giáo dục cho cán bộ, đảng viên trước hết chính là lý luận chính trị tư tưởng, lý luận cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí
Minh. Đó là lý luận liên quan trực tiếp tới sự lãnh đạo của Đảng, tới việc củng
cố lập trường tư tưởng và nhân sinh quan của người cán bộ lãnh đạo. Học tập tư
tưởng Hồ Chí Minh khơng chỉ là học tập tư tưởng lý luận mà còn là học tập cả
phương pháp, phong cách, đạo đức và lối sống của Người.
Cùng với thông tin là đẩy mạnh giáo dục pháp luật. Tông trọng pháp luật,
tự giác thực hiện pháp luật, đấu tranh cho việc pháp luật được coi trọng và xử lý
nghiêm minh theo luật, thực hiện nghiêm chỉnh nguyên tắc bình đẳng của tất cả
mọi người trước pháp luật… là địi hỏi cấp bách. Khơng có những đảm bảo khoa
học, đạo đức, pháp luật thì khơng thể có bất cứ một văn hóa chính trị nào theo
nghĩa trung thực, nghiêm túc của nó. Tơn trọng và thực hành các giá trị, các
chuẩn mực dân chủ trong lối sống, hành vi, ứng xử chính trị.
Trao dồi đạo đức, thực hành đạo đức theo tư tưởng và gương sáng Hồ Chí
Minh. Thực hành đạo đức cách mạng ở tất cả mọi người trong các mối quan hệ
với tự mình, với người khác, với cơng việc, với tổ chức. Phải có đủ bốn đức:
cần, kiệm, liêm, chính thì mới là người hồn tồn. Cần, kiệm, liêm, chính là đạo

đức, là chính trị, là sự cơ đọng các giá trị văn hố đạo đức, văn hố chính trị.

14


KẾT LUẬN
Văn hóa chính trị là một bộ phận của chính trị nước ta. Nó có vai trị vơ
cùng quan trọng trong việc phát huy tính tự giác, chủ động, sáng tạo của các chủ
thể trong hoạt động chính trị. Chính văn hóa chính trị đã góp phần nâng cao
nhận thức, rèn luyện bản lĩnh chính trị; định hướng và điều chỉnh hành vi con
người trong quan hệ chính trị - xã hội.
Văn hóa chính trị Việt Nam đã có những thời kỳ phát triển rực rỡ, đã cùng
sánh vai với các cường quốc đương thời và cũng đã có những tư tưởng mang
tính thời đại, tiêu biểu như tầm nhìn chính trị và tư tưởng dựa vào dân, lấy sự
đồng thuận của dân làm nền tảng cho sự nghiệp dựng nước và giữ nước sức
mạnh của cả dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ... Các giá trị văn hóa truyền
thống khơng chỉ có vai trị quan trọng đối với sự tồn vong mà còn khẳng định
sức sống mãnh liệt của dân tộc trong quá khứ, hiện tại và tương lai.
Tuy nhiên, việc khai thác để kế thừa các giá trị văn hóa truyền thống này
làm cơ sở, nền tảng vững chắc cho sự phát triển văn hóa chính trị cịn chưa thỏa
đáng. Điều này dẫn đến những khoảng trống trong q trình phát triển văn hóa
chính trị của người cán bộ lãnh đạo, quản lý, nhất là số cán bộ lãnh đạo quản lý
trẻ ở nước ta hiện nay. Đồng thời, hạn chế sự nảy sinh và sáng tạo những giá trị
mới khi họ tương tác với các giá trị khác đến từ quá trình đổi mới và hội nhập
quốc tế.
15


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tuyên

2. Hồ

ngôn phổ quát về Đa dạng văn hóa của UNESSCO năm 1992

Chí Minh tồn tập, Nxb CTQG, H.1995

3. Phạm

Văn Đồng, Nxb CTQH, Hà Nội, 1994

4. Chính

trị học Đại cương, Đại học Thái Nguyên, 2011

5. Viện

Mác - Lênin, Hà Nội, 4/1994

6. Hiến

pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Chính trị Quốc gia,

2020

16


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
NỘI DUNG CHÍNH

Chương 1. Những cơ sở lý luận về văn hóa chính trị
1.1. Khái niệm văn hóa
1.2. Khái niệm chính trị
1.3. Khái niệm văn hóa chính trị
1.4. Đặc trưng văn hóa chính trị
1.4.1. Tính giai cấp
1.4.2. Tính lịch sử
1.4.3. Tính kế thừa
1.4.4. Tính đa dạng
Chương 2. Nét tiêu biểu của văn hóa chính trị ở Việt Nam
2.1. Cơ sở hình thành văn hóa chính trị ở Việt Nam
2.1.1. Cơ sở văn hóa chính trị Việt Nam truyền thống
2.1.2. Cơ sở văn hóa chính trị Việt Nam hiện đại
2.2. Đặc điểm tiêu biểu của văn hóa chính trị ở Việt Nam
2.2.1. Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm
nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng, đó
cũng là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hoạt động chính trị,
của văn hóa chính trị.
2.2.2. Đảng Cộng sản lãnh đạo cách mạng Việt Nam
2.2.3. Văn hóa chính trị Việt Nam hiện nay là sự kế thừa văn
hóa chính trị Việt Nam truyền thống
2.3. Phương hướng giáo dục, nâng cao văn hóa chính trị ở
Việt Nam hiện nay
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

17

4
5

5
5
6
8
9
9
9
10
10
11
11
11
13
14
14
14
16
16
18
19



×