Tải bản đầy đủ (.doc) (183 trang)

Nghệ thuật tuyên truyền trong văn chính luận của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (771 KB, 183 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

PHẠM THỊ NHƯ THÚY

NGHỆ THUẬT TUYÊN TRUYỀN
TRONG VĂN CHÍNH LUẬN
CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC - HỒ CHÍ MINH

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

NGHỆ AN - 2022


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

PHẠM THỊ NHƯ THÚY

NGHỆ THUẬT TUYÊN TRUYỀN
TRONG VĂN CHÍNH LUẬN
CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC - HỒ CHÍ MINH

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 9220121

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS. PHAN HUY DŨNG


NGHỆ AN - 2022


3

LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu do tôi tự thực hiện dưới sự
hướng dẫn của PGS.TS. Phan Huy Dũng. Việc giải quyết các vấn đề đặt ra cũng
như trình bày kết quả nghiên cứu trong luận án đảm bảo nguyên tắc trung thực,
khoa học.
Nghệ An, tháng 4 năm 2022
Tác giả luận án

Phạm Thị Như Thúy


LỜI CẢM ƠN
Tơi xin bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS. Phan Huy Dũng, người đã
tận tình hướng dẫn tơi và đóng góp những ý kiến q báu để cơng trình nghiên
cứu này được hồn thiện.
Tơi xin trân trọng cảm ơn Khoa Ngữ văn, Trường Sư phạm; Phòng Đào
tạo Sau đại học của Trường Đại học Vinh đã tạo điều kiện tốt nhất cho tơi trong
q trình học tập, nghiên cứu tại trường.
Xin được gửi lời cảm ơn đến Lãnh đạo Ban, các đồng nghiệp cơ quan Ban
Tuyên giáo Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh đã hỗ trợ tơi học tập, nghiên cứu
nâng cao trình độ chun mơn, nghiệp vụ.
Xin bày tỏ lịng biết ơn tới q thầy cơ, bạn bè và gia đình đã động viên
giúp đỡ, cổ vũ tơi hồn thành khóa học và luận án.
Nghệ An, tháng 4 năm 2022
Tác giả luận án


Phạm Thị Như Thúy


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
TT

Chữ viết đầy đủ

Chữ viết tắt

1

Chính trị Quốc gia

CTQG

2

Chính trị Quốc gia - Sự thật

3

Đại học Quốc gia

4

Hà Nội

5


Khoa học xã hội

6

Nhà xuất bản

Nxb

7

Thành phố

TP

CTQG - ST
ĐHQG
HN
KHXH


MỤC LỤC
Trang
LỜI CAM ĐOAN.................................................................................................i
LỜI CẢM ƠN.......................................................................................................ii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT..................................................................iii
MỤC LỤC.............................................................................................................iv
MỞ ĐẦU...............................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài.......................................................................................... 1
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.................................................................2

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu................................................................ 2
4. Phương pháp nghiên cứu............................................................................... 3
5. Đóng góp mới của luận án............................................................................ 4
6. Cấu trúc của luận án......................................................................................5
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI VÀ TỔNG QUAN VẤN ĐỀ
NGHIÊN CỨU..................................................................................................... 6
1.1. Một số giới thuyết về văn chính luận..........................................................6
1.1.1. Khái niệm văn chính luận.................................................................6
1.1.2. Tính chức năng của văn chính luận.................................................. 8
1.1.3. Tính thẩm mỹ đặc thù của văn chính luận........................................10
1.2. Cơ sở lý luận của việc nghiên cứu nghệ thuật tuyên truyền trong văn
chính luận Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh......................................................13
1.2.1. Trách nhiệm xã hội người cầm bút...................................................13
1.2.2. Mối quan hệ giữa nghệ thuật và tuyên truyền.................................. 15
1.2.3. Sự thống nhất giữa phẩm chất nhà cách mạng và phẩm chất
người nghệ sĩ ở Hồ Chí Minh.....................................................................17
1.3. Tổng quan tình hình nghiên cứu về nghệ thuật tuyên truyền trong văn
chính luận Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh......................................................19
1.3.1. Nghiên cứu giá trị bao trùm của văn chính luận Nguyễn Ái Quốc Hồ Chí Minh...............................................................................................19
1.3.2. Nghiên cứu về đặc tính tuyên truyền trong văn chính luận
Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh................................................................23
Tiểu kết chương 1............................................................................................. 26
Chương 2. NHẬN DIỆN VÀ ĐỊNH VỊ DI SẢN VĂN CHÍNH LUẬN
NGUYỄN ÁI QUỐC - HỒ CHÍ MINH............................................................. 27
2.1. Di sản văn chính luận trong văn học Việt Nam thời trung đại.....................27


2.1.1. Văn chính luận từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XVIII..............................27
2.1.2. Văn chính luận thế kỷ XIX...............................................................31
2.2. Văn chính luận trong thời đại giải phóng dân tộc và cách mạng.................35

2.2.1. Sự đa dạng về tư tưởng chính trị.......................................................35
2.2.2. Những hình thức thể hiện mới..........................................................38
2.3. Di sản văn chính luận của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh...................... 41
2.3.1. Văn chính luận của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh từ góc

nhìn định lượng...........................................................................................41
2.3.2. Văn chính luận Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh qua hai giai
đoạn hoạt động cách mạng......................................................................... 45
2.3.3. Đánh giá chung về tầm vóc tư tưởng, nghệ thuật và sức tác
động của văn chính luận Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh........................ 53
Tiểu kết chương 2............................................................................................. 56
Chương 3. ĐẶC TÍNH TUYÊN TRUYỀN TRONG VĂN CHÍNH
LUẬN NGUYỄN ÁI QUỐC - HỒ CHÍ MINH XÉT TỪ PHƯƠNG
DIỆN NỘI DUNG................................................................................................ 58
3.1. Sự ý thức sâu sắc về đối tượng tiếp nhận - điều kiện đảm bảo tính thuyết
phục của văn chính luận Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh............................... 58
3.1.1. Ý thức về đối tượng tiếp nhận trong văn chính luận
Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh................................................................58
3.1.2. Hệ thống đối tượng tiếp nhận trong văn chính luận
Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh................................................................64
3.1.3. Hiệu quả tuyên truyền từ việc thấu hiểu đối tượng tiếp nhận
trong văn chính luận Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh.............................. 76
3.2. Cơng khai mục đích viết và xác lập tư tưởng tiến bộ, nền tảng sức
thuyết phục trong văn chính luận Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh...................79
3.2.1. Xác định cơng khai mục đích viết như là địi hỏi tất yếu của
loại hình văn học cách mạng...................................................................... 79
3.2.2. Tinh thần cách mạng và tính nhân văn trong văn chính luận
Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh................................................................82
3.2.3. Tính dân tộc và nhân dân trong văn chính luận Nguyễn Ái Quốc Hồ Chí Minh...............................................................................................86
3.2.4. Khả năng vẫy gọi của lập trường tư tưởng cách mạng, tiến bộ

trong văn chính luận Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh.............................. 89
3.3. Sự kết tinh văn hóa Đơng - Tây trong văn chính luận Nguyễn Ái Quốc
- Hồ Chí Minh.................................................................................................. 92


Tinh hoa văn hóa phương Đơng trong văn chính luận
Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh................................................................92
3.3.2. Tinh hoa văn hóa phương Tây trong văn chính luận của
Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh................................................................96
3.3.3. Sức hấp dẫn của việc kết nối văn hóa phương Đơng và văn hóa
phương Tây trong văn chính luận Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh..........99
Tiểu kết chương 3............................................................................................. 102
Chương 4. ĐẶC TÍNH TUYÊN TRUYỀN TRONG VĂN CHÍNH
LUẬN NGUYỄN ÁI QUỐC - HỒ CHÍ MINH XÉT TỪ PHƯƠNG
DIỆN NGHỆ THUẬT......................................................................................... 103
4.1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về sử dụng ngơn từ nghệ thuật trong văn
chính luận......................................................................................................... 103
4.1.1. Hồ Chí Minh với việc trau dồi nghệ thuật viết văn chính luận........103
4.1.2. Tương hợp giữa ngơn từ nghệ thuật và hệ thống chủ đề trong
văn chính luận Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh........................................106
4.2. Vấn đề tích hợp thể loại trong văn chính luận của Nguyễn Ái Quốc Hồ Chí Minh.....................................................................................................109
4.2.1. Diễn ngơn “người quan sát”.................................................................110
4.2.2. Diễn ngơn thông tin tư liệu...............................................................114
4.2.3. Diễn ngôn luận chiến........................................................................116
4.2.4. Diễn ngôn trữ tình.............................................................................119
4.3. Hệ thống biện pháp tu từ trong văn chính luận Nguyễn Ái Quốc Hồ Chí Minh.....................................................................................................123
4.3.1. Hệ thống biện pháp trùng điệp......................................................... 123
4.3.2. Hệ thống biện pháp ghép mảnh.................................................... 127
4.3.3. Hệ thống biện pháp chơi chữ............................................................130
4.3.4. Hệ thống biện pháp phản vấn......................................................... 138

Tiểu kết chương 4............................................................................................. 143
KẾT LUẬN...........................................................................................................145
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI LUẬN ÁN...............................................................................................149
TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................150
PHỤ LỤC
3.3.1.


9

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Trong hệ thống trước tác phong phú, đồ sộ của Hồ Chí Minh, văn

chính luận có một vị trí đặc biệt, đóng vai trò to lớn trong việc tác động vào hiện
thực cuộc sống và thể hiện những tư tưởng chính trị - nhân văn quan trọng, có
liên quan đến vận mệnh tồn dân tộc và số phận của mỗi con người Việt Nam
trong thời đại cách mạng vô sản và trào lưu đấu tranh giải phóng dân tộc. Qua
những tác phẩm chính luận được Hồ Chí Minh viết ra trong suốt cuộc đời hoạt
động cách mạng của mình (với hai bút danh chủ yếu là Nguyễn Ái Quốc và
Hồ Chí Minh), độc giả có thể nhận thấy sự hiện diện của một phong cách tuyên
truyền - thuyết phục hết sức đặc sắc, cần phải được nghiên cứu một cách sâu
rộng hơn trên cơ sở những dữ liệu mới và cách tiếp cận mới.
1.2. Nhìn tổng thể, văn chính luận của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh (từ

đây, cụm từ này sẽ được dùng nhất qn mỗi khi chúng tơi muốn nói chung về
văn chính luận của tác giả, trừ trường hợp xét từng tác phẩm cụ thể với những bút
danh riêng được Người ghi rõ), từ các bức thư, lời kêu gọi đồng bào, chiến sĩ đến
các bài báo, tiểu phẩm giàu tính luận chiến, tất cả đều thực sự độc đáo: biểu hiện

sinh động nhân cách văn hóa Hồ Chí Minh với bút pháp đa dạng, lập luận chặt
chẽ, luận điểm tường minh, lí lẽ sắc sảo, luận cứ thuyết phục, hình ảnh gây ấn
tượng, giọng điệu biến hóa, diễn đạt ngắn gọn, súc tích... Chính những điều này
đã làm nên khả năng lơi cuốn đặc biệt của của nó đối với người tiếp nhận. Như
vậy, di sản văn chính luận của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh là giá trị tinh thần
quý báu trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, cần được tiếp tục đánh giá trên
tinh thần khách quan, khoa học để thế hệ hôm nay có thể xác định được hướng kế
thừa đúng đắn. Việc chỉ ra sự nhất quán về tư tưởng, sự mềm dẻo, linh hoạt trong
văn chính luận của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh hướng tới các đối tượng khác
nhau rõ ràng là một nhiệm vụ nghiên cứu cấp thiết.


1.3. Di sản văn chính luận của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đến nay

vẫn cịn mang đậm tính thời sự. Các tác phẩm của Người khơng chỉ có giá trị
lịch sử mà còn chứa đựng những tư tưởng lớn và tồn tại như những mẫu mực
của nghệ thuật viết văn chính luận. Bởi vậy, rất cần phân tích, chỉ ra những đặc
sắc của nghệ thuật tuyên truyền ở bộ phận di sản này, nhằm rút ra bài học đối
với cơng tác tun truyền cách mạng bằng hình thức ngơn từ - văn học. Hiện
nay, trong chương trình mơn Ngữ văn ở các cấp học phổ thơng, văn chính luận
hết sức được coi trọng, do đó, việc tìm hiểu sâu văn chính luận của
Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh cịn có ý nghĩa cung cấp, củng cố những tri
thức chung về thể văn này cho giáo viên và học sinh.
Đó là những lý do cơ bản thúc đẩy chúng tôi chọn nghiên cứu đề tài Nghệ
thuật tuyên truyền trong văn chính luận của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh.
2. Đới tượng và phạm vi nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu

Như tên đề tài luận án đã xác định, đối tượng nghiên cứu chính của chúng
tơi ở cơng trình này là nghệ thuật tun truyền trong văn chính luận của

Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh.
2.2. Phạm vi nghiên cứu

Luận án đi sâu tìm hiểu hệ thống các phương thức thuyết phục đối tượng
tiếp nhận thể hiện trong tồn bộ văn chính luận của Nguyễn Ái Quốc Hồ Chí Minh (được tập hợp và in trong Hồ Chí Minh tồn tập gồm 15 tập, Nxb
Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011), đồng thời cũng chú ý phân tích một
số vấn đề có ý nghĩa phương pháp luận về mối quan hệ giữa tác giả - tác phẩm độc giả được đặt ra từ đó.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu

Luận án hướng tới việc làm rõ và khẳng định những đóng góp mang tính
đặc thù của văn chính luận Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, từ đó, rút ra các bài


học kinh nghiệm bổ ích cho cơng tác tun truyền, vận động cách mạng bằng
các phương tiện ngôn từ trong bối cảnh thời đại và đời sống đất nước hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Trên cơ sở nhìn nhận bao quát về tình hình nghiên cứu nghệ thuật tuyên
truyền trong văn chính luận của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh và xác lập cơ
sở lý thuyết cho việc triển khai các nội dung học thuật, luận án của chúng tôi
hướng đến thực hiện các nhiệm vụ cụ thể:
- Hệ thống hóa, thống kê, phân loại văn chính luận của Nguyễn Ái Quốc -

Hồ Chí Minh và chỉ ra tính lịch sử, giá trị tuyên truyền của mảng trước tác này.
Nhấn mạnh yêu cầu, nhiệm vụ của Đảng, dân tộc, đất nước thể hiện qua các tác
phẩm chính luận.
- Phân tích nội dung và đặc điểm hình thức

của văn chính luận


Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh qua các thời kỳ, giai đoạn lịch sử cụ thể, từ đó
đánh giá hiệu quả của những tác phẩm này trong việc phục vụ sự nghiệp đấu
tranh cách mạng của dân tộc.
- Rút ra các bài học về cách viết văn chính luận, cách nâng cao sức mạnh

tuyên truyền của thể văn này.
4. Phương pháp nghiên cứu

Trong quá trình thực hiện những nhiệm vụ khoa học nêu trên, chúng tôi sử
dụng phối hợp nhiều phương pháp nghiên cứu, đặc biệt là các phương pháp sau
đây:
- Phương pháp loại hình: Phương pháp cho phép người nghiên cứu khảo

sát, tìm hiểu, đánh giá văn chính luận của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh như
một đối tượng chuyên biệt, phân biệt nó với các loại sáng tác khác như văn xuôi
hư cấu và phi hư cấu, thơ trữ tình và thơ tuyên truyền vận động cách mạng. Mặt
khác, phương pháp này cũng sẽ giúp soi sáng một số đặc điểm loại hình của các
sáng tác thuộc dịng văn học cách mạng, trong đó, yếu tố tuyên truyền luôn được
chú ý đề cao.
- Phương pháp tiểu sử: Phương pháp hỗ trợ người nghiên cứu chứng minh


sự thống nhất cao độ giữa đặc điểm con người Hồ Chí Minh với những điều
được Người viết ra trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, đồng
thời, cũng chứng minh được cội nguồn của sức thuyết phục lớn lao từ những
trang văn chính luận ấy.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Đây là phương pháp phổ biến trong

nghiên cứu khoa học nói chung, vừa hướng tới phân tích, minh chứng đối tượng

cụ thể vừa xác định những đặc điểm chung, cho phép người nghiên cứu đưa ra
được những luận điểm có căn cứ xác đáng, dựa trên việc xử lý khối lượng dữ
liệu phong phú và phức tạp.
- Phương pháp hệ thống - cấu trúc: Luận án tìm hiểu văn chính luận của

Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh như một tiểu hệ thống trong hệ thống trước tác
mà Người để lại, đồng thời cũng phân tích các yếu tố của tiểu hệ thống này như
một cấu trúc với những quan hệ chặt chẽ.
- Phương pháp so sánh, đối chiếu: Với phương pháp này, người nghiên

cứu có điều kiện chỉ ra được sự biến đổi linh hoạt và đầy hiệu quả trong nghệ
thuật tuyên truyền của văn chính luận Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh mỗi khi
đối tượng vận động, tuyên truyền thay đổi. Nghệ thuật tuyên truyền này cũng
được đặt trong tương quan so sánh với nghị luận thời trung đại, với một số cây
bút yêu nước, cách mạng cùng thời.
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành: Phương pháp này một mặt giúp chỉ

ra được cội nguồn văn hóa của văn chính luận Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh,
điều khiến cho nó ln tạo được sự cộng hưởng tích cực từ phía người tiếp nhận,
mặt khác, cũng giúp người nghiên cứu thấy rõ sự chi phối của các điều kiện chính
trị, xã hội phức tạp mang tính thời đại đối với những sản phẩm ngơn từ cụ thể
được tác giả hồn thành trong những thời điểm khác biệt của cuộc đấu tranh cách
mạng nhằm giải phóng dân tộc và xác định con đường phát triển của đất nước.
5. Đóng góp mới của luận án

Luận án xác định được rõ ràng các nhân tố làm nên một phong cách tuyên


truyền, thuyết phục đặc thù của văn chính luận Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh
- điều mà phần lớn cơng trình nghiên cứu trước đây chưa chú ý khảo sát, đánh

giá với tư cách là đối tượng chuyên biệt. Trên cơ sở xử lý một khối lượng tư liệu
đồ sộ, được sưu tập và công bố trong thời gian gần đây về trước tác của
Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, luận án cũng chú ý chỉ ra và phân tích tồn
diện những phương thức nghệ thuật được tác giả Nguyễn Ái Quốc Hồ Chí Minh sử dụng trong văn nghị luận của mình nhằm đạt mục đích thuyết
phục từng đối tượng tiếp nhận cụ thể. Đồng thời, luận án cũng tiếp tục khẳng
định một hướng nghiên cứu hiệu quả đối với di sản ngơn từ của Hồ Chí Minh
khi đặt trong những tương quan cụ thể với bối cảnh văn hóa, chính trị - xã hội
mang đậm màu sắc Việt Nam trong thế kỷ XX.
6. Cấu trúc của luận án

Ngoài Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận
án được triển khai trong 4 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của đề tài và tổng quan vấn đề nghiên cứu
Chương 2: Nhận diện và định vị di sản văn chính luận Nguyễn Ái Quốc Hồ Chí Minh
Chương 3: Đặc tính tuyên truyền trong văn chính luận Nguyễn Ái Quốc Hồ Chí Minh xét từ phương diện nội dung
Chương 4: Đặc tính tuyên truyền trong văn chính luận Nguyễn Ái Quốc Hồ Chí Minh xét từ phương diện nghệ thuật


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
VÀ TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Một số giới thuyết về văn chính luận
1.1.1. Khái niệm văn chính luận

Do chịu sự chi phối của khoa học chính trị và tính thời sự, văn chính luận
trực tiếp đề cập những vấn đề chính trị, bàn về những vấn đề đời sống nóng hổi,
thiết thân với nhiều người nên được đông đảo đối tượng cơng chúng quan tâm.
Trong văn chính luận khơng chỉ có các vấn đề đời sống mà cịn có những giải
pháp nhằm giải quyết vấn đề được nêu lên một cách sáng rõ. Các tác giả của Từ
điển thuật ngữ văn học đã xác định: “Văn chính luận là thể văn nghị luận viết về

những vấn đề nóng bỏng thuộc nhiều lĩnh vực đời sống khác nhau: chính trị,
kinh tế, triết học, văn hóa... mục đích của văn chính luận là bàn bạc, thảo luận,
phê phán hay truyền bá tức thời một tư tưởng, một quan điểm nào đó nhằm phục
vụ trực tiếp cho lợi ích của một tầng lớp, một giai cấp nhất định” [58, tr. 400].
Theo Lại Nguyên Ân trong Từ điển Văn học (Bộ mới), thuật ngữ văn chính
luận được xác định như sau: “Một thể loại văn học, một thể báo chí, thường nêu
các vấn đề có tính thời sự về chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, văn học, tư
tưởng. Mục tiêu của văn chính luận là: tác động đến dư luận xã hội đương thời,
đến lối sống, đến các quyền lợi chính trị hiện hành; đề xuất việc củng cố hoặc
thay đổi chúng cho phù hợp với quyền lợi giai cấp, lý tưởng xã hội, đạo đức (…).
Các bức tranh thực tại, các tính cách và số phận con người hiện diện ở tác phẩm
chính luận như những chứng cứ lấy từ chính đời sống, như một hệ thống những
luận cứ, như đối tượng của sự phân tích, hoặc được dùng làm cơ sở của sự xúc
cảm, làm “tác nhân” kích thích, làm nguyên cứ để lên án, tố cáo hoặc chất vấn
các giới hữu quan, để khẳng định lý tưởng” [5, tr. 1941-1942].
Theo chúng tơi, đây là một giới thuyết khá tồn diện về thuật ngữ văn


chính luận, thống nhất với quan điểm nhìn nhận của các tài liệu khác cùng loại
như Từ điển thuật ngữ văn học do Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi
đồng chủ biên (được Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội và Nhà xuất bản
Giáo dục in lại nhiều lần), Từ điển bách khoa văn học của Viện Hàn lâm khoa
học Liên Xô (tiếng Nga, in năm 1987 bởi Nhà xuất bản Bách khoa tồn thư
Xơ viết). Nó cũng gần gũi với tiêu chí nhận diện văn chính luận trong các giáo
trình Lý luận văn học được dùng phổ biến ở các trường Đại học, Cao đẳng Việt
Nam hiện nay.
Nhìn chung, khi đề cập khái niệm văn chính luận hay định nghĩa về văn
chính luận, các giáo trình lý luận văn học phổ biến ở Việt Nam, đều thống nhất
với nhau trên các điểm cốt yếu. Văn chính luận được viết ra khơng phải theo sự
chi phối của tư duy nghệ thuật, tư duy tình cảm thẩm mỹ mà chủ yếu được viết

theo tư duy logic, do vậy, sức thuyết phục chủ yếu của nó khơng phải ở chỗ
dựng lên những hình tượng, bức tranh sinh động để truyền cảm mà ở chỗ đưa ra
được những lý lẽ đúng đắn, sắc sảo, luận cứ cụ thể, sinh động trong một tổng thể
lập luận chặt chẽ.
Nói riêng về phương diện nội dung của văn chính luận, Cù Đình Tú trong
cơng trình Phong cách học và đặc điểm của tu từ tiếng Việt đã khẳng định: “Văn
bản chính luận nếu đứng về mặt nội dung thì đó là văn bản bày tỏ ý kiến, bộc lộ
công khai quan điểm chính trị - tư tưởng của người nói (người viết) về thời sự
nóng hổi. Vấn đề thời sự nóng hổi là một khái niệm rộng, gồm gìn giữ bảo vệ
Tổ quốc, bảo vệ nền an ninh thế giới, đấu tranh xây dựng cuộc sống vật chất và
tinh thần trên tất cả mọi lĩnh vực: kinh tế, quân sự, ngoại giao, pháp luật, văn
hóa, nghệ thuật, khoa học - giáo dục, y tế, thể thao” [188, tr. 84].
Từ một góc độ tiếp cận khác hơn, về văn chính luận, các nhà ngôn ngữ
học thường tập trung soi tỏ những đặc điểm ngơn ngữ của nó hay quan tâm xác
định tính đặc thù của phong cách ngơn ngữ chính luận. Trong giáo trình
Phong cách học tiếng Việt (1993), Đinh Trọng Lạc, Nguyễn Thái Hồ đã trình


bày ba đặc trưng chủ yếu của ngôn ngữ thuộc phong cách chính luận: tính bình
giá cơng khai, tính lập luận chặt chẽ và tính truyền cảm [78]. Trong một trường
hợp phân tích cụ thể, Hà Minh Đức đã xác định tính đối thoại là yếu tố nịng cốt
trong tư duy chính luận tuyên truyền của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh:
“Trong đối thoại, Hồ Chí Minh với nhân dân, ngoại giao và báo chí thì đối thoại
báo chí là phức tạp và khó khăn nhất. Đây khơng phải chỉ là sự quan tâm của
Người với báo chí, một hoạt động truyền thông mà thực chất đây là mặt trận đấu
tranh về tư tưởng với các khuynh hướng chính trị hoạt động trong một thời kỳ
lịch sử” [41, tr. 210]. Nhìn chung, những tính chất đó được biểu hiện ở đặc điểm
của các đơn vị ngôn ngữ và những biện pháp tu từ được sử dụng làm phương
tiện diễn đạt trong văn bản chính luận. Như vậy, những khảo sát và nhận định
của các nhà ngôn ngữ học ở đây giúp người nghiên cứu hiểu sâu sắc hơn về

phương diện hình thức của văn chính luận.
Trong từng trường hợp cụ thể, người viết văn chính luận sử dụng các hình
thức thể loại khác nhau. Ở văn học trung đại, văn chính luận có thể được viết
dưới các hình thức thể loại như hịch, cáo, chiếu, biểu, tấu, bi, thư tịch,... cịn
trong văn học hiện đại, văn chính luận thể hiện khn mặt của mình qua một số
hình thức khác hơn: lời kêu gọi, các báo cáo chính trị, xã luận, bình luận báo chí,
phát thanh, truyền hình, diễn thuyết.
Khởi nguyên từ việc tiếp nhận một thể tài của văn học Trung Quốc, văn
chính luận Việt Nam từ chỗ vận dụng sáng tạo những tư tưởng Nho giáo (trong
thời trung đại), đã từng bước kết hợp với các tư tưởng tiến bộ phương Tây (trong
thời hiện đại) để tiếp tục duy trì vị thế trong đời sống văn học. Đặc biệt, trong
văn học hiện đại, văn chính luận đã phát triển phong phú hơn với nhiều hình
thức mới, trên bối cảnh phát triển mạnh mẽ của báo chí và các phương tiện
truyền thông đa dạng khác.
1.1.2. Tính chức năng của văn chính luận

Văn chính luận ln gắn liền với đời sống văn hóa chính trị, xã hội của


đất nước, thời đại. Do đó, người viết phải vận dụng những quy luật, khái niệm,
thuật ngữ của khoa học chính trị và phải xác định được một lập trường chính trị
nhất định. Mặt khác, văn chính luận ln bàn đến những vấn đề thời sự nóng
bỏng, vấn đề cấp thiết của cộng đồng, được nhiều người quan tâm, không chỉ để
phản ánh mà cũng để đưa ra những giải pháp nhằm giải quyết vấn đề một cách
kịp thời. Chính ở đây, người viết phải thể hiện được giác quan nhạy bén của
mình trước thời cuộc và có ý thức tham gia vào giải quyết những vấn đề nóng
do cuộc sống đặt ra.
Khi thuyết minh về khái niệm văn chính luận, Phương Lựu dẫn giải:
“Nhưng khi văn chính luận đã đi vào gia đình các loại văn học, thì cần phải tìm
hiểu các đặc trưng của nó. Có điều ở đây chúng ta sẽ khơng trình bày những đặc

trưng chung của văn nghị luận, bao gồm cả nghị luận văn học, đối tượng của các
khoa phương pháp luận nghiên cứu và phê bình văn học sẽ được tìm hiểu ở dịp
khác. Chúng ta chỉ tìm hiểu đặc trưng của loại văn chính luận, tức là loại văn
nghị luận về những vấn đề chính trị, xã hội mà thơi” [90, tr. 439]. Như vậy, trên
tinh thần chung, có thể nhận ra quan điểm rõ ràng của Phương Lựu về sự thống
nhất và tương đồng giữa hai khái niệm “văn chính luận” và “văn nghị luận”. Rõ
ràng, khái niệm “văn nghị luận” có tương ứng với khái niệm “văn chính luận”
và cùng xác định nội hàm giới hạn ở “những vấn đề chính trị, xã hội”. Như vậy,
về cơ bản, “Văn nghị luận” bao hàm “văn chính luận” và “văn chính luận” chỉ là
một bộ phận thuộc “văn nghị luận”.
Một trong những chức năng quan trọng của văn chính luận là tác động,
thuyết phục người nghe, người đọc. Muốn thực hiện được chức năng đó, người tạo
lập văn bản phải giải thích, thuyết minh một cách có lý lẽ, dựa trên những căn cứ
vững chắc, nghĩa là phải lập luận trên cơ sở của những luận điểm, luận cứ khoa
học, có sự tương hợp giữa luận cứ và kết luận. Nếu thiếu đi những luận điểm khoa
học và phương pháp lập luận khoa học thì văn bản chính luận khó đạt hiệu quả
cao. Đặc điểm của văn chính luận là có tính bình giá cơng khai, khác với văn


nghệ thuật thường thể hiện những bình giá dưới dạng ngầm ẩn, gián tiếp. Thái
độ bình giá trong văn bản chính luận khơng chỉ của riêng tác giả mà thường là
tiếng nói chung của một nhóm người, một tập thể, một tổ chức xã hội, giai cấp.
Tuy văn chính luận khơng xây dựng hình tượng nhưng trong từng tác
phẩm thường có sự kết hợp hài hịa giữa cách diễn đạt bằng lý lẽ và phương
pháp khoa học với cách sử dụng các phương tiện, hình tượng biểu cảm của văn
học như ẩn dụ, so sánh, chơi chữ. Sự kết hợp ấy tạo ra tính chất hùng hồn, sinh
động, có sức hấp dẫn và đạt hiệu quả cao, thực sự thuyết phục người đọc bằng
cả trí tuệ lẫn tình cảm, đạo đức.
Khác với văn chương hình tượng, hư cấu, một trong những đặc điểm thiết
cốt của văn chính luận là phải tác động và thuyết phục được đối tượng tiếp

nhận. Muốn thực hiện được chức năng đó địi hỏi người tạo lập phải đưa ra
được hệ thống lập luận trên cơ sở của những luận điểm, luận cứ khoa học, có sự
tương hợp giữa luận cứ và kết luận. Nếu thiếu đi những luận điểm khoa học và
phương pháp lập luận khoa học thì bài chính luận sẽ thiếu tính thuyết phục.
Về ngơn ngữ nghệ thuật, văn chính luận kết hợp hài hòa giữa lý lẽ với sử
dụng các phương tiện biểu cảm của ngôn ngữ như ẩn dụ, so sánh, chơi chữ.
Chính sự kết hợp ấy tạo ra tính chất hùng hồn, sinh động, sức hấp dẫn và khả
năng thuyết phục đối tượng tiếp nhận cả bằng trí tuệ, tình cảm.
1.1.3. Tính thẩm mỹ đặc thù của văn chính luận

Trong quá khứ, việc nhận diện đặc điểm thể loại và bản chất thẩm mỹ của
văn chính luận diễn ra theo nhiều cách thức, cung bậc, tâm thế tiếp nhận khác
nhau [20]. Dưới thời trung đại, văn chính luận - nghị luận từng được coi là dòng
văn bậc cao (cao quý, cao sang, cao cấp) nhưng đến thời hiện tại thì đặc tính văn
chính luận cũng chuyển hóa, hốn cải cả về nội dung và hình thức để có thể ghi
nhận “đưa văn chính luận vào gia đình văn học” (Phương Lựu). Điều này cũng
có nghĩa rằng văn chính luận, nghị luận trung đại từ địa vị trung tâm, chính
thống chuyển hóa sang những phương thức thể hiện “phi hư cấu” và được đánh
giá, tiếp nhận theo lối mới.


Văn chính luận (cịn được gọi là văn nghị luận, văn hành chính chức năng,
chủ yếu bằng chữ Hán và được xếp vào bộ phận văn chương cung đình, chất
lượng cao, gắn với phạm trù thể loại “cao cả”, chính thống) trong văn học trung
đại Việt Nam xuất hiện dưới nhiều hình thức thể loại: hịch, cáo, chiếu, biểu, tấu,
bi, thư tịch...
Về cơ bản văn chính luận thuộc văn học phi hư cấu, thiên về lập luận,
không phải là sản phẩm sáng tạo của tư duy nghệ thuật hình tượng nhân vật, tư
duy tình cảm thẩm mỹ. Văn chính luận chủ yếu được viết theo tư duy lơgích,
cho nên nội dung của nó khơng phải là những hình tượng, bức tranh sinh động

để truyền cảm đến người đọc. Nó quan tâm đưa ra những lý lẽ thuyết phục, có
khi đanh thép, với lập luận chặt chẽ, luận cứ phù hợp.
Lã Nhâm Thìn trong cơng trình Phân tích tác phẩm văn học trung đại Việt
Nam từ góc nhìn thể loại đã nêu định nghĩa sơ bộ về về các khái niệm chỉ hệ
thống thể loại ấy. Ví dụ: “Hịch là thể văn nghị luận, vốn xưa đó là những bài
diễn thuyết quân sư gọi là Thệ, nghĩa là lời thề trước khi xuất chinh. Từ hịch
xuất hiện lần đầu vào thời Chiến quốc. Hịch còn gọi là lộ bố nghĩa là văn bản để
lộ, không phong, để mọi người đọc và nghe” [175, tr. 143]; “Cáo là thể văn nghị
luận có từ thời cổ ở Trung Quốc, thường được vua chúa hoặc thủ lĩnh dùng để
trình bày một chủ trương hay công bố kết quả một sự nghiệp để mọi người cùng
biết” [175, tr. 152]; “Chiếu còn gọi là chiếu thư, chiếu chỉ, chiếu bản, là lời ban
bố mệnh lệnh của vua chúa xuống thần dân và được đón nhận một cách trang
trọng. Chức năng của chiếu là công bố những chủ trương, đường lối, nhiệm vụ
mà vua, triều đình nêu ra và yêu cầu thần dân thực hiện” [175, tr.169]; “Thư là
một thể loại văn nghị luận cổ, viết cho một đối tượng xác định. Đối tượng tiếp
nhận là các cá nhân hay tập thể và thường là những người có trách nhiệm. Thư
cũng là một thể loại văn học chức năng” [175, tr. 194]. Những định nghĩa trên
thể hiện nhận thức phổ biến của người sáng tác và tiếp nhận văn học về các thể
loại văn chính luận được dùng nhiều trong thời trung đại, thống nhất với cách


hiểu của loại tài liệu mang tính chất giáo khoa về văn học Trung Quốc, văn học
Việt Nam của nhiều thời đại đã qua.
Trên bình diện văn hóa, xã hội Việt Nam thời trung đại, tư tưởng Nho giáo
có ảnh hưởng sâu sắc, toàn diện, lâu dài nhất. Trong sáng tác văn chương nói
chung và văn chính luận nói riêng, giới sáng tác trung đại Việt Nam tiếp nhận tư
tưởng Nho giáo của Trung Quốc khơng thụ động mà có nghiên cứu sâu rộng để
tìm ra những tương hợp giữa Nho giáo Trung Quốc và văn hóa Việt Nam; đi xa
hơn nữa là sự tiếp nhận tư tưởng Nho giáo Trung Quốc để đi đến những sáng tạo
về văn nghị luận, vận dụng xây dựng xã hội và đấu tranh chính trị.

Trên tổng thể, văn chính luận thời hiện đại có đặc tính mới, nhiệm vụ mới
và có hình thức biểu đạt kiểu mới. Nhà nghiên cứu Phương Lựu xác định bản
chất đặc tính thẩm mỹ của văn chính luận: “Riêng khả năng chuyển hóa từ một
văn bản chính luận thành tác phẩm văn học, có thể thấy từ những mặt sau: Trước
hết, xét về cảm hứng của chủ thể được biểu hiện trong bài văn chính luận. Người
viết văn chính luận, dĩ nhiên trước hết là để thơng tin lí lẽ, bàn bạc vấn đề,
nhưng với tất cả nhiệt tình bảo vệ chân lý mà mình theo đuổi. Lí trí, lí luận, lĩ lẽ
ở đây đã đến độ nhuần nhuyễn, chín mùi, gắn bó chặt chẽ hoặc chuyển hóa
thành tình cảm. Và bài văn chính luận, do đó, đã tiếp cận qui luật của nghệ
thuật” [90, tr. 437].
Nhấn mạnh tính thẩm mỹ đặc thù của văn chính luận, Phương Lựu đi sâu lí
giải: “Cuối cùng như vừa là phương tiện, vừa là kết quả của hai mặt trên (tư duy
logic và tư duy hình tượng - NCS thêm), ngơn từ trong văn chính luận nằm trong
phong cách gọt giũa. Nhờ những biện pháp tu từ, chuyển nghĩa, lời văn trong tác
phẩm chính luận, ở một mức độ nhất định cũng rất giàu hình ảnh và sắc thái biểu
cảm, mang những âm hưởng và nhịp điệu, tăng thêm sức mạnh thẩm mỹ cho văn
chính luận”, đồng thời tiếp tục phân tích cơ chế định giá chất lượng nghệ thuật
của văn chính luận, nghị luận: “Trở lên là những khả năng chuyển hóa từ tác
phẩm chính luận sang tác phẩm văn học. Nhưng khả năng với hiện thực là hai


chuyện khác nhau. Có nghĩa là khơng phải bất cứ văn bản chính luận nào cũng
trở thành tác phẩm văn học, thậm chí có thể nói sự chuyển hóa này khi nào cũng
chiếm tỉ lệ rất ít. Điều đó khơng có gì lạ. Bởi vì ngay vơ số những thơ, tiểu thuyết
và kịch bản đâu có phải là văn học đích thực. Đây là vấn đề chất lượng, mà chất
lượng thì bao giờ cũng ít, nhất là trong lĩnh vực nghệ thuật. Những thứ thật sự
muốn trở thành văn học mà cũng khó trở thành văn học thật sự; huống chi văn
chính luận nhằm trước hết thơng tin lí lẽ là chủ yếu” [90, tr.438].
Theo Đinh Trọng Lạc, Nguyễn Thái Hồ: “Ngơn ngữ là những khn mẫu
trong hoạt động lời nói hình thành từ những thói quen sử dụng ngơn ngữ có tính

truyền thống, tính chất chuẩn mực trong việc xây dựng những lớp văn bản tiêu
biểu” [78, tr. 18]. Như vậy, ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp giữa tác giả chính
luận với người nghe, người đọc, ngơn ngữ chính luận có chức năng chủ yếu là
trình bày, bàn luận, giải thích, soi sáng một vấn đề chính trị, văn hố, xã hội.
Chính chức năng đó đã tạo cho ngơn ngữ chính luận có những đặc trưng riêng.
Trực tiếp tìm hiểu tư tưởng thẩm mỹ trong sáng tác Hồ Chí Minh,
Nguyễn Đăng Mạnh xác định tính phổ quát và những đặc trưng liên thể loại, liên
ngành, thi pháp: “Đã coi cái đẹp là sự sống, chất thơ là chất sống đầy tính năng
động, thì người nghệ sĩ tất nhiên không chịu để cho bất cứ một khuôn phép văn
chương cứng nhắc nào ép buộc. Điều đó giải thích một nét độc đáo về thi pháp
của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, trong văn xi cũng như trong thơ, khuynh
hướng phá cách táo bạo về mặt thể loại” [96, tr. 35]. Những đặc trưng thuộc về
nguyên tắc thẩm mỹ đó được biểu hiện ở đặc điểm của các đơn vị ngôn ngữ và
những biện pháp tu từ được sử dụng làm phương tiện diễn đạt trong văn bản
chính luận.
1.2. Cơ sở lý luận của việc nghiên cứu nghệ thuật tuyên truyền trong

văn chính luận Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh
1.2.1. Trách nhiệm xã hội người cầm bút

Văn học và đời sống đương nhiên có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.


Trong cơng trình nghiên cứu Hồ Chí Minh - Anh hùng dân tộc và tầm thời đại
của người, Hà Minh Đức nhấn mạnh trách nhiệm xã hội của người cầm bút
Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh theo hai giai đoạn: Phần thứ nhất - Chặng đường
30 năm sống và hoạt động ở nước ngoài (1911-1941) (bao gồm 6 chương bàn về
việc ra đi tìm đường cứu nước, những ngày trên đất Mỹ, nước Anh và Pháp,
Liên Xô và Trung Quốc); Phần thứ hai - Về nước lãnh đạo cách mạng Việt Nam
(bao gồm 4 chương bàn về vai trò của Người thời kỳ hoạt động chuẩn bị Tổng

khởi nghĩa, thời kỳ đầu sau Cách mạng tháng Tám, thời kỳ kháng chiến chống
Pháp, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất đất nước).
Qua các tác phẩm chính luận của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh chúng ta thấy
rõ mối quan hệ gắn bó khăng khít giữa nhà hoạt động, vị lãnh tụ cách mạng và
từng giai đoạn lịch sử của đất nước, của phong trào cách mạng thế giới.
Trong giai đoạn (1919 - 1923 ở Pari), Người lấy bút

danh

Nguyễn Ái Quốc viết văn chính luận đăng trên các tờ báo: Người cùng khổ (Le
Paria), Nhân đạo (L’humanité), Đời sống thợ thuyền (La vie ouvrière), Thư tín
quốc tế (La correspondace internationale), nhằm lên án thực dân phong kiến,
tuyên truyền đấu tranh chính trị, thể hiện sâu sắc tư tưởng Cách mạng của giai
cấp vô sản, đầy trí tuệ, giàu cảm xúc và hình ảnh. Đặc biệt tác phẩm Bản án chế
độ thực dân Pháp giúp cho người đọc thấy rõ bộ mặt của thực dân Pháp: sự xâm
chiếm đất đai, áp đặt guồng máy thống trị tàn bạo, khai thác vơ vét nguyên liệu,
bóc lột nhân cơng, đày đọa, kìm hãm người dân bản xứ trong vịng nơ lệ với
chính sách ngu dân. Những bài văn chính luận được tập trung lên án, tố cáo
mạnh mẽ, sâu sắc bản chất giai cấp thống trị, từ vấn đề chính quyền đến giáo
hội, từ tội đàn áp tàn bạo đến trị bóc lột tham nhũng của chủ nghĩa thực dân
Pháp.
Tác phẩm chính luận của Hồ Chí Minh đã thể hiện sâu sắc trí tuệ và vốn
tri thức của Người. Bác còn am hiểu sâu sắc nhiều lĩnh vực triết học, kinh tế,
văn học, sử học và đã vận dụng rất sáng tạo vào tác phẩm của mình.
Cũng như nhiều nhà yêu nước và cách mạng khác, Hồ Chí Minh ln


bộc lộ quan điểm và xác định rõ tư cách tồn tại của người cầm bút. Người
nhấn mạnh trở đi trở lại mục đích của việc cầm bút, lấy ngịi bút làm vũ khí
đấu tranh, vừa để vạch mặt tố cáo chế độ phong kiến, thực dân, kẻ xâm lược,

vừa truyên truyền, giác ngộ quần chúng, động viên toàn dân dốc sức lao động
kiến thiết cuộc sống mới và hăng hái chiến đấu giải phóng miền Nam, thống
nhất đất nước.
Các nhà nghiên cứu ngày càng chú trọng khai thác, vận dụng phương
pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp hệ thống và nghiên cứu liên ngành trong
việc tìm hiểu ngơn ngữ của văn chính luận Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh. Có
thể nói, ý thức về tình huống giao tiếp, đối tượng giao tiếp chính là cơ sở quan
trọng của việc lựa chọn, sử dụng ngơn ngữ trong văn chính luận
Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh. Vì thế, những bài nói, bài viết của Người có
hiệu quả tác động thiết thực, mạnh mẽ. Về vấn đề này, Huy Cận tổng kết:
“Trong cuộc đấu tranh vô cùng anh dũng của nhân dân Việt Nam ta, những lời
kêu gọi của Hồ Chủ Tịch đã có một tác dụng to lớn. Mỗi lời kêu gọi, mỗi bức
điện, bức thư của Người đều là tiếng nói của Đảng, của chính phủ, cũng là ý chí
của nhân dân kiên quyết đấu tranh cho đến thắng lợi hoàn toàn” [13, tr. 8].
1.2.2. Mối quan hệ giữa nghệ thuật và tuyên truyền

Vấn đề mối quan hệ giữa nghệ thuật và tun truyền trong văn chính luận
có thể được bàn từ nhiều góc độ khác nhau. Phương Lựu rất chú ý nhấn mạnh
mối quan hệ và khả năng chuyển hóa từ “văn bản chính luận” thuần túy đến
“văn chính luận”, “bài văn chính luận”: “Riêng khả năng chuyển hóa từ một văn
bản chính luận thành tác phẩm văn học, có thể thấy từ những mặt sau: Trước
hết, xét về mặt cảm hứng của chủ thể được biểu hiện trong bài văn chính luận.
Người viết văn chính luận, dĩ nhiên là để thông tin lý lẽ, bàn bạc vấn đề, nhưng
với tất cả nhiệt tình bảo vệ chân lý mà mình theo đuổi. Lý trí, lý luận, lý lẽ ở đây
đã đến độ nhuần nhuyễn, chín mùi, gắn bó chặt chẽ hoặc chuyển hóa thành tình
cảm” [90, tr. 437].


Với cả tư cách tác giả và vị thế người chỉ đạo văn nghệ, Hồ Chí Minh
thường xuyên xác định và yêu cầu tác phẩm (cả văn chương hư cấu và chính

luận tuyên truyền) đều phải đảm bảo 100% về nội dung và 100% về nghệ thuật,
nghĩa là không thiên vị bên nào, tất cả đều phải hướng đến tác phẩm đạt chất
lượng cao. Không những thế, Người nhiều lần nêu bài học kinh nghiệm của bản
thân trong việc trau dồi cách viết và phê phán lối viết cầu kỳ, lan man “dây cà
dây muống”.
Ngầm chứa trong nội dung sáng tác của mọi tác phẩm văn học bao giờ cũng
là đặc tính tuyên truyền theo các nghĩa rộng hẹp khác nhau, bao quát khả năng
cung cấp nhận thức, ý nghĩa giáo dục, bồi dưỡng tính thẩm mỹ cũng như khả năng
thoả mãn thế giới tinh thần rộng lớn. Nói khác đi, “tuyên truyền” chính là một
phẩm tính tự nhiên của sáng tác mà chủ thể ý thức nhiều hay ít, thiên về luận đề
“Sile hố” hay vươn tới tính hình tượng nghệ thuật chân thực “Shakespeare hoá”.
Xét trong bản chất, kể từ các tác phẩm văn học dân gian đến văn chương
bác học truyền thống và hiện đại, đặc tính “tuyên truyền” vốn là một phẩm tính
tự nhiên của sáng tác. Người cầm bút viết văn dường như đều muốn chia sẻ,
“tun truyền” những điều gì đó. Trong di sản trước tác của Hồ Chí Minh, văn
chính luận chiếm số lượng lớn và giữ vai trò quan trọng, tác động mạnh mẽ đến
vận mệnh dân tộc, nhân dân, phản ánh sinh động các bước đi của lịch sử cách
mạng và đặc biệt thể hiện rõ chân dung của một nhà yêu nước, nhà cách mạng
và nhà văn hóa lỗi lạc.
Như đã nêu trên, loại hình văn học cách mạng ln xem tuyên truyền là
một nhiệm vụ căn cốt. Những người cách mạng không ngại ngần tuyên bố về
nhiệm vụ, mục đích tuyên truyền của văn học, gắn văn học với nhiệm vụ chính
trị, coi văn học là một thứ vũ khí sắc bén. Hệ thống văn học xã hội chủ nghĩa,
văn học của giai cấp cần lao vô sản thường xuyên đề cao tính tuyên truyền, vận
động, tranh đấu và được thể hiện sâu sắc trong các văn kiện, nghị quyết, chỉ thị
liên quan đến tổ chức bộ máy văn học, nghệ thuật. Trong kháng chiến chống
Pháp, hướng đến việc xây dựng một nền văn nghệ mới, đã từng xảy ra cuộc


tranh luận về mối quan hệ giữa nghệ thuật và tuyên truyền. Có nhà văn dị ứng

với khái niệm tuyên truyền, cho rằng nghệ thuật cứ hãy là nghệ thuật thì sức
mạnh tuyên truyền sẽ tự đạt được. Nhưng cũng đã có những phân tích cho thấy
nếu khơng thật sự quan tâm đến hai chữ “tuyên truyền”, tác phẩm nghệ thuật
khó mà đáp ứng được những yêu cầu cụ thể trước mắt của một nền văn học
hướng về đại chúng, động viên, cổ vũ quần chúng tham gia kháng chiến. Dù sao,
khái niệm tuyên truyền cũng thể hiện hiện một định hướng riêng của các sáng
tác văn nghệ phục vụ cách mạng.
Trong quan niệm của các nhà lãnh đạo chủ trương xây dựng một nền văn
nghệ mới, mọi sáng tác nghệ thuật (trong đó có văn học) đều khơng được bỏ rơi
nhiệm vụ tuyên truyền. Nhưng đối với những sáng tác vốn lấy tuyên truyền làm
mục đích, yêu cầu về phẩm chất nghệ thuật được đặt ra như thế nào? Như trên
đã nói, chính Hồ Chí Minh, bằng cả việc chỉ đạo chung đối với hoạt động sáng
tác và việc tự thực hành, đã nêu những đòi hỏi rất cao về phẩm chất nghệ thuật
đổi với loại văn tuyên truyền. Như vậy, ở đây cần phân biệt phẩm tính nghệ
thuật của những sáng tác nghệ thuật đích thực và phẩm tính nghệ thuật của
những sáng tác tuyên truyền. Bản chất sáng tác khác nhau nên địi hỏi về phẩm
tính nghệ thuật cũng khác nhau. Một bên xem nghệ thuật là mục đích tự thân,
một bên xem nghệ thuật là phương tiện chuyên chở nội dung.
1.2.3. Sự thống nhất giữa phẩm chất nhà cách mạng và phẩm chất

người nghệ sĩ ở Hồ Chí Minh
Hồ Chí Minh được nhìn nhận khơng chỉ là một nhân vật lịch sử kiệt xuất
mà còn là một nghệ sĩ lớn với những tác phẩm đa dạng, đích thực thuộc phạm
trù sáng tạo nghệ thuật. Những truyện kí được viết thời cịn hoạt động cách
mạng ở Pháp những năm 20 của thế kỷ XX, Nhật kí trong tù được viết thời chịu
cảnh tù đày trong nhà giam của Tưởng Giới Thạch những năm 1942 - 1943, một
số bài thơ mang cảm hứng tự biểu hiện ra đời thời kháng chiến chống Pháp,... là
những minh chứng rõ nét.
Theo Nguyễn Đăng Mạnh trong chuyên luận Quan điểm và phương pháp
nghiên cứu văn thơ Hồ Chí Minh, cần phải phân biệt được hai bộ phận khác



×