Tải bản đầy đủ (.pdf) (176 trang)

Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại – nhìn từ góc độ thể loại.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.85 MB, 176 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI
---------- *** ----------

NGUYỄN THỊ MINH PHƢỢNG

TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ VIỆT NAM ĐƢƠNG ĐẠI NHÌN TỪ GĨC ĐỘ THỂ LOẠI

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

HÀ NỘI – 2022


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI
---------- *** ----------

NGUYỄN THỊ MINH PHƢỢNG

TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ VIỆT NAM ĐƢƠNG ĐẠI
NHÌN TỪ GĨC ĐỘ THỂ LOẠI
Chun ngành: Lý luận văn học
Mã số: 9.22.01.20

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. NGUYỄN VĂN DÂN

HÀ NỘI – 2022



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan bản luận án này là cơng trình nghiên cứu khoa học của riêng
tơi. Kết quả nghiên cứu này đảm bảo tính chính xác và tính khoa học cao, chưa
được cơng bố ở đâu dưới bất kì hình thức nào. Các tài liệu tham khảo đều được chú
thích nguồn dẫn rõ ràng, trung thực. Tơi xin hồn tồn chịu trách nhiệm về cơng
trình nghiên cứu này của tôi.
Tác giả

Nguyễn Thị Minh Phƣợng


LỜI CẢM ƠN
Trước hết, em xin trân trọng cảm ơn sâu sắc PGS.TS Nguyễn Văn Dân đã tận
tâm, nhiệt tình, chân thành, luôn giúp em về mặt tài liệu, gợi mở, chỉnh sửa luận án,
chia sẻ quan điểm, giúp em có thêm nhiều kiến thức lý luận và phương pháp nghiên
cứu khoa học. Thầy nghiêm khắc, luôn đôn đốc, nhắc nhở, thúc giục, động viên,
khích lệ em trong suốt quá trình học các chun đề và hồn thành luận án.
Em xin trân trọng cảm ơn tất cả các thầy, cô trong Tổ Lí luận văn học, Khoa
Ngữ văn và các phòng ban của Trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã tạo điều kiện
thuận lợi nhất cho em về mọi mặt vật chất và tinh thần để hoàn thành luận án và
nhiệm vụ học tập được giao. Em xin trân trọng cảm ơn sự giúp đỡ của Trường
THPT Cảm Nhân, Sở Giáo dục và Đào tạo Yên Bái, lãnh đạo tỉnh Yên Bái, một số
cơ quan ở Hà Nội và gia đình.
Hà Nội, tháng 1 năm 2021
Tác giả
Nguyễn Thị Minh Phƣợng


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU.............................................................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................................. 1
2. Đối tượng, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu .............................................................. 2
3. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................................ 3
4. Đóng góp của luận án ..................................................................................................... 4
5. Cấu trúc của luận án ....................................................................................................... 4
NỘI DUNG ......................................................................................................................... 5
Chƣơng 1. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU ................................................. 5
1.1. Các cơng trình nghiên cứu về tiểu thuyết lịch sử Việt Nam................................... 5
1.2. Các quan niệm về đặc trưng thể loại ....................................................................... 14
1.2.1. Quan niệm về kết hợp hài hòa giữa lịch sử và hư cấu nghệ thuật .................... 15
1.2.2. Quan niệm đề cao yếu tố “hư cấu” như là đặc trưng của tiểu thuyết lịch sử...17
1.2.3. Quan niệm coi trọng yếu tố “lịch sử” hơn “hư cấu”. ......................................... 19
1.3. Quan niệm của luận án về tiểu thuyết lịch sử và các xu hướng tiểu thuyết lịch
sử Việt Nam đương đại. .................................................................................................... 21
1.3.1. Quan niệm của luận án về tiểu thuyết lịch sử và cơ sở lý thuyết để nghiên cứu đề
tài..........................................................................................................................................21
1.3.2. Quan niệm về các xu hướng tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại.......................24

Tiểu kết chương 1 .............................................................................................................. 31
Chƣơng 2. XU HƢỚNG TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ BÁM SÁT SỬ LIỆU ....... 32
2.1. Khái quát xu hướng tiểu thuyết lịch sử bám sát sử liệu.....................................32
2.2. Một số đặc điểm nội dung của xu hướng tiểu thuyết lịch sử bám sát sử
liệu.............................................................................................................................34
2.2.1. Nguyên lí chính nghĩa trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ........... 34
2.2.2. Xây dựng hình tượng con người mang khát vọng lịch sử theo nguyên mẫu .. 39
2.2.3. Chuyện thế sự đời tư với hình tượng con người trần thế ................................... 44
2.3. Một số đặc sắc nghệ thuật cơ bản của xu hướng tiểu thuyết lịch sử bám sát sử
liệu ....................................................................................................................................... 48
2.3.1. Đổi mới cấu trúc tiểu thuyết lịch sử chương hồi ............................................. 48

2.3.2. Kỹ thuật đa điểm nhìn ..................................................................................... 52
2.3.3. Kết cấu cốt truyện ghép mảnh .............................................................................. 59
2.3.4. Ngôn ngữ đa phong cách ....................................................................................... 63
2.3.5. Cấu trúc các lớp không gian tạo khung cốt truyện ............................................. 65


Tiểu kết chương 2 .............................................................................................................. 69
Chƣơng 3. XU HƢỚNG TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ DỤ NGƠN HĨA SỬ LIỆU70
3.1. Khái qt về xu hướng tiểu thuyết lịch sử dụ ngơn hóa sử liệu ........................... 70
3.2. Nội dung giáo huấn thực tiễn mang ý nghĩa thời sự ............................................. 73
3.2.1. Giáo huấn về lịng u nước.................................................................................. 73
3.2.2. Giáo huấn về chính trị - tơn giáo .......................................................................... 81
3.2.3. Giáo huấn về đại đồn kết dân tộc........................................................................ 86
3.2.4. Giáo huấn về chủ nghĩa nhân đạo ......................................................................... 91
3.3. Các hình thức nghệ thuật nổi bật của tiểu thuyết lịch sử dụ ngơn hóa sử liệu... 96
3.3.1. Đan xen người kể chuyện toàn tri và hạn tri ....................................................... 96
3.3.2. Ngơn ngữ chính luận .............................................................................................. 99
3.3.3. Thời gian tuyến tính biên niên sử .......................................................................102
3.3.4. Hư cấu các lớp thời gian đa chiều ......................................................................105
Tiểu kết chương 3 ............................................................................................................110
Chƣơng 4. XU HƢỚNG TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ ĐỐI THOẠI VỚI SỬ
LIỆU .................................................................................................................................111
4.1. Khái lược về xu hướng tiểu thuyết lịch sử đối thoại với sử liệu ...................... 112
4.2. Nội dung luận giải cụ thể trên tinh thần đối thoại ...............................................115
4.2.1. Đối thoại về các vấn đề tâm linh ........................................................................115
4.2.2. Đối thoại về lịch sử đổi mới và thống nhất đất nước .......................................120
4.2.3. Đối thoại về bản thể con người ...........................................................................126
4.2.4. Đối thoại về lịch sử kết đọng trong chiều sâu số phận con người ................ 127
4.3. Một số phương diện nghệ thuật đối thoại ........................................................ 130
4.3.1. Đối thoại giải thiêng thần tượng là nhân vật có thật qua những góc khuất lịch

sử .......................................................................................................................................130
4.3.2. Hư cấu, dự phóng về “lịch sử mới” qua nhân vật hư cấu hồn tồn. .............138
4.3.3. Ngơn ngữ biện giải ...............................................................................................143
Tiểu kết chương 4 ............................................................................................................147
KẾT LUẬN .....................................................................................................................148
NHỮNG CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ
TÀI LUẬN ÁN ĐÃ ĐƢỢC CÔNG BỐ ....................................................................151
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................152
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
TTLS: Tiểu thuyết lịch sử


1

MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1.1. Trong văn học Việt Nam hiện đại, tiểu thuyết là một thể loại tiêu biểu, nó đã trở thành lực
lượng nịng cốt cho sự phát triển của văn học, có khả năng bao quát rộng lớn và thâu tóm mọi thể
loại văn học khác. Tiểu thuyết lịch sử (TTLS) cũng vậy, nó là một nhánh nổi bật của tiểu thuyết Việt
Nam, là thể loại văn học viết về lịch sử, có khả năng bao quát và thâu tóm mọi thể loại văn học khác
cùng viết về lịch sử (như truyện ngắn lịch sử, kịch lịch sử, truyện thơ lịch sử, diễn ca lịch sử). Thể
loại “vừa cũ lại vừa mới”, ln có sự biến đổi, “tái sinh và đổi mới” trong quá trình hình thành các
tác phẩm qua các thời kỳ. Điểm nổi bật của thể loại là sự tổ chức nội dung và hình thức nghệ thuật
của tác phẩm thành hình thức chỉnh thể của hệ thống các phương thức tổ chức ổn định, bền vững, có
tính “quy luật nhất định” trong cấu trúc tác phẩm. Mỗi thể loại đều có những qui luật chi phối, quy
định các lớp cấu trúc đặc thù theo nguyên tắc thể loại riêng, đặc biệt là trong TTLS, qui luật khách
quan của “lịch sử” sẽ quy định, chi phối yếu tố “hư cấu” trong việc tổ chức các lớp cấu trúc thể loại
như miêu tả nhân vật, sự kiện, cốt truyện, tổ chức không- thời gian, chọn người kể chuyện và ngôi
kể, tổ chức các lớp ngôn ngữ... theo nguyên tắc thể loại.
1.2. Từ sau ngày Đổi Mới, chúng ta đã thấy xuất hiện nhiều tác phẩm TTLS có giá trị được nhận

giải thưởng, đáp ứng được yêu cầu của chức năng giáo dục lịch sử và chức năng thẩm mỹ của văn
học. TTLS hấp dẫn các nhà sáng tác, kể cả các tác giả trẻ. Song, do tính đặc thù của thể loại, TTLS
cũng là nơi gây ra nhiều cuộc tranh luận về vai trò và giới hạn của hai yếu tố lịch sử và hư cấu trong
các lớp cấu trúc thể loại. Các nhà nghiên cứu đã dành sự quan tâm cho việc tìm hiểu và đánh giá về
TTLS, đã có nhiều cơng trình khoa học nghiên cứu về thể loại văn học này. Có thể nói, sự sống
động, phức tạp của thể loại văn học này địi hỏi phải tiếp tục có những cơng trình khoa học khác
nghiên cứu về nó, nhằm khẳng định những giá trị, thành tựu, cũng như nhận ra những đặc điểm cấu
trúc, nguyên tắc thể loại, giới hạn của yếu tố “hư cấu” và “lịch sử”. Những công trình nghiên cứu
trước đó chỉ đi vào một khía cạnh nào đó của TTLS, chưa có sự khái quát sâu rộng, vấn đề lý thuyết
thể loại vẫn còn nhiều điểm trống thiếu hụt, nhiều vấn đề nội dung và nghệ thuật của TTLS được đặt
ra, nhưng chúng chưa được giải quyết thỏa đáng. Trong tình hình đó, việc làm rõ đặc trưng, ý nghĩa
và vai trò của TTLS Việt Nam trong hệ thống thể loại văn học của giai đoạn đương đại sẽ là một
việc làm cần thiết để khẳng định tư cách thể loại của một loại hình tiểu thuyết quan trọng là TTLS.
Để làm rõ giá trị, ý nghĩa, đặc điểm của các lớp cấu trúc thể loại, sự cách tân thể loại về nội dung và
nghệ thuật của các xu hướng TTLS Việt Nam đương đại trong hệ thống thể loại văn học, chúng tôi
chọn đề tài “Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại – nhìn từ góc độ thể loại” với hy vọng góp
phần tìm hiểu thấu đáo một thể loại quan trọng trong văn học Việt Nam hiện đại.
1.3. Việc tiếp nhận thể loại còn nhiều bất cập và chưa thống nhất, lý thuyết thể loại dùng để
nghiên cứu, tiếp nhận thể loại TTLS chưa có tính khái qt và chưa có hệ thống, còn nhiều vấn đề
thiếu hụt. Đề tài trên khái quát vấn đề lý thuyết thể loại còn thiếu hụt, theo sát sự ra đời của các tác
phẩm và thực tiễn sáng tác của các nhà văn. Với đề tài này, chúng tơi mang đến góc tiếp cận mới,
góp phần lấp đầy những khoảng trống lý thuyết của các cơng trình đi trước, mang đến một công cụ
lý thuyết để vận dụng trong việc nghiên cứu khoa học của sinh viên, việc giảng dạy lý luận văn học,
tiếp cận vấn đề thể loại.


2

2. ĐỐI TƢỢNG, NHIỆM VỤ VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tƣợng nghiên cứu

Đề tài của chúng tôi nghiên cứu một số vấn đề lý luận cơ bản về thể loại, chỉ ra sự cách
tân và những đặc trưng trong các lớp cấu trúc thể loại của TTLS Việt Nam đương đại biểu
hiện qua ba xu hướng: TTLS bám sát sử liệu, TTLS dụ ngơn hóa sử liệu và TTLS đối thoại
với sử liệu với các tác phẩm TTLS tiêu biểu từ 1986 đến nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Chúng tôi khái quát lý thuyết thể loại, chỉ ra các xu hướng phát triển và các đặc điểm
riêng của từng xu hướng TTLS Việt Nam đương đại qua việc tìm hiểu nội dung và nghệ
thuật của các tác phẩm cụ thể tiểu biểu của từng xu hướng. Từ đó, chúng tơi làm sáng tỏ
các yếu tố cấu thành các lớp cấu trúc thể loại thể hiện qua từng xu hướng, chỉ ra điểm mới
của mỗi xu hướng, góp một tầm nhìn sâu rộng về sự phát triển của thể loại văn học này từ
năm 1986 đến nay. Trong quá trình viết đề tài“Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại –
nhìn từ góc độ thể loại”, chúng tơi sẽ tiếp thu có chọn lọc và vận dụng hệ thống lý thuyết
của lý luận văn học để làm rõ các vấn đề nói trên qua việc khảo cứu một số tác phẩm TTLS
Việt Nam đương đại (từ năm 1986 đến nay) về nội dung và nghệ thuật.
2.3. Phạm vi nghiên cứu
Về mặt phạm vi thời gian, chúng tôi quan niệm thuật ngữ “đương đại” là giai đoạn kể
từ ngày Đổi Mới (từ năm 1986) đến nay. Và khi đặt vấn đề nghiên cứu “Tiểu thuyết lịch
sử Việt Nam đương đại – nhìn từ góc độ thể loại”, chúng tơi tập trung phân tích nội dung
và nghệ thuật của các tác phẩm trong ba xu hướng của giai đoạn từ ngày Đổi mới
(năm1986) đến nay, để khẳng định ý nghĩa, vai trò của TTLS trong nền văn học nước nhà.
Về mặt phạm vi khảo sát, chúng tơi sẽ tập trung phân tích một số cuốn tiểu thuyết tiêu
biểu cho một số xu hướng tìm tịi đổi mới về mặt nghệ thuật. Cụ thể là chúng tơi sẽ phân
tích bộ tiểu thuyết “Tây Sơn bi hùng truyện” của Lê Đình Danh, tiểu thuyết “Sơng Côn
mùa lũ” của Nguyễn Mộng Giác, Phùng Vương của Phùng Văn Khai, “Mười hai sứ quân”
của Vũ Ngọc Đĩnh, “Thông reo Ngàn Hống” của Nguyễn Thế Quang, bộ bốn tiểu thuyết
“Bão táp triều Trần” và bộ sáu tiểu thuyết “Tám triều vua Lý” của Hồng Quốc Hải,
“Khơng phải huyền thoại” của Hữu Mai, ba tác phẩm “Hồ Quý Ly”, “Mẫu Thượng


3


Ngàn”, “Đội gạo lên chùa” của Nguyễn Xuân Khánh, “Hội thề” của Nguyễn Quang Thân,
“ iàn thiêu” của Võ Thị Hảo, “ ió Lửa” của Nam Dao, “Đàn đáy” của Trần Thu Hằng.
Trong các tác giả này, Lê Đình Danh, Nguyễn Mộng Giác, Phùng Văn Khai, Vũ Ngọc
Đĩnh, Nguyễn Thế Quang đại diện cho xu hướng TTLS bám sát sử liệu; Hoàng Quốc Hải,
Hữu Mai đại diện cho xu hướng TTLS dụ ngơn hóa sử liệu; cịn Nguyễn Xn Khánh,
Nguyễn Quang Thân, Võ Thị Hảo, Nam Dao, Trần Thu Hằng đại diện cho xu hướng đối
thoại với sử liệu. Tất nhiên, trong khi lấy các bộ tiểu thuyết trên đây làm đối tượng phân
tích, chúng tơi vẫn có thể so sánh và liên hệ với các cuốn TTLS khác để làm rõ thêm vấn đề
cần giải quyết.
3. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đây là đề tài khảo sát và nghiên cứu TTLS trong giai đoạn từ 1986 đến nay, đi sâu vào
một số tác phẩm lớn, tiêu biểu, để minh chứng vị trí quan trọng, sự đổi mới trong các lớp
cấu trúc thể loại của ba xu hướng TTLS Việt Nam đương đại trong nền văn học nước nhà.
Để đạt được mục đích này, ngồi phương pháp thuộc cấp phương pháp luận khoa học
chung như phương pháp liên ngành dùng để đối sánh với sử liệu, tơi cịn sử dụng các
phương pháp đặc thù chủ yếu sau đây:
Phương pháp hệ thống - loại hình được dùng để hệ thống hố các vấn đề đặc trưng thể
loại, phân loại các xu hướng của TTLS trong giai đoạn từ 1986 đến nay và khái quát hệ
thống tác phẩm theo trình tự thời gian. Từ đó, chúng tơi đánh giá những đóng góp của ba
xu hướng TTLS về mặt nội dung, nghệ thuật và phương pháp sáng tác của mỗi nhà văn
trong việc xử lý yếu tố “lịch sử” và “hư cấu” theo nguyên tắc thể loại.
Phương pháp so sánh- đối chiếu được dùng để nghiên cứu các đối tượng trong mối
tương quan so sánh nhằm xác định các nguyên tắc thể loại ở ba xu hướng TTLS, để thấy
được ý nghĩa đổi mới của thể loại TTLS. Ngồi ra, chúng tơi cịn dùng thao tác phân tích,
tổng hợp, thống kê, khái quát hệ thống- cấu trúc của các vấn đề ở các cấp độ khác nhau để
mổ xẻ các lớp cấu trúc nội dung và hình thức của các tác phẩm ở ba xu hướng TTLS, khái
quát các vấn đề lý thuyết thể loại trong các tiểu mục, thống kê các tác phẩm TTLS Việt
Nam đương đại, chốt lại vấn đề nghiên cứu...
Phương pháp thi pháp học được dùng để nghiên cứu những đặc trưng nghệ thuật của

ba xu hướng nói trên.


4

4. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN ÁN
Với đề tài “Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại – nhìn từ góc độ thể loại”, chúng
tơi hy vọng sẽ có được những đóng góp nhỏ như sau:
Qua việc xác định bản chất đặc trưng của ba xu hướng TTLS Việt Nam đương đại,
luận án sẽ đóng góp những luận điểm, luận cứ khoa học và một cái nhìn sâu rộng về sự đa
dạng, sự đổi mới trong các lớp cấu trúc thể loại của ba xu hướng TTLS Việt Nam đương
đại. Đó cũng là ý nghĩa lý luận của đề tài.
Luận án đóng góp phần nào cho cơng việc tổng kết sự phát triển của tiểu thuyết Việt
Nam đương đại và vạch ra một số khía cạnh lý thuyết thể loại đóng góp vào sự phát triển
của ngành Lý luận văn học nước nhà.
Những kết quả thu được của luận án sẽ là công cụ hữu dụng để sinh viên vận dụng
trong nghiên cứu khoa học về thể loại văn học này. Những kết quả thu được của luận án sẽ
có ý nghĩa quan trọng với việc giảng dạy lý luận văn học về các vấn đề lý thuyết thể loại,
đặc biệt là việc giảng dạy TTLS trong các trường phổ thông và đại học.
Đề tài của luận án này cịn có ý nghĩa văn học sử. Luận án đề cập đến nhiều nội dung
có ý nghĩa thời sự, có vai trị thúc đẩy sự tiến bộ xã hội và giúp hoàn thiện đạo đức, nhân
cách của học sinh, sinh viên.
5. CẤU TRÚC CỦA LUẬN ÁN
Ngồi ba mục Những cơng trình khoa học của tác giả liên quan đến đề tài luận án đã
công bố, mục Tài liệu tham khảo, Danh mục từ viết tắt, cấu trúc của luận án gồm ba phần:
Mở đầu, Nội dung và Kết luận, trong đó Nội dung của luận án gồm có 4 chương:
Chương 1: Tổng quan vấn đề nghiên cứu.
Chương 2: Xu hướng tiểu thuyết lịch sử bám sát sử liệu.
Chương 3: Xu hướng tiểu thuyết lịch sử dụ ngơn hóa sử liệu.
Chương 4: Xu hướng tiểu thuyết lịch sử đối thoại với sử liệu.



5

NỘI DUNG
Chƣơng 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1.
Các cơng trình nghiên cứu về tiểu thuyết lịch sử Việt Nam
Hiện tại, chúng tơi thấy chỉ có một bài báo của tác giả Nguyễn Văn Dân phân chia
thành ba xu hướng là: “TTLS chương hồi khách quan”; “TTLS giáo huấn”; “TTLS luận
giải” [71]. Nhưng bài báo này chưa đi sâu vào đặc điểm của các lớp cấu trúc thể loại của
từng xu hướng phát triển của TTLS, có ý nghĩa gợi ý cho luận án này. Mỗi khi có tác phẩm
TTLS mới được xuất bản, giới thiệu trước cơng chúng, thì các nhà khoa học cũng có các
bài viết, nghiên cứu về một phương diện nào đó của một tác phẩm cụ thể và đăng rải rác
trên các báo, tạp chí.
Trong thời kỳ trước Đổi Mới, chúng ta thấy có một số bài viết của các nhà nghiên cứu
đăng rải rác trên các tạp chí như trong bài “Mấy ý kiến về tiểu thuyết lịch sử nhân đọc cuốn
Quận He khởi nghĩa” (Triêu Dương, Tạp chí Văn học số 8, năm 1964), Triêu Dương đã
đưa ra một số ý kiến về mặt lí luận về thể loại, đã bước đầu bàn qua một vài đặc điểm,
phương thức sáng tạo của TTLS như: chủ đề, nhân vật, phương thức phục hiện sự kiện lịch
sử... qua việc đọc một tác phẩm cụ thể là Quận He khởi nghĩa. Nhưng tác giả cũng chưa đi
sâu vào phân tích các vấn đề nêu trên, cách lý luận về thể loại cũng chưa sáng rõ. Bài viết
mang tính chất nêu cảm nhận về một tác phẩm cụ thể, chưa khái quát các vấn đề lý thuyết
thể loại.
Trong bài “Đọc Tổ quốc kêu gọi suy nghĩ về vấn đề khám phá và sáng tạo trong tiểu
thuyết lịch sử” (Đồn Thị Hương, Tạp chí Văn học số 4, năm1974), tác giả đã bước đầu
quan tâm đến mối quan hệ giữa “lịch sử” và “hư cấu” trong TTLS. Bà đề cập đến “sự kết
hợp giữa tinh thần nghiên cứu lịch sử nghiêm túc với sự sáng tạo nghệ thuật tương đối linh
hoạt, việc vận dụng sử liệu một cách chủ động” của nhà văn trong tác phẩm [214; 4].

Trong bài “Vài ý kiến về sự thực lịch sử và hư cấu nghệ thuật trong truyện lịch sử phục
vụ các em” (Hà Ân, Tạp chí Văn học số 3, năm 1979), tác giả nhấn mạnh việc nhà văn
nghiên cứu nguồn sử liệu để gửi gắm những dụng ý nghệ thuật riêng của mình. Hà Ân cho
rằng nhà văn phải có những “kiến giải riêng” về các yếu tố “lịch sử” được đưa vào trong
tác phẩm, từ đó truyền đến người đọc các bài học hay triết lý sống. Ông cho rằng nhà văn
không nhất thiết phải kể lể “đầy đủ bối cảnh lịch sử”. Hà Ân cũng đề cập đến vấn đề “hiện
thực lịch sử” và quan tâm đến cá tính sáng tạo của nghệ sĩ thể hiện ở việc suy ngẫm, luận
giải các vấn đề lịch sử. Bước đầu, Hà Ân đã chạm đến sự đối thoại với lịch sử, nhưng tác
giả cũng chưa đi sâu, chưa làm sáng tỏ sự đối thoại ấy. Đây là khoảng trống mà chương 4
trong luận án của tơi sẽ đi sâu phân tích.
Trong bài “Ngòi bút tái hiện lịch sử của Hà Ân trong tiểu thuyết Người Thăng Long”
(Nguyễn Phương Chi, Tạp chí Văn học số 2, năm 1983), tác giả chỉ ra những thành công và


6

hạn chế của một tác phẩm cụ thể. Nguyễn Phương Chi cho rằng nhà văn đã phục hiện lại
được diện mạo và chỉ ra được quy luật vận động lịch sử, miêu tả tính cách, đời sống, vận
mệnh của các nhân vật lịch sử một cách chân thực, sống động như nhân vật của tiểu thuyết.
Qua việc tìm hiểu tác phẩm “Người Thăng Long”, chúng tôi thấy Nguyễn Phương Chi
cũng dần quan tâm đến mối quan hệ giữa “sự thực lịch sử và hư cấu sáng tạo” trong TTLS.
Tác giả khẳng định rằng nhà văn sẽ thành công nếu biết quan tâm đến tính chất tiểu thuyết
trong phạm vi nguyên tắc thể loại TTLS. Đây là bài viết về một tác phẩm cụ thể trước giai
đoạn 1986, chưa khái quát và chỉ ra xu hướng phát triển của TTLS.
Sau thời kỳ Đổi Mới (từ 1986 đến nay), chỉ có một số bài viết và một vài cuốn sách
chuyên luận bàn về một tác phẩm TTLS cụ thể hay một khía cạnh nào đó của thể loại, đại
đa số các sách lý luận văn học còn bỏ ngỏ về lý thuyết thể loại TTLS, có 5 luận án tiến sĩ
về TTLS hoặc mơ hình truyện lịch sử. Nếu sắp xếp theo trình tự thời gian, chúng ta có các
cơng trình cụ thể sau đây:
Ở Việt Nam, khái niệm “tiểu thuyết lịch sử” được sử dụng phổ biến, nhưng ở một số

cuốn sách, khái niệm này không tồn tại với tư cách là một mục từ độc lập. Chẳng hạn như
trong cuốn “Từ điển thuật ngữ văn học” (1992), các nhà khoa học không xếp “tiểu thuyết
lịch sử” thành mục riêng mà gộp chung vào một mục là “thể loại văn học lịch sử” với quan
niệm: “Các tác phẩm lịch sử biên niên kể về các biến cố lịch sử qua các thời đại, tái hiện
các nhân vật lịch sử, các cuộc chiến tranh, các hoạt động bang giao” và cho rằng “tiểu
thuyết lịch sử” thuộc nhánh nhỏ của “thể loại văn học lịch sử”: “Thể loại văn học lịch sử
còn bao gồm các tác phẩm văn học nghệ thuật, sáng tác về các đề tài và nhân vật lịch sử
như tiểu thuyết lịch sử”. Các tác giả cũng bước đầu nêu lên một vài đặc điểm của TTLS:
“Các tác phẩm viết về đề tài lịch sử này có chứa đựng các nhân vật và các chi tiết hư cấu,
tuy nhiên nhân vật chính và sự kiện chính thì được sáng tạo trên các sử liệu xác thực trong
lịch sử, tôn trọng lời ăn tiếng nói, trang phục, phong tục, tập quán phù hợp với giai đoạn
lịch sử ấy. Tác phẩm văn học lịch sử thường mượn chuyện xưa nói chuyện đời nay, hấp thu
những bài học của quá khứ, bày tỏ sự đồng cảm với những con người và thời đại đã qua,
song khơng vì thế mà hiện đại hóa người xưa, phá vỡ tính chân thật lịch sử của thể loại
này” [125; 302]. Nhìn chung, đây chỉ là mấy dịng lý thuyết ngắn ngủi mang tính chất nhận
định chung về thể loại TTLS, chưa mổ xẻ sâu vào các lớp cấu trúc của thể loại. Đây là
khoảng trống lý thuyết để chúng tôi tiếp tục nghiên cứu về thể loại TTLS.
Trong bài “Hồ Quý Ly” (2000), Lại Nguyên Ân cho rằng nhà văn đã “khai thác tối đa
các nguồn sử liệu”, vừa “hư cấu tạo ra một thực tại tiểu thuyết” tương đồng với “những
thơng tin cịn lại về một thời đã lùi xa” và vừa “in dấu cách hình dung và trình bày riêng
của tác giả” [17]. Ơng nói rằng nhân vật Hồ Quý Ly trong tác phẩm cùng tên của Nguyễn
Xuân Khánh được “miêu tả từ nhiều điểm nhìn khác nhau” và Hồ Quý Ly xuất hiện gián
tiếp “trong nỗi ám ảnh thường xuyên của các nhân vật khác”, được miêu tả trực tiếp “bằng
chất liệu tiểu thuyết”. Như vậy, ta thấy Lại Nguyên Ân đã đề cập đến cá tính sáng tạo của


7

nhà văn, mối quan hệ giữa các yếu tố “lịch sử” và “hư cấu” trong TTLS. Bên cạnh đó,
Nguyễn Đăng Điệp trong tiểu luận “Tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh một diễn ngơn về

lịch sử và văn hóa” khẳng định: “diễn ngơn nghệ thuật Nguyễn Xn Khánh chính là
những suy tư của ơng về lịch sử và văn hóa, trong đó, văn hóa là cốt lõi của lịch sử, là
chiều sâu quy định sự hằng tồn của quốc gia, dân tộc” và “giải mã sức hấp dẫn của diễn
ngôn nghệ thuật Nguyễn Xuân Khánh chủ yếu nằm ở tính đối thoại trên nhiều cấp độ: nhân
vật lịch sử, văn hóa, tư duy trần thuật” [148; 22].
Cơng trình “Bão táp triều Trần, tác phẩm và dư luận” do Nhà xuất bản Phụ nữ ấn
hành năm 2006, cuốn sách này đã tập hợp rất nhiều quan điểm, ý kiến đánh giá của các nhà
khoa học về tác phẩm “Bão táp triều Trần” của Hồng Quốc Hải. Trong đó có quan điểm
của nhà văn Hồng Cơng Khanh đã khẳng định rằng Hồng Quốc Hải thể hiện “cá tính,
phong cách sáng tạo khơng giống ai” và “những thủ pháp nghệ thuật” độc đáo tạo nên sự
hấp dẫn, thú vị và thành công của tác phẩm “Bão táp triều Trần”. Trong sự nhìn nhận,
đánh giá của một sử gia, Đinh Công Vĩ cho rằng sự thành cơng của Hồng Quốc Hải trong
bộ TTLS “Bão táp triều Trần” thể hiện ở phương diện “tơn trọng tính khách quan”, “tái
hiện chân thực nhân vật, sự kiện lịch sử” để từ “chân lí lịch sử thăng hoa thành sự thực
nghệ thuật”. Nhà văn Hoàng Tiến lại nhận định rằng nhà văn Hoàng Quốc Hải đã thực hiện
sứ mệnh kết nối “quá khứ và hiện tại” qua tác phẩm Bão táp triều Trần. Nhìn chung, các
nhà khoa học chưa đi sâu vào các lớp cấu trúc thể loại được thể hiện qua tác phẩm, chưa
đặt tác phẩm trong các xu hướng phát triển của TTLS Việt Nam đương đại để thấy được
những đặc trưng thể loại và sự cách tân nghệ thuật ở mỗi xu hướng. Đây là điểm trống về
mặt lý thuyết thể loại mà chúng tôi sẽ tiếp tục nghiên cứu.
Một ví dụ khác, trong bài viết “Vương triều Lý dưới góc nhìn của tiểu thuyết gia
Hồng Quốc Hải” (2011) của Đặng Văn Sinh, tác giả nhận xét Hoàng Quốc Hải đã “phân
định theo các mốc thời gian quy ước của khoa nghiên cứu lịch sử [...] là tuyến tính, phù
hợp với các đặc trưng thi pháp của loại hình tự sự truyền thống” [260]. Ơng khẳng định sự
“hư cấu” của Hoàng Quốc Hải đã tạo ra sự “cuốn hút, bắt người đọc, đọc đến tận cùng,
nhưng lại tuyệt đối đảm bảo tính chân thực, khơng phá vỡ logic lịch sử, mà làm phong phú
thêm lịch sử” [260]. Ông cho rằng Hoàng Quốc Hải đã “hư cấu nhưng khơng vo trịn, bóp
méo lịch sử, đó là quan điểm thẩm mỹ xun suốt tồn bộ tác phẩm” và “khơng gây ra cơn
sốc tâm lý, kiểu như là giải thiêng thần tượng, mà ngược lại, càng củng cố thêm sự
ngưỡng mộ, lòng biết ơn với các bậc tiền nhân” [260]. Đặng Văn Sinh đánh giá về những

thành công của “Tám triều vua Lý” là “hư cấu trong thi pháp tiểu thuyết lịch sử của Hoàng
Quốc Hải là tạo ra một trạng thái tâm hồn dưới dạng thức suy tư của những nhân vật lịch
sử từng được định hình trong tâm thức dân tộc” [260]. Nhìn chung, bài viết này cũng chưa
mổ xẻ, chưa phân tích sâu tất cả các lớp cấu trúc thể loại, chưa đặt trong xu hướng phát
triển của TTLS Việt Nam đương đại để chỉ ra đặc trưng thể loại và sự cách tân của mỗi xu
hướng. Đây là khoảng trống để luận án này tiếp tục nghiên cứu.


8

Chúng tôi thấy hầu hết các sách lý luận văn học chỉ bàn đến tiểu thuyết nói chung, ít
khi đề cập đến TTLS, hầu như không nghiên cứu sâu về TTLS, lý thuyết về thể loại TTLS
vẫn còn nhiều khoảng trống thiếu hụt. Ví dụ như trong cơng trình nghiên cứu Lý luận văn
học (2011) của Trần Đình Sử (Chủ biên), La Khắc Hòa, Phùng Ngọc Kiếm, Nguyễn Xuân
Nam, Tập 2, Nxb ĐHSP, Hà Nội, các tác giả cũng chỉ có mấy dịng bàn về thể loại TTLS:
“Tiểu thuyết lịch sử (historical novel), là tiểu thuyết lấy nhân vật, sự kiện lịch sử là đề tài,
tác giả có thể hư cấu một số nhân vật, tình tiết phụ, nhưng chủ yếu phải tôn trọng sự thật
lịch sử” [272; 319]. Ở một cơng trình nghiên cứu khác như Trên đường biên của lý luận
văn học, Trần Đình Sử cũng chỉ nói rất ít về vấn đề “hư cấu” của thể loại TTLS: “hư cấu
không phải là bỏ qua sự thật lịch sử, mà là tưởng tượng lại sự kiện, nhân vật lịch sử theo
những khả năng mà tài liệu mách bảo, hoặc là đặt một nhân vật hư cấu vào trong một bối
cảnh lịch sử để khám phá tư tưởng, tình cảm hành động của một thời kì cụ thể” [277; 456].
Nhìn chung, trong các sách lý luận văn học, các nhà khoa học ít đề cập đến các vấn đề lý
thuyết liên quan đến thể loại TTLS. Các cơng trình lý luận về thể loại TTLS vẫn còn rất
thưa thớt. Việc nghiên cứu lý thuyết thể loại mới chỉ dừng lại ở thể loại tiểu thuyết nói
chung, các vấn đề lý luận về thể loại TTLS còn khoảng trống, cần có nhiều cơng trình khoa
học đi sâu, lấp đầy những khoảng trống thiếu hụt về lý thuyết đối với thể loại văn học này.
Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia- Sự thật đã xuất bản cuốn sách “Sáng tạo văn học
nghệ thuật về đề tài lịch sử” (2013) của Hội đồng Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật
Trung ương tập hợp nhiều bài viết của các tác giả như Đinh Thế Huynh, Nguyễn Hồng

Vinh, Phan Trọng Thưởng, Đào Duy Quát, Phan Tuấn Anh, Hoàng Quốc Hải, Nguyễn
Xuân Khánh, Đặng Hiển, Sương Nguyệt Minh, Vũ Nho, Hà Phạm Phú, Đoàn Đức Phương,
Hà Quảng, Trần Đăng Suyền, Trần Đình Sử, Nguyễn Huy Thông, Nguyễn Đăng Điệp bàn
về vấn đề sáng tạo văn học về đề tài lịch sử, nhất là đối với thể loại TTLS. Đào Duy Quát
khẳng định rằng “Sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam đang đòi hỏi văn nghệ
sĩ sáng tạo nên nhiều tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị cao về đề tài lịch sử” [143 ;
154]. Ông bàn về vấn đề hư cấu nghệ thuật, ơng nói: “hư cấu khơng được “biến những kẻ
bán nước thành người yêu nước”, nhà văn phải “chuyển tải được tinh thần của lịch sử,
chuyển tải được những thông điệp của lịch sử cho hiện tại và tương lai” [143; 157, 158].
Phan Tuấn Anh chỉ ra các quan niệm về tính khách quan, chân xác của tri thức lịch sử:
“những hư cấu tự do, tùy tiện, sai sự thực và phi chủng tộc, môi trường lẫn hồn sẽ bị xem
là một thất bại, thậm chí là tội ác trong quá trình viết về đề tài lịch sử [...] tri thức của sử
học là tri thức khoa học, nó ln đảm bảo tính khách quan và chân xác so với thực tiễn. Và
nếu nhìn nhận như thế việc sáng tạo nghệ thuật phải tuân theo những dữ kiện và quan niệm
của sử học là một điều bắt buộc, vì sử học chính là chân lý, là cơ sở đúng đắn và đáng tin
cậy nhất [...] Nhà văn có quyền sáng tạo tính cách nhân vật lịch sử, ý nghĩa sự kiện lịch sử,
nhưng sự tồn tại của sự kiện, nhân vật, lẫn bối cảnh văn hóa của sự kiện, nhân vật thì phải
tuân theo lịch sử” [143; 229-232-247]. Hoàng Quốc Hải bàn về “những điều cốt yếu trong


9

sáng tác văn học về đề tài lịch sử” với việc xử lý yếu tố lịch sử. Ông đưa ra 4 nguyên tắc
cốt lõi: người viết phải có nhu cầu tìm về nguồn cội, khám phá những thăng trầm của lịch
sử, phải tái hiện được tất cả những vinh quang và cay đắng mà lịch sử tiền nhân đã trải, cấu
trúc tác phẩm phải hư cấu đạt tới độ chân thực và thông điệp lịch sử là giá trị nhân văn, giá
tri tư tưởng vượt lên trước thời đại [143; 262-274]. Đoàn Đức Phương bàn về khái niệm
TTLS, hướng tiếp cận hiện thực lịch sử, vấn đề hư cấu, ông nói: “vai trị rất quan trọng của
hư cấu nghệ thuật, nó giúp cho các hiện tượng, sự kiện, nhân vật lịch sử [...] tiếp tục vận
động cùng với cuộc sống muôn màu muôn vẻ [...] Bảo đảm cho độc giả rằng mọi sự đều có

thể diễn ra như vậy, giúp họ hiểu nguyên nhân và hậu quả của những gì đã diễn ra trong
quá khứ. Vì vậy, tiểu thuyết lịch sử phải chăng là chân thật hơn lịch sử [...] bị trói buộc khả
năng hư cấu nhiều hơn so với các thể loại khác, hư cấu chỉ nằm trong một giới hạn cho
phép” [143; 376-377]. Nhìn chung, đây là một cơng trình khoa học tập hợp nhiều bài viết
bàn về vấn đề sáng tạo văn học nghệ thuật về đề tài lịch sử, nhiều bài viết bàn về các thể
loại như diễn ca lịch sử, thơ ca về lịch sử, chèo về đề tài lịch sử, nghệ thuật tuồng với đề tài
lịch sử, kịch lịch sử, các loại hình khác như: nghệ thuật sân khấu về đề tài lịch sử, vấn đề
đạo diễn các tác phẩm về đề tài lịch sử, sáng tác mỹ thuật về đề tài lịch sử, sáng tác về đề
tài lịch sử trong điện ảnh, phim truyện lịch sử, sáng tạo âm nhạc về đề tài lịch sử, sáng tác
múa về đề tài lịch sử, chỉ có một vài bài viết bàn về một khía cạnh nào đó của TTLS, các
vấn đề bàn luận trong các bài viết còn trùng nhau, mới chỉ nêu ra, trong khuôn khổ của bài
viết, các tác giả cũng chưa đi sâu vào nhiều lớp cấu trúc thể loại, chưa phân chia thành các
xu hướng, chưa khái quát được đặc trưng thể loại thể hiện qua các xu hướng phát triển của
TTLS. Do đó, vấn đề lý thuyết về thể loại TTLS vẫn cịn khoảng trống để các cơng trình
khoa học đi sau tiếp tục nghiên cứu và luận án này phần nào đáp ứng những khoảng trống
thiếu hụt về lý thuyết thể loại. Đó là điều quan trọng và cần thiết, ít nhiều đóng góp những
luận điểm, luận cứ quan trọng về mặt lý thuyết thể loại làm công cụ nghiên cứu của ngành
Lý luận văn học.
Sau thời kỳ Đổi Mới (từ 1986 đến nay), có một số luận án tiến sĩ bàn về TTLS, cụ thể
là đến cuối thế kỷ XX chúng tôi mới thấy xuất hiện một luận án tiến sĩ đầu tiên của Bùi
Văn Lợi với đề tài “Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam từ những năm đầu thế kỷ XX đến 1945
(Diện mạo và đặc điểm)”. Trong cơng trình khoa học này, tác giả đã đi sâu vào bốn vấn đề
cụ thể. Vấn đề thứ nhất, ông nêu “khái niệm tiểu thuyết lịch sử” với việc đi vào phân biệt
“sự khác nhau giữa tiểu thuyết trung đại và tiểu thuyết hiện đại ở Việt Nam” khác nhau ở
“quan điểm thẩm mỹ, cách nhìn nhận, đánh giá, miêu tả cuộc sống và thi pháp thể loại”
[194]. Vấn đề thứ hai, ơng chỉ ra “Q trình hình thành và vận động của thể loại tiểu thuyết
lịch sử Việt Nam từ những năm đầu thế kỷ XX đến 1945”. Trong phần này, Bùi Văn Lợi lý
giải 4 nguyên nhân ra đời và phát triển của TTLS Việt Nam giai đoạn này xuất phát từ
“yêu cầu của cuộc sống dân tộc”; “yêu cầu của văn học Việt Nam trên con đường hiện đại
hóa”; ảnh hưởng của văn học Trung Quốc và văn học phương Tây (không theo kết cấu



10

chương hồi, xoáy vào tâm lý nhân vật); kế thừa “những tiền đề đã có” gắn với những thành
tựu của văn học giai đoạn trước (về mặt nội dung lịch sử và thi pháp văn xuôi) với các thể
loại khác viết về đề tài lịch sử như truyền thuyết, truyện thiền sư, thần phả- thần tích, liệt
truyện, TTLS chương hồi bằng chữ Hán. Vấn đề thứ ba, ông đi vào phân tích “Những đặc
điểm cơ bản về nội dung”. Trong phần này, tác giả đi vào 3 nội dung chính: 1. chỉ ra 3 cảm
hứng chủ đạo là “cảm hứng lịch sử và dân tộc”, “cảm hứng thế sự”, “cảm hứng đạo lý”
qua việc phân tích một số tác phẩm cụ thể của giai đoạn này [194]; 2. Nêu lên quan niệm
nghệ thuật về con người gắn với hình tượng “người anh hùng cứu nước”, “người phụ nữ”
và chỉ ra những nét độc đáo khi khám phá “tính chất bình thường” ở người anh hùng,
không né tránh việc miêu tả “tình u đơi lứa của con người cá nhân” qua việc phân tích
một số tác phẩm cụ thể của giai đoạn này [194]. Vấn đề thứ tư, Bùi Văn Lợi đi vào
“Những đặc điểm về nghệ thuật”. Trong phần này, ông nêu lên “Mối quan hệ giữa tính
chân thực lịch sử và hư cấu nghệ thuật”, chỉ ra “nghệ thuật xây dựng nhân vật” thể hiện
qua việc khắc họa tính cách qua lời giới thiệu và tả ngoại hình, hành động. Tác giả phân
tích “nghệ thuật đối thoại”, “độc thoại nội tâm”, “tả thiên nhiên” để khắc họa tính cách
nhân vật [194]. Tác giả đi vào “nghệ thuật trần thuật”, “nghệ thuật diễn đạt”. Nhìn chung,
cơng trình nghiên cứu này mới khái quát diện mạo và đặc điểm của TTLS Việt Nam từ
những năm đầu thế kỷ XX đến 1945, chưa đi sâu vào phân chia thành các xu hướng và
phân tích các lớp cấu trúc thể loại của từng xu hướng để chỉ ra sự cách tân nghệ thuật so
với các tác phẩm của các giai đoạn trước như đề tài của tôi lựa chọn khảo sát TTLS Việt
Nam đương đại- nhìn từ góc độ thể loại.
Đến cuối thập niên đầu thế kỷ XXI đã có thêm một luận án tiến sĩ văn học về TTLS
với đề tài “Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam từ 1945 đến nay” của Nguyễn Thị Tuyết Minh.
Tác giả đi vào 3 vấn đề chính. Vấn đề thứ nhất, tác giả nêu lên “quan niệm”, “diện mạo và
tiến trình” của TTLS Việt Nam từ 1945 đến nay. Tiếp theo phần này, tác giả đi vào “diện
mạo và tiến trình” của TTLS Việt Nam từ 1945 đến nay, chia thành các giai đoạn. Ở giai

đoạn nửa đầu thế kỷ XX, tác giả liệt kê một vài tác phẩm cụ thể và nêu qua một số vấn đề
chính về nội dung và nghệ thuật. Sang đến giai đoạn từ 1945 đến nay, tác giả chỉ ra chủ đề
tư tưởng, tư duy tự sự lịch sử có sự kết hợp giữa “sử liệu” và “hư cấu” một cách chủ động,
chỉ ra thế mạnh của TTLS là “vai trò của tư liệu” và “sự đa dạng, phức tạp trong phong
cách cá nhân”, “đặc điểm về thi pháp” trong việc khắc họa “sự kiện trọng đại”, “quần
chúng nhân dân”, “vĩ nhân, danh nhân” và thi pháp “tái hiện lại những sự kiện lịch sử theo
lối biên niên sử”, khắc họa nhân vật lịch sử nổi tiếng và suy tư về các vấn đề đương đại,
khắc họa cả một thời đại lịch sử lớn với nhiều sự kiện nhiều nhân vật, mượn lịch sử để gửi
gắm những vấn đề thế sự, tái hiện những vấn đề lịch sử- văn hóa, những phần khuất lấp và
xét lại nhân vật lịch sử [214; 35-47]. Sang đến vấn đề thứ hai, Nguyễn Thị Tuyết Minh chỉ
ra “Tư duy tự sự lịch sử trong TTLS Việt Nam từ 1945 đến nay”. Trong phần này, bà nêu
lên nội dung thứ nhất “cảm thức lịch sử” trong tư duy của nhà văn với 2 luận điểm: “Lịch
sử như một đối tượng được chiêm bái và ngưỡng vọng” và “lịch sử như một đối tượng


11

phân tích và giả định”. Sang đến nội dung thứ hai, bà chỉ ra 2 khuynh hướng tái tạo lịch sử
là: “tiểu thuyết hóa lịch sử” và “lịch sử hóa tiểu thuyết” với việc “Tơn trọng sự chính xác
của tư liệu lịch sử”, “Phản ánh lịch sử ở tầm vĩ mơ: mơ hình đại tự sự” và “Xúc cảm hóa
những dữ liệu lịch sử” qua việc kể tên một số tác phẩm cụ thể [214; 78-88]. Tiếp theo là
nội dung thứ ba, bà đi vào phân chia “các loại hình nhân vật lịch sử” như nhân vật mang
khát vọng chống giặc ngoại xâm, khát vọng giải phóng, khát vọng xây dựng, cải cách;
nhân vật số phận trong dòng lịch sử. Tiếp theo là vấn đề thứ ba, tác giả đi vào “Các
phương thức nghệ thuật tự sự lịch sử trong tiểu thuyết lịch sử Việt Nam từ 1945 đến nay”
với 3 nội dung: “Nghệ thuật trần thuật”, “Nghệ thuật kết cấu”, “Ngôn ngữ và giọng điệu”.
Ở nội dung thứ ba, tác giả nêu đặc điểm lớp ngôn ngữ cổ và ngơn ngữ tiểu thuyết; giọng
điệu thành kính, ngợi ca lịch sử, giọng điệu đối thoại, phân tích, giải thiêng lịch sử. Nhìn
chung, luận án của Nguyễn Thị Tuyết Minh nghiên cứu về TTLS Việt Nam từ 1945 đến
nay, có một vài gợi ý để tôi phát triển trong luận án của mình. Tác giả kể tên một số tác

phẩm trong một giai đoạn dài, chỉ liệt kê tên của nhiều tác phẩm của giai đoạn nửa đầu thế
kỷ XX và sau 1945, không đi sâu vào các lớp cấu trúc thể loại của tác phẩm nào, không
phân chia các xu hướng phát triển của TTLS Việt Nam, chưa chỉ ra sự khác biệt, đổi mới
của mỗi xu hướng trong các lớp cấu trúc thể loại. Đây là khoảng trống thiếu hụt về mặt lý
thuyết thể loại mà đề tài của chúng tôi tiếp tục nghiên cứu về TTLS Việt Nam đoạn đương
đại từ 1986 đến nay.
Năm 2014, Nguyễn Văn Hùng đã bảo vệ thành công Luận án tiến sĩ với đề tài “Tiểu
thuyết lịch sử Việt Nam sau năm 1986 dưới góc nhìn tự sự học”. Tác giả đi vào 4 vấn đề
chính được chia theo 4 chương. Chương 1 “Tổng quan vấn đề nghiên cứu”, tác giả đi vào
tìm hiểu nội dung 1: “Tình hình nghiên cứu và vận dụng lí thuyết tự sự học” ở trong và
ngồi nước. Sang đến chương 2, tác giả đi vào vấn đề thứ nhất “Người kể chuyện và điểm
nhìn tự sự” ở ngôi thứ ba và ngôi thứ nhất. Nội dung thứ 2 của chương 2 là vấn đề “Điểm
nhìn tự sự”, tìm hiểu “Điểm nhìn phức hợp của hình thức tự sự từ ngơi thứ ba” với “Điểm
nhìn bên ngồi (điểm nhìn khách quan)” dịch chuyển “điểm nhìn vào bên trong” và “Điểm
nhìn đơn tuyến và đa tuyến” [148; 52, 53]. Tiếp theo chương 3, tác giả đi vào vấn đề 1
“Nghệ thuật tổ chức thời gian và kết cấu tự sự”. Trong phần 1 “Nghệ thuật tổ chức thời
gian”, tác giả chỉ ra sự phá vỡ thời gian tuyến tính bằng đảo thuật và dự thuật, “Tạo dựng
nhịp độ thời gian bằng hình thức đoạn ngưng” qua việc “tả cảnh vật thiên nhiên, đời sống
sinh hoạt văn hóa” [148; 83]; “Tập trung khắc họa thế giới nội tâm nhân vật”; “Tăng cường
miêu tả chân dung ngoại hình, giới thiệu lai lịch nhân vật”,...; Trong phần 2 “Nghệ thuật tổ
chức kết cấu”, tác giả đi vào phân tích “Kết cấu khung” với việc dựa vào “khung lịch sử
của các triều đại để dựng khung truyện kể là kiểu kết cấu truyền thống của tiểu thuyết
phương Đông, đặc biệt trong thể loại chương hồi”. Tiếp theo, tác giả đi vào “Kết cấu lắp
ghép, đồng hiện, đa tầng bậc”, lối kết cấu truyện lồng truyện, “Sự dung hợp thể loại và loại
hình nghệ thuật”. Cuối cùng là chương 4 “Diễn ngôn tự sự trong tiểu thuyết lịch sử sau
năm 1986”. Trong chương này, tác giả nêu “Quan niệm về diễn ngôn và diễn ngôn trong


12


lịch sử”, “Diễn ngôn và một số hướng tiếp cận diễn ngôn cơ bản”, “Diễn ngôn người kể
chuyện trong tiểu thuyết lịch sử Việt Nam sau năm 1986” với “Thành phần thuật chuyện”,
“Thành phần miêu tả” (thiên nhiên, rừng núi, sông nước, biển cả, tả vẻ đẹp phồn thực của
nữ giới, bản năng tính dục, tâm trạng của con người), “Thành phần bình luận, đánh giá”,
“Diễn ngơn nhân vật trong tiểu thuyết lịch sử Việt Nam sau năm 1986” thể hiện qua “Ngôn
ngữ đối thoại”, “Ngôn ngữ độc thoại nội tâm”, “Cách thức tổ chức diễn ngôn tự sự trong
tiểu thuyết lịch sử Việt Nam sau năm 1986” với hai luận điểm “Đan cài đối thoại của nhân
vật trong lời người kể chuyện” và “Gia tăng lời gián tiếp tự do”. Nhìn chung, tác giả nêu ra
các vấn đề ở các chương chưa mạch lạc, một số vấn đề nêu ra chưa được giải quyết thỏa
đáng. Nguyễn Văn Hùng chưa phân chia TTLS Việt Nam đương đại theo các xu hướng để
đi vào các đặc điểm trong cấu trúc thể loại và chưa chỉ ra sự đổi mới về mặt nội dung và
nghệ thuật của mỗi xu hướng. Đây là điểm trống thiếu hụt về mặt lý thuyết, luận án này sẽ
tiếp tục nghiên cứu về thể loại TTLS.
Năm 2018, Ngô Thanh Hải bảo vệ thành công luận án tiến sĩ với đề tài “Ba mơ hình
truyện lịch sử trong văn xuôi hiện đại Việt Nam”. Ở chương 1 “Tổng quan tình hình
nghiên cứu”, tác giả đi vào tìm hiểu “tình hình nghiên cứu truyện lịch sử”, trình bày “Khái
niệm mơ hình truyện lịch sử” trên cơ sở lý thuyết diễn ngơn của V.I.Chiupa [123; 41]. Từ
đó, tác giả đi vào nghiên cứu “truyện lịch sử có thể chia thành ba mơ hình cấu trúc truyền
thuyết, dụ ngơn và giai thoại” [123; 43]. Sang đến chương 2 “Mơ hình truyền thuyết lịch
sử”, tác giả đi vào nội dung 1: nêu khái niệm “truyền thuyết”, vào nội dung 2 “Chủ thể xác
tín về chân lý lịch sử gắn với những câu chuyện hồi sinh” với 2 luận điểm: “Câu chuyện
dựng nước và giữ nước” và “Câu chuyện thời thế biến thiên dâu bể” [123; 45]. Truyện lịch
sử viết theo mơ hình truyền thuyết xoay quanh hai câu chuyện chính: câu chuyện dựng
nước và chống ngoại xâm để giữ nước, cứu nước và câu chuyện về những biến thiên, dâu
bể của xã hội, thời thế” [123; 46]. Tiếp theo, nội dung 3 là “Bức tranh thế giới phân lập của
các vai – chức năng” với 3 luận điểm: “ Ta – địch, chính nghĩa – phi nghĩa”; “Tốt – xấu,
thiện – ác”; “Cái nhỏ - cái lớn, nhân dân – đất nước”. Tác giả cho rằng “việc phân vai thiện
– ác, tốt – xấu không theo giai tầng mà theo chuẩn mực đạo đức, luân lý và quan niệm
sống, thể hiện trong suy nghĩ, hành động” [123; 65] và “Sự tái hiện bức tranh thế giới theo
hai mảng đối lập này đã trở thành một ngun tắc nghệ thuật của mơ hình truyền thuyết

lịch sử kể câu chuyện chống giặc giữ nước” [123; 60]. Tiếp nữa, nội dung 4 “Ba hình thức
ngơn ngữ thế giới quan” đều là “ngôn ngữ quan phương, ít nhiều còn tính chất ước lệ”
[123; 45, 78]: 1. “Ngôn ngữ trận mạc” và “mô thức tu từ thể hiện các vấn đề, tiếng nói của
quốc gia, dân tộc: hịch, cáo, thệ” [123; 75]; 2. “Ngôn ngữ họ hàng, dịng tộc” và “qua lăng
kính của ngơn ngữ dịng tộc, nền tảng để kiến tạo hình tượng khơng gian là chữ nhà” [123;
77]; 3. “Ngôn ngữ hội hè, đám đông”. Tiếp theo chương 3 “Mơ hình dụ ngơn lịch sử”, với
3 vấn đề: 1. “Chủ thể, người sở đắc chân lý và những bài học” với 3 luận điểm: “Hình
tượng tác giả - chủ thể bộc lộ trực tiếp”; “Người kể chuyện - chủ thể nhập vai” và “Hệ
thống nhân vật - chủ thể phân vai” với việc đi vào khái niệm nhân vật, tác giả cho rằng mỗi


13

nhân vật mang chức năng như là “mặt nạ ngôn ngữ”, “vai phát ngôn” với 2 chức năng “vai
lịch sử và văn học” [123; 94-98]); 2. “Bức tranh thế giới của những chủ thể lựa chọn” với 3
luận điểm: “Chủ thể nhập thế”, “Chủ thể xuất thế” và “Chủ thể trung dung” [123; 107]; 3.
“Kết cấu – hình thức ngơn ngữ đặc trưng chuyển tải bài học dụ ngôn” với các đặc trưng
“Từ kết cấu kiểu tiểu thuyết cổ điển tạo khung cho tác phẩm”, “đến phá vỡ kết cấu mạch
thời gian biên niên” bằng việc “đảo, xóa mờ những mốc thời gian lịch sử cụ thể” [123;
112]; “và thay đổi ý nghĩa mơ hình hóa cặp phạm trù mở đầu – kết thúc” để quan điểm về
“chính sự, lịch sử, văn hóa và con người” [123; 113, 114]. Cuối cùng là chương 4 “Mơ
hình giai thoại lịch sử”, với 3 vấn đề như: 1. “Chủ thể bất khả tín về chân lý và những
truyện kể mới” với 3 luận điểm: “Chủ thể của những câu chuyện mơ hồ, hư thực”, “Chủ
thể của những câu chuyện về thân phận cá nhân” và “Chủ thể của những câu chuyện ngẫu
nhiên, bất định”; 2. “Bức tranh thế giới lập thể của những mảnh vỡ lịch sử” với 3 luận
điểm: “Những mảnh vỡ ngẫu nhiên, huyền hoặc”, “Những mảnh vỡ của lịch sử quan
phương, theo tiến trình biên niên” và “Sự đan cài các mảnh vỡ, kiến tạo cấu trúc diễn
ngôn”; 3. “Ngôn ngữ nghệ thuật mang tính tổng hợp cao” với 3 luận điểm: “Lịch sử như
một ngôn ngữ, một mã nghệ thuật”, “Phá bỏ phân vai ước lệ” và “Sự trở về ngôn ngữ thế
tục” gắn với “ngôn ngữ thế tục, suồng sã, mang đậm chất khẩu ngữ” [123; 142]. Nhìn

chung, Ngơ Thanh Hải tiếp cận mơ hình truyện lịch sử từ lý thuyết diễn ngôn, phần lớn tác
phẩm khảo sát thuộc thể loại truyện ngắn, trong đó có nhắc đến tên một vài TTLS, nhưng
tác giả cũng chưa đi sâu vào lý thuyết thể loại thể hiện qua các xu hướng phát triển của
TTLS Việt Nam đương đại, chưa phân tích đặc điểm các lớp cấu trúc thể loại trong mỗi xu
hướng để chỉ ra sự đổi mới của thể loại. Đây là chỗ còn thiếu hụt về mặt lý thuyết mà luận
án của tôi sẽ tiếp tục nghiên cứu.
Năm 2020, có luận án với đề tài “Tiểu thuyết lịch sử của Lan Khai” của Đỗ Thị Nhàn
với 4 chương. Chương 1với 3 vấn đề : “Tổng quan tình hình nghiên cứu tiểu thuyết lịch
sử” với việc nêu khái niệm, liệt kê các cơng trình nghiên cứu về TTLS trên thế giới, nêu
“sự khác nhau giữa TTLS thời kì trung đại và thời kì hiện đại”, “tình hình nghiên cứu về
Lan Khai và tiểu thuyết lịch sử của ông”, “Những vấn đề cấp thiết đặt ra trong nghiên cứu
tiểu thuyết lịch sử của Lan Khai”. Chương 2 “Từ quan niệm nghệ thuật đến quá trình sáng
tác tiểu thuyết lịch sử của Lan Khai” với 2 nội dung “Về quan niệm của Lan Khai” với
quan niệm về nhà văn, văn học và quan niệm nghệ thuật về con người; “Quá trình sáng tác
của Lan Khai” với 4 luận điểm “Sở trường sáng tác”, “Hồn cảnh sáng tác”, “Diễn trình
sáng tác” và “Tiểu thuyết lịch sử trong sự nghiệp sáng tác của Lan Khai và trong sự vận
động của thể tài tiểu thuyết lịch sử Việt Nam”. Chương 3 “Từ hiện thực lịch sử đến bức
tranh nghệ thuật trong tiểu thuyết lịch sử của Lan Khai ” với 3 nội dung “Cảm hứng sáng
tác” với việc “ca ngợi truyền thống yêu nước của dân tộc”, “ca ngợi cái đẹp, cái thiện”,
“Phê phán xã hội phong kiến và chiến tranh phi nghĩa”; “Sự kiện trong tiểu thuyết lịch sử
của Lan Khai” với các luận điểm “Sự hốn đổi ngơi vị của các triều đại phong kiến”,
“Những cuộc nội chiến”, “Những cuộc nổi dậy của nhân dân”, “Những cuộc đấu tranh


14

chống kẻ thù xâm lược và bè lũ tay sai”; “Thế giới nhân vật trong tiểu thuyết lịch sử của
Lan Khai” gồm “Nhân vật vua chúa, quan lại và tướng lĩnh”, “Nhân vật người anh hùng”,
“Người phụ nữ”, “Nhân vật binh sĩ và dân chúng”, “Nhân vật kẻ thù cướp nước và bán
nước”. Chương 4 có 5 nội dung “Sự kết hợp hài hòa giữa lịch sử và hư cấu nghệ thuật”;

“Nghệ thuật kết cấu” với việc “Kế thừa và sáng tạo kết cấu của tiểu thuyết truyền thống”
và “Kết cấu kiểu tiểu thuyết hiện đại”; “Các phương thức kiến tạo chân dung nhân vật”;
“Thời gian và không gian nghệ thuật”; “Nghệ thuật trần thuật” với “Người trần thuật, điểm
nhìn trần thuật”, “Ngơn ngữ và giọng điệu trần thuật”. Có thể nói, tác giả đã nghiên cứu về
một nhà văn cụ thể là Lan Khai với 20 cuốn tiểu thuyết lịch sử trước giai đoạn 1945 có
dung lượng nhỏ và mỏng được liệt kê trong danh mục tài liệu tham khảo, không nghiên
cứu về giai đoạn đương đại như đề tài của chúng tơi.
Nhìn chung, các cơng trình nghiên cứu nói trên chỉ là những bài báo ngắn, nêu lên một
yếu tố nào đó của thể loại mà chưa đi sâu vào vấn đề được nêu, có một số sách lý luận văn
học cũng ít đề cập đến lý thuyết thể loại TTLS, cho thấy khoảng trống còn thiếu hụt về mặt
lý thuyết. Bên cạnh đó, một số luận văn thạc sĩ chỉ đi vào một khía cạnh nào đó của một tác
phẩm cụ thể, nên chưa có tính khái quát về mặt lý thuyết thể loại. Cuối cùng, chúng tơi
thấy có 4 luận án tiến sĩ cơng phu nói trên đi sâu vào cả giai đoạn dài và có sự tiếp nối về
thời gian, còn luận án của Đỗ Thị Nhàn chỉ nghiên cứu về một tác giả cụ thể thuộc giai
đoạn trước 1945 với một số tác phẩm có dung lượng nhỏ và mỏng. Nhưng, các cơng trình
nghiên cứu đó vẫn cịn thiếu hụt về mặt lý thuyết thể loại như đã nêu trên, phần lớn các tác
giả mới dừng lại ở việc điểm qua một bình diện nào đó của tác phẩm cụ thể, chưa có cơng
trình nào phân tích thấu triệt các lớp cấu trúc thể loại của các xu hướng TTLS Việt Nam
đương đại để thấy được các đặc trưng thể loại và sự đổi mới của mỗi xu hướng TTLS. Vì
thế, đề tài của chúng tôi đi sâu khái quát các đặc trưng thể loại, ý nghĩa, vai trò, sự cách tân
của TTLS Việt Nam đương đại theo ba xu hướng: bám sát sử liệu, dụ ngơn hóa sử liệu và
đối thoại với sử liệu là điều quan trọng và cần thiết, có những đóng góp nhất định cho
ngành Lý luận văn học nước nhà.
1.2.
Các quan niệm về đặc trƣng thể loại
Khi bàn về TTLS, hệ thống các quan điểm của các nhà khoa học trong và ngồi nước
được nói đến trong các cơng trình nghiên cứu có thể chia thành ba luồng ý kiến chính, một
là kết hợp hài hịa 2 yếu tố “lịch sử” và “hư cấu”, hai là thiên về tính tiểu thuyết và “hư
cấu” nghệ thuật, ba là đề cao yếu tố “lịch sử” và trung thành với các sự thật lịch sử được
ghi chép trong sử liệu. Trong đó, chúng tôi thấy hầu hết các nhà lý luận văn học theo quan

điểm thứ nhất, cho rằng cần tôn trọng sự thật lịch sử và nhà văn có quyền được hư cấu ở
một giới hạn, mức độ nhất định, yếu tố “lịch sử” và “hư cấu” sẽ chi phối, quy định, ràng
buộc lẫn nhau, cần kết hợp chúng một cách hài hịa, hợp lý theo ngun tắc thể loại. Ngồi
ra, các nhà nghiên cứu còn bàn nhiều về mối quan hệ giữa nhà văn – tác phẩm - bạn đọc,
các vấn đề tiếp nhận văn học, ý nghĩa và tác dụng của tiểu thuyết lịch sử với cuộc sống


15

hơm nay,…
1.2.1. Quan niệm về kết hợp hài hịa giữa lịch sử và hƣ cấu nghệ thuật
Trước hết, luận án tổng hợp lại các ý kiến cho rằng TTLS cần kết hợp hài hòa giữa
lịch sử và hư cấu nghệ thuật, nhà văn cần phải tơn trọng tính chân thật của lịch sử, đồng
thời được phép tưởng tượng, sáng tạo, gia công, thêm bớt các chi tiết ở một mức độ nhất
định để đưa các nhân vật lịch sử vào tác phẩm văn học sống động theo cái nhìn chủ quan
của mình, mang cảm xúc thẩm mỹ đến cho người đọc, nhưng khơng làm sai lệch sự thật
“lịch sử chính trị” của nước nhà. Tiêu biểu cho hệ thống quan điểm này, ta có thể nhắc đến
hàng loạt các tác giả như Chế Lan Viên cho rằng “các nhà tiểu thuyết lịch sử phải nhảy qua
hai vòng lửa, vòng lửa lịch sử và vòng lửa tiểu thuyết, nghĩa là vừa phải tơn trọng tính
chân thực lịch sử, vừa phải hư cấu trong quá trình viết tiểu thuyết lịch sử” [214; 24]. Giống
với ý kiến trên, Nguyễn Phương Chi cho rằng một TTLS thành công, tạo được tiếng vang
trong công chúng khi nó “vẽ lại được diện mạo lịch sử”, cho thấy “quy luật vận động bên
trong của lịch sử” và nhà văn phải xây dựng được các “chân dung lịch sử” có cá tính sống
động, có đời sống, vận mệnh của các nhân vật tiểu thuyết [55]. Nhất trí với quan điểm cho
rằng TTLS cần kết hợp hài hòa yếu tố “lịch sử” và “hư cấu”, trong bài “Tiểu thuyết lịch sử
của Hồng Quốc Hải và Thủ đơ sắp ngàn năm tuổi” (2008), Nhà văn số10, Võ Gia Trị bày
tỏ quan điểm: “Tiểu thuyết lịch sử là một thể loại văn học gồm hai bộ phận không thể tách
rời là phần tiểu thuyết và phần lịch sử, người viết ở đây khơng thể bỏ được phần nào, và
chính cái phần lịch sử ln địi hỏi người viết biết sử dụng nó nhuần nhuyễn trong sáng tạo
nghệ thuật của mình [...] xây dựng hình tượng nghệ thuật một cách chính xác và sinh động

hơn”. Vì thế, yếu tố lịch sử là yếu tố nòng cốt của thể loại và nghệ thuật hư cấu cũng là
yếu tố quan trọng tạo nên sức thuyết phục, lôi cuốn người đọc. Cùng trong quan điểm bàn
về sự kết hợp hài hòa giữa lịch sử và hư cấu trong TTLS, Lucacs nói rằng “Hiện thực lịch
sử” trong TTLS được thể hiện qua việc miêu tả cuộc sống “đời thường của nhân dân, nỗi
đau và niềm vui sướng của những con người bình thường” và “chỉ ra được các biến cố liên
quan tới số phận của nhân dân”, “phải mô tả số phận của nhân dân”, cùng “đời sống thực
tiễn của nhân dân” [78]. Các nhân vật lịch sử phải được miêu tả cụ thể, chân thực, hiện lên
như “những con người với đầy đủ tính cách tốt, xấu, mạnh, yếu, khơng nên thần thánh hóa
hoặc hạ thấp các nhân vật lịch sử quan trọng xuống mức tầm thường” [78]. G.Lucacs quan
niệm về thể loại: “Tiểu thuyết lịch sử phản ánh và mô tả sự phát triển hiện thực của lịch sử
một cách nghệ thuật, vì thế nó phải lấy kích thước nội dung và hình thức từ chính cái hiện
thực đó” [304; 455]; Các nhà văn phải “chứng minh sự tồn tại của hoàn cảnh và các nhân
vật lịch sử bằng công cụ nghệ thuật” và “nhiệm vụ của nhà văn viết tiểu thuyết lịch sử là
phải tạo dựng được một cách phong phú các tác động tương hỗ, cụ thể khớp với hoàn cảnh
lịch sử mô tả” [304; 451]. Cùng trong quan điểm này, Bùi Văn Lợi đã nhấn mạnh đặc điểm
quan trọng nhất của TTLS là “người nghệ sĩ phải làm sống lại những tài liệu lịch sử bằng
trí tưởng tượng, bằng quyền hư cấu và sáng tạo nghệ thuật của mình […], việc nghiên cứu
lịch sử là rất cần thiết đối với người nghệ sĩ, vì anh ta có nhiệm vụ phải phản ánh trung


16

thành một hiện thực lịch sử và làm sống lại những nhân vật lịch sử” [192]. Trong khi đó,
Lại Nguyên Ân nêu khái niệm thể loại: “Tác phẩm tự sự hư cấu lấy đề tài lịch sử làm nội
dung chính”. Tuy vậy, “những tiêu điểm chú ý của các sử gia lẫn các nhà văn quan tâm đến
đề tài lịch sử, thường đều là sự hình thành, hưng thịnh, diệt vong của các nhà nước, những
biến cố lớn trong đời sống xã hội của cộng đồng quốc gia, trong quan hệ giữa các quốc gia
như chiến tranh, cách mạng, cuộc sống và sự nghiệp của những nhân vật có ảnh hưởng đến
tiến trình lịch sử” [19; 1725]. Vì vậy, nhà văn phải có vốn kiến thức sâu rộng, uyên bác về
lịch sử, có tầm nhìn văn hóa cao để nhận thức, đánh giá các sự kiện và nhân vật lịch sử

đảm bảo tính xác thực, đồng thời phải có trí tưởng tượng phong phú, sâu sắc. Tiểu biểu cho
quan điểm nói trên, nhà văn Thái Vũ coi trọng sự “trung thực” với lịch sử, cho rằng nhà
văn được phép “hư cấu” nhưng khơng bóp méo và khơng xun tạc lịch sử, ơng nói: “Viết
tiểu thuyết lịch sử trước hết phải trung thực với mọi chi tiết lịch sử mà biên niên sử có ghi.
Hư cấu nhưng khơng phải là bịa. Tơi tơn trọng tính chân xác của lịch sử” [214; 23]. Khi
bàn luận về “tính khách quan” của lịch sử và “tính chủ quan” của người viết, ơng khẳng
định rằng các nhà viết “sử văn học” viết theo “quan điểm thời đại của người viết sử”,
không thể nào khắc phục được một cách triệt để mâu thuẫn giữa “tính khách quan của lịch
sử với tính chủ quan của người viết sử”, giữa “yêu cầu về tính khách quan của sự kiện lịch
sử với tính chủ quan của người viết sử”. Ơng cho rằng “tính chủ quan của người viết sử
khơng thể biến thành một sự áp đặt tùy tiện, không thể là một sự tán tụng vô căn cứ”. Qua
trao đổi trong q trình nghiên cứu, ơng khẳng định “hư cấu phải đảm bảo tính chân thực
lịch sử của tiểu thuyết lịch sử”, “hư cấu nghệ thuật còn xuất phát từ quan niệm nghệ thuật
của nhà văn”, “có nhà văn chủ trương trung thành với lịch sử, có nhà văn đề cao sự sáng
tạo hư cấu”. Nhưng “những chi tiết hoang đường đưa vào” cũng nên “hạn chế ở mức vừa
phải, không bị lạm dụng”, “nghệ thuật hư cấu phải khơng làm tổn hại đến tính chân thực”
của một cuốn tiểu thuyết lịch sử [72; 41-50]. Cùng trong quan điểm bàn về đặc trưng “hư
cấu” trong nguyên tắc thể loại, Phạm Huy Thông cho rằng: “hư cấu nhưng không được
xuyên tạc lịch sử” và “khi sáng tạo văn học, nhà văn có quyền hư cấu những con người, sự
kiện, hồn cảnh ngồi sử để khắc họa thêm chiều sâu tính cách”, và “dựng lên những bức
tranh xã hội có dung lượng hiện thực lớn”. Ông khẳng định: “Hư cấu là đặc trưng của tiểu
thuyết, là mảnh đất cho nhà văn thả sức tưởng tượng, làm nổi bật lên những mảnh đời và
số phận qua những biến động lịch sử ”. Phạm Huy Thông nhấn mạnh rằng “nhà văn cũng
phải trung thành với sự thật lịch sử: dứt khoát, bắt buộc người viết tiểu thuyết lịch sử […]
phải tôn trọng, trung thành với lịch sử, không được xuyên tạc lịch sử tùy tiện”, không
“đánh giá chủ quan sai lầm, nhất là đối với các sự kiện, nhân vật đã được kết luận rõ ràng.
Nhà văn phải trung thành với hiện thực khi xây dựng nhân vật lịch sử đã được nhân dân
tơn thờ, kính trọng suốt từ bao đời nay” [333]. Cùng trong luồng quan điểm trên, Nguyễn
Thanh Tú nhấn mạnh: “Tiểu thuyết lịch sử là sự sáng tạo trên nền sự thật mà biểu hiện rõ
nhất là các nhân vật lịch sử. Các sự kiện cũng xoay quanh các nhân vật này. Do vậy, nhà

tiểu thuyết phải bám vào nhân vật lịch sử để hư cấu, sáng tạo và không được xun tạc
nhân vật lịch sử”. Ơng nói: “Tác phẩm về đề tài lịch sử là sự sáng tạo, hư cấu trên cái nền


17

đã ổn định của sự kiện lịch sử và nhân vật lịch sử” [295]. Tiếp nối các quan điểm trên,
Hoàng Minh Tường đã bàn về mối quan hệ “trung thực với lịch sử” và “hư cấu”, ơng nói:
“phẩm chất cần có của nhà tiểu thuyết lịch sử là phải trung thực với lịch sử. Nhà văn viết
về lịch sử có quyền hư cấu, tưởng tượng, thậm chí sáng tạo thêm các nhân vật, sự kiện để
làm sáng tỏ lịch sử, soi rọi lịch sử, nhưng khơng thể bóp méo hay bịa tạc lịch sử một cách
phi logic, theo ngẫu hứng của riêng mình” [298]. Cùng trong hệ thống quan điểm này, Trần
Đình Sử đã nhận định “sự thật lịch sử và hư cấu là hai vấn đề then chốt của tiểu thuyết lịch
sử” và “Cái chính của tiểu thuyết lịch sử là sáng tạo nhân vật và đời sống của một thời kỳ
lịch sử cụ thể không lặp lại. Sự kiện lịch sử là dấu ấn của một thời, không thể thiếu với tiểu
thuyết lịch sử” [99; 467, 468]. Ở một bài viết khác, ơng nói : “lịch sử chỉ là sự trần thuật về
lịch sử, mà đã là trần thuật thì khó tránh chủ quan”. Ơng cho rằng “Lịch sử khách quan vẫn
có”, và “những sách sử chỉ là một cách ghi, một điểm nhìn, một lối tu từ”, chứ “khơng
phải là bản thân sự thật lịch sử hồn chỉnh”, có “nhiều sự việc khơng được ghi. Người ta có
thể bỏ điều này, thêm điều kia, giải thích lại các sự kiện, nên khó tránh khỏi tính chủ quan
và hư cấu của người viết sử”. Ơng cịn phát biểu điều quan trọng hơn là “miêu tả trung
thực bằng nghệ thuật một thời kì lịch sử cụ thể, nhưng khơng thể địi hỏi hồn ngun lịch
sử, một việc mà bản thân sử học cũng khơng làm được” [274]. Ơng nêu nội hàm khái niệm
TTLS: “Các tác phẩm viết về đề tài lịch sử này có chứa đựng các nhân vật và các chi tiết hư
cấu, tuy nhiên nhân vật chính và sự kiện chính thì được sáng tạo trên các sử liệu xác thực
trong lịch sử” [125; 302]. Bàn về thể loại văn học này, Trần Đình Sử cịn khẳng định:
“Tiểu thuyết lịch sử (historical novel), là tiểu thuyết lấy nhân vật, sự kiện lịch sử là đề tài,
tác giả có thể hư cấu một số nhân vật, tình tiết phụ, nhưng chủ yếu phải tôn trọng sự thật
lịch sử” [272; 319]. Nối tiếp các quan điểm trên, Ngô Văn Phú nêu quan điểm: “Phần sử
như cái khung của ngôi nhà. Nhưng ngơi nhà có đẹp hay khơng cịn tuỳ thuộc vào tài hoa ở

bàn tay thợ. Ở đây tôi muốn nói chất tiểu thuyết phải thổi được vào hồn của lịch sử”. Ông
nhấn mạnh: “phải nghiêm túc về mặt lịch sử”, “lựa chọn khoảnh khắc, thời điểm, để sự
kiện và nhân vật lịch sử hiện ra rõ nhất” [243]. Khi nói về thể loại này, nhà văn Hồng
Quốc Hải nhận định: “tiểu thuyết lịch sử đều phải lấy hư cấu làm phương tiện nghệ thuật”
và ông cho rằng “sự thật lịch sử trong tiểu thuyết lịch sử đáng tin cậy hơn vì nó được giải
mã, nó có cuộc sống. Sự thật lịch sử trong lịch sử chỉ là những tín hiệu chứa đựng những
thơng tin vơ cảm nhưng trong tiểu thuyết lịch sử nó lại sống động” [225]. Như vậy, ta thấy
yếu tố lịch sử và hư cấu chi phối, ràng buộc, quy định lẫn nhau trong cấu trúc thể loại.
1.2.2. Quan niệm đề cao yếu tố “hƣ cấu” nhƣ là đặc trƣng của tiểu thuyết lịch sử
Bên cạnh luồng quan điểm nói trên, chúng tơi thấy có luồng ý kiến thứ hai, khẳng định
TTLS nhất thiết phải có sự “hư cấu” nghệ thuật, “hư cấu” là yếu tố được đề cao, coi trọng
hơn yếu tố “lịch sử”. Họ cho rằng nguồn sử liệu “chỉ là phương tiện” để nghệ sĩ sáng tác,
lịch sử chỉ là “cái đinh” để nhà văn “treo các bức tranh” trong thế giới nghệ thuật. Tiêu
biểu cho quan điểm này là Nguyễn Xuân Khánh, ông nêu ra hai khuynh hướng viết TTLS
và nhấn mạnh rằng tùy thuộc vào từng loại, mà nhà văn có thể thiên về “hư cấu” sáng tạo
hay đề cao yếu tố “lịch sử”, ơng nói: “Một là viết về những nhân vật nổi tiếng trong lịch


18

sử” và “người viết không được bịa đặt một cách trắng trợn. Chỉ được phép hư cấu về tâm
lý hoặc thêm những nhân vật hư cấu để soi sáng nhân vật có thực. Cịn một loại khác là
nhà văn xây dựng khơng khí xưa nhưng nhân vật là nhân vật hư cấu. Có một vài nhân vật
nhưng chỉ làm bối cảnh cho nhân vật hư cấu. Và lịch sử chỉ là cái đinh treo” [149]. Ở một
bài viết khác, ông khẳng định: “Đã gọi là tiểu thuyết thì phải hư cấu” và “người viết phải
hòa trộn nhuần nhuyễn giữa thực và hư, giữa lịch sử và hiện tại, giữa tri thức và cảm thức”.
Ông cho rằng “những vấn đề cuốn sách đặt ra không chỉ cần đúng với lịch sử mà còn phải
là những vấn đề được người hiện tại quan tâm” [181]. Trong bài viết gần đây, ơng nói:
“Khi viết tác phẩm này (Hồ Quý Ly) tôi rất trung thành với sự kiện lịch sử. Tuy nhiên tiểu
thuyết lịch sử khơng chỉ dừng lại ở đó mà nhà văn sẽ phải dùng kiến thức của mình về văn

hóa, lịch sử dân tộc cùng những trải nghiệm để có được một cái nhìn tổng thể về thời đại
và thời cuộc [...] Tiểu thuyết lịch sử phải dựng lại bối cảnh khơng khí của thời đại” [116;
48]. Ở một chỗ khác, Nguyễn Xuân Khánh nhận định: “Đã là tiểu thuyết thì phải hư cấu,
dù đó là tiểu thuyết lịch sử, hư cấu là đặc trưng của tiểu thuyết. Hư cấu là đặc quyền của
nhà văn” [166]. Đồng quan điểm trên, nhà văn Pháp- Alexandre Dumas nhận định: “Lịch
sử đối với tôi là gì? Nó chỉ là cái đinh để tơi treo các bức họa của tôi mà thôi” [214; 21].
Tiếp nối quan điểm này, trong cuốn Nguyễn Huy Tưởng, Hà Minh Đức và cộng sự đã đề
cao sự “sáng tạo” của nhà văn trong việc kiến tạo các lớp cấu trúc thể loại bằng nghệ thuật
hư cấu: “Việc nghiên cứu lịch sử là vô cùng cần thiết đối với nghệ sĩ, nhưng sự nghiên cứu
ấy không thể thay thế sự sáng tạo. Có khi nghệ sĩ chỉ cần vài khoảnh khắc của nhân vật lịch
sử, có khi nghệ sĩ đưa vào tác phẩm những điều phi lịch sử không quan trọng, thậm chí
trong một chừng mực nào đó, có quyền vi phạm sự đúng đắn về mặt sự kiện, bởi vì tác giả
chỉ cần sự đúng đắn về mặt lý tưởng” [106]. Điều này có nghĩa là trong q trình sáng tạo
nghệ thuật, các nhà văn vừa phải chú ý tới “lịch sử”, vừa có quyền được “hư cấu”, nhưng
“việc nghiên cứu lịch sử […] không thể thay thế sự sáng tạo”, nghĩa là đề cao tính “hư
cấu”. Đặc biệt là Hoàng Ngọc Hiến cho rằng người viết được phép “hư cấu lịch sử” và xây
dựng một “mối quan hệ thân mật, thân tình, thậm chí suồng sã đối với nhân vật lịch sử”
[134]. Cịn Phan Cự Đệ nói: “Trong q trình sáng tác, các nhà tiểu thuyết lịch sử vừa phải
tôn trọng các sự kiện lịch sử, vừa phải phát huy cao độ vai trò của hư cấu, sáng tạo nghệ
thuật” [214; 23]. Giống như các ý kiến nói trên, S. Haasse nhấn mạnh quan điểm của bà
khi viết TTLS: “dựa trên những sự kiện và biến cố lịch sử hoặc có liên quan đến những con
người có thật, chủ định của tôi không bao giờ lấy việc tái hiện quá khứ làm nhiệm vụ hàng
đầu. Trong văn học, đề tài lịch sử là một phương diện chứ không phải một cứu cánh” [96;
55]. Cùng trong quan điểm coi trọng “hư cấu”, Nguyễn Thị Tuyết Minh khẳng định
“khuynh hướng tiểu thuyết hóa lịch sử” là khuynh hướng “nhà văn biến những tư liệu
chính xác của lịch sử thành tiểu thuyết, thành những sản phẩm hư cấu, tưởng tượng của cá
nhân nghệ sĩ” và “khi đó, lịch sử trở thành chất liệu”, “được nhào nặn, thiết kế lại. Và nhà
văn viết tiểu thuyết lịch sử là sáng tạo một lịch sử khác”, “lúc này, tiểu thuyết lịch sử”
được “chủ quan hóa triệt để” [215; 56, 64]. Chúng tơi nhất trí với quan điểm của tác giả nói
rằng các nhà văn được quyền “hư cấu” dựa trên nguồn sử liệu, hư cấu “đời sống riêng, tâm



19

lý các nhân vật” để lịch sử trở nên sinh động hơn. Nhưng, việc “chủ quan hóa triệt để” lịch
sử thì chúng tơi cho rằng cần phải bàn luận thêm. Bởi vì, tác giả Nguyễn Văn Dân nhấn
mạnh rằng “lịch sử chính trị” đóng vai trị “chi phối mạnh mẽ đến tất cả các lĩnh vực của
đời sống xã hội, trong đó có văn học”, khơng thể nào khắc phục được một cách triệt để
mâu thuẫn giữa “tính khách quan của lịch sử với tính chủ quan của người viết sử”, “tính
chủ quan của người viết sử khơng thể biến thành một sự áp đặt tùy tiện”. Đặc biệt là nhà
văn khi viết TTLS khơng thể “chủ quan hóa triệt để” theo hướng xun tạc và bóp méo
“lịch sử chính trị” của đất nước để kẻ thù lợi dụng, mà chỉ có thể “hư cấu” lịch sử ở một
“giới hạn nhất định” theo nguyên tắc thể loại, để mang cảm xúc thẩm mỹ đến cho người
đọc, thúc đẩy sự tiến bộ xã hội, làm đất nước ngày càng phát triển tốt đẹp, vững mạnh hơn.
Đồng quan điểm với các tác giả trong luồng ý kiến này, Nam Dao cho rằng “ngồi dịng
chính sử, cịn có phần lịch sử hình thành qua trí tưởng tượng” và “biến cố lịch sử trở thành
đối tượng đem soi dưới lăng kính chủ quan, nhào nặn lại qua ngòi bút người viết” [64].
Trong “Thảo luận về tiểu thuyết lịch sử”, Nam Dao đã nói rõ hơn về việc coi trọng đặc
trưng hư cấu của tiểu thuyết lịch sử: “Trong tiểu thuyết lịch sử, quá khứ là lịch sử nhìn bởi
nhà văn, nhà văn như chủ thể. Đó là quá khứ tái chiếm hữu và tái tạo từ vị thế hiện tại của
chủ thể với ý thức giới hạn của sự truy tìm chân lí khách quan” và ông khẳng định: “Tiểu
thuyết lịch sử là sự dấn thân của nhà văn nhằm phục sinh một thời đại cần tháo gỡ hầu
thốt khỏi những dự phóng về một tương lai có thể được” [65]. Quan niệm này đề cao tính
hư cấu nghệ thuật của chủ thể sáng tạo. Điều này càng được thể hiện rõ hơn trong nhận
định của Nam Dao khi viết tác phẩm ió lửa: “cái khung lịch sử đó được sử dụng như
phương tiện cấu tạo tiểu thuyết và sau đó thì tiểu thuyết là phương tiện để tác giả thể hiện
những tư duy, biện minh và dự phóng cho chủ đề lịch sử” [65]. Cùng trong hệ thống quan
điểm đề cao đặc trưng “hư cấu” của thể loại, Nguyễn Mộng Giác nói: “Khi viết Sông Côn
mùa lũ, tôi chú trọng phần tiểu thuyết hơn phần lịch sử. Nhưng trong phần lịch sử, tôi
không dám mạnh tay gạt phăng những gì cịn ghi lại trong tài liệu lịch sử” [65]. Nhất trí

với quan điểm này, tác giả Hải Thanh cho rằng “tiểu thuyết lịch sử là sự sáng tạo, hư cấu
trên cái nền đã ổn định của sự kiện lịch sử và nhân vật lịch sử. Nhà tiểu thuyết lịch sử có
thể tha hồ bay lượn trong không gian tưởng tượng sáng tạo”, nhưng phải “làm sáng tỏ hơn
lịch sử” [310]. Ta thấy Hải Thanh cũng chú trọng đặc trưng “hư cấu” nhiều hơn yếu tố
“lịch sử”, nhưng “hư cấu” phải làm cho “lịch sử” trở nên “sáng tỏ hơn”, cụ thể, chân thực,
xác tín hơn.
1.2.3. Quan niệm coi trọng yếu tố “lịch sử” hơn “hƣ cấu”
Bên cạnh hai luồng ý kiến nói trên, chúng tơi thấy cịn có luồng ý kiến thứ ba thiên về
yếu tố “lịch sử”, cho rằng nhà văn phải coi trọng “tính chân thật của lịch sử”, trung
thành với “sự thật lịch sử” hơn là “hư cấu” sáng tạo. Tiêu biểu cho quan niệm này, chúng
tơi thấy có một số ý kiến như Nguyễn Trường Thanh khẳng định: “vấn đề cốt tử vẫn phải
đảm bảo tính chân xác, trung thực, khách quan của nhân vật lịch sử, sự kiện lịch sử, làm
sáng lên tinh thần tự tôn dân tộc, nhân lên sức mạnh tình yêu cuộc sống, yêu quê hương,
đất nước” [143 ; 179]. Bên cạnh đó, Tạ Ngọc Liễn trong bài “Mối quan hệ giữa sử và văn”,


×