Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

Quan hệ pháp lý giữa đại biểu hội đồng nhân dân với cử tri

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (932.11 KB, 79 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI
KHOA PHÁP LUẬT HÀNH CHÍNH

BÁO CÁO TỔNG HỢP
ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA NGƢỜI HỌC

QUAN HỆ PHÁP LÝ GIỮA
ĐẠI BIỂU HỘI ĐỒNG NHÂN VỚI CỬ TRI
Mã số: PLHC.ĐTSV.2019.04

Chủ nhiệm đề tài:

NGUYỄN THÁI NHƢ

Lớp:

1705LHOC

Giảng viên hƣớng dẫn:

TS. Nguyễn Thị Hoàn

Hà Nội, tháng 5 năm 2020


TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI
KHOA PHÁP LUẬT HÀNH CHÍNH

BÁO CÁO TỔNG HỢP
ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA NGƢỜI HỌC


QUAN HỆ PHÁP LÝ GIỮA
ĐẠI BIỂU HỘI ĐỒNG NHÂN VỚI CỬ TRI
Mã số: PLHC.ĐTSV.2019.04

Chủ nhiệm đề tài:
Thành viên tham gia:
1. Dương Văn Bình
2.Trần Thanh Huyền
3. Nguyễn Duy Tiệp
4. Lê Bảo Vy

NGUYỄN THÁI NHƯ
- Lớp: 1705LHOC
- Lớp: 1705LHOC
- Lớp: 1705LHOC
- Lớp: 1705LHOC

Hà Nội, tháng 5 năm 2020


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đề tài “Quan hệ pháp lý giữa đại biểu Hội đồng nhân
dân với cử tri” là cơng trình nghiên cứu khoa học của riêng nhóm chúng tơi.
Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong đề tài nghiên cứu đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực.
CHỦ NHIỆM ĐỀ TÀI
(ký, ghi rõ họ tên)

Nguyễn Thái Như



DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
1.

CQĐP

: Chính quyền địa phương

2.

HĐND

: Hội đồng nhân dân

3.

TXCT

: Tiếp xúc cử tri

4.

UBHC

: Ủy ban hành chính

5.

UBND


: Ủy ban nhân dân

6.

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC BẢNG
Số hiệu

Tên bảng

Trang

1.1.

Mức hoạt động phí của đại biểu HĐND

31

2.1.

Số lượng đại biểu HĐND các cấp

38


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1
1.Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1
2.Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................ 2
3.Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu............................................................... 5
4.Đối tƣợng nghiên cứu.................................................................................... 5
5.Phạm vi nghiên cứu....................................................................................... 5
6.Phƣơng pháp nghiên cứu ............................................................................. 6
7.Cấu trúc đề tài ............................................................................................... 7
CHƢƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ MỐI QUAN HỆ
PHÁP LÝ GIỮA ĐẠI BIỂU HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN VỚI CỬ TRI .......... 8
1.1. Vị trí, vai trị của đại biểu Hội đồng nhân dân ...................................... 8
1.2. Cử tri và vị trí của cử tri trong mối quan hệ với đại biểu HĐND ...... 18
1.3. Các yếu tố tác động đến mối quan hệ giữa đại biểu hội đồng nhân dân
với cử tri .......................................................................................................... 21
1.3.1. Yếu tố chính trị................................................................................... 22
1.3.2. Yếu tố pháp luật ................................................................................. 22
1.3.3. Yếu tố địa lý – văn hóa ....................................................................... 23
1.3.4. Yếu tố kinh tế– xã hội ........................................................................ 24
1.3.5. Yếu tố năng lực của đại biểu Hội đồng nhân dân và cử tri............. 25
Tiểu kết Chƣơng 1 ............................................................................................. 27
CHƢƠNG 2.THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT ĐIỀU
CHỈNH QUAN HỆ GIỮA ĐẠI BIỂU HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN VỚI CỬ
TRI ...................................................................................................................... 28
2.1. Thực trạng quy định pháp luật.............................................................. 28
2.2. Thực trạng mối quan hệ của đại biểu Hội đồng nhân dân với cử tri
qua hai nhiệm kỳ Hội đồng nhân dân từ năm 2011 – 2021........................ 33
2.2.1. Mối quan hệ giữa đại biểu HĐND với cử tri qua hoạt động bầu cử ... 34
2.2.2.Mối quan hệ giữa đại biểu HĐND với cử tri thông qua hoạt độngtiếp
xúc cử tri ....................................................................................................... 36
2.2.3. Mối quan hệ giữa đại biểu HĐND với cử tri thông qua hoạt động

tiếp công dân ................................................................................................ 39
2.3. Đánh giá chung ........................................................................................ 43


2.3.1. Những điểm tích cực.......................................................................... 43
2.3.2. Những hạn chế cịn tồn tại trong mối quan hệ giữa đại biểu HĐND
với cử tri ........................................................................................................ 44
2.3.3. Nguyên nhân của những hạn chế, bất cập....................................... 44
Tiểu kết chƣơng 2 .............................................................................................. 46
CHƢƠNG 3.QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƢỜNG QUAN HỆ
PHÁP LÝGIỮA ĐẠI BIỂU HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN VỚI CỬ TRI ......... 47
3.1. Quan điểm về tăng cƣờng quan hệpháp lý giữa đại biểu HĐND với cử
tri ..................................................................................................................... 47
3.2. Giải pháp tăng cƣờng mối quan hệ giữa đại biểu HĐND với cử tri .. 49
3.2.1. Tiếp tục hoàn thiện văn bản pháp luật về mối quan hệ giữa đại biểu
HĐND với cử tri ........................................................................................... 49
3.2.2. Nâng cao chất lượng hoạt động bầu cử ........................................... 53
3.2.3. Tăng cường tiếp xúc và giữ mối liên hệ với cử tri ........................... 56
3.2.4. Nâng cao chất lượng và hoàn thiện tiêu chuẩn đại biểu HĐND .... 57
3.2.6. Nâng cao văn hóa pháp luật cho cử tri............................................. 61
3.2.7. Tạo các điều kiện tiếp tục củng cố và nâng cao hiệu quả mối quan
hệ giữa đại biểu HĐND với cử tri ............................................................... 65
Tiểu kết Chƣơng 3 ............................................................................................. 67
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 68
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................... 70


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong bộ máy nhà nước, Hội đồng nhân dân có vị trí đặc biệt cấu thành

nên Chính quyền địa phương, là thiết chế vơ cùng quan trọng để thực thi quyền
lực nhân dân. Hiện nay, bối cảnh xây dựng nhà nước pháp quyền với các u
cầu tiếp tục hồn thiện mơ hình tổ chức chính quyền địa phương; bảo đảm vai
trị thực sự của Hội đồng nhân dân với tính chất là đại diện cho ý chí, nguyện
vọng và quyền làm chủ của Nhân dân địa phương, do nhân dân bầu ra, chịu
trách nhiệm trước nhân dân địa phương; thì đổi mới tổ chức và hoạt động của
Hội đồng nhân dân là một yêu cầu cấp bách. Trong đó, hiệu quả hoạt động của
Hội đồng Nhân dân các cấp phụ thuộc rất lớn vào chất lượng, hiệu quả và mối
quan hệ của các đại biểu Hội đồng nhân dân với cử tri. Vì vậy, việc tăng cường
mối quan hệ pháp lý giữa đại biểu Hội đồng nhân dân với cử tri là nhu cầu tất
yếu nhằm làm cho bộ máy nhà nước nói chung trở nên gần dân hơn, tôn trọng,
phát huy quyền làm chủ của nhân dân; qua đó tạo niềm tin, sự gắn bó của cử tri
với đại biểu.
Khoản 1 Điều 115 Hiến pháp năm 2013 khẳng định rằng: “Đại biểu Hội
đồng nhân dân là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của Nhân dân địa
phương; liên hệ chặt chẽ với cử tri, chịu sự giám sát của cử tri, thực hiện chế độ
tiếp xúc, báo cáo với cử tri về hoạt động của mình và của Hội đồng nhân dân,
trả lời những yêu cầu, kiến nghị của cử tri; xem xét, đôn đốc việc giải quyết
khiếu nại, tố cáo. Đại biểu Hội đồng nhân dân có nhiệm vụ vận động Nhân dân
thực hiện Hiến pháp và pháp luật, chính sách của Nhà nước, nghị quyết của Hội
đồng nhân dân, động viên Nhân dân tham gia quản lý nhà nước”.
Gần 75 năm qua, từ năm 1946 khi Hội đồng nhân dân khóa đầu tiên của
nước Việt Nam mới ra đời đến nay, mối quan hệ giữa đại biểu với cử tri nước ta
đã từng bước trở thành truyền thống, trở thành nếp sống văn hóa chính trị. Đại
biểu Hội đồng nhân dân và cử tri ln đồng lịng, chung sức xây dựng Nhà nước
pháp quyền của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, làm cho dân giàu, nước
mạnh, xã hội cơng bằng, dân chủ, văn minh. Bên cạnh đó, mối quan hệ đại biểu
1



và cử tri tốt sẽ là cơ sở để Hội đồng nhân dân thể hiện đầy đủ vai trò là cơ quan
quyền lực nhà nước, quyết định đúng những vấn đề quan trọng của địa phương,
của đất nước và thực hiện giám sát có hiệu lực, hiệu quả việc thực hiện đường
lối, chính sách, pháp luật đã có hiệu lực.
Có thể khẳng định, trong các kỳ họp mới đây, để không ngừng nâng cao
chất lượng và để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao nhiều
đại biểu Hội đồng Nhân dân đã nêu cao tinh thần trách nhiệm là người đại diện
của nhân dân, tích cực học tập, nghiên cứu, đổi mới phương pháp làm việc.
Đồng thời, đại biểu Hội đồng nhân dân tham gia tích cực vào việc cụ thể hóa
chủ trương, chính sách, nghị quyết của Đảng, Nhà nước về quy hoạch và phát
triển kinh tế - xã hội ở địa phương.
Tuy nhiên, bên cạnh những điểm tích cực mà đại biểu Hội đồng nhân dân
đã đạt được, thì một phần khơng nhỏ đại biểu Hội đồng nhân dân chưa thực sự
đáp ứng được nguyện vọng của cử tri. Điều đó dẫn đến tình trạng Hội đồng
Nhân dân cịn hoạt động hạn chế, trong đó mối quan hệ giữa đại biểu Hội đồng
nhân dân với cử tri là vấn đề đang được quan tâm.
Vì vậy, nhóm nghiên cứu khoa học quyết định chọn đề tài: “Quan hệ
pháp lý giữa đại biểu Hội đồng nhân dân với cử tri” nhằm nghiên cứu, luận
giải, làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận cơ bản và thực trạng mối quan hệ pháp lý
giữa đại biểu Hội đồng nhân dân với cử tri, chỉ ra những khó khăn, thách thức
đòi hỏi đại biểu Hội đồng nhân dân và cử tri cần tăng cường, duy trì, củng cố và
phát triển mối quan hệ thường xuyên với cử tri và từ đó đưa ra những kiến nghị
góp phần nâng cao hiệu quả mối quan hệ giữa đại biểu Hội đồng nhân dân với
cử tri.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Liên quan đến nội dung mối quan hệ giữa đại biểu Hội đồng nhân dân với
cử tri đã có một số đề tài khoa học, luận văn, bài viết trên tạp chí đã đề cập một
cách trực tiếp hoặc lồng ghép vào những nội dung liên quan, như:
Cuốn “Tìm hiểu về chính quyền địa phương các cấp”, của tác giả Nguyễn
Thị Kim Thoa tập trung giới thiệu về cơ cấu tổ chức và hoạt động của chính

2


quyền địa phương các cấp, quyền hạn và trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, công
chức cơ sở trong việc thực hiện quyền lực nhà nước. Cuốn sách cũng tập trung
phân tích về thẩm quyền của HĐND, UBND trong việc giải quyết theo Luật đất
đai, Luật Giáo dục, Luật xây dựng, Luật khiếu nại tố cáo…Qua đó giúp người
đọc nhận thức sâu sắc hơn về vị trí, vai trị của HĐND (trong đó có đại biểu
HĐND) và UBND trong bộ máy chính quyền địa phương các cấp.
Luận án Tiến sĩ chính trị học “Hồn thiện chế độ bầu cử đại biểu Hội
đồng nhân dân ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Vũ Thị Loan đã phân tích, làm
rõ vị trí, vai trị, chức năng của Hội đồng nhân dân trong điều kiện nhà nước
pháp quyền XHCN; khẳng định vai trò quan trọng của Hội đồng nhân dân trong
việc thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Vấn đề có ý nghĩa thực tiễn là tác
giả đã đánh giá đúng thực trạng tổ chức và hoạt động của HĐND các cấp trong
bộ máy CQĐP ở Việt Nam hiện nay; những hạn chế, bất cập trong tổ chức và 4
hoạt động của HĐND các cấp. Từ việc đánh giá thực trạng như vậy, tác giả đã
nêu một số quan điểm và đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện chế độ bầu cử
HĐND ở Việt Nam, đáp ứng yêu cầu của nhà nước pháp quyền XHCN. Những
kết quả của luận án tiếp tục là nguồn tư liệu tham khảo cho việc nghiên cứu,
hồn thiện bộ máy CQĐP nói chung và mối quan hệ giữa đại biểu HĐND với cử
tri nói riêng. [8]
Nghiên cứu của Phan Văn Ngọc (2018), “Đổi mới chế độ bầu cử đại biểu
Quốc hội ở nước ta hiện nay”, Luận án Tiến sỹ Luật học, Học viện Khoa học Xã
hội. Luận án đã chỉ ra cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn về đổi mới chế độ bầu cử
đại biểu Quốc hội. Tác giả đã nêu lên một số hạn chế, bất cập của chế độ bầu cử
đại biểu Quốc hội hiện nay là: chưa có cơ chế đảm bảo thực hiện quyền bầu cử
của cử tri là cơng dân dân Việt Nam ở nước ngồi; chưa có cơ chế để cử tri có
đầy đủ thơng tin về người ứng cử trước khi quyết định bỏ phiếu; cịn có sự phân
biệt giữa người tự ứng cử và người được giới thiệu ứng cử,…Trên cơ sở đó, luận

án đã đưa ra các giải pháp khắc phục, chia theo các nhóm: Nhóm giải pháp về
đổi mới nhận thức, lý luận bầu cử đại biểu Quốc hội; nhóm giải pháp về sửa đổi,

3


bổ sung luật; nhóm giải pháp về đổi mới cơng tác tổ chức bầu cử đại biểu Quốc
hội,…[11]
Nghiên cứu của Phan Hồng Lĩnh (2018), “Hoạt động của đại biểu Hội
đồng nhân dân cấp huyện từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng”, Luận văn Thạc sĩ
Luật học, Học viện Khoa học Xã hội. Trong luận văn này, tác giả đã hệ thống lý
luận về hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp huyện và chỉ ra thực trạng hoạt
động của đại biểu HĐND các quận, huyện từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng và
đưa ra những nguyên nhân còn tồn tại hạn chế như: nhận thức của nhân dân và
cả một số đại biểu về vai trò người đại biểu nhân dân còn hạn chế; cơ cấu tổ
chức của Hội đồng nhân dân chưa tương xứng với việc thực hiện chức năng,
nhiệm vụ của Hội đồng nhân dân; nội dung, chương trình bồi dưỡng đại biểu
cịn nghèo nàn, chưa thiết thực,… Luận văn cũng đưa ra những giải pháp khắc
phục: hoàn thiện về cơ sở pháp lý đảm bảo chất lượng các hoạt động của đại
biểu HĐND cấp huyện, xây dựng và hồn thiện chương trình bồi dưỡng phẩm
chất chính trị, trình độ chun mơn và kỹ năng cơng tác cho đại biểu HĐND cấp
huyện. [9]
Ngồi ra, cịn một số bài viết, bài nghiên cứu như“Tăng cường mối quan
hệ giữa đại biểu Quốc hội với cử tri, đảm bảo đại biểu Quốc hội gắn bó chặt chẽ
và có trách nhiệm với cử tri” của bà Nguyễn Thị Quyết Tâm – Đại biểu Quốc
hội, Chủ tịch Hội đồng nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh; Nguyễn Thị lợi “Tổ
chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân tỉnh, qua thực tiễn tỉnh Nghệ An”,
luận văn thạc sĩ, trường đại học Quốc gia Hà Nội; Báo cáo nghiên cứu “Một số
điểm khác biệt giữa các công cụ tham vấn ý kiến Nhân dân và công cụ giữ mối
liên hệ với cử tri” của Dự án tăng cường năng lực của các cơ quan dân cử ở Việt

Nam....
Nhìn chung các bài viết, cơng trình nghiên cứu trên ít nhiều đã đều đề cập
vấn đề liên quan đến đại biểu Hội đồng nhân dân với cử tri; đại biểu Quốc hội
với cử tri và có những phân tích thực tế theo từng địa phương và đưa ra giải
pháp thiết thực. Tuy nhiên, chưa có cơng trình nghiên cứu triển khai trực tiếp về
nội dung “mối quan hệ pháp lý giữa đại biểu Hội đồng nhân dân với cử tri” còn
4


khiêm tốn. Vì vậy, nhóm đề tài thực hiện nghiên cứu này, nhằm tìm hiểu, phân
tích chỉ ra những bất cập trong mối quan hệ giữa đại biểu HĐND với cử tri trên
cơ sở kế thừa những nghiên cứu có liên quan trước đây.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận về mối quan hệ pháp lý giữa
đại biểu HĐND với cử tri và thực trạng mối quan hệ đó, đề tài nghiên cứu hướng
tới đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường mối quan hệ giữa đại biểu HĐND
với cử tri.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài “Quan hệ pháp lý giữa đại biểu Hội đồng
nhân dân với cử tri” của nhóm là:
- Nghiên cứu, luận giải, làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận cơ bản về mối
quan hệ giữa đại biểu HĐND với cử tri.
- Nghiên cứu, phân tích thực trạng mối quan hệ giữa đại biểu Hội đồng
nhân dân với cử tri, chỉ ra những khó khăn, thách thức đòi hỏi đại biểu Hội đồng
nhân dân và cử tri cần duy trì, củng cố và phát triển mối quan hệ thường xuyên
với cử tri.
- Đưa ra quan điểm và đề xuất những kiến nghị góp phần tăng cường mối
quan hệ giữa đại biểu Hội đồng nhân dân với cử tri trong giai đoạn hiện nay.
4. Đối tƣợng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là đại biểu Hội đồng nhân dân, cử tri và
quan hệ pháp lý giữa đại biểu Hội đồng nhân dân với cử tri.
5. Phạm vi nghiên cứu
Nội dung: Đề tài nghiên cứu cơ sở lý luận về mối quan hệ giữa đại biểu
HĐND với cử tri, chỉ ra thực trạng mối quan hệ giữa đại biểu HĐND với cử tri
trong hai nhiệm kỳ Hội đồng nhân dân từ năm 2011 đến năm 2021, thông qua
các quy định pháp luật và các hoạt động giữa đại biểu và cử tri, cụ thể: hoạt
động bầu cử, hoạt động tiếp xúc cử tri (TXCT), hoạt động tiếp cơng dân; và nêu
rõ những khó khăn, vướng mắc trong việc tăng cường, nâng cao mối quan hệ
5


giữa đại biểu HĐND với cử tri, để đưa ra quan điểm và giải pháp để tăng cường
mối quan hệ đó.
Khơng gian: Mối quan hệ pháp lý giữa đại biểu HĐND các cấp với cử tri
trong phạm vi Việt Nam
Thời gian: Đề tài xác định phạm vi thời gian nghiên cứu từ năm 2011 đến
nay (Qua 02 nhiệm kỳ Hội đồng nhân dân: 2011 – 2016 và 2016 – 2021).
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để đạt được các mục tiêu nghiên cứu mà đề tài đã đặt ra, trong quá trình
nghiên cứu đề tài đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu cơ bản sau:
- Phương pháp tổng hợp và hệ thống hóa lý thuyết: lựa chọn tài liệu,
nghiên cứu các văn bản pháp luật, các tài liệu báo chí liên quan đến việc xây
dựng và duy trì mối quan hệ với cử tri để xây dựng luận cứ;
- Phương pháp phân loại: sắp xếp các tài liệu đã tìm được thành hệ thống
logic để sử dụng cho mục đích nghiên cứu của đề tài, từ đó giúp phát hiện các
quy luật phát triển của mối quan hệ của đại biểu Hội đồng nhân dân với cử tri,
sự phát triển của kiến thức khoa học qua đó dự đốn được các xu thế phát triển
mới của khoa học và thực tiễn;
- Phương pháp nghiên cứu lịch sử: tìm nguồn gốc phát sinh, quá trình

phát triển của mối quan hệ của đại biểu Hội đồng nhân dân với cử tri nhằm phát
hiện bản chất và quá trình vận động của đối tượng trên;
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: chỉ ra các hoạt động trực tiếp tác
động vào đối tượng cụ thể là tác động vào mối quan hệ của đại biểu Hội đồng
nhân dân với cử tri để làm rõ quy luật vận động của đối tượng, giúp thu thập
thông tin và nảy sinh các ý tưởng nghiên cứu, đề xuất sáng tạo;
- Phương pháp nghiên cứu điển hình: do phạm vi nghiên cứu của đề tài
rộng nên nhóm nghiên cứu đã lựa chọn báo cáo hoạt động của Hội đồng nhân
dân các cấp từ một số địa phương để làm số liệu thực tiễn cho quá trình nghiên
cứu, nhằm tạo ra tính khách quan nhất cho đề tài.

6


7. Cấu trúc đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài nghiên cứu gồm có những nội dung
chính như sau:
Chƣơng 1. Một số vấn đề lý luận cơ bản về mối quan hệ giữa Đại biểu
Hội đồng nhân dân với cử tri
Chƣơng 2. Thực trạng quy định của pháp luật điều chỉnh mối quan hệ
pháp lý giữa đại biểu hội đồng nhân dân với cử tri
Chƣơng 3. Quan điểm và giải pháp tăng cường mối quan hệ giữa đại biểu
hội đồng nhân dân với cử tri

7


CHƢƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ MỐI QUAN HỆPHÁP LÝ
GIỮA ĐẠI BIỂU HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN VỚI CỬ TRI


1.1. Vị trí, vai trị của đại biểu Hội đồng nhân dân
1.1.1. Vị trí pháp lý của Hội đồng nhân dân
Để có thể hiểu và làm rõ về khái niệm, vị trí, vai trị, chức năng và nhiệm
vụ của Hội đồng nhân dân, đại biểu Hội đồng nhân dân và cử tri, trước hết cần
tìm hiểu về khái niệm Chính quyền địa phương (CQĐP).
Trên thế giới, hầu hết các quốc gia đều có chính quyền địa phương. Bởi
vì, quyền lực nhà nước không chỉ được tổ chức thực hiện ở trung ương, mà đòi
hỏi cần phải được tổ chức thực hiện dưới phạm vi từng vùng lãnh thổ mỗi địa
phương. Nhà nước chia lãnh thổ theo các đơn vị hành chính và thiết lập ở những
cơ quan thích hợp nhằm đảm bảo mối liên hệ thường xuyên giữa trung ương và
địa phương, thực hiện chính sách nhà nước ở địa phương và quản lý địa phương
theo pháp luật.
Việc tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước ở địa phương cịn phụ thuộc
vào các yếu tố khác mang tính khách quan như vị trí địa lý, dân cư, phong tục,
tập qn,… Vì vậy mọi nhà nước khơng kể bản chất khác nhau, đều phải tổ chức
ra cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương và việc tổ chức quyền lực nhà
nước ở địa phương phải được quy định bằng pháp luật.
Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, khái niệm “chính quyền địa phương”
đã được sử dụng trong Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính
(UBHC) được ban hành ngày 31/5/1958. Trong đạo luật này, thuật ngữ “chính
quyền địa phương” khơng được giải thích cụ thể nhưng Điều 1 đã hàm ý về khái
niệm: “Chính quyền địa phương tổ chức như sau: Các khu tự trị, các thành phố
trực thuộc trung ương, tỉnh, châu, thành phố trực thuộc tỉnh, thị xã, xã, thị trấn
có HĐND và Ủy ban hành chính. Các huyện có Ủy ban hành chính. Các khu
phố ở các thành phố và thị xã lớn có Ban hành chính khu phố...”. [21, tr.42]

8



Cách hiểu chung trong khoa học pháp lý và thực tiễn đời sống về “Chính
quyền địa phương” là các cơ quan trong chính quyền nhà nước được tổ chức ở
các đơn vị hành chính. Theo đó, các đạo luật về tổ chức chính quyền địa
phương, về Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân đã tạo tiền đề xác lập nên
CQĐP gồm 2 cơ quan: Hội đồng nhân dân và cơ quan hành chính ở địa phương
là Ủy ban nhân dân (trước đây gọi là Ủy ban hành chính). Quan niệm này tiếp
tục được các văn bản pháp lý và các học giả kế thừa cho tới hiện nay.
Qua các cách tiếp cận trên và nghiên cứu các quy định pháp luật hiện
hành, đặc biệt là các quy định của Hiến pháp năm 2013, có thể hiểu: “Chính
quyền địa phương là một bộ phận hợp thành của bộ máy nhà nước bao gồm cơ
quan quyền lực nhà nước ở địa phương do nhân dân bầu ra và các cơ quan
khác được thành lập trên cơ sở các cơ quan đại diện quyền lực nhà nước theo
quy định của Hiến pháp và pháp luật nhằm quản lý các lĩnh vực đời sống xã hội
ở địa phương trên cơ sở tập trung dân chủ và kết hợp hài hòa giữa lợi ích của
nhân dân địa phương và lợi ích chung của cả nước”.
Ở Việt Nam, Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định địa vị pháp lý của chính
quyền địa phương là thiết chế không thể thiếu trong tổ chức bộ máy Nhà nước,
là nơi có tính chất quyết định đối với việc đưa chủ trương, chính sách, pháp luật
của Đảng và Nhà nước đến với nhân dân. Đồng thời khẳng định nguyên tắc, một
cấp chính quyền gồm hai cơ quan HĐND và UBND: “Chính quyền địa phương
được tổ chức ở các đơn vị hành chính của nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam. Cấp chính quyền địa phương gồm có Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân
dân được tổ chức phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành
chính kinh tế đặc biệt do luật định” (Điều 111 Hiến pháp 2013). Nhưng xét trên
nhiều góc độ, đặc biệt tùy theo từng giai đoạn mà chính quyền địa phương cũng
được tổ chức khác nhau.
Trong đó, Hiến pháp năm 2013 đã dành riêng Điều 113 để quy định về Hội
đồng nhân dân – khoản 1 đề cập đến vị trí pháp lý của Hội đồng Nhân dân, cụ
thể: “Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện
cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân, do Nhân dân địa

9


phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước Nhân dân địa phương và cơ quan nhà
nước cấp trên”.Với quy định trên, Hội đồng nhân dân có tư cách “kép”: một mặt
là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, mặt khác là cơ quan đại diện của
Nhân dân địa phương. [4,tr.373]
Với tư cách là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho
nhân dân địa phương, Hội đồng nhân dân có thể tập hợp khối đại đồn kết và
thống nhất ý chí, hành động của quần chúng nhân dân, động viên được mọi
nguồn lực vật chất và tinh thần ở mỗi địa phương, góp phần vào sự nghiệp
chung của quốc gia, dân tộc. Đặc biệt, trong đó HĐND các cấp cịn là cầu nối
giữa chính quyền Trung ương với chính quyền địa phương, đảm bảo sự tập trung
thống nhất trong hoạt động của bộ máy nhà nước trên phạm vi toàn quốc, đồng
thời phát huy được nội lực ở từng địa phương, cơ sở.
Hội đồng nhân dân với địa vị là “cơ quan quyền lực nhà nước ở địa
phương” đã từng là đối tượng của các cuộc tranh luận lớn trong q trình sửa
đổi Hiến pháp. Có nhiều ý kiến cho rằng không nên quy định địa vị này và đưa
ra lý do: Ở địa phương chính quyền không thể tổ chức theo mối quan hệ giữa ba
quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp như ở trung ương; Quyền lực nhà nước là
thống nhất, mỗi cấp chính quyền không thể là một cấp quyền lực khác nhau;
Nếu chỉ quy định HĐND là cơ quan quyền lực nhà nước thì khơng làm rõ được
vai trị của UBND cũng như mối quan hệ giữa HĐND và UBND. Tuy nhiên, với
thẩm quyền, nhiệm vụ quan trọng của HĐND và kế thừa thực thi các Hiến pháp
trước đây đã đưa ra khẳng định Hội đồng nhân dân vẫn mang tính chất là cơ
quan quyền lực nhà nước ở địa phương. [4, tr.373-374]
Theo đó, quy định Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở
địa phương – chứ không phải đơn thuần là của địa phương, còn phản ánh dấu ấn
của nguyên tắc “quyền lực nhà nước là thống nhất”. Hiến pháp đã trao cho Hội
đồng nhân dân – cơ quan đại diện nhân dân địa phương quyền lực cao, cùng với

đó là các thẩm quyền tương xứng để đảm nhiệm tốt vị trí quan trọng đấy. Căn cứ
theo khoản 2 Điều 113 Hiến pháp năm 2013, Hội đồng nhân dân đảm nhiệm hai
nhiệm vụ cơ bản đó là: Quyết định các vấn đề của địa phương do luật định;
10


Giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật ở địa phương và việc thực hiện
nghị quyết của Hội đồng nhân dân.
Mỗi một địa phương phải có cơ quan dân cử của mình, vì vậy bên cạnh tư
cách là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, Hội đồng nhân dân cịn đảm
nhiệm vị trí là cơ quan đại diện nhân dân. Cụ thể, Hội đồng nhân dân do Nhân
dân địa phương trực tiếp bầu ra theo hình thức phổ thơng đầu phiếu: đại diện
cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân.“Việc tồn tại cơ quan
đại diện nhân dân chứng tỏ tính tự quản địa phương, chứng tỏ nhân quyền được
thừa nhận thông qua việc thừa nhận quyền quản trị địa phương của người dân
địa phương”.
Cơ quan đại diện của nhân dân mang hai ý nghĩa. Thứ nhất, về mặt lý
luận, đây là thành quả của quá trình đấu tranh vì dân chủ – người dân địa
phương có quyền quản trị địa phương thơng qua cơ quan đại diện do họ trực tiếp
bầu ra. Thứ hai, về mặt thực tiễn, khi quản lý các cơng tác ở địa phương khơng
ai làm tốt hơn chính bản thân người dân ở địa phương – thông qua thiết chế đại
diện cho mình. Các hình thức thực hiện dân chủ trực tiếp có thể rất thiết thực
nhưng khó có tính bao qt xử lý được các mảng cơng việc lớn như dân chủ đại
diện – thông qua cơ quan Hội đồng nhân dân. [4, tr.375]
Hai vị trí pháp lý của Hội đồng nhân dân có mối quan hệ biện chứng với
nhau. Theo đó, Hội đồng nhân dân là cơ quan đại diện Nhân dân là tiền đề để
bảo đảm Hội đồng nhân dân trở thành cơ quan quyền lực nhà nước ở địa
phương. Và chỉ khi Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa
phương mới có đủ nhiệm vụ, quyền hạn để đại diện cho nhân dân, thay mặt cho
nhân dân quyết đáp những vấn đề quan trọng của địa phương.

Quyền lực nhà nước là của Nhân dân, thông qua một cơ chế đại diện,
quyền lực ấy được chuyển giao cho hệ thống cơ quan đại diện thay mặt cho
nhân dân quản lý xã hội. Tuy nhiên, Nhân dân không trao hết quyền cho cơ quan
đại diện là Hội đồng nhân dân mà giữ lại cho mình các quyền bầu ra đại biểu
HĐND, kiểm tra, giám sát, bãi miễn khi cơ quan đại diện khơng thực hiện đúng,
đủ nhiệm vụ của mình. Chính vì vậy, Hội đồng nhân dân khơng thể là một chủ
11


thể độc lập, tách rời với nhân dân, đảm bảo mối quan hệ hai chiều vừa là cầu nối
giữa nhà nước và nhân dân, vừa đảm bảo cho ý chí nguyện vọng của Nhân dân
được truyền tải đến cơ quan công quyền.
Thông qua các hoạt động như tiếp xúc cử tri, chất vấn, giải trình, Hội
đồng nhân dân tổng hợp ý kiến, thảo luận và thống nhất cuối cùng; giám sát và
kiểm tra hệ thống các cơ quan quản lý tránh việc lạm quyền, bảo đảm quyền và
lợi ích của nhân dân. Cùng với đó, Hội đồng nhân dân chịu trách nhiệm báo cáo
với nhân dân về các kết quả trong kỳ họp, trong các nhiệm kỳ, giải thích và trả
lời các câu hỏi chất vấn, kiến nghị của nhân dân, giúp nhân dân hiểu rõ hơn về
hoạt động của Hội đồng nhân dân. Đồng thời, qua mỗi chính sách, pháp luật,
giúp cho nhân dân nhận ra lợi ích cá nhân, cộng đồng, dân tộc, từ đó chủ động
tích cực thực thi pháp luật, đấu tranh chống vi phạm pháp luật, bảo vệ kỷ cương
đất nước.
Việc Hiến pháp năm 2013 tiếp tục kế thừa và khẳng định chế định Hội
đồng nhân dân là cơ sở pháp lý quan trọng từ năm bản Hiến pháp Việt Nam thời
kỳ trước. Nhằm bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân và qua đó Nhân dân có
kênh giám sát và có nơi để thực hiện quyền và lợi ích dân chủ của mình. Ngồi
ra, việc tiếp tục khẳng định nguyên tắc này giúp giữ được các vấn đề mang tính
nguyên tắc của chính quyền địa phương vừa đáp ứng các yêu cầu đổi mới, tạo
điều kiện cho chính quyền địa phương năng động, sáng tạo hơn trong thực hiện
nhiệm vụ.

1.1.2. Vị trí, vai trị, nhiệm vụ và quyền hạn của đại biểu Hội đồng
nhân dân
1.1.2.1. Vị trí, vai trị của đại biểu Hội đồng nhân dân
Các đơn vị hành chính ở địa phương, hàng ngày vẫn diễn ra các mối quan
hệ trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội thuộc thẩm quyền giải quyết của chính
quyền địa phương mà các cơ quan nhà nước cấp trên khơng thể giải quyết được.
Bởi vậy, sự có mặt của đại biểu Hội đồng nhân dân như là một mắt xích quan
trọng của hệ thống tổ chức bộ máy nhà nước từ Trung ương đến địa phương,
đảm bảo hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Đặc biệt, đó là bộ phận
12


trực tiếp thực thi quyền lực nhà nước tại địa phương và là cầu nối giữa Nhà
nước với Nhân dân địa phương.
Định nghĩa, vai trò, trách nhiệm, nhiệm vụ và quyền hạn của đại biểu Hội
đồng nhân dân được xác định rõ ràng và xuyên suốt trong quá trình hình thành
và phát triển của nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam từ năm 1946
đến nay,đặc biệt trong Hiến pháp Việt Nam qua các năm 1980 (Điều 119); Hiến
pháp năm 1992 (Điều 122), được sửa đổi bổ sung năm 2001 (Điều 121); đến
Hiến pháp hiện hành năm 2013 (Điều 115). Đặc biệt, các vấn đề liên quan đến
đại biểu Hội đồng nhân dân còn được quy định chi tiết trong các Luật Tổ chức
Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính năm 1962, Luật Tổ chức Hội đồng
nhân dân và Ủy ban nhân dân qua các năm, mới nhất là Luật Tổ chức Chính
quyền địa phương năm 2015, được sửa đổi năm 2019 (có hiệu lực từ ngày
01/07/2020). Các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến vai trò, trách
nhiệm, nhiệm vụ, quyền hạn đối với đại biểu Hội đồng nhân dân ngày càng phát
triển và được quy định rõ ràng, cụ thể hơn.
Hiện nay, từ các quy định của Hiến pháp, Luật Tổ chức chính quyền địa
phương 2015 (sửa đổi năm 2019 có hiệu lực bắt đầu từ ngày 01/07/2020) và các
văn bản hướng dẫn thi hành đều khẳng định vai trò của đại biểu HĐND là “Đại

diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân ở địa phương”
được quy định rõ tại Điều 115 Hiến pháp năm 2013. Đại biểu Hội đồng nhân
dân các cấp do cử tri ở cấp đó trực tiếp bầu ra và “được tiến hành theo ngun
tắc phổ thơng, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín” (khoản 1 Điều 7 Hiến pháp
năm 2013). Mỗi đại biểu đại diện cho một địa phương, tổ chức đồn thể, thành
phần dân tộc, tơn giáo hoặc một tổ chức nghề nghiệp trong địa bàn các cấp. Dù
ở cấp nào, thì đại biểu Hội đồng nhân dân đều phải có trách nhiệm truyền tải yêu
cầu vàkiến nghịcủa tổ chức mình đại diện vào chương trình hoạt động của Hội
đồng nhân dân; ngồi ra, phân tích, đánh giá và nghị quyết hóa những nội dung
cần thiết.
Quy định này kế thừa Hiến pháp năm 1992 đã chính thức ghi nhận vai trò
của đại biểu HĐND là “người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của Nhân dân ở
13


địa phương”. Trong số các Hiến pháp của nước ta sau Cách mạng tháng Tám,
Hiến pháp năm 1992 là hiến pháp đầu tiên ghi nhận vai trò của người đại biểu
nhân dân địa phương. [4,tr.385]
Bên cạnh đó, đại biểu HĐND cịn giữ vai trị là trung tâm của tồn bộ
hoạt động của Hội đồng nhân dân. Với đặc điểm là cơ quan dân cử, vì thế, Hội
đồng nhân dân khơng thể hoạt động hiệu quả nếu thiếu đi đại biểu HĐND. Để
đảm bảo Hội đồng nhân dân thực sự đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền
làm chủ của Nhân dân địa phương, do Nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách
nhiệm trước Nhân dân địa phương, củng cố và phát triển niềm tin của cử tri phải
bắt đầu từ vai trò của từng cá nhân đại biểu HĐND từng địa phương. Vai trò của
đại biểu được xem là đặc biệt quan trọng, đại biểu phải tự mình nhận thức,
nghiên cứu, thảo luận, đóng góp và cùng với Hội đồng nhân dân quyết định các
vấn đề theo thẩm quyền, giám sát việc thực hiện pháp luật, chủ trương, chính
sách tại địa phương.
Đại biểu HĐND chính là sự thể hiện của dân chủ đại diện. Trong xã hội,

có đa dạng các hình thức dân chủ và có đầy đủ các cách để đưa quyền lực nhà
nước đến với gần dân như: thơng qua các đồn thể, các tổ chức phi chính phủ,
các tổ chức xã hội,… Nhưng “khơng phải mọi tổ chức của xã hội cơng dân đều
có tinh thần trách nhiệm đầy đủ, hoặc là với các thành viên riêng của họ, hoặc là
với cơng chúng nói chung. Và mặc dù một số nhóm có thể rất to mồm, những
lợi ích mà họ đại diện có thể khơng được phân chia một cách rộng rãi”1. Bởi
vậy, trong tất cả, bầu cử là phương thức tối ưu nhất thể hiện quyền dân chủ và
đại biểu HĐND là sự đại diện đầy đủ nhất.
Với vị trí là người đại diện, đại biểu Hội đồng nhân dân sẽ thay mặt cho
nhân dân địa phương thực hiện quyền làm chủ của nhân dân.Để thực hiện tốt vị
trí này, đại biểu HĐND cần phải liên hệ chặt chẽ với cử tri, chịu sự giám sát của
cử tri, thực hiện chế độ tiếp xúc và báo cáo với cử tri hoạt động của mình và của
Hội đồng nhân dân. Bên cạnh đó đại biểu HĐND phải chịu trách nhiệm trả lời

1

Ngân hàng thế giới: “Nhà nước trong một thế giới đang chuyển đổi”, Báo cáo về tình hình phát triển thế giới
1997, sách tham khảo, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr.139.

14


những ý kiến thắc mắc và yêu cầu, kiến nghị của cử tri; xem xét, đôn đốc việc
giải quyết khiếu nại, tố cáo.
Mối quan hệ trên không chỉ dừng lại ở cơ chế một chiều: với tư cách là
người đại diện trung gian giữa Nhân dân và quyền lực của nhà nước, đại biểu
HĐND có nghĩa vụ phải thực hiện là: “Vận động Nhân dân thực hiện Hiến pháp
và pháp luật, chính sách của Nhà nước, nghị quyết của Hội đồng nhân dân, động
viên Nhân dân tham gia quản lý nhà nước” (Khoản 1 Điều 114 Hiến pháp năm
2013). Qua đó, sợi dây liên lạc giữa Nhân dân và cơng quyền được đảm bảo

thơng qua bởi vai trị của đại biểu HĐND.
Trong công cuộc đổi mới, phát triển đất nước hiện nay, đại biểu HĐND
đã và đang phát huy được vị trí và vai trị của mình góp phần tăng cường và
nâng cao vị thế là trung tâm của cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại
diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân địa phương.
1.1.2.2. Nhiệm vụ, quyền hạn của đại biểu Hội đồng nhân dân
Hiệu quả hoạt động của Hội đồng nhân dân phụ thuộc rất lớn vào chất
lượng hoạt động của đại biểu HĐND. Vì thế, để Hội đồng nhân dân thực sự
hồn thành vai trị là người đại diện cho Nhân dân, nơi cử tri gửi gắm và phát
triển niềm tin thì phải trao cho đại biểu HĐND những thẩm quyền phù hợp để
đảm nhiệm vị trí đó.
Với tư cách là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của Nhân dân, Luật
Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 có quy định nhiệm vụ, quyền hạn
của đại biểu HĐND cơ bản, như sau:
Một là, quyền chất vấn của đại biểu HĐND. Quyền chất vấn được hiểu là
“hỏi và đề nghị giải thích rõ về điều gì, việc gì” đây là một hình thức giám sát
quan trọng của Hội đồng nhân dân.
Theo Điều 96 Luật Tổ chức chính quyền địa phương và Điều 84 Luật
Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân năm 2015 đại biểu
HĐND có quyền chất vấn trực tiếp tại kỳ họp Hội đồng nhân dân, phiên họp
thường trực HĐND hoặc gửi chất vấn bằng văn bản đến người bị chất vấn: Chủ
tịch Ủy ban nhân dân, Phó Chủ tịch UBND, Ủy viên UBND, Chánh án Tòa án
15


nhân dân, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp. Người bị chất vấn nêu
trên phải chịu trách nhiệm trả lời những vấn đề mà đại biểu HĐND đã chất vấn.
Trường hợp, trong thời gian Hội đồng nhân dân họp, đại biểu HĐND gửi
chất vấn đến Thường trực HĐND cùng cấp. Người bị chất vấn phải trả lời trực
tiếp trước Hội đồng nhân dân tại kỳ họp. Nếu cần điều tra, xác minh thì Hội

đồng nhân dân có thể quyết định cho trả lời sau kỳ họp hoặc trả lời bằng văn bản
với đại biểu đã chất vấn và Thường trực HĐND.
Đối với các cơ quan thuộc nhóm đối tượng chất vấn của đại biểu Hội
đồng nhân dân, và tất cả các cơ quan khác khơng thuộc nhóm đối tượng trên, thì
đại biểu HĐND vẫn có quyền kiến nghị. Căn cứ khoản 2 Điều 115 Hiến pháp
năm 2013 đại biểu HĐND trong quá trình thực thi chức năng đại diện của
mình“có quyền kiến nghị với các cơ quan nhà nước, tổ chức đơn vị ở địa
phương. Người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị này có trách nhiệm tiếp đại
biểu, xem xét giải quyết kiến nghị của đại biểu”.
Hai là, quyền kiến nghị của đại biểu HĐND. Theo Điều 97 Luật Tổ chức
chính quyền địa phương có quy định, đại biểu HĐND có quyền kiến nghị Hội
đồng nhân dân bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Hội đồng nhân
dân bầu, tổ chức phiên họp bất thường, phiên họp kín của Hội đồng nhân dân và
kiến nghị về những vấn đề mà đại biểu thấy cần thiết.
Khi có ít nhất một phần ba tổng số đại biểu HĐND kiến nghị thì đại biểu
HĐND có quyền đề nghị Hội đồng nhân dân lấy phiếu tín nhiệm đối với người
giữ chức vụ do Hội đồng nhân dân bầu. Kiến nghị của đại biểu HĐND được gửi
bằng văn bản đến Thường trực HĐND và phải nêu rõ lý do, nội dung kiến nghị.
Trường hợp, có từ một phần ba tổng số đại biểu HĐND trở lên kiến nghị
Hội đồng nhân dân bỏ phiếu tín nhiệm đối với một người giữ chức vụ do Hội
đồng nhân dân bầu, kiến nghị Hội đồng nhân dân họp bất thường hoặc họp kín
thì Thường trực HĐND phải báo cáo để Hội đồng nhân dân xem xét, quyết định.
Ba là, quyền yêu cầu cơ quan chức năng vào cuộc khi phát hiện hành vi vi
phạm pháp luật.

16


Khi phát hiện có hành vi vi phạm pháp luật, gây thiệt hại đến lợi ích của
Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, đại biểu HĐND có

quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức hữu quan thi hành những biện pháp xử lý cần
thiết để kịp thời chấm dứt hành vi vi phạm pháp luật.
“Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu của đại biểu Hội
đồng nhân dân thì cơ quan, tổ chức phải giải quyết và thông báo bằng văn bản
cho đại biểu Hội đồng nhân dân biết. Quá thời hạn này mà cơ quan, tổ chức
khơng trả lời thì đại biểu Hội đồng nhân dân có quyền yêu cầu người đứng đầu
cơ quan, tổ chức cấp trên xem xét, giải quyết”(khoản 2 Điều 98 Luật Tổ chức
chính quyền địa phương năm 2015).
Bốn là, quyền yêu cầu cung cấp thông tin. Trong quá trình thực hiện
nhiệm vụ, quyền hạn của đại biểu như kiểm tra, giám sát, hoặc có phản ánh của
cử tri,…đại biểu HĐND có quyền yêu cầu các cơ quan, tổ chức, cá nhân cung
cấp thơng tin có liên quan đến những vấn đề phản ánh của cử tri. Người đứng
đầu cơ quan, tổ chức hoặc các cá nhân có trách nhiệm trả lời những vấn đề mà
đại biểu HĐND yêu cầu theo quy định.
Bên cạnh thực hiện các quyền thì đại biểu HĐND phải có trách nhiệm:
Thứ nhất, đại biểu HĐND có trách nhiệm tham dự kỳ họp, phiên họp Hội
đồng nhân dân, tham gia thảo luận và biểu quyết các vấn đề có liên quan đến
nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Trường hợp đại biểu HĐND khơng tham gia
phiên họp, kỳ họp thì phải báo cáo lý do với Chủ tịch Hội đồng nhân dân trước
khi diễn ra hội nghị. Khi đại biểu HĐND không tham dự 2 kỳ họp liên tục mà
khơng có lý do thì Thường trực HĐND phải báo cáo Hội đồng nhân dân để bãi
nhiệm đại biểu HĐND đó.
Thứ hai, đại biểu HĐND có trách nhiệm tiếp xúc cử tri. Đại biểu cần liên
hệ chặt chẽ với cử tri ở đơn vị, địa phương bầu cử bầu ra mình, đại biểu sẽ chịu
sự giám sát của cử tri, có trách nhiệm thu thập và phản ánh trung thực ý kiến,
nguyện vọng, kiến nghị của cử tri và thực hiện tiếp xúc cử tri theo quy định của
HĐND đưa ra. Theo đó, mỗi năm một lần đại biểu gặp mặt, báo cáo với cử tri về
17



hoạt động của đại biểu tại các hội nghị và trả lời những ý kiến mà cử tri gửi gắm
trước đó.
Thứ ba, đại biểu HĐND có trách nhiệm tiếp cơng dân, tiếp nhận và xử lý
khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của cơng dân. Đại biểu HĐND có trách nhiệm tiếp
công dân. Khi đại biểu nhận được đơn thư khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công
dân, phải kiểm tra, giám sát, nắm tình hình xem những khiếu nại, tố cáo của cử
tri và chuyển những khiếu kiện đó đến cơ quan chun mơn có thẩm quyền xem
xét, giải quyết và đại biểu HĐND phải theo dõi tình hình giải quyết của cơ quan
có thẩm quyền và báo thơng tin cho cử tri biết.
“Trong trường hợp xét thấy việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị
không đúng pháp luật, đại biểu HĐND có quyền gặp người đứng đầu cơ quan,
tổ chức, đơn vị hữu quan để tìm hiểu, yêu cầu xem xét lại; khi cần thiết, đại biểu
HĐND yêu cầu người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị cấp trên trực tiếp của
cơ quan, tổ chức, đơn vị đó giải quyết”(Khoản 3 Điều 95 Luật Tổ chức CQĐP
năm 2015).
1.2. Cử tri và vị trí của cử tri trong mối quan hệ với đại biểu HĐND
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm của cử tri
Cử tri làcông dân của nước Việt Nam có đầyđủ những điều kiện tham gia
thực hiện quyền bỏ phiếu trong các cuộc bầu cử các cơ quan đại biểu của nhân
dân (Quốc hội và Hội đồng nhân dân) và quyền bỏ phiếu bãi nhiệm các đại biểu
do mình bầu ra khi các đại biểu đó khơng cịn xứng đáng với sự tín nhiệm của
nhân dân.
Theo Điều 27 Hiến pháp năm 2013, mọi công dân Việt Nam đủ mười tám
tuổi trở lên đều có quyền bầu cử Quốc hội và Hội đồng nhân dân mà khơng có
bất cứ sự phân biệt nào. Theo Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội
đồng nhân dân năm 2015, tất cả các cơng dân có quyền bầu cử đều được ghi tên
vào danh sách cử tri và được phát thẻ cử tri. Danh sách cử tri do Ủy ban nhân
dân cấp xã lập theo từng khu vực bỏ phiếu. Đối với huyện khơng có đơn vị hành
chính xã, thị trấn thì Ủy ban nhân dân huyện có trách nhiệm lập danh sách cử tri
theo từng khu vực bỏ phiếu. Trừ các trường hợp bị hạn chế quyền bầu cử theo

18


×