Tải bản đầy đủ (.pdf) (135 trang)

Bảo vệ quyền lợi của người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.21 MB, 135 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

NGƠ THỊ MINH THƯ

BẢO VỆ QUYỀN LỢI CỦA NGƯỜI CÓ
KHÓ KHĂN TRONG NHẬN THỨC,
LÀM CHỦ HÀNH VI
KHÓA LUẬN CHUYÊN NGÀNH LUẬT DÂN SỰ

TP. HỒ CHÍ MINH - THÁNG 7 - NĂM 2021


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

NGƠ THỊ MINH THƯ

BẢO VỆ QUYỀN LỢI CỦA NGƯỜI CÓ KHÓ KHĂN TRONG NHẬN
THỨC, LÀM CHỦ HÀNH VI

ThS. NGƠ THỊ ANH VÂN

TP. HỒ CHÍ MINH - THÁNG 7 - NĂM 2021


LỜI CẢM ƠN
Để có thể hồn thành được đề tài, tác giả đã nhận rất nhiều sự giúp đỡ từ Quý thầy
cô và bạn bè. Tác giả xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến:
Xin cảm ơn Quý thầy cơ Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh đã tận tình
truyền thụ kiến thức cho tác giả trong bốn năm ngồi trên ghế nhà trường.


Xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến cơ Th.S NGƠ THỊ ANH VÂN, người đã tận tình
hướng dẫn và tạo điều kiện cho tác giả hồn thành khóa luận này.
Và lời cảm ơn cuối cùng tác giả muốn gửi đến những người bạn đáng quý, đã cùng
tác giả vượt qua chặng đường bốn năm đại học.
XIN CẢM ƠN!


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan những nội dung trong khóa luận tốt nghiệp này là kết quả nghiên
cứu do bản thân tôi thực hiện dưới sự hướng dẫn tận tình và chu đáo của Ths. Ngơ
Thị Anh Vân. Mọi thơng tin tham khảo được sử dụng trong khóa luận đều đảm bảo
tính trung thực và tuân thủ các quy định về trích dẫn và chú thích tài liệu tham khảo.
Tôi xin chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.

Sinh viên thực hiện

Ngô Thị Minh Thư


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
TÊN ĐẦY ĐỦ

TỪ VIẾT TẮT

Bộ luật Dân sự năm 2015

BLDS năm 2015

Bộ luật Dân sự năm 2005


BLDS năm 2005

Bộ luật Dân sự Nhật Bản

BLDS Nhật Bản

Bộ luật Dân sự Pháp

BLDS Pháp

Bộ Luật Dân sự Đức

BLDS Đức

Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015

BLTTDS năm 2015

Luật Hơn nhân và Gia Đình năm 2014

Luật HNGĐ năm 2014

Ủy Ban nhân dân cấp xã

UBND cấp xã


MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU.............................................................................................................1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NGƯỜI CÓ KHÓ KHĂN

TRONG NHẬN THỨC, LÀM CHỦ HÀNH VI..................................................... 7
1.1. Khái niệm về người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.........7
1.2. Ý nghĩa của việc bảo vệ người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ
hành vi.................................................................................................................... 10
1.3. Pháp luật hiện hành về người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ
hành vi.................................................................................................................... 13
1.3.1. Điều kiện xác định cá nhân là người có khó khăn trong nhận thức, làm
chủ hành vi........................................................................................................... 13
1.3.2. Hậu quả pháp lý của việc tuyên bố cá nhân có khó khăn trong nhận thức,
làm chủ hành vi.................................................................................................... 19
1.3.3. Khôi phục năng lực hành vi dân sự cho người có khó khăn trong nhận
thức, làm chủ hành vi khi các căn cứ xác định khơng cịn..................................27
1.3.4. Phân biệt giữa cá nhân là người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ
hành vi với người mất năng lực hành vi dân sự và người hạn chế năng lực hành
vi dân sự................................................................................................................28
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1.........................................................................................33
CHƯƠNG II. BẢO VỆ NGƯỜI CÓ KHÓ KHĂN TRONG NHẬN THỨC,
LÀM CHỦ HÀNH VI THEO PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VÀ KIẾN NGHỊ
HOÀN THIỆN.......................................................................................................... 34
2.1. Phạm vi chủ thể được xác định là người có khó khăn trong nhận thức,
làm chủ hành vi......................................................................................................34
2.1.1. Quy định hiện hành về phạm vi chủ thể là người có khó khăn trong nhận
thức, làm chủ hành vi........................................................................................... 34
2.1.2. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về mở rộng phạm vi chủ thể là người có
khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.........................................................36


2.2. Xác định người có quyền u cầu Tịa án tuyên bố một người có khó
khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi..............................................................38
2.2.1. Quy định hiện hành về người có quyền u cầu Tịa án tun bố người

người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi......................................... 38
2.2.2. Kiến nghị làm rõ quy định của pháp luật về người có quyền, lợi ích liên
quan và cơ quan, tổ chức hữu quan..................................................................... 40
2.3. Xác định số lượng người giám hộ của người có khó khăn trong nhận
thức, làm chủ hành vi............................................................................................45
2.3.1. Quy định hiện hành về số lượng người giám hộ của người có khó khăn
trong nhận thức, làm chủ hành vi.........................................................................45
2.3.2. Bất cập và kiến nghị hoàn thiện quy định về số lượng người giám hộ.....47
2.4. Căn cứ xác định phạm vi quyền và nghĩa vụ của người giám hộ cho
người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi...................................... 53
2.4.1. Quy định hiện hành về căn cứ xác định phạm vi quyền và nghĩa vụ giám
hộ.......................................................................................................................... 53
2.4.2. Kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật về căn cứ xác định phạm vi
quyền và nghĩa vụ giám hộ.................................................................................. 54
2.5. Xác định người đại diện theo pháp cho người có khó khăn trong nhận
thức, làm chủ hành vi............................................................................................58
2.5.1. Quy định hiện hành về xác định người đại diện theo pháp luật của người
có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi....................................................58
2.5.2. Kiến nghị hoàn thiện quy định về xác định người đại diện theo pháp luật
của người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi...................................59
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2.........................................................................................63
KẾT LUẬN................................................................................................................64
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO



1

LỜI NÓI ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Trong quan hệ pháp luật dân sự, bên cạnh những người có năng lực hành vi dân
sự đầy đủ, thì có những trường hợp cá nhân không đủ khả năng nhận thức, làm chủ
hành vi. Khi tham gia vào quan hệ dân sự họ khơng thể hoặc khó có thể tự mình bảo
vệ quyền lợi chính đáng phát sinh từ quan hệ pháp luật dân sự. Những chủ thể này
khơng có địa vị pháp lý hoặc gặp khó khăn trong việc có địa vị pháp lý bình đẳng
như những chủ thể khác cùng tham gia, lúc này họ trở thành một bên yếu thế trong
quan hệ pháp luật dân sự. Do vậy, Nhà nước đã thơng qua các quy định của pháp
luật góp phần giảm thiểu và làm cho địa vị của họ được cân bằng, nhằm bảo đảm
quyền, lợi ích hợp pháp cho những người yếu thế này. Cụ thể, Bộ luật dân sự năm
2015 đã quy định bảo vệ nhóm người yếu thế, những người khơng có hoặc khó có
khả năng tự mình thực hiện quyền và nghĩa vụ, cũng như tự bảo vệ trong quan hệ
pháp luật dân sự, có thể kể đến như: người mất năng lực hành vi dân sự, người có
khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi và người hạn chế năng lực hành vi dân
sự.
Trong đó, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi là chủ thể mới
được ghi nhận và bổ sung trong quy định của BLDS năm 2015. Việc bổ sung quy
định này là điều cần thiết để bảo vệ người có những nhược điểm về thể chất hoặc
tinh thần không đủ khả năng nhận thức, làm chủ hành vi nhưng không rơi vào
trường hợp mất năng lực hay hạn chế năng lực hành vi dân sự. Đây là quy định thể
hiện sự tiến bộ và hữu hiệu góp phần bảo vệ người yếu thế nói chung cũng như
quyền và lợi ích hợp pháp của người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi
nói riêng. Tuy nhiên trong quá trình nghiên cứu về vấn đề bảo vệ người có khó khăn
trong nhận thức, làm chủ hành vi, trong quy định về chủ thể này còn cho thấy
những điểm bất cập. Chẳng hạn như về số lượng người giám hộ của người khó khăn
trong nhận thức, làm chủ hành vi hiện nay còn hạn chế; về căn cứ để xác định phạm
vi quyền và nghĩa vụ của người giám hộ chưa thể hiện được quyền định đoạt của
chính người được giám hộ; về xác định người đại diện theo pháp luật của người có
khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi hiện nay chưa rõ ràng và chồng chéo với
quy định về nghĩa vụ đại diện của người giám hộ,... làm hạn chế đi quyền lợi của họ.



2

Chính vì vậy, tác giả đã chọn đề tài: “Bảo vệ quyền lợi của người có khó khăn
trong nhận thức, làm chủ hành vi” để làm khóa luận tốt nghiệp cử nhân luật của
mình. Việc nghiên cứu được thực hiện nhằm tìm hiểu các quy định pháp luật hiện
hành về người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, từ đó hiểu rõ hơn
điểm tiến bộ và những bất cập, khuyết thiếu trong quy định của pháp luật. Đồng
thời, đề xuất các kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật, cũng như bảo
vệ hiệu quả hơn quyền và lợi ích của người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ
hành vi.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hiện nay, mặc dù quy định về người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành
vi là quy định mới được ghi nhận trong Bộ luật Dân sự năm 2015, nhưng có rất
nhiều đề tài, cơng trình nghiên cứu khai thác về quy định này. Đặc biệt vấn đề về
bảo vệ quyền và lợi ích của người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi
cũng được rất nhiều tác giả quan tâm và nghiên cứu ở các khía cạnh, có thể kể đến
như:
Nguyễn Văn Cừ - Trần Thị Huệ (đồng chủ biên) (2017), Bình luận Bộ luật dân
sự 2015, Nxb. Cơng an nhân dân. Tác phẩm trình bày các chi tiết về điểm mới liên
quan đến quy định người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi. Đồng thời
đưa ra những giải thích, bình luận làm rõ hơn quy định của pháp luật liên quan về
người có khó khăn trong nhân thức, làm chủ hành vi. Tuy nhiên, vì mục đích của
tác phẩm là nêu lên những điểm mới của BLDS năm 2015 so với 2005 nên khơng
đi sâu vào phân tích về khía cạnh bảo vệ người có khó khăn trong nhận thức, làm
chủ hành vi.
Nguyễn Thị Ngọc Trâm (2020), Điều kiện về năng lực hành vi dân sự của cá
nhân khi xác lập giao dịch dân sự, Luận văn thạc sĩ, Trường đại học Luật Tp. Hồ
Chí Minh. Trong bài viết này, tác giả đã trình bày về năng lực hành vi dân sự của
cá nhân khi tham gia giao dịch, bao gồm cả quy định về xác lập giao dịch của

người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi và hậu quả của giao dịch dân
sự liên quan đến chủ thể này. Đồng thời, tác giả cũng phân tích những điểm còn
chưa rõ, còn bất cập trong quy định về người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ
hành vi, từ đó cung cấp thơng tin hữu ích liên quan đến bảo quyền lợi của người có


3

khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi đối với khía cạnh là trong các giao dịch
dân sự.

Trần Thị Diệu Hương (2019), “Bảo vệ người yếu thế trong Luật dân sự”, Nghiên
cứu lập pháp, Số 6. Trong phạm vi bài viết, tác giả đã phân tích khái quát về người
yếu thế, trong đó bao gồm người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi. Tác
giả đưa ra những hạn chế trong quy định và một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy
định của pháp luật về bảo vệ người thế yếu trong quan hệ dân sự. Tuy nhiên, phạm
vi bài viết tập trung nghiên cứu vấn đề chung về người yếu thế nên khơng phân tích
sâu về khía cạnh bảo vệ phù hợp cho người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ
hành vi.
Nguyễn Thị Phương Châm (2016), “Năng lực hành vi dân sự trong bộ luật dân sự
2015 nhìn từ góc độ so sánh với Bộ luật Dân sự Nhật Bản” (Kỳ I), Tòa án nhân dân.
Số 21, tr. 22-25; kỳ tiếp theo và hết, Tạp chí Tịa án Nhân dân số 22/2016, tr. 21-23.
Trong bài viết, tác giả phân tích về năng lực hành vi dân sự của cá nhân, bao gồm
người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi dưới góc độ so sánh với BLDS
Nhật Bản. Qua phân tích về năng lực hành vi dân sự trong BLDS Nhật Bản và chế
định năng lực hành vi dân sự ở Việt Nam, bài viết cung cấp các thơng tin hữu ích
khi xây dựng chế định hướng đến đảm bảo quyền lợi cho người không đủ năng lực
hành vi dân sự. Đặc biệt là đối với quy định mới liên quan đến người có khó khăn
trong nhận thức, làm chủ hành vi.
Ngồi ra, một số sách nghiên cứu về quy định người có khó khăn trong nhận thức,

làm chủ hành vi như: Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh (2017), Giáo trình
những quy định chung về luật dân sự, Nxb.Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam;
Nguyễn Ngọc Điện (2016), Giáo trình luật dân sự, Nxb. Đại học quốc gia Tp. Hồ
Chí Minh; Đỗ Văn Đại (chủ biên) (2016), Bình luận khoa học những điểm mới của
Bộ luật Dân sự 2015, Nxb Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam; Bộ Tư pháp (2017),
Những điểm mới cơ bản của Bộ luật Dân sự 2015, Nxb. Lao động.
Từ tình hình nghiên cứu trên, có thể thấy các cơng trình nghiên cứu đã trình bày
khoa học những vấn đề cơ bản về người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành
vi, cũng như là nêu lên những bất cập và kiến nghị về một số khía cạnh về bảo vệ
người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi. Tuy nhiên, các nghiên cứu nói


4

trên chưa đi sâu dưới góc độ phân tích đầy đủ các khía cạnh về bảo vệ người có khó
khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi. Chính vì vậy, tác giả thực hiện đề tài “Bảo
vệ quyền lợi của người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi” nhằm tập
trung nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện về vấn đề bảo vệ cho người có khó
khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi. Tác giả hi vọng sẽ đóng góp một phần cơng
sức vào việc bảo vệ tốt hơn quyền lợi của những người có khó khăn trong nhận thức,
làm chủ hành vi - người yếu thế trong quan hệ pháp luật dân sự.
3. Mục đích và mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Từ tính cấp thiết của đề tài cũng như tình hình nghiên cứu chung thì mục đích
của đề tài là làm rõ khái niệm và phân tích những vấn đề cơ bản về người có khó
khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi. Trên cơ sở phân tích các quy định của pháp
luật về bảo người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, từ đó tìm ra những
bất cập, hạn chế trong các quy định, để có một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật,
nhằm nâng cao hiệu quả bảo vệ người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành
vi trong thực tiễn.
Để đạt được mục đích trên, đề tài đã đặt ra các mục tiêu cụ thể cần thực hiện

trong tiến trình nghiên cứu như sau:
Thứ nhất, phân tích các quy định của pháp luật hiện hành, từ đó làm rõ những
vấn đề cơ bản về người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.
Thứ hai, từ những vấn đề cơ bản về, tác giả đi sâu vào phân tích những quy định,
tìm ra cịn những điểm khuyết thiếu, bất cập về bảo vệ người có khó khăn trong
nhận thức, làm chủ hành vi.
Thứ ba, đánh giá những bất cập hiện hành, đồng thời đưa ra một số kiến nghị
nhằm hoàn thiện pháp luật về vấn đề nghiên cứu.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Về đối tượng nghiên cứu: Khóa luận tập trung nghiên cứu các quy định của pháp
luật Việt Nam hiện hành về bảo vệ người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ
hành vi.
Về phạm vi nghiên cứu: Khóa luận tập trung phân tích các quy định của pháp
luật dân sự. Cụ thể như Bộ luật Dân sự, Bộ luật tố tụng dân sự và các văn bản


5

hướng dẫn thi hành, để nghiên cứu sâu quy định của pháp luật dân sự về bảo vệ
người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài một cách hiệu quả, tác giả trong q trình nghiên cứu có sử
dụng, kết hợp một số phương pháp như:
Sử dụng phương pháp phân tích và tổng hợp: Trong q trình thực hiện đề tài,
tác giả đã sử dụng phương pháp này để phân tích các khái niệm, cũng như tìm hiểu,
đánh giá quy định của pháp luật hiện hành. Phương pháp này được sử dụng ở cả hai
chương khóa luận, cụ thể: Chương 1. Những vấn đề cơ bản về người có khó khăn
trong nhận thức, làm chủ hành vi; 1.1. Khái niệm về người có khó khăn trong nhận
thức, làm chủ hành vi; 1.2. Ý nghĩa của việc bảo vệ chủ thể này; 1.3. Pháp luật hiện
hành về người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi; và trong chương 2.

Bảo vệ người người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi theo pháp luật
hiện hành và một số kiến nghị hoàn thiện; 2.1. Phạm vi chủ thể được xác định là
người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi; 2.2. Xác định chủ thể có
quyền u cầu Tịa án tun bố một người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ
hành vi; 2.3. Xác định số lượng người giám hộ của người có khó khăn trong nhận
thức, làm chủ hành vi; 2.4. Căn cứ xác định phạm vi quyền và nghĩa vụ của người
giám hộ cho người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi; 2.5. Xác định
người đại diện theo pháp luật cho người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành
vi.
Phương pháp so sánh - đối chiếu: Tác giả đã thực hiện việc so sánh, đối chiếu
nội dung của pháp luật Việt Nam với pháp luật các quốc gia như: Hoa Kỳ, Pháp,
Đức, Thái Lan, Nhật Bản...,giữa các quy phạm pháp luật có liên quan; giữa BLDS
năm 2015 và năm 2005. Phương pháp này được tác giả sử dụng ở cả hai chương,
nhưng tập trung chủ yếu nhất ở Chương 2 khóa luận về bảo vệ người người có khó
khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi theo pháp luật hiện hành và một số kiến nghị
hoàn thiện; 2.1. Phạm vi chủ thể được xác định là người có khó khăn trong nhận
thức, làm chủ hành vi; 2.2. Xác định chủ thể có quyền u cầu Tịa án tun bố một
người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi; 2.3. Xác định số lượng người
giám hộ của người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi; 2.4. Căn cứ xác
định phạm vi quyền và nghĩa vụ của người giám hộ cho người có khó khăn trong


6

nhận thức, làm chủ hành vi; 2.5. Xác định người đại diện theo pháp luật cho người
có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.
6. Cơ cấu của đề tài
Ngồi lời nói đầu, kết luận, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo. Nội dung
chính của khóa luận gồm hai chương, cụ thể:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ

hành vi.
Chương 2: Bảo vệ người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi theo pháp
luật hiện hành và kiến nghị hoàn thiện.


7

BẢO VỆ QUYỀN LỢI CỦA NGƯỜI CÓ KHÓ KHĂN TRONG NHẬN THỨC,
LÀM CHỦ HÀNH VI
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NGƯỜI CÓ KHÓ KHĂN
TRONG NHẬN THỨC, LÀM CHỦ HÀNH VI
1.1. Khái niệm về người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi
Sự ra đời của Bộ luật dân sự năm 2015 đã mang lại nhiều sự thay đổi liên quan
đến chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự, trong đó, khơng thể khơng kể đến việc bổ
sung các quy định về người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi. So với
những thuật ngữ quen thuộc như “người thành niên”, “người chưa thành niên”,
“người mất năng lực hành vi dân sự”, “người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự”,
thì thuật ngữ “người khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi” còn khá mới mẻ.
Việc làm rõ khái niệm và nhận diện người khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành
vi có ý nghĩa quan trọng đối với q trình bảo vệ quyền lợi của chủ thể này.
Dưới cách hiểu thông thường, “khó khăn” được hiểu là “phải cố gắng, vất vả, có
nhiều trở ngại hoặc thiếu thốn”1. Trong khi đó, “nhận thức” là “kết quả của quá
trình phản ánh và tái diễn hiện thực vào trong tư duy; kết quả con người nhận biết,
hiểu biết thế giới khách quan”2. Cũng theo cách hiểu thông thường, “làm chủ hành
vi” được xác định là “khả năng điều khiển, chi phối những phản ứng, cách cư xử thể
hiện ra bên ngoài theo ý chí của bản thân”3. Từ những lẽ trên, người có khó khăn
trong nhận thức, làm chủ hành vi được hiểu là những cá nhân gặp trở ngại trong tư
duy, nhận biết về thế giới khách quan hoặc trong việc điều khiển, chi phối xử sự của
mình.
Dưới góc độ pháp lý, BLDS năm 2015 đã đưa ra định nghĩa chính thức tại khoản

1 Điều 23 như sau: “người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi là người
thành niên do tình trạng thể chất hoặc tinh thần mà khơng đủ khả năng nhận thức,
làm chủ hành vi nhưng chưa đến mức mất năng lực hành vi dân sự”. Trong đó,
Hồng Phê (2003), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, tr. 502.
Hoàng Phê (2003), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, tr. 712.
3
Hoàng Phê (2003), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, tr. 539, 423.
1
2


8

người thành niên là người từ đủ mười tám tuổi trở lên4. Mặc khác, dù BLDS không
đưa ra định nghĩa cụ thể như thế nào là tình trạng thể chất hoặc tinh thần, nhưng
theo cách hiểu thơng thường, tình trạng thể chất và tình trạng tinh thần có thể được
hiểu như sau:
Tình trạng “thể chất” được hiểu là tình trạng liên quan đến “mặt thể xác của con
người”5, có thể lấy ví dụ như tình trạng câm, điếc, mù mắt, cụt tay, chân... Cần lưu
ý rằng: không phải bất kỳ người khuyết tật nào cũng gặp khó khăn việc nhận thức
và làm chủ hành vi. Chẳng hạn: người cụt tay hoặc cụt chân thì khơng q khó để
họ có thể tiếp nhận thông tin và giao tiếp; người khuyết tật về nghe, nói, nhìn vẫn có
thể giao tiếp, hoạt động bình thường thơng qua những ngơn ngữ, ký hiệu, chữ dành
riêng cho người khuyết tật6. Như vậy, để rơi vào “tình trạng thể chất” mà khơng đủ
khả năng nhận thức, làm chủ hành vi, thì những khiếm khuyết này phải gây ra cho
họ gặp khó khăn trong việc nhận thức, điều khiển hành vi của mình và cần đến sự
hỗ trợ từ người khác.
Khác với tình trạng thể chất, tình trạng “tinh thần” là tình trạng liên quan đến
“những tình cảm, ý nghĩ định hướng, quyết định đến hành động của con người”7.
Tình trạng tinh thần có thể là tình trạng giảm sút trí nhớ, bị hoang tưởng, khả năng

diễn đạt ý chí do tuổi già,... dẫn đến sự khó khăn trong việc nhận thức và biểu đạt ý
chí của mình. Nhóm người rơi vào “tình trạng thể chất” thường tập trung vào nhóm
người cao tuổi8, vì hầu hết người cao tuổi do hệ thần kinh trung ương bị lão hóa dần
dần, nên làm cho trí nhớ kém, hay qn. Tuy nhiên, không phải tất cả người cao
tuổi đều gặp tình trạng có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi mà ngược lại,
có những người rất cao tuổi nhưng họ lại rất sáng suốt, minh mẫn9.
Định nghĩa về người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi (Điều 23) đã
tạo nên một sự phân biệt với người mất năng lực hành vi dân sự (Điều 22). Cụ thể,
người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi là người không đủ khả năng
nhận thức, làm chủ hành vi nhưng “chưa đến mức mất năng lực hành vi dân sự”.
Điều 20 BLDS năm 2015.
Hoàng Phê (2003), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, tr. 622.
6
Khoa luật Dân sự trường đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh, Bảo vệ quyền lợi của người yếu thế trong lĩnh
vực dân sự, Hội thảo, tr. 194.
7
Điều 19 BLDS năm 2015.
8
Theo Điều 2 Luật Người cao tuổi 2009 quy định: “Người cao tuổi được quy định trong Luật này là công
dân Việt Nam từ đủ 60 tuổi trở lên.
9
Bộ Tư pháp (2017), Những điểm mới cơ bản của Bộ luật Dân sự 2015, Nxb. Lao động, tr.59.
4
5


9

Vậy “mất năng lực hành vi dân sự” là gì? Theo từ điển Tiếng việt, “mất” là “khơng
có, khơng tồn tại nữa”10; năng lực hành vi dân sự là “khả năng của cá nhân bằng

hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự”11. Theo đó, mất năng
hành vi dân sự là cá nhân khơng có khả năng tự mình xác lập tất cả các quyền và
nghĩa vụ dân sự. Dưới góc độ pháp lý, người mất năng lực hành vi dân sự là “người
do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được
hành vi...”12.
Như vậy, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi được hiểu là
người không đủ khả năng nhận thức, làm chủ hành vi để xác lập, thực hiện giao
dịch dân sự tại một thời điểm nhất định, do tình trạng thể chất hoặc tinh thần của họ
không cho phép, nhưng chưa đến mức khơng thể tự mình xác lập tất cả các quyền
và nghĩa vụ dân sự. Trên thực tế, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành
vi thường là những người bị bệnh tâm thần nhưng chưa đến mức mất năng lực hành
vi dân sự, người bị tai nạn phải nằm điều trị lâu ngày trong bệnh viện13. Ngồi ra,
đó có thể là những trường hợp mắc các bệnh suy giảm trí nhớ (Alzheimer14) hoặc
bệnh run tay (Parkinson15), họ khó có thể nhận thức, làm chủ hành vi của mình16.

Hồng Phê (2003), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, tr. 622.
Điều 19 BLDS năm 2015.
12
Điều 22 BLDS năm 2015.
13
Nguyễn Văn Cừ - Trần Thị Huệ (đồng chủ biên) (2017), Bình luận Bộ luật dân sự 2015, Nxb. Công an
nhân dân, tr. 59.
14
Theo Juebin Huang , MD, PhD, Department of Neurology, University of Mississippi Medical Center:
Bệnh Alzheimer, một bệnh lý nhận thức thần kinh, là nguyên nhân phổ biến nhất của sa sút trí tuệ. Với các
triệu chứng như: Mất trí nhớ ngắn hạn, các thiếu hụt nhận thức khác có xu hướng liên quan đến nhiều chức
năng, bao gồm những lĩnh vực sau: Suy giảm khả năng lập luận, khó khăn trong giải quyết các công việc
phức tạp, và khả năng đánh giá kém. Rối loạn chức năng ngôn ngữ (ví dụ, khó khăn trong việc suy nghĩ về
những từ thơng dụng, lỗi trong nói và/hoặc viết). Rối loạn chức năng thị giác khơng gian (ví dụ, khơng có
khả năng nhận dạng khuôn mặt hoặc các đồ vật thường gặp. Rối loạn hành vi (ví dụ như đi lang thang, kích

động, la hét, hoang tưởng bị hại).
Nguồn: />15
Theo Bác sĩ A.Q. RANA (bác sĩ thần kinh), Chương trình về bệnh Parkinson Quốc tế Toronto, Canada
năm 2008:
Bệnh Parkinson là một bệnh do thối hóa hệ thần kinh gây ra, với các triệu chứng chính của bệnh bao gồm:
run bàn tay, cánh tay hoặc chân, thường khởi phát ở một bên người, run xuất hiện ở tư thế nghỉ, khi thực hiện
các công việc thường ngày thì cử động bị chậm chạp, bước chân bị chậm và kéo lê bước, rối loạn về thăng
bằng, và cứng đờ các cơ bắp. Khi bệnh tiến triển thì về sau sẽ có các triệu chứng như: giảm biểu cảm của nét
mặt,táo bón, rối loạn về giấc ngủ, giọng nói thều thào, rối loạn trí nhớ và rối loạn chức năng tư duy, trầm cảm,
lo sợ, rối loạn cảm giác...
Nguồn: />16
Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh (2017), Giáo trình những quy định chung về luật dân sự,
Nxb.Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam, tr. 119.
10
11


10

1.2. Ý nghĩa của việc bảo vệ người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành
vi
Khi tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự, không phải chủ thể nào cũng có năng
lực hành vi đầy đủ. Thực tế cho thấy, khơng ít những cá nhân khơng đủ khả năng
nhận thức hay khó có thể làm chủ được hành vi của mình, nhưng khơng hồn tồn
mất năng lực hành vi dân sự. Người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi
chính là một ví dụ điển hình cho trường hợp này. Vì những hạn chế nhất định về
tình trạng thể chất hoặc tinh thần nên người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ
hành vi khơng thể tự bảo vệ mình trong mọi giao dịch dân sự. Sự tồn tại của các quy
định về người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi mang lại nhiều ý nghĩa
lớn, cụ thể:

Một là, đáp ứng đòi hỏi cấp thiết từ thực tiễn trong việc bảo vệ người có khó
khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, là người “yếu thế” trong quan hệ pháp luật
dân sự. Về bản chất, quan hệ dân sự là được thiết lập trên cơ sở bình đẳng, thỏa
thuận và tự do ý chí. Các bên tham gia quan hệ dân sự phải là các chủ thể bình đẳng
về khả năng thực hiện quyền và nghĩa vụ. Trong khi đó, người có khó khăn trong
nhận thức, làm chủ hành vi là người không đủ khả năng nhận thức và làm chủ hành
vi của mình. Điều này có thể xuất phát từ tuổi tác, khiếm khuyết về thể chất hoặc
hạn chế về tinh thần. Khi tham gia vào những quan hệ nhất định, họ khó có thể tự
mình thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ dân sự, cũng như không thể tự mình
bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng phát sinh từ các quan hệ pháp luật dân sự
như những đối tượng khác. Vì vậy, có thể hiểu người có khó khăn trong nhận thức,
làm chủ hành vi chính là người “yếu thế” trong quan hệ dân sự17.
Tuy nhiên, BLDS năm 2005 chỉ quy định người mất năng lực hành vi dân sự và
người hạn chế năng lực hành vi dân sự. Nhưng trên thực tế người có khó khăn trong
nhận thức, làm chủ hành vi cũng là bên yếu thế cần được bảo vệ. Trong tình huống
này, Tịa án không thể viện dẫn bất kỳ quy định nào trong BLDS năm 2005 để bảo
vệ nhóm có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, vì những người này không
rơi vào trường hợp mất năng lực hay hạn chế năng lực dân sự18. Vì vậy, BLDS năm
Trần Thị Diệu Hương (2019), “Bảo vệ người yếu thế trong Luật dân sự”, Nghiên cứu lập pháp, Số 6 (382).
Nguồn: />18
Đỗ Văn Đại (chủ biên) (2016), Bình luận khoa học những điểm mới của Bộ luật Dân sự 2015, Nxb Hồng
Đức - Hội Luật gia Việt Nam, tr.53.
17


11

2015 đã ghi nhận và quy định về người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành
vi. Qua đó, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi sẽ được bảo vệ bởi
chế định giám hộ, Tòa án sẽ chỉ định người giám hộ để chăm sóc, bảo vệ quyền và

lợi ích hợp pháp (Điều 23). Điều này, tạo hành lang pháp lý bảo vệ tốt nhất quyền
lợi của người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi. Đồng thời, đáp ứng
yêu cầu cấp thiết từ thực tiễn trong việc bảo vệ người có khó khăn trong nhận thức,
làm chủ hành vi - người “yếu thế” trong quan hệ pháp luật dân sự.
Ngoài ra, việc bổ sung thêm quy định về người có khó khăn trong nhận thức, làm
chủ hành vi, khiến cho sự phân hóa các mức độ năng lực hành vi dân sự trong
BLDS năm 2015 được chi tiết hơn. Sự phân hóa chi tiết này giúp bao quát được
nhiều hơn các chủ thể thiếu năng lực hành vi dân sự cần được bảo vệ trên thực tế.
Trong đó, tương ứng với mỗi mức độ năng lực hành vi dân sự, sẽ có những chế định
pháp lý phù hợp với từng đối tượng, ví dụ: người mất năng lực hành vi dân sự (Điều
22), người khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi (Điều 23), người hạn chế
năng lực hành vi dân sự (Điều 24)... Qua đó, góp phần bảo vệ tốt hơn quyền lợi của
nhóm chủ thể có những hạn chế nhất định về thể lực hoặc trí lực khi tham gia vào
các quan hệ pháp luật.
Hai là, quy định về người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi giúp
tạo sự ổn định trong mối quan hệ pháp luật dân sự. Về nguyên tắc thì các chủ thể
khi tham gia giao kết hợp đồng phải có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi
dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập19. Nhưng trên thực tế, có những
trường hợp một người vì lý do sức khỏe hay tinh thần mà gặp khó khăn trong nhận
thức, vẫn tham gia vào quan hệ dân sự. Nếu khơng quy định cơ chế về người có khó
khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi thì rất khó đảm bảo được sự bình đẳng, sự
thiện chí khi tham gia vào quan hệ pháp luật của nhóm chủ thể này. Dẫn đến khi
giao dịch dân sự vô hiệu do không đáp ứng được yêu cầu về mặt năng lực hành vi
dân sự của các bên tham gia, thì tranh chấp có thể phát sinh, gây mất sự ổn định
trong các mối quan hệ pháp luật dân sự.
Mặc khác, khi bổ sung quy định điều chỉnh về người có khó khăn trong nhận
thức, làm chủ hành vi thì giao dịch dân sự của người này sẽ do người giám hộ thay
mặt thực hiện. Khi thông qua người giám hộ, giao dịch của họ được xác lập mà vẫn
19


Điều 17 BLDS năm 2015.


12

đảm bảo theo đúng quy định của pháp luật. Đồng thời, quy định thể hiện rõ, trường
hợp giao dịch với chủ thể nào là hợp pháp, trường hợp giao dịch bị tun bố vơ hiệu,
để bên giao kết có thể dự liệu được rủi ro. Do đó, hạn chế thấp nhất tranh chấp có
thể xảy ra. Quy định này cịn là hành lang pháp lý, tạo điều kiện thuận lợi cho Tịa
án có cơ sở pháp lý rõ ràng để giải quyết tranh chấp có liên quan đến người có khó
khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi. Lúc này, tranh chấp được giải quyết mà vẫn
đảm bảo công bằng theo đúng quy định của pháp luật, hạn chế tranh chấp kéo dài.
Từ đó, giúp tạo sự ổn định trong mối quan hệ pháp luật dân sự.
Ba là, quy định về người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi góp
phần tạo mơi trường pháp lý bình đẳng giữa người có khó khăn trong nhận thức,
làm chủ hành vi và các chủ thể khác. Khi Tòa án tuyên bố một người có khó khăn
trong nhận thức, làm chủ hành vi, đồng thời Tòa án cũng chỉ định người giám hộ
cho chủ thể này (Điều 23). Thông qua quyền và nghĩa vụ của mình, người giám hộ
khơng chỉ chăm sóc, bảo vệ quyền và lợi ích cho người có khó khăn trong nhận
thức, làm chủ hành vi, mà cịn đại diện trong các giao dịch dân sự để bảo vệ người
này. Như vậy, mặc dù người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi không
đủ năng lực hành vi dân sự để tham gia vào giao dịch, nhưng họ vẫn có thể tham
gia giao dịch bình đẳng như những chủ thể khác thông qua người giám hộ. Lúc này,
các bên trong giao dịch sẽ bình đẳng với nhau về quyền và nghĩa vụ. Qua đó có thể
thấy, quy định về người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi góp phần
tạo mơi trường pháp lý bình đẳng giữa người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ
hành vi và các chủ thể khác.
Bốn là, quy định về người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi thể
hiện việc bắt kịp và hòa nhập của pháp luật Việt Nam với hệ thống pháp luật của
các quốc gia khác trên thế giới. Trên thực tế, trước khi BLDS năm 2015 được ban

hành, pháp luật một số nước trên thế giới cũng đã công nhận và bảo vệ những
người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi này. Điển hình như BLDS
Nhật Bản năm 1896 (sửa đổi năm 2006), mặc dù không dùng cụm từ: “người có
khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi” như trong BLDS năm 2015 của Việt
Nam, nhưng Điều 11 BLDS Nhật Bản có quy định, một số người do không đủ nhận
thức vào một thời điểm cụ thể để thực hiện một số giao dịch nhất định hoặc việc
xác lập thực hiện trong thời điểm đó, có thể khơng phản ánh đúng ý chí, lý trí của
người này thì người này, hoặc người thân trong gia đình, người giám sát, công tố


13

viên có quyền u cầu Tịa án chỉ định một người phụ tá20. Tương tự như vậy,
nhóm chủ thể này cũng được quy định trong BLDS Pháp năm 201521, Bộ luật Dân
sự và Thương mại Thái lan năm 1915 (sửa đổi năm 2021)22... Trên tinh thần đó,
BLDS năm 2015 lần đầu tiên thừa nhận người có khó khăn trong nhận thức, làm
chủ hành vi là đối tượng đặc biệt cần được bảo vệ khi tham gia giao dịch dân sự.
Điều này góp phần tạo lập một chế định pháp luật hoàn thiện, bắt kịp và phù hợp
với xu thế phát triển của thế giới.
Như vậy, việc bổ sung quy định về người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ
hành vi là điều cần thiết và mang nhiều ý nghĩa. Khơng chỉ đảm bảo tối đa quyền
lợi của nhóm chủ thể này - người yếu thế trong quan hệ dân sự, mà quy định cịn
tạo nên mơi trường pháp lý bình đẳng giữa cá nhân có khó khăn trong nhận thức,
điều khiển hành vi với các chủ thể khác, góp phần tạo sự ổn định trong quan hệ
pháp luật dân sự. Đặc biệt, việc bổ sung quy định này không chỉ hoàn thiện chế
định pháp luật dân sự ở Việt Nam, mà còn phù hợp với xu thế phát triển của thế
giới.
1.3. Pháp luật hiện hành về người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành
vi
1.3.1. Điều kiện xác định cá nhân là người có khó khăn trong nhận thức, làm

chủ hành vi
Mặc dù, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi có thể là người có
những dấu hiệu như tâm thần, bị hoang tưởng, đãng trí hay khuyết tật về nghe, nói
nhìn.... Tuy nhiên, để xác định một người là có khó khăn trong nhận thức, làm chủ
hành vi thì khơng chỉ dựa vào những nhận biết về biểu hiện bên ngoài, mà phải thỏa
mãn một số điều kiện luật định tại khoản 1 Điều 23 BLDS năm 2015. Theo quy
định, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi phải là người thành niên,
do tình trạng thể chất hoặc tinh thần mà không đủ khả năng nhận thức, làm chủ
Đỗ Văn Đại (chủ biên) (2016), Bình luận khoa học những điểm mới của Bộ luật Dân sự 2015, Nxb Hồng
Đức - Hội Luật gia Việt Nam, tr. 53.
21
Điều 490 BLDS Pháp năm 2015, quy định: “Nếu khả năng về tinh thần của người đó bị suy giảm do bệnh
tật, do tật nguyền hoặc tuổi tác thì những quyền lợi của người đó được đảm bảo bằng một trong những chế độ
bảo hộ quy định tại các chương dưới đây. Những chế độ bảo hộ này cũng được áp dụng cũng được áp dụng
đối với trường hợp biến đổi về thể chất nếu việc biến đổi đó cản trở việc bày tỏ ý chí”.
22
Điều 34 Bộ luật Dân sự và Thương mại Thái Lan năm 1915 (sửa đổi năm 2021): “Một người không có khả
năng điều hành cơng việc của chính mình do tật nguyền thân thể hoặc do tinh thần hoang tưởng thường
xun hoặc say xưa thường xun, có thể bị Tịa án phán quyết coi như khơng có khả năng và đặt dưới sự
trơng nom, chăm sóc theo đơn u cầu của bất cứ người nào nói ở Điều 29”.
20


14

hành vi nhưng chưa đến mức mất năng lực hành vi dân sự. Tuy nhiên, để một người
được xem là khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi thì phải có quyết định
tun bố của Tịa án, dựa trên cơ sở kết luận pháp y tâm thần và điều kiện kèm theo
là đơn yêu cầu của chính người này, người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ
quan, tổ chức hữu quan. Như vậy, để xác định là người có khó khăn trong nhận thức,

làm chủ hành vi thì phải thỏa mãn được năm yếu tố sau: (1) người thành niên; (2)
tình trạng thể chất hoặc tinh thần không đủ khả năng nhận thức, làm chủ hành vi
nhưng chưa đến mức mất năng lực hành vi dân sự; (3) chủ thể u cầu là chính
người này, người có quyền, lợi ích liên quan hoặc cơ quan, tổ chức hữu quan; (4) cơ
sở kết luận giám định pháp y tâm thần của cơ quan có thẩm quyền; (5) tồn tại quyết
định của Tòa án , cụ thể như sau:
Một là, người thành niên:
Theo Điều 23 BLDS năm 2015 thì người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ
hành vi phải là người thành niên. Điều 20 BLDS năm 2015 quy định: người thành
niên là “người từ đủ mười tám tuổi trở lên”. Như vậy, người có khó khăn trong
nhận thức, làm chủ hành vi phải là người từ đủ 18 tuổi trở lên. Điều này, khác với
người mất năng lực hành vi dân sự và người hạn chế năng lực hành vi dân sự.
BLDS năm 2015 không quy định cụ thể về vấn đề người mất năng lực hành vi dân
sự, người hạn chế năng lực hành vi dân sự có phải là người thành niên hay khơng.
Cũng vì thế, người mất năng lực hành vi dân sự và hạn chế năng lực hành vi dân sự
có thể là người thành niên hoặc chưa thành niên.
Trên thực tế, quy định về người mất năng lực hành vi dân sự và người hạn chế
năng lực hành vi dân sự thường chỉ áp dụng cho người đã thành niên, bởi những lý
do sau: Thứ nhất, theo Điều 53 về người giám hộ đương nhiên của người mất năng
lực hành vi dân sự, người giám hộ cho họ có thể là vợ hoặc chồng, con, hoặc có thể
được giám hộ bởi cha, mẹ. Vì người giám hộ là vợ, chồng hoặc một trong số những
người con nên gần như có thể suy ra, người mất năng lực hành vi dân sự là người đã
thành niên. Thứ hai, đối với người hạn chế năng lực hành vi, về mặt pháp lý, người
chưa thành niên chỉ thực hiện những giao dịch phục vụ nhu cầu sinh hoạt hằng ngày
phù hợp với lứa tuổi (người chưa đủ sáu tuổi phải thông qua người đại diện) trừ một
số trường hợp tại khoản 4 Điều 21. Trong một số trường hợp người đại diện có thể
yêu cầu Tịa án tun bố giao dịch dân sự vơ hiệu theo Điều 125 BLDS năm 2015.
Đồng thời pháp luật cũng quy định bảo vệ người chưa thành niên bằng việc phải có



15

người đại diện theo pháp luật (Điều 21, Điều 136 BLDS năm 2015). Vì thế, có thể
khơng cần áp dụng quy định về người hạn chế năng lực hành vi dân sự cho người
chưa thành niên lâm vào tình trạng nghiện ma túy, nghiện các chất kích thích khác
vẫn có thể bảo vệ hiệu quả quyền lợi của nhóm chủ thể này23.
Hai là, tình trạng thể chất hoặc tinh thần mà không đủ khả năng nhận thức, làm
chủ hành vi nhưng chưa đến mức mất năng lực hành vi dân sự.
Như đã phân tích ở mục 1.1, tình trạng thể chất hoặc tinh thần có thể là những
tình trạng như: một người cụt tay, cụt chân, mù mắt hoặc giảm sút trí nhớ... Tuy
nhiên, tình trạng này phải khiến cho người thành niên không đủ khả năng nhận thức,
làm chủ hành vi của mình. Theo Từ điển tiếng việt, “đầy đủ” nghĩa là có đủ tất cả,
khơng thiếu thứ gì so với yêu cầu, qua đó, có thể suy ra “khơng đủ” là thiếu thứ gì
đó so với u cầu. Như vậy, tình trạng thể chất hoặc tinh thần này phải khiến cho
người đó khơng đủ khả năng nhận thức hoặc điều khiển hành vi để có thể thực hiện
một số quyền và nghĩa vụ dân sự của mình so với người có đầy đủ năng lực hành vi
dân sự. Ví dụ như: một người bị tai nạn, bác sĩ phải cưa tay, cưa chân. Tình trạng
này khiến họ gặp khó khăn trong việc điều khiển hành vi khi khơng thể tự chăm sóc
bản thân, cũng như tự mình thực hiện các giao dịch. Tương tự như vậy, một người
bị suy giảm trí nhớ, lúc nhớ, lúc qn. Tình trạng này khiến họ gặp khó khăn trong
việc nhận thức, nếu tham gia vào giao dịch dân sự hay những quan hệ khác, thì có
thể khơng tự bảo vệ được quyền lợi của bản thân.
Mặc khác, tình trạng khiến cho khả năng nhận thức, làm chủ hành không được
đầy đủ nhưng “chưa đến mức mất năng lực hành vi dân sự”. Đây cũng là điểm phân
biệt giữa người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi với người mất năng
lực hành vi dân sự, khi mà cả hai chủ thể này đều bị tác động về mặt tinh thần hoặc
những bệnh khác mà ảnh hưởng đến biểu đạt ý chí chính xác của mình. Theo đó, họ
vẫn có một khả năng nhận thức nhất định chứ khơng hồn tồn rơi vào tình trạng
mất khả năng nhận thức và làm chủ hành vi.
Ba là, có yêu cầu của người được xem là có người có khó khăn trong nhận thức,

làm chủ hành vi, người có quyền, lợi ích liên quan hoặc cơ quan, tổ chức hữu quan

Thân Thị Ngọc Bích (2017), “Quy định về hạn chế năng lực hành vi dân sự trong Bộ luật Dân sự 2015”,
Kinh tế và Pháp luật (tập 48), tr.2.
23


16

Theo Điều 23 BLDS năm 2015 thì Tịa án ra quyết định tuyên bố người có khó
khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi theo yêu cầu của “người đó, người có quyền,
lợi ích liên quan hoặc cơ quan, tổ chức hữu quan”. Tịa án khơng thể tự mình có
thể can thiệp tuyên bố một người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi mà
phải có đơn yêu cầu của một trong ba chủ thể: (1) chính người có khó khăn trong
nhận thức, làm chủ hành vi; (2) người có quyền, lợi ích liên quan; hoặc (3) cơ quan,
tổ chức hữu quan.
Đối chiếu với pháp luật của một số quốc gia trên thế giới, về người có quyền u
cầu tịa án tun bố một người là có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, có
thể nhận thấy, người yêu cầu trong pháp luật một số quốc gia được quy định một
cách cụ thể hơn. Ví dụ như BLDS Pháp năm 2015 quy định: “Thẩm phán phụ trách
giám hộ sẽ tuyên bố tổ chức việc giám hộ theo yêu cầu của người cần được bảo hộ,
của vợ hoặc chồng của người đó nếu đời sống chung giữa vợ và chồng chưa chấm
dứt, các tôn thuộc, ti thuộc, anh chị em ruột của người đó, của người trợ quản và
của Viện Cơng tố”24. Bên cạnh đó, Bộ luật Dân sự và Thương Mại Thái Lan năm
1915 (sửa đổi năm 2021)25 hay BLDS Nhật bản năm 1896 (sửa đổi năm 2006)26...
cũng quy định tương tự về vấn đề này. Như vậy, so với BLDS năm 2015 của Việt
Nam quy định chủ thể có quyền yêu cầu là “cơ quan, tổ chức hữu quan” hay ‘người
có quyền, lợi ích liên quan”, thì pháp luật các quốc gia khác lại quy định một cách
cụ thể thẩm quyền yêu cầu thuộc về những chủ thể xác định như vợ hoặc chồng,
người thân thích trong phạm vi bốn đời, cơng tố viên... Qua đó cho thấy, người có

quyền u cầu Tịa án tun bố ở các nước có phạm vi hẹp hơn quy định của nước
ta.
Bốn là, có kết luận giám định pháp y tâm thần từ cơ quan chun mơn có thẩm
quyền
Kết luận giám định pháp y tâm thần được xem là cơ sở để Tòa án đưa ra quyết
định tuyên bố một người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi (Điều 23).
Điều 493 BLDS Pháp năm 2015.
Điều 29 Bộ luật Dân Sự và Thương Mại Thái Lan năm 1915 (sửa đổi năm 2021): “Một người không được
minh mẫn có thể bị Tịa án tun bố là khơng có khả năng, theo yêu cầu của vợ, chồng, em, cháu gái, người
giám hộ, người trông nom hoặc của ủy viên công tố”.
26
Điều 11 BLDS Nhật Bản năm 1896 (bản sửa đổi năm 2006): “ Một người khơng có đủ năng lực để đánh
giá đúng hoặc sai do bất kỳ khuyết tật tâm thần nào, tịa án gia đình có thể ra lệnh bắt đầu quản lý theo yêu
cầu của chính người này; vợ hoặc chồng, họ hàng, người thân trong phạm vi bốn đời; người giám hộ, người
giám sát của người giám hộ, người trợ lý, người giám sát của người trợ lý, hoặc một công tố viên”.
24
25


17

Theo Điều 377 BLTTDS năm 2015, trong quá trình giải quyết đơn yêu cầu tuyên bố
một người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, Tòa án phải trưng cầu
giám định pháp y tâm thần đối với người bị yêu cầu. Sau khi nhận được kết luận
giám định, Tòa án ra quyết định mở phiên họp để xét đơn yêu cầu. Như vậy, để
đánh giá về tình trạng thể chất và tinh thần của một người, Tòa án cần có sự hỗ trợ
từ phía cơ quan chun mơn, mà cụ thể trong trường hợp này là cơ quan giám định
về pháp y tâm thần có thẩm quyền27. Các cơ quan giám định phải tuân thủ nghiêm
ngặt quy trình giám định mà pháp luật đặt ra28. Có thể thấy, kết luận giám định pháp
y tâm thần là căn cứ khoa học quan trọng cho việc xác định liệu một người có rơi

vào tình trạng có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi hay không. Không chỉ
ở Việt Nam, tại rất nhiều quốc gia trên thế giới, việc ra các phán quyết liên quan
đến năng lực hành vi dân sự của cá nhân cũng đều được thực hiện dựa trên kết luận
giám định của cơ quan chuyên môn có thẩm quyền. Chẳng hạn như Cộng Hịa pháp,
tại BLDS Pháp năm 2015 có quy định, mọi sự biến đổi về thể chất hoặc tinh thần
của một người phải được xác định về mặt y học29 và thẩm phán khi đưa ra các quyết
định thực hiện bảo hộ thì cần tham khảo ý kiến của bác sĩ điều trị30.
Trên thực tế, nếu chỉ dựa vào những biểu hiện bên ngoài của một người thì rất
khó để xác định họ rơi vào tình trạng nào. Đặc biệt, trong việc xác định giữa người
có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi hay mất năng lực hành vi dân sự, vì
họ đều có những hạn chế nhất định về mặt thể lực hoặc trí lực. Chính vì thế, để đưa
ra quyết định một cách chính xác thì Tịa án cũng phải căn cứ vào giám định pháp y
tầm thần. Sau đây là một ví dụ điển hình: Ơng Huỳnh Ngọc T bị bệnh bẩm sinh,
mọi sinh hoạt hằng ngày như ăn uống, tắm giặt, ngủ nghỉ đều phải dựa vào sự hỗ trợ
từ người thân trong gia đình. Những dấu hiệu này làm người thân của ông T, cụ thể
là bà Huỳnh Thị Ngọc L (em ruột) nhận định ông T là người mất năng lực hành vi
dân sự. Ngày 27/4/2020, bà Huỳnh Thị Ngọc L đã yêu cầu Tòa án tuyên bố ông T là
Theo khoản 3 Điều 12 Luật giám định tư pháp 2012 (sửa đổi, bổ sung năm 2020): Tổ chức giám định tư
pháp công lập về pháp y tâm thần bao gồm:
a) Viện pháp y tâm thần trung ương thuộc Bộ Y tế;
b) Trung tâm pháp y tâm thần khu vực thuộc Bộ Y tế.
Căn cứ yêu cầu giám định pháp y tâm thần của hoạt động tố tụng và điều kiện thực tế của các khu vực, vùng
miền trong cả nước, Bộ trưởng Bộ Y tế xem xét, quyết định thành lập Trung tâm pháp y tâm thần khu vực
sau khi thống nhất ý kiến với Bộ trưởng Bộ Tư pháp.
28
Thông tư số 23/2019/TT-BYT ngày 28 tháng 08 năm 2019 của Bộ Y tế về Ban hành quy trình giám định
pháp y tâm thần và biểu mẫu sử dụng trong giám định pháp y tâm thần.
29
Điều 490 BLDS Pháp năm 2015.
30

Điều 490 - 1 BLDS Pháp năm 2015.
27


×