Tải bản đầy đủ (.pdf) (211 trang)

Bồi thường thiệt hại về tinh thần khi danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.17 MB, 211 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN LÊ THẢO VI

BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI VỀ TINH
THẦN KHI DANH DỰ, NHÂN PHẨM, UY
TÍN BỊ XÂM PHẠM TRONG TRÁCH
NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI
NGỒI HỢP ĐỒNG
KHĨA LUẬN CHUN NGÀNH LUẬT DÂN SỰ

TP. HỒ CHÍ MINH - THÁNG 7 - NĂM 2021


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
Phụ lục 2:
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH
Mẫu trang phụ bìa (Khổ 210 x 297 mm)

NGUYỄN LÊ THẢO VI

BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI VỀ TINH THẦN KHI DANH DỰ, NHÂN
PHẨM, UY TÍN BỊ XÂM PHẠM TRONG TRÁCH NHIỆM BỒI
THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG

ThS. HỒNG VŨ CƯỜNG

TP. HỒ CHÍ MINH - THÁNG 7 - NĂM 2021



LỜI CAM ĐOAN
Tơi cam đoan Khóa luận tốt nghiệp này là kết quả nghiên cứu của riêng tôi, được
thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của ThS. Hoàng Vũ Cường - Giảng viên Khoa
Luật Dân sự, trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, đảm bảo tính trung thực và
tuân thủ các quy định về trích dẫn, chú thích tài liệu tham khảo.
Tơi xin chịu hồn tồn trách nhiệm về lời cam đoan này.
Tp. Hồ Chí Minh, ngày 7 tháng 7 năm 2021
Tác giả khóa luận

Nguyễn Lê Thảo Vi


LỜI CẢM ƠN
Trong q trình thực hiện Khóa luận, bên cạnh sự nỗ lực của bản thân, thì khơng
thể khơng kể đến sự giúp đỡ, ủng hộ và tin tưởng từ gia đình và bạn bè, từ tận đáy lịng,
mình xin gửi lời cảm ơn.
Em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến Thầy Hoàng Vũ Cường - người thầy đã rất tận
tình giúp đỡ, hướng dẫn và đồng hành cùng em trong suốt thời gian viết khóa luận này.
Em cũng xin gửi lời cảm ơn đến quý thầy cô trường Đại học Luật Thành phố Hồ
Chí Minh đã ln tận tâm giảng dạy, truyền đạt cho em những kiến thức quý giá trong
suốt quá trình học tập, rèn luyện của em. Đồng thời, xin cảm ơn Thư viện Trường đã tạo
điều kiện để em có thể tiếp cận kiến thức trong bối cảnh khó khăn như hiện nay.
Xin chân thành cảm ơn tất cả!


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
TỪ VIẾT TẮT

NỘI DUNG ĐƯỢC VIẾT TẮT


BLDS

Bộ luật Dân sự

BLDS 1995

Bộ luật Dân sự năm 1995

BLDS 2005

Bộ luật Dân sự năm 2005

BLDS 2015

Bộ luật Dân sự năm 2015

BTTH

Bồi thường thiệt hại

Luật TNBTCNN 2009

Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà
nước năm 2009

Luật TNBTCNN 2017

Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà
nước năm 2017


TAND

Tòa án Nhân dân

TNBTCNN

Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước


MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU ................................................................................................................. 1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI VỀ
TINH THẦN KHI DANH DỰ, NHÂN PHẨM, UY TÍN BỊ XÂM PHẠM .............. 7
1.1. Khái niệm, đặc điểm trách nhiệm bồi thường thiệt hại về tinh thần khi danh
dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm ........................................................................ 7
1.1.1. Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại về tinh thần khi danh dự,
nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm ........................................................................... 7
1.1.1.1. Khái niệm về danh dự, nhân phẩm, uy tín và quyền được bảo vệ danh dự,
nhân phẩm, uy tín ................................................................................................. 7
1.1.1.2. Khái niệm về thiệt hại tinh thần trong pháp luật dân sự ....................... 10
1.1.1.3. Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại về tinh thần khi danh dự,
nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm ......................................................................... 14
1.1.2. Đặc điểm trách nhiệm bồi thường thiệt hại về tinh thần khi danh dự,
nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm ......................................................................... 15
1.2. Quy định pháp luật hiện hành về trách nhiệm bồi thường thiệt hại về tinh
thần khi danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm ............................................. 19
1.2.1. Căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại về tinh thần khi
danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm......................................................... 19
1.2.2.1. Có hành vi xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác ..... 19

1.2.2.2. Có thiệt hại về tinh thần ........................................................................ 22
1.2.2.3. Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi xâm phạm đến danh dự, nhân
phẩm, uy tín và thiệt hại về tinh thần ................................................................. 24
1.2.2. Về yếu tố “lỗi” trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại về tinh thần do
danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm......................................................... 28


1.2.3. Chủ thể trong quan hệ bồi thường thiệt hại về tinh thần do danh dự,
nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm ......................................................................... 30
1.2.3.1. Chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại ...................................... 30
1.2.3.2. Chủ thể được bồi thường thiệt hại......................................................... 32
1.2.4. Mức bồi thường thiệt hại về tinh thần khi danh dự, nhân phẩm, uy tín bị
xâm phạm .............................................................................................................. 36
1.3. Lịch sử phát triển các quy định của pháp luật về bồi thường thiệt hại về tinh
thần khi danh dự, uy tín, nhân phẩm bị xâm phạm ở Việt Nam ......................... 41
1.3.1. Trước năm 1945 ......................................................................................... 41
1.3.2. Từ năm 1945 đến trước khi có Bộ luật Dân sự 1995 .............................. 42
1.3.3. Từ khi có Bộ luật Dân sự 1995 đến nay ................................................... 43
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ......................................................................................... 45
CHƯƠNG 2: THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT
HẠI VỀ TINH THẦN KHI DANH DỰ, NHÂN PHẨM, UY TÍN BỊ XÂM PHẠM
TRONG MỘT SỐ TRƯỜNG HỢP VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
........................................................................................................................................ 46
2.1. Mức bồi thường thiệt hại về tinh thần khi danh dự, uy tín của pháp nhân bị
xâm phạm .................................................................................................................. 46
2.2. Quyền được yêu cầu bồi thường thiệt hại về tinh thần của người thân thích
của người bị xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín ........................................... 48
2.3. Bồi thường thiệt hại về tinh thần khi danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm
phạm trên mạng xã hội ............................................................................................ 50
2.4. Bồi thường thiệt hại về tinh thần khi danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm

phạm trong trách nhiệm bồi thường của Nhà nước ............................................. 54
2.5. Bồi thường thiệt hại về tinh thần khi danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm
phạm trong trường hợp có hành vi khởi kiện vơ căn cứ ...................................... 56


2.6. Bồi thường thiệt hại về tinh thần khi danh dự, nhân phẩm, uy tín của bị xâm
phạm trong trường hợp có hành vi xâm hại tình dục........................................... 58
2.7. Kết hợp bồi thường thiệt hại về tinh thần khi danh dự, nhân phẩm, uy tín bị
xâm phạm và khi sức khỏe bị xâm phạm ............................................................... 61
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ......................................................................................... 64
KẾT LUẬN ................................................................................................................... 65
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................... 67
PHỤ LỤC ...................................................................................................................... 72


1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cuộc sống trên đời này không chỉ được cấu tạo bằng vật chất, ý nghĩa của cuộc
đời mỗi cá thể cũng như xã hội cịn được thể hiện bởi những giá trị vơ hình mà chúng ta
gọi là “tinh thần”. Một trong những giá trị tinh thần vĩ đại của nhân loại chính là danh
dự, nhân phẩm, uy tín. Xã hội lồi người càng phát triển, thì những giá trị về danh dự
của con người lại càng được đề cao, được quan tâm và bảo vệ.
Nước Việt Nam ta, một đất nước luôn đề cao giá trị tốt đẹp của con người, coi
trọng danh dự với phương châm: “tốt danh hơn lành áo”, “người chết nết còn”, vấn đề
bảo vệ các giá trị tinh thần của con người trước các hành vi xâm phạm luôn nhận được
sự quan tâm của Đảng và Nhà nước. Hiến pháp và các văn bản luật của Nhà nước đều
ghi nhận và bảo vệ một cách tuyệt đối các giá trị này. Mọi hành vi xâm phạm đến danh
dự, nhân phẩm và uy tín của chủ thể khác đều phải chịu chế tài nghiêm khắc. Một trong

các chế tài, đồng thời cũng là biện pháp để các chủ thể sử dụng bảo vệ quyền về danh
dự, nhân phẩm, uy tín cho mình chính là bồi thường thiệt hại (BTTH).
Bồi thường thiệt hại về tinh thần do xâm phạm danh dự, nhân phẩm và uy tín của
người khác là một nội dung của chế định BTTH ngoài hợp đồng và được quy định tại
Điều 592 của Bộ luật Dân sự năm 2015 (BLDS 2015). Đây là một chế định rất quan
trọng và cần được vận dụng tối đa để bảo vệ những giá trị tinh thần của chủ thể, vì khi
xâm phạm vào danh dự, nhân phẩm, uy tín - những yếu tố tinh thần, thì chính tinh thần
mới là thứ bị tổn thương hơn cả và cần phải được bồi thường để bù đắp, phục hồi.
Tuy nhiên BTTH về tinh thần khi danh dự, nhân phẩm và uy tín bị xâm phạm rất
phức tạp vì thiệt hại về tinh thần thì khơng ai có thể cân, đo, đong, đếm cụ thể chính xác
được, đồng thời bởi pháp luật cịn có những bất cập, chưa rõ ràng dẫn đến nhiều cách
hiểu khác nhau; việc áp dụng pháp luật BTTH về tinh thần khi danh dự, nhân phẩm, uy
tín bị xâm phạm là hoạt động tương đối khó khăn, chưa thống nhất và nhiều khi rất nhạy
cảm; có nhiều quan điểm khác nhau trong việc định nghĩa, nghiên cứu, thậm chí nhiều
quan điểm cho rằng BTTH về tinh thần chỉ nên mang tính tượng trưng. Việc giải quyết
vấn đề này địi hỏi người áp dụng pháp luật ngồi việc tn thủ quy định của pháp luật,
còn phải hết sức tinh tế, linh hoạt và nhiều khi dùng cả niềm tin nội tâm của mình để đưa
ra phán quyết, tuy nhiên đây cũng lại là một thách thức khó. Do vậy, hiện nay có đơi khi


2

quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể trong vấn đề BTTH về tinh thần khi quyền về
danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm chưa được quan tâm, bảo vệ đúng mức.
Với những nhận thức trên cùng mong muốn được góp một viên gạch vào cơng
cuộc bảo vệ những lợi ích tinh thần của chủ thể trong việc giải quyết những trường hợp
xâm phạm danh dự, nhân phẩm, giúp củng cố việc bảo vệ những quyền này trên thực tế,
góp phần hồn thiện pháp luật Việt Nam, tác giả đã chọn đề tài: “Bồi thường thiệt hại
về tinh thần khi danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm trong trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng” để trình bày trong khóa luận tốt nghiệp của mình.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Qua việc nghiên cứu, tìm hiểu về đề tài, tác giả nhận thấy ở Việt Nam, các tác giả
chủ yếu tập trung về đề tài trách nhiệm BTTH về tinh thần nói chung, nếu có đi sâu vào
những lĩnh vực cụ thể thì chủ yếu quan tâm đến trách nhiệm BTTH về tinh thần khi tính
mạng, sức khỏe bị xâm phạm hoặc BTTH về tinh thần trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ. Nếu
có đề cập đến trường hợp thiệt hại tinh thần khi danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm
thì chỉ đề cập thoáng qua trong tổng thể nghiên cứu về chế định BTTH ngoài hợp đồng,
BTTH về tinh thần nói chung; hoặc là những bài nghiên cứu đăng trên tạp chí có nội
dung sơ lược, phạm vi hẹp, chỉ đề cập một số khía cạnh của vấn đề. Thêm vào đó, nhiều
tác phẩm được viết dựa trên quy định của pháp luật dân sự cũ, thường là Bộ luật dân sự
năm 2005 (BLDS 2005) cũng như dựa trên tình hình xã hội, kinh tế lúc đó và do vậy,
khơng còn phù hợp khi đặt trong bối cảnh hiện nay.
Một số bài viết về đề tài này trên tạp chí như: “Căn cứ pháp lý nào để buộc bồi
thường khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần khi danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm
hại” của Lê Văn Sua trên Tạp chí Tịa án nhân dân số 3/2002, tác giả đã nêu lên sự bất
cập khi các tòa án tùy tiện áp dụng mức BTTH khác nhau khi phân tích hai vụ việc trên
thực tế, tuy nhiên tác giả chỉ đưa ra bất cập chứ không đề xuất được hướng giải quyết;
bài viết “Nguyên tắc tính mức bồi thường do danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân bị
xâm phạm” của Tưởng Duy Lượng - Tạp chí Tịa án nhân dân số 3 và số 4/2003 có đưa
ra được một số tiêu chí nhằm xác định các loại thiệt hại do hành vi xâm phạm danh dự,
nhân phẩm, uy tín của người khác đem lại về cả mặt vật chất lẫn tinh thần; “Về quy định
bồi thường thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm trong Bộ luật Dân sự
Việt Nam và hướng hồn thiện” của Phạm Kim Anh - Tạp chí Khoa học pháp lý số


3

3/2001, bên cạnh việc xác định các loại thiệt hại chung, tác giả có đề cập đến thiệt hại
tinh thần và một số khó khăn trong việc xác định loại thiệt hại này, tuy nhiên hạn chế là
tác giả chỉ giới hạn quyền được bảo vệ danh dự, uy tín, nhân phẩm trong phạm vi đó là

quyền của cá nhân, cũng như chưa đề cao và coi trọng biện pháp BTTH về tinh thần
trong trường hợp này; “Một số vấn đề về bồi thường thiệt hại do xâm phạm danh dự,
nhân phẩm, uy tín” của tác giả Nguyễn Thị Hồng Vân đăng trên trang điện tử của Tạp
chí Dân chủ và Pháp luật ngày 8/11/2016 đưa ra những vấn đề bất cập trong thực tiễn
xét xử, phân tích sự sửa đổi của BLDS 2015 về BTTH khi danh dự, nhân phẩm, uy tín
bị xâm phạm, tác giả cũng có đưa ra một số đề xuất sửa đổi, tuy nhiên chỉ đề cập một
cách cơ bản và chung chung;…
Một số công trình nghiên cứu lớn có đề cập đến vấn bề BTTH về tinh thần khi
danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm trong nội dung có thể kể đến: “Luật bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng Việt Nam - Bản án và Bình luận bản án 1” của tác giả Đỗ Văn
Đại tái bản năm 2016 là một công trình lớn, đề cập rất nhiều vấn đề trong lĩnh vực BTTH
ngoài hợp đồng, chủ đề BTTH về tinh thần khi danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm
chỉ chiếm một phần rất nhỏ trong tổng thể nghiên cứu và do đó, dù tác giả có đưa ra
những phân tích, thực tiễn xét xử, bất cập trong quy định của BLDS 2015 và hướng giải
quyết nhưng chưa toàn diện được các vấn đề tồn tại của chủ đề này; “Trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng do tổn thất về tinh thần theo pháp luật hiện hành”,
Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh của tác giả Nguyễn
Văn Huy năm 2010 và “Trách nhiệm bồi thường tổn thất về tinh thần theo pháp luật dân
sự Việt Nam”, Khóa luận tốt nghiệp, trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh của
tác giả Võ Thị Như Thương năm 2015 đều chỉ nêu rất chung chung về vấn đề danh dự,
nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm trong tổng thể nghiên cứu về BTTH tinh thần; “Bồi
thường tổn thất tinh thần do sức khỏe, tính mạng, danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá
nhân bị xâm phạm”, Luận văn Thạc sĩ luật học, trường Đại học Quốc gia Hà Nội của tác
giả Nguyễn Tôn năm 2010 là tác phẩm có đối tượng nghiên cứu khá gần với đề tài của
tác giả, tuy nhiên tác phẩm này lại đề cập sâu vào vấn đề khi tính mạng, sức khỏe bị xâm
phạm hơn, còn vấn đề danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm thì chỉ phân tích chung
chung cũng như khơng đưa ra những vấn đề mới…


4


Nhìn chung, vấn đề BTTH ngồi hợp đồng, trong đó có nội dung BTTH về tinh
thần do xâm phạm các quyền nhân thân của chủ thể là một chế định pháp luật quan trọng
được hầu hết các quốc gia trên thế giới quan tâm và Việt Nam cũng không ngoại lệ, tuy
nhiên, để tìm ra một cơng trình đi sâu nghiên cứu cụ thể lĩnh vực BTTH về tinh thần như
một biện pháp bảo vệ quyền về danh dự, nhân phẩm, uy tín của chủ thể trong xã hội theo
quy định của pháp luật dân sự hiện hành thì ở Việt Nam chưa có một cơng trình có hệ
thống, tồn diện.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Nhằm trả lời cho câu hỏi lớn của đề tài: Làm sao để vận dụng trách nhiệm BTTH
về tinh thần như một công cụ bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín và giá trị tinh thần cho
các chủ thể trong xã hội một cách tốt nhất? Khóa luận đã đặt ra những mục tiêu sau:
Thứ nhất, tìm hiểu một cách khái qt và tồn diện về cơ sở lý luận cũng như các
quy định của pháp luật về vấn đề bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín của chủ thể bằng
biện pháp BTTH về tinh thần.
Thứ hai, không chỉ dừng lại ở Việt Nam, mà cịn đưa ra được những góc nhìn đa
chiều từ những quan điểm, lý luận và quy định của các quốc gia khác trên thế giới. Đồng
thời đưa ra những bình luận, kiến nghị của tác giả về những vấn đề được đề cập.
Thứ ba, phân tích thực tiễn đời sống xã hội cũng như thực tiễn áp dụng pháp luật
khi giải quyết các vụ án, từ đó chỉ ra các vướng mắc, bất cập trong các quy định của pháp
luật cũng như một số quan niệm hiện hữu
Thứ tư, trên cơ sở những kiến thức lý luận và thực tiễn đã tìm hiểu được, từ đó đề
xuất được giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế trên, góp phần hoàn thiện pháp luật
về trách nhiệm BTTH về tinh thần khi danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm, giúp
đảm bảo công bằng xã hội.
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là trách nhiệm BTTH về tinh thần khi xâm
phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác trong chế định BTHH ngoài hợp đồng
theo quy định của pháp luật dân sự Việt Nam.
Đối tượng này được tác giả xác định chỉ nghiên cứu trong phạm vi sau:



5

Thứ nhất, trong trách nhiệm BTHH sẽ có BTTH ngồi hợp đồng và trong hợp
đồng, tuy nhiên khóa luận chỉ xem xét đối tượng trong phạm vi trách nhiệm BTHH ngoài
hợp đồng và chỉ xem xét BTHH về tinh thần.
Thứ hai, trách nhiệm BTTH về tinh thần là một vấn đề rộng, phát sinh trong các
trường hợp quyền, lợi ích hợp pháp khác của chủ thể bị xâm phạm, tuy nhiên tác giả chỉ
xem xét nghiên cứu về trách nhiệm BTHH được phát sinh khi có hành vi xâm phạm danh
dự, nhân phẩm, uy tín của chủ thể.
Thứ ba, khóa luận tập trung nghiên cứu chủ yếu các quy định tại BLDS 2015,
Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước (TNBTCNN) năm 2017, Nghị quyết số
03/2006/NQ-HĐTP ngày 08 tháng 7 năm 2006 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân
dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005 về bồi
thường thiệt hại ngồi hợp đồng. Bên cạnh đó, tác giả cũng sẽ tìm hiểu một số quy định
từ văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan đến đề tài trong quá khứ như: Quốc
triều hình luật (Bộ luật Hồng Đức), Hiến pháp, các bộ Dân luật thời Pháp thuộc, BLDS
1995, BLDS 2005,... nhằm so sánh, chứng minh, làm rõ thêm những vấn đề thuộc đối
tượng nghiên cứu.
Thứ tư, khóa luận nghiên cứu, phân tích những thực tiễn trong xã hội những
trường hợp tổn thất tinh thần do bị xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín và thực tiễn
xét xử ở Việt Nam về vấn đề BTTH tinh thần khi danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm
phạm.
Thứ năm, tác giả chỉ chọn lọc những quốc gia có sự gần gũi, giao lưu thường
xuyên về văn hóa, kinh tế, xã hội với nước ta như Mỹ, Trung Quốc, Pháp, Nhật Bản, Đài
Loan,... và một số nước có bước tiến và quy định nổi bật trong lĩnh vực này để đưa vào
nhằm so sánh, làm rõ các luận điểm của khóa luận chứ khơng phân tích, nghiên cứu pháp
luật của tất cả các nước trên thế giới cũng như không nghiên cứu tất cả mọi quy định của
pháp luật nước ngoài về lĩnh vực BTTH về tinh thần do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị

xâm phạm.
Thứ sáu, khóa luận khơng liệt kê, phân tích, nghiên cứu hết tất cả các trường hợp
thực tiễn về BTTH về tinh thần khi danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm mà chỉ đưa
ra những vấn đề còn nhiều quan điểm khác nhau cũng như bất cập để phân tích và đưa
ra những đề xuất, kiến nghị.


6

5. Phương pháp nghiên cứu
Bên cạnh phương pháp nghiên cứu chung là phương pháp duy vật biện chứng,
duy vật lịch sử Mác - Lênin, đề tài còn sử dụng các phương pháp như: phân tích, tổng
hợp lý thuyết, so sánh, phương pháp tổng hợp để làm sáng tỏ các vấn đề và các luận
điểm cụ thể về trách nhiệm BTTH về tinh thần khi danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm
phạm trong trách nhiệm BTTH ngồi hợp đồng.
Trong đó phương pháp phân tích được sử dụng xun suốt khóa luận để phân tích
các vấn đề lý luận, các quy định của pháp luật, các bản án và trường hợp thực tế xảy ra
trong đời sống xã hội. Phương pháp tổng hợp lý thuyết để liên kết những thông tin từ các
lý thuyết đã tìm hiểu được để tạo ra một hệ thống lý thuyết hoàn chỉnh về vấn đề nghiên
cứu, phương pháp này chủ yếu sử dụng trong Chương 1. Phương pháp so sánh được sử
dụng chủ yếu để so sánh về lý thuyết, quy phạm pháp luật cũng như thực tiễn giải quyết
vấn đề BTTH về tinh thần khi danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm giữa quá khứ
với hiện tại trong nước và giữa nước ta với nước ngồi. Từ những thơng tin có được, tác
giả sử dụng phương pháp tổng hợp để đưa ra những nhận định, kết luận, đánh giá về
những vấn đề được đưa ra trong khóa luận.
6. Bố cục tổng quát của khóa luận
Đề tài “Bồi thường thiệt hại về tinh thần khi danh dự, uy tín, nhân phẩm bị xâm
phạm trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng” được chia làm 02 chương.
Chương 1: Những vấn đề chung về bồi thường thiệt hại về tinh thần khi danh
dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm.

Chương 2: Thực tiễn giải quyết vấn đề về bồi thường thiệt hại về tinh thần
khi danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm trong một số trường hợp và kiến nghị
hoàn thiện pháp luật.


7

CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI VỀ
TINH THẦN KHI DANH DỰ, NHÂN PHẨM, UY TÍN BỊ XÂM PHẠM
1.1. Khái niệm, đặc điểm trách nhiệm bồi thường thiệt hại về tinh thần khi
danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm
1.1.1. Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại về tinh thần khi danh dự,
nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm
Việc nhận thức về khái niệm về danh dự, nhân phẩm, uy tín cũng như tầm quan
trọng của quyền được tôn trọng danh dự, nhân phẩm, uy tín của chủ thể là bước đầu tiên
để có hướng đi đúng trong việc tích cực bảo vệ sự toàn vẹn quyền này cho các chủ thể
trong xã hội. Bên cạnh đó, hiểu rõ khái niệm trách nhiệm BTTH về tinh thần khi danh
dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm và các yếu tố cấu thành của nó giúp chúng ta có cái
nhìn khái qt về trách nhiệm này, từ đó vận dụng nó một cách hiệu quả để bảo vệ các
quyền về danh dự, nhân phẩm, uy tín cho các chủ thể trên thực tế.
1.1.1.1. Khái niệm về danh dự, nhân phẩm, uy tín và quyền được bảo vệ danh
dự, nhân phẩm, uy tín
Danh dự, nhân phẩm, uy tín là những yếu tố gắn bó mật thiết với mỗi cá nhân, đó
là giá trị được tạo nên từ nỗ lực cả đời người, là yếu tố mà mỗi cá nhân dùng để khẳng
định vị trí của mình trong xã hội. Bởi ý nghĩa to lớn đó mà quyền được có danh dự, nhân
phẩm, uy tín và được bảo vệ những giá trị này không chỉ tồn tại trong quan niệm, đạo
đức xã hội mà còn được pháp luật nước ta công nhận và bảo đảm.
Cần hiểu rõ khái niệm “danh dự”, “nhân phẩm” và “uy tín” là gì để có cái nhìn
tổng qt về những giá trị của nó, từ đó hiểu được sự cần thiết của việc ghi nhận, bảo vệ
quyền này. Pháp luật không định nghĩa những yếu tố này, do đó chúng ta sẽ hiểu những

từ này bằng cách chiết tự chúng theo Từ điển Hán Việt1 và tham khảo định nghĩa trong
Từ điển Tiếng Việt2, theo đó:
Về khái niệm danh dự: “danh” nghĩa là tên gọi, cũng có thể hiểu là tiếng tăm của
một chủ thể xác định; “dự” nghĩa là khen, xưng tán, tiếng tốt. Vậy có thể hiểu “danh dự”
của một người là sự khen ngợi, coi trọng, sự công nhân tốt đẹp của xã hội, tập thể dành
1
2

Đặng Thế Kiệt, Hán Việt từ điển trích dẫn, 20/4/2021.
Hồng Phê (Chủ biên) (2003), Từ điển Tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng.


8

cho chủ thể đó dựa trên những giá trị về đạo đức mà người này tạo ra trước xã hội, phù
hợp với tiêu chuẩn, nguyên tắc của xã hội.
Về khái niệm uy tín: “uy” là quyền thế, là tơn nghiêm, oai phong khiến người khác
kính phục hay sợ hãi; “tín” là sự tin tưởng, khơng nghi ngờ, kính ngưỡng, sùng bái. “Uy
tín” của một chủ thể là sự tin tưởng và mến phục của mọi người dành cho chủ thể đó,
khiến chủ thể này có một sự ảnh hưởng nhất định lên những chủ thể khác trong xã hội.
Về khái niệm nhân phẩm: “nhân” là con người; “phẩm” là tư cách, đức tính. Nhân
phẩm là những giá trị, đức tính bên trong của một người, và thông qua các hoạt động xã
hội, con người bộc lộ những đức tính ấy ra. Với những tiêu chuẩn, quan niệm đạo đức
của mình, xã hội sẽ đánh giá tư cách làm người - tức “nhân phẩm” của cá nhân đó.
Danh dự, nhân phẩm, uy tín đều thuộc phạm trù đạo đức - xã hội, là những yếu tố
thể hiện giá trị bên trong của chủ thể nhưng được phản ánh, đánh giá bởi những chủ thể
khác. Vào mỗi thời kỳ, chuẩn mực đánh giá danh dự, uy tín, nhân phẩm sẽ khác biệt và
phản ánh tư tưởng của xã hội, tập thể đó. Nhân phẩm của mọi người trong xã hội tại xuất
phát điểm là ngang nhau, cịn danh dự và uy tín của mỗi người khác nhau là khác nhau
tùy thuộc vào những giá trị mà họ thể hiện.

Trên thực tế, ranh giới của những yếu tố này rất mong manh vì giữa chúng có mối
quan hệ hữu cơ với nhau, ràng buộc rất chặt chẽ, đôi khi là tiền đề cho sự tồn tại của
nhau: Ví dụ một người có nhân phẩm được xã hội đánh giá là tốt thì sẽ tạo được uy tín;
một người có uy tín thì sẽ có danh dự - tiếng tốt trong xã hội. Khi một yếu tố bị suy giảm
thì ít nhiều gì cũng sẽ ảnh hưởng tới những yếu tố cịn lại, ví dụ: Một người bị đánh giá
là lừa đảo, tức là bị ảnh hưởng đến danh dự, nhân phẩm thì sau đó sẽ mất đi uy tín. Danh
dự có nội hàm rộng và ở một số trường hợp, còn bao hàm cả nhân phẩm và uy tín.
Với những phân tích trên, ta thấy được danh dự, nhân phẩm, uy tín là những yếu
tố vô cùng quý giá gắn liền với cuộc sống của mỗi chủ thể, do đó, việc được bảo vệ sự
vẹn toàn, tốt đẹp cho danh dự, nhân phẩm, uy tín đã được nhân loại nhận thức là một
quyền tất yếu cho con người. Quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín là quyền
con người cơ bản thiêng liêng được ghi nhận trong các văn kiện quốc tế. Quyền này được
xuất hiện lần đầu trong văn bản là tại Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền năm 1948, theo
đó: “Khơng ai có thể bị xâm phạm một cách độc đoán... hay bị xúc phạm đến danh dự
hay thanh danh. Ai cũng có quyền được luật pháp bảo vệ chống lại những xâm phạm


9

ấy”. Sau đó, điều này được lặp lại và nhấn mạnh trong các văn bản quốc tế khác và được
các quốc gia cụ thể hóa trong pháp luật nước mình. Trong thời đại ngày nay, vấn đề bảo
vệ quyền con người nói chung và quyền được tơn trọng danh dự, nhân phẩm, uy tín nói
riêng cịn là tiêu chí quan trọng để đánh giá về sự văn minh, tiến bộ của một quốc gia.
Ở Việt Nam, trước hết đây là quyền Hiến định của nước ta3 và được BLDS 2015
cụ thể tại Điều 34 trong Mục Quyền nhân thân. Ngay tại khoản đầu tiên, BLDS đã khẳng
định: “1. Danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân là bất khả xâm phạm và được pháp
luật bảo vệ.”. Vậy, chúng ta có thể khẳng định rằng, quyền được bảo vệ danh dự, nhân
phẩm, cá nhân là một quyền nhân thân được pháp luật dân sự nói chung và BLDS 2015
nói riêng ghi nhận điều chỉnh.
Quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín - với đặc điểm của một quyền

nhân thân - gắn liền với mỗi chủ thể và về ngun tắc là khơng thể chuyển giao4. Quyền
được có một danh dự, nhân phẩm tốt đẹp và tạo dựng uy tín với người khác là quyền tự
nhiên mà tạo hố ban cho mỗi chủ thể, gắn bó với họ trong suốt cuộc đời và do đó, cần
được pháp luật bảo vệ một cách tuyệt đối mà không ai được phép xâm phạm. Danh dự,
nhân phẩm, uy tín của mọi chủ thể dù giống hay khác nhau thì trước pháp luật, đều được
bảo vệ một cách bình đẳng.
Cần lưu ý Điều 25 BLDS 2015 quy định rằng quyền nhân thân “là quyền dân sự
gắn liền với mỗi cá nhân”, vậy thì các tổ chức có quyền nhân thân của mình khơng? Có
thể thấy, các tổ chức vẫn tồn tại như một thực thể xã hội, có giá trị nhân thân thực tế gắn
liền với hoạt động của chúng như tên gọi, danh dự, uy tín. Khoản 1 Điều 86 BLDS 2015
quy định: “Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân không bị hạn chế, trừ trường hợp
Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác”, và các văn bản luật hiện nay khơng
hề có quy định nào loại trừ việc pháp nhân được hưởng các quyền nhân thân. Việc pháp
nhân, tổ chức có quyền nhân thân nói chung và quyền về danh dự, uy tín nói riêng khơng
chỉ thể hiện trong BLDS còn được ghi nhận trong các luật khác, ví dụ: Luật Báo chí 2016
tại Điều 9 có quy định nghiêm cấm việc “thơng tin sai sự thật, xuyên tạc, vu khống, xúc
Điều 20 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo
hộ về sức khỏe, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử
nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm”.
4
Khoản 1 Điều 25 BLDS 2015 quy định: “Quyền nhân thân được quy định trong Bộ luật này là quyền dân sự gắn
liền với mỗi cá nhân, không thể chuyển giao cho người khác, trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định khác.”
3


10

phạm uy tín của cơ quan, tổ chức”. Các quy định trên cho thấy pháp luật nước ta hướng
tới sự thừa nhận các quyền nhân thân đối với pháp nhân và các chủ thể khác5.
Quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín, là loại quyền tuyệt đối; các quyền

và lợi ích hợp pháp của bên có quyền được tuyệt đối đáp ứng bởi hành vi của mọi chủ
thể. Để quyền này được đảm bảo trên thực tế thì pháp luật đã quy định các biện pháp bảo
vệ quyền, đồng thời cũng là trách nhiệm cho những chủ thể có hành vi xâm phạm đến
quyền này. Khoản 5 Điều 34 BLDS 2015 quy định một người bị xâm phạm đến danh dự,
nhân phẩm, uy tín thì “ngồi quyền u cầu bác bỏ thơng tin đó cịn có quyền u cầu
người đưa ra thơng tin xin lỗi, cải chính cơng khai và bồi thường thiệt hại”; Điều 11
BLDS 2015 quy định rất nhiều cách thức để chủ thể có thể tự mình hoặc u cầu cơ quan
có thẩm quyền áp dụng các phương thức bảo vệ quyền dân sự như: Yêu cầu công nhận,
tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền dân sự; buộc chấm dứt hành vi xâm phạm; buộc xin
lỗi, cải chính cơng khai; buộc bồi thường thiệt hại;...
So với những biện pháp khác như xin lỗi hay cải chính thì biện pháp BTTH cho
phép bên bị xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín được địi lại những lợi ích đã mất,
giúp bù đắp, khơi phục thiệt hại họ phải chịu; nhìn chung nó đem lại nhiều ích lợi hơn
cho người có quyền bị xâm phạm. Đồng thời biện pháp này tác động trực tiếp đến lợi ích
của bên có hành vi xâm phạm, nó như một sự “trừng phạt” với người đã có hành vi sai
trái. Cũng vì có tính nghiêm khắc cao như vậy nên nó có tác dụng răn đe, cảnh cáo, tránh
hành vi này lại lặp lại trong tương lai. Do đó, biện pháp bảo vệ quyền thường được bên
có quyền bị xâm phạm áp dụng nhất và cũng là hiệu quả nhất là yêu cầu bên có hành vi
xâm phạm BTTH. Trong đó, việc BTTH về tinh thần là rất quan trọng vì đối tượng được
bồi thường ở đây là trị phi vật chất của người bị thiệt hại, trong đó có cả danh dự, nhân
phẩm, uy tín, khiến những quyền này được bảo vệ một cách trọn vẹn.
1.1.1.2. Khái niệm về thiệt hại tinh thần trong pháp luật dân sự
Khi quyền, lợi ích của một chủ thể bị xâm phạm thì sẽ có thiệt hại xảy ra. Các
thiệt hại được chia thành hai loại: thiệt hại về vật chất và thiệt hại về tinh thần. Khoản 3
Điều 361 BLDS 2015 quy định: “Thiệt hại về tinh thần là tổn thất về tinh thần do bị xâm
Trích theo: Chế Mỹ Phương Đài (Chủ nhiệm đề tài) (2011), Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm quyền
nhân thân của cá nhân theo quy định tại Bộ luật Dân sự 2005, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, tr.
12.
5



11

phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín và các lợi ích nhân thân khác
của một chủ thể”.
Với quy định này, có thể thấy BLDS 2015 chỉ liệt kê các trường hợp được xem là
có tồn tại tổn thất, thiệt hại tinh thần chứ chưa đưa ra định nghĩa rõ ràng. Để hiểu rõ được
như thế nào là “thiệt hại tinh thần” thì cần làm rõ các khái niệm về “tổn thất” và “tinh
thần”.
“Tổn thất” nghĩa là “mất mát, thiệt hại” 6, đối chiếu định nghĩa Từ điển Tiếng Việt
và quy định của BLDS thì có thể thấy “thiệt hại” và “tổn thất” có nghĩa tương đồng nhau.
Vậy tổn thất (thiệt hại) tinh thần tức là chỉ trạng thái tinh thần khơng được vẹn tồn,
trạng thái tinh thần bị hư hụt, mất mát, không khỏe mạnh.
Trên góc độ triết học của chủ nghĩa duy vật biện chứng, nói đến “tinh thần” là nói
đến sự hoạt động của ý thức con người, là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong
đầu óc con người, chịu sự quyết định của xã hội. Theo Từ điển Tiếng Việt thì thuật ngữ
“tinh thần”, tùy vào ngữ cảnh, sẽ có các định nghĩa khác nhau, là “tổng thể những ý nghĩ,
tình cảm... những hoạt động thuộc về đời sống nội tâm của con người. Những thái độ, ý
nghĩ định hướng cho hoạt động, quyết định hành động của con người. Điều sâu sắc nhất,
cốt yếu nhất của một nội dung nào đó” 7. Pháp luật dân sự khơng sử dụng tất cả các định
nghĩa về tinh thần mà chỉ sử dụng một phần trong số đó để điều chỉnh.
Nhiều tác giả đã có các quan điểm khác nhau định nghĩa cho “thiệt hại tinh thần”
trong pháp luật dân sự. Theo tác giả Phạm Kim Anh, “tinh thần” trong quy định của pháp
luật dân sự được hiểu với nghĩa đầu tiên của “tinh thần” trong từ điển tiếng Việt, và từ
đó đưa ra khái niệm “thiệt hại về tinh thần là thiệt hại gây ra đối với tâm trạng của con
người, thể hiện bằng việc con người phải chịu những lo lắng, đau đớn về tinh thần...”8.
Theo tác giả Lê Văn Sua thì “thiệt hại về tinh thần được hiểu là do tính mạng, sức khỏe,

Hồng Phê (Chủ biên) (2003), tlđd (2), tr. 1012.
Hoàng Phê (Chủ biên) (2003), tlđd (2), tr. 995.

8
Phạm Kim Anh (2001), “Về quy định bồi thường thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm trong Bộ
luật Dân sự Việt Nam và hướng hoàn thiện”, Tạp chí khoa học pháp lý, số 3/2001, tr. 36.
6
7


12

nhân phẩm, danh dự, uy tín bị xâm phạm mà người bị thiệt hại phải chịu đau thương,
buồn phiền, mất mát về tình cảm, giảm sút hoặc mất uy tín, tín nhiệm, lịng tin...” 9.
Quy định của BLDS 2015 thừa nhận trách nhiệm BTTH về tinh thần do có hành
vi xâm phạm sức khỏe, tính mạng, danh dự, nhân phẩm và uy tín của chủ thể mà gây
thiệt hại, tức là bảo vệ các giá trị tinh thần của chủ thể. Pháp luật dân sự không bảo hộ
tất cả các giá trị tinh thần trong cuộc sống mà chỉ với những giá trị tinh thần được hiểu
theo góc độ pháp lý. Tham khảo cách lý giải tại điểm b tiểu mục 1.1 mục 1 phần I Nghị
quyết số 03/2006/NQ-HĐTP, ta thấy pháp luật cũng không định nghĩa một cách rõ ràng
mà chỉ liệt kê một số yếu tố được xem là thiệt hại tinh thần, cụ thể:“Thiệt hại do tổn thất
về tinh thần của cá nhân được hiểu là... phải chịu đau thương, buồn phiền, mất mát về
tình cảm, bị giảm sút hoặc mất uy tín, bị bạn bè xa lánh do bị hiểu nhầm... Thiệt hại do
tổn thất về tinh thần của pháp nhân và các chủ thể khác khơng phải là pháp nhân được
hiểu là... tổ chức đó bị giảm sút hoặc mất đi sự tín nhiệm, lịng tin…”.
Qua quy định trên về xác định thiệt hại tinh thần, ta có thể thấy theo quan điểm
của các nhà lập pháp, “tinh thần” được bảo hộ ở đây không đơn thuần là những trạng
thái tâm lý như tâm trạng, cảm xúc, suy nghĩ nội tâm chỉ thuộc về cá nhân như một số
tác giả nhận định; mà phạm vi của nó rộng hơn thế, gồm cả tâm sinh lý (đau thương,
buồn phiền, mất mát về tình cảm,...) và các giá trị tinh thần (hay còn gọi là các giá trị phi
vật chất như danh dự, uy tín, nhân cách, lòng tin,...). Thiệt hại về tinh thần được pháp
luật ghi nhận là một loại thiệt hại cần được bồi thường là biểu hiện cho việc ngày càng
coi trọng quyền về tinh thần của các chủ thể, đó là quyền được tồn tại với một trạng thái

tinh thần sung sướng, yên ổn, bình tĩnh, khỏe mạnh, được bảo tồn các giá trị về mặt tinh
thần mà tự nhiên trao cho cũng như thụ hưởng những lợi ích tinh thần mình gây dựng
được. Do đó, khi những yếu tố tinh thần này bị giảm sút, mất mát do có hành vi xâm
phạm vào các giá trị mà BLDS quy định bảo vệ thì đó được coi là thiệt hại về tinh thần
và được pháp luật dân sự điều chỉnh.
Tại Trung Quốc, khái niệm “tinh thần” trong pháp luật dân sự chỉ đời sống tinh
thần, gồm: hoạt động tinh thần sinh lý, hoạt động tâm lý và hoạt động duy trì những lợi
Lê Văn Sua, “Nguyên tắc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng theo Bộ luật Dân sự năm 2015",
02/4/2021.
9


13

ích, giá trị tinh thần10. Trong đó hoạt động tinh thần sinh lý là những hoạt động của hệ
thần kinh trong việc tạo ra trạng thái tinh thần của con người; hoạt động tâm lý là những
ý nghĩ, tình cảm, cảm xúc nội tâm; còn giá trị tinh thần hay lợi ích tinh thần là những
điều kiện tổng hịa về mặt đời sống tinh thần để thỏa mãn nhu cầu tồn tại và phát triển
của chủ thể, thường chỉ những lợi ích mà đời sống tinh thần của chủ thể cần phải có (như
danh dự, nhân phẩm, tín ngưỡng, giá trị quan,...). Khái niệm "thiệt hại tinh thần" được
đề cập trong tác phẩm "Dân pháp học" do Lưu Vân Sinh và Tống Tông Vũ chủ biên
được định nghĩa như sau: “Thiệt hại tinh thần là sự tổn hại về hoạt động tinh thần của
chủ thể dân sự. So với thiệt hại về tài sản, thì thiệt hại về tinh thần có đặc điểm pháp lý
là nó gắn với tính chất vơ hình của giá trị tinh thần...Tinh thần và lợi ích tinh thần là trừu
tượng, vơ hình, nhưng khi một chủ thể bị thiệt hại về tinh thần thì sẽ biểu hiện dưới nhiều
hình thức khác nhau, và đó là sự tồn tại khách quan, sự tổn hại này là đau đớn về thể xác,
chướng ngại về tâm lý, cũng có thể biểu hiện dưới việc giá trị xã hội của chủ thể bị hạ
thấp” 11.
Ở Mỹ, theo từ điển Black's Law Dictionary dựa vào định nghĩa trong Restatement
second of Torts thì ““Tổn thất về tinh thần” cịn được biết đến với các tên gọi khác nhau,

chẳng hạn như “đau khổ tinh thần”, “đau đớn tinh thần” và “tổn thất về tinh thần” hoặc
sốc thần kinh, hoặc tương tự. Trạng thái này bao gồm các phản ứng tâm lý vô cùng khó
chịu như hoảng loạn, sợ hãi, tủi thẹn, nhục nhã, tức giận, chán nản, thất vọng, lo lắng, và
kinh tởm. Chỉ khi nào trạng thái tâm lý này đạt tới đỉnh điểm thì mới phát sinh nghĩa vụ
pháp lý... Luật pháp sẽ chỉ can thiệp khi sự đau khổ phải chịu đựng lên tới mức cực hạn
khiến cho không một người hợp lý nào có thể chấp nhận được” 12.
So sánh với pháp luật của một số quốc gia trên thế giới, ta thấy các khái niệm về
“tinh thần”, “thiệt hại tinh thần” có một số điểm chung và khác biệt nhất định. Hầu hết
pháp luật các quốc gia trên thế giới cũng như nước ta, đều không đưa ra định nghĩa rõ
“ 什 么 是 精 神 损 害 赔 偿 制 度 ” (Chế độ bồi thường thiệt hại tinh thần là gì),
21/4/2021.
11
Trích theo: “精神损害赔偿” (Bồi thường tổn thất tinh thần), />21/4/2021.
12
Restatement (Second) of Torts § 46 cmt. j (1965), (Trích theo: Nguyễn Tấn Hồng Hải (2017), Bồi thường tổn
thất về tinh thần khi tài sản bị xâm phạm trong pháp luật Hoa Kỳ - Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam, Luận văn
Thạc sĩ, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 9).
10


14

ràng trong văn bản quy phạm pháp luật mà chỉ nêu những điều kiện, hồn cảnh nào thì
được đền bù thiệt hại, còn việc lý giải cụ thể nằm trong những tác phẩm lý luận, bài
nghiên cứu, nhận định của các học giả, nhà nghiên cứu pháp luật, luật sư, thẩm phán.
1.1.1.3. Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại về tinh thần khi danh dự,
nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm
Trách nhiệm BTTH về tinh thần khi danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm
được quy định một cách cụ thể tại Khoản 2 Điều 592 BLDS 2015: “Người chịu trách
nhiệm bồi thường trong trường hợp danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác bị xâm

phạm phải bồi thường thiệt hại... và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần
mà người đó gánh chịu.”.
Trách nhiệm BTTH về tinh thần khi danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm
nằm trong chế định về BTTH ngồi hợp đồng nói chung và đây là một loại trách nhiệm
dân sự - là biện pháp có tính cưỡng chế được áp dụng cho người gây ra thiệt hại, khiến
họ phải chịu trách nhiệm khắc phục những hậu quả xấu xảy ra bằng tài sản của mình và
nhằm khơi phục lại tình trạng ban đầu của một quyền dân sự bị vi phạm13. Trách nhiệm
này được áp dụng cho người có hành vi xâm phạm vào các quyền, lợi ích hợp pháp được
pháp luật bảo vệ - quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín và họ phải chịu trách
nhiệm với người có quyền bị xâm phạm.
Việc bồi thường được căn cứ vào thiệt hại đã xảy ra trên thực tế, phát sinh thiệt
hại gì thì phải bồi thường thiệt hại đó. Thuật ngữ “BTTH về tinh thần” xác định rõ đối
tượng được bồi thường nhằm bù đắp ở đây là yếu tố tinh thần, nhằm bảo vệ sự toàn vẹn
của giá trị tinh thần cho chủ thể. Do đó trách nhiệm này phát sinh khi có thiệt hại về tinh
thần trên thực tế do hành vi xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín gây ra. Về hình thức,
BLDS 2015 xác định rõ hình thức BTTH về tinh thần do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị
xâm phạm là bằng một khoản tiền.
Với những phân tích trên, ta có thể rút ra khái niệm như sau: “Trách nhiệm bồi
thường thiệt hại về tinh thần do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm” là một nội
dung của trách nhiệm BTTH, là một loại trách nhiệm dân sự được quy định trong BLDS
2015 mà khi áp dụng sẽ phát sinh một quan hệ pháp luật dân sự. Trong đó người có thiệt
Trích theo: Bùi Thị Thanh Hằng (2017), ““Trách nhiệm dân sự”, “chế tài” hay “biện pháp khắc phục” đối với
hành vi vi phạm hợp đồng?”, 02/4/2021.
13


15

hại về tinh thần do bị xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín có quyền u cầu bên gây
thiệt hại phải bồi thường; cịn người có hành vi xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm, uy

tín của người khác mà gây ra thiệt hại về tinh thần thì có nghĩa vụ phải bồi thường bằng
một khoản tiền nhằm bù đắp thiệt hại mình đã gây ra.
1.1.2. Đặc điểm trách nhiệm bồi thường thiệt hại về tinh thần khi danh dự,
nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm
Trách nhiệm BTTH về tinh thần khi danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm
phát sinh là vì có tồn tại thiệt hại về tinh thần và thiệt hại này cần phải được bù đắp. Việc
cần thiết hiểu rõ đặc điểm của trách nhiệm này nhằm có một cái nhìn tồn diện, hiểu
được bản chất của nó, phân biệt với các loại trách nhiệm khác. Từ đó đưa ra được các
phương hướng phù hợp để phát triển, hoàn thiện các quy định pháp luật và việc áp dụng
trên thực tế, để phát huy chức năng của trách nhiệm này một cách tối đa.
Thứ nhất, trách nhiệm bồi thường thiệt hại về tinh thần khi danh dự, nhân phẩm,
uy tín bị xâm phạm là một nội dung của trách nhiệm BTTH ngồi hợp đồng.
Thơng thường thì các trường hợp BTTH cho vấn đề danh dự, nhân phẩm, uy tín
bị xâm phạm là BTTH ngồi hợp đồng vì những trường hợp xâm phạm xảy ra thường là
do những va chạm trong sinh hoạt xã hội. Tuy nhiên, cũng khơng loại trừ việc các bên
có thỏa thuận hợp đồng về vấn đề này trên thực tế. Ví dụ như các thỏa thuận bảo mật
thơng tin, sử dụng thơng tin, sử dụng hình ảnh thương mại... khơng được gây xâm phạm
tới danh dự, nhân phẩm, uy tín của bên có thơng tin, hình ảnh. Vậy trong trường hợp
điều khoản này bị xâm phạm thì sẽ xử lý theo chế định BTTH ngoài hợp đồng hay trong
hợp đồng? Về lý thuyết, nếu có trường hợp này xảy ra thì đây sẽ là trách nhiệm BTTH
trong hợp đồng vì vi phạm một phần quy định trong hợp đồng.
Tuy nhiên, có ý kiến cho rằng: tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín
và các giá trị nhân thân khác của chủ thể thì đều buộc phải chịu trách nhiệm ngồi hợp
đồng dù tồn tại hợp đồng hay khơng, “vì đối tượng bị xâm hại khơng phải là đối tượng
được bảo vệ bằng hợp đồng mà là những giá trị tuyệt đối và được bảo đảm bằng pháp
luật” 14, trên thực tế Tòa án khi xử lý những trường hợp xâm phạm đến những giá trị

Trích theo: Đỗ Văn Đại (2016), Luật bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Việt Nam - Bản án và Bình luận bản
án 1, Nxb. Hồng Đức, tr.36.
14



16

nhân thân như vậy cũng theo hướng xác định đây là trường hợp BTTH ngoài hợp đồng15.
Đồng thời, việc BTTH khi có hành vi xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của
người khác được pháp luật ghi nhận rõ tại khoản 1 Điều 548 BLDS 2015 thuộc Chương
về Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng (Chương XX); theo đó, chỉ cần có “hành vi xâm
phạm danh dự, uy tín, nhân phẩm” mà “gây thiệt hại” thì phát sinh trách nhiệm BTTH
ngoài hợp đồng. Điều 548 BLDS 2015 cũng khơng loại trừ việc giữa các bên có tồn tại
hợp đồng, điều này cho phép chúng ta được hiểu và áp dụng trách nhiệm BTTH ngoài
hợp đồng trong mọi trường hợp có sự xâm phạm gây thiệt hại đến các giá trị nhân thân
của chủ thể. Tác giả cũng đồng ý với quan điểm trong mọi trường hợp xâm phạm đến
những giá trị nhân thân như danh dự, nhân phẩm, uy tín thì nên buộc bên xâm phạm
BTTH ngồi hợp đồng để bên bị xâm phạm đến những giá trị này luôn được bồi thường
- những giá trị này sẽ được bảo đảm một cách tuyệt đối mà không phụ thuộc vào những
quy định của hợp đồng16.
Thứ hai, trách nhiệm này được phát sinh trên cơ sở, điều kiện do pháp luật quy
định. Bên cạnh đó, quyền và nghĩa vụ của chủ thể cũng được quy định trong các văn bản
quy phạm pháp luật, chủ thể bị thiệt hại chỉ có thể yêu cầu trong phạm vi luật định.
Thứ ba, trách nhiệm này ngoài việc áp dụng đối với người có hành vi xâm phạm
gây thiệt hại thì cịn áp dụng đối với người có quan hệ về mặt chăm sóc, quản lý với chủ
thể gây thiệt hại như cha mẹ, người giám hộ, trường học, bệnh viện, cơ quan quản lý,...
dù những chủ thể này khơng có hành vi gây thiệt hại.
Thứ tư, mức BTTH được phép thỏa thuận, nếu khơng thỏa thuận được thì sẽ được
Tịa án xác định, nhưng phải nằm trong giới hạn do pháp luật quy định. Mức BTTH chỉ
có thể được giảm trong một trường hợp đặc biệt được quy định.

Bản án số 34/2006/DSST ngày 24/8/2016 của Tòa án Nhân dân thành phố Hà Nội: A và B có hợp đồng vận
chuyển hành khách với công ty taxi X, khi thực hiện hợp đồng thì xe của cơng ty X đã xảy ra tai nạn với một xe

khác khiến A và B bị thương, Hội đồng xét xử đã áp dụng quy định về BTTH ngồi hợp đồng để buộc cơng ty X
BTTH cho A, B. (Trích theo: Đỗ Văn Đại (2016), tlđd (14), tr. 17 - 19).
16
Trong hợp đồng, nếu hai bên đã có thỏa thuận từ trước về miễn trách nhiệm hoặc đã thỏa thuận phạt vi phạm
nhưng chưa thỏa thuận BTTH thì sẽ khơng phát sinh trách nhiệm BTTH, hoặc có thỏa thuận BTTH nhưng mức
BTTH nhỏ hơn nhiều so với thực tế thiệt hại xảy ra,... Với những trường hợp như vậy thì nếu tn thủ theo hợp
đồng vơ hình trung sẽ không bảo đảm được sự bất khả xâm phạm danh dự, uy tín, nhân phẩm cho các chủ thể trong
hợp đồng, cũng như không thể bảo đảm quyền lợi một cách tốt nhất cho bên yếu thế.
15


17

Thứ năm, trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng gồm hai chức năng chính: Thứ nhất
là chức năng bảo vệ, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể có quyền lợi bị
xâm hại. Thứ hai là chức năng giáo dục, nhằm răn đe, phòng ngừa đối với những chủ thể
có hành vi gây thiệt hại.
Thứ sáu, trách nhiệm BTTH có ý nghĩa vừa là biện pháp bảo đảm quyền dân sự,
vừa giáo dục mọi người về ý thức tuân thủ pháp luật, tôn trọng và bảo vệ tài sản, quyền
và lợi ích hợp pháp của người khác. Bên cạnh đó, BTTH cịn có ý nghĩa phịng ngừa, bởi
khi các chủ thể trong xã hội ý thức được rằng, nếu họ gây thiệt hại cho chủ thể khác thì
sẽ phải gánh chịu hậu quả bất lợi, thì họ sẽ phải có ý thức kiềm chế hành vi gây thiệt hại,
đề cao ý thức tuân thủ pháp luật.
Bên cạnh những đặc điểm của một loại trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng thì
trách nhiệm BTTH về tinh thần khi xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của người
khác cịn có những đặc điểm riêng, cụ thể:
Thứ nhất, trách nhiệm này phát sinh khi có hành vi xâm phạm đến danh dự, nhân
phẩm, uy tín của chủ thể trong xã hội và gây ra thiệt hại về tinh thần.
Thứ hai, việc BTTH về tinh thần mang tính suy đốn hợp lý dựa trên việc ước
lượng thiệt hại chứ không thể BTTH một cách đầy đủ, chính xác cho thiệt hại đã xảy ra

do sự đặc thù của đối tượng được bồi thường - tinh thần. Mỗi một chủ thể, thậm chí cùng
một chủ thể, cùng một hành vi xâm phạm nhưng ở những hồn cảnh, mơi trường, thời
điểm khác nhau thì những biểu hiện về tinh thần cũng khác nhau. Do đó, trách nhiệm
BTTH về tinh thần là khơng đồng nhất trong mọi trường hợp, mà cần căn cứ vào từng
hoàn cảnh cụ thể để xác định.
Thứ ba, trách nhiệm BTTH về tinh thần khi danh dự, uy tín, nhân phẩm bị xâm
phạm chỉ đạt được ở mức khắc phục một phần những tổn thất tinh thần đã xảy ra chứ
khơng thể khơi phục lại tình trạng ban đầu của tinh thần, tức là khơng thể khắc phục tồn
bộ thiệt hại. Bởi lẽ các yếu tố của tinh thần không thể định lượng một cách cụ thể, chính
xác bằng những số học, do vậy thiệt hại về tinh thần cũng không thể cân đo đong đếm
và đã bị suy giảm thì sẽ khơng thể quay lại trạng thái hồn hảo như ban đầu dẫn tới khơng
thể bồi thường tồn bộ thiệt hại. Vì vậy trong quy định BTTH về tinh thần, BLDS 2015
không sử dụng thuật ngữ “BTTH về tinh thần” mà thay vào đó là khoản tiền bồi thường


×