Tải bản đầy đủ (.pdf) (199 trang)

Điều kiện trong hợp đồng tặng cho tài sản có điều kiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.3 MB, 199 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

ĐẶNG THỊ MAI PHƯƠNG

ĐIỀU KIỆN TRONG HỢP ĐỒNG TẶNG CHO
TÀI SẢN CÓ ĐIỀU KIỆN

CHUYÊN NGÀNH LUẬT DÂN SỰ

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - THÁNG 7 - NĂM 2021


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

ĐẶNG THỊ MAI PHƯƠNG

ĐIỀU KIỆN TRONG HỢP ĐỒNG TẶNG CHO
TÀI SẢN CÓ ĐIỀU KIỆN

GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: NCS. TH.S LÊ THỊ DIỄM PHƯƠNG

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - THÁNG 7 - NĂM 2021


LỜI CAM ĐOAN
Tôi là Đặng Thị Mai Phương, tôi cam đoan Khóa luận tốt nghiệp này là kết
quả nghiên cứu của riêng tôi, thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của NCS. Th.s
Lê Thị Diễm Phương, đảm bảo tính trung thực và tuân thủ các quy định về trích
dẫn, chú thích tài liệu tham khảo. Tơi xin chịu hồn toàn trách nhiệm về lời cam


đoan này.
Tác giả

Đặng Thị Mai Phương


DANH MỤC CHỮ, TỪ VIẾT TẮT
CHỮ VIẾT TẮT

NỘI DUNG ĐƯỢC VIẾT TẮT

HĐTCTS

Hợp đồng tặng cho tài sản

HĐTCTSCĐK

Hợp đồng tặng cho tài sản có điều kiện

BLDS

Bộ luật Dân sự

TAND

Tịa án nhân dân

TANDTC

Tịa án nhân dân tối cao


TPHCM

Thành phố Hồ Chí Minh

Nxb

Nhà xuất bản


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU....................................................................................................1
CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ ĐIỀU KIỆN TRONG HỢP ĐỒNG
TẶNG CHO TÀI SẢN CÓ ĐIỀU KIỆN ............................................................8
1.1. Khái niệm hợp đồng tặng cho tài sản và hợp đồng tặng cho tài sản có
điều kiện .................................................................................................................8
1.1.1. Khái niệm hợp đồng tặng cho tài sản .....................................................8
1.1.2. Khái niệm điều kiện tặng cho và hợp đồng tặng cho tài sản có điều
kiện .................................................................................................................10
1.2. Đặc điểm của hợp đồng tặng cho tài sản có điều kiện ..............................15
1.2.1. Tính đơn vụ hay song vụ ......................................................................15
1.2.2. Tính thực tế hay ưng thuận ..................................................................17
1.2.3. Tính khơng có đền bù ...........................................................................21
1.3. Hiệu lực của hợp đồng tặng cho tài sản có điều kiện ...............................25
1.4. Các yêu cầu pháp lý của điều kiện tặng cho trong hợp đồng tặng cho tài
sản có điều kiện ...................................................................................................30
1.4.1. Điều kiện tặng cho không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo
đức xã hội .......................................................................................................31
1.4.2. Điều kiện tặng cho phải xác định được ................................................33
1.4.3. Điều kiện tặng cho phải có thể thực hiện được ....................................34

1.4.4. Điều kiện tặng cho phải có tính khách quan ........................................34
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ...................................................................................35
CHƯƠNG 2. HỆ QUẢ PHÁP LÝ DO VI PHẠM ĐIỀU KIỆN TRONG HỢP
ĐỒNG TẶNG CHO TÀI SẢN CÓ ĐIỀU KIỆN VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN
THIỆN..................................................................................................................36
2.1. Hệ quả pháp lý trong trường hợp điều kiện tặng cho vi phạm điều cấm,
trái đạo đức xã hội và kiến nghị hoàn thiện .....................................................36


2.1.1. Xác định điều kiện tặng cho vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã
hội ...................................................................................................................36
2.1.2. Hệ quả pháp lý trong trường hợp điều kiện tặng cho vi phạm điều cấm,
trái đạo đức xã hội ..........................................................................................42
2.1.3. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật ............................................................45
2.2. Hệ quả pháp lý trong trường hợp điều kiện tặng cho không xảy ra hoặc
không thể thực hiện được; điều kiện tặng cho không được ghi nhận trong
hợp đồng và kiến nghị hoàn thiện .....................................................................45
2.2.1. Hệ quả pháp lý trong trường hợp điều kiện tặng cho không xảy ra hoặc
không thể thực hiện được ...............................................................................45
2.2.2. Hệ quả pháp lý trong trường hợp điều kiện tặng cho không được ghi
nhận trong hợp đồng tặng cho tài sản ............................................................50
2.2.3. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật ............................................................54
2.3. Hệ quả pháp lý trong trường hợp bên tặng cho vi phạm nghĩa vụ giao
tài sản cho bên được tặng cho và kiến nghị hoàn thiện...................................55
2.3.1. Hệ quả pháp lý trong trường hợp bên tặng cho vi phạm nghĩa vụ giao
tài sản cho bên được tặng cho ........................................................................55
2.3.2. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật ............................................................60
2.4. Hệ quả pháp lý trong trường hợp bên được tặng cho vi phạm nghĩa vụ
thực hiện điều kiện sau khi tặng cho và kiến nghị hoàn thiện........................60
2.4.1. Hệ quả pháp lý trong trường hợp bên được tặng cho vi phạm toàn bộ

nghĩa vụ thực hiện điều kiện sau khi được tặng cho ......................................61
2.4.2. Hệ quả pháp lý trong trường hợp bên được tặng cho vi phạm một phần
nghĩa vụ thực hiện điều kiện sau khi được tặng cho ......................................67
2.4.3. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật ............................................................71
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ...................................................................................72
KẾT LUẬN CHUNG ..........................................................................................73
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Kinh tế và khoa học – kĩ thuật ngày càng phát triển tạo ra càng nhiều của cải
dư thừa cho xã hội. Trước sự hưng thịnh về vật chất, các chủ thể trong xã hội
chuyển sang xây dựng cho mình các giá trị tinh thần hoặc tích lũy cho các thế hệ
tương lai và chính sự gắn kết về tình cảm, sự quen biết, gần gũi về mặt tinh thần
làm nảy sinh nhu cầu về tặng cho tài sản, tặng cho tài sản kèm theo một số điều kiện
nhất định. Chế định về hợp đồng tặng cho tài sản nói chung và hợp đồng tặng cho
tài sản có điều kiện nói riêng được đưa ra như một giải pháp hiệu quả cho những
vấn đề này.
Trong chế định tặng cho tài sản có điều kiện thì điều kiện tặng cho là một
vấn đề quan trọng, Bộ luật Dân sự năm 2015 dành riêng một Điều luật quy định về
tặng cho có điều kiện, theo đó bên tặng cho có thể yêu cầu bên được tặng cho thực
hiện một hoặc nhiều nghĩa vụ trước hoặc sau khi tặng cho. Trường hợp phải thực
hiện nghĩa vụ trước khi tặng cho, nếu bên được tặng cho đã hồn thành nghĩa vụ mà
bên tặng cho khơng giao tài sản thì bên tặng cho phải thanh tốn nghĩa vụ mà bên
được tặng cho đã thực hiện. Trường hợp phải thực hiện nghĩa vụ sau khi tặng cho
mà bên được tặng cho khơng thực hiện thì bên tặng cho có quyền đòi lại tài sản và
yêu cầu bồi thường thiệt hại. Thực tế, bên tặng cho mong muốn tài sản của mình

được tặng cho với ý nghĩa thể hiện tình cảm yêu thương, quý mến; tài sản tặng cho
là chuyển quyền sở hữu sang cho bên được tặng cho nên bên tặng cho có thể thoả
thuận những điều kiện nhất định với bên được tặng cho để đảm bảo tài sản tặng cho
được sử dụng một cách đúng đắn, hoặc bảo tồn được giá trị của tài sản tặng cho.
Quy định này tạo ra hành lang pháp lý quan trọng điều chỉnh điều kiện tặng cho
trong hợp đồng tặng cho tài sản có điều kiện. Tuy nhiên, trong q trình áp dụng
pháp luật quy định này còn bộc lộ nhiều hạn chế, thiếu sót; quy định hiện hành chưa
phản ánh đầy đủ tính chất pháp lý của điều kiện tặng cho dẫn đến thực tiễn hoạt
động xét xử của Tòa án còn nhiều bất cập. Cụ thể, bất cập trong việc xác định hệ
quả pháp lý trong trường hợp bên được tặng cho đã thực hiện được một phần điều
kiện hoặc trường hợp bên tặng cho khi vi phạm nghĩa vụ giao tài sản cho bên được
tặng cho; bất cập liên quan đến việc công nhận điều kiện tặng cho trong các hợp
đồng tặng cho tài sản.


2

Thực trạng áp dụng pháp luật đòi hỏi cần phải có những quy định cụ thể hơn
điều chỉnh riêng về điều kiện tặng cho và hợp đồng tặng cho tài sản có điều kiện
cũng như sửa đổi, bổ sung các quy định hiện hành để cơ chế vận hành chế định tặng
cho có điều kiện hiệu quả trong thực tế, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của các
bên trong quan hệ pháp luật này. Vì vậy, tác giả quyết định lựa chọn đề tài làm
Khóa luận tốt nghiệp “Điều kiện trong hợp đồng tặng cho tài sản có điều kiện” để
làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn xoay quanh điều kiện tặng cho, vi
phạm điều kiện và hệ quả pháp lý của các trường hợp vi phạm điều kiện; so sánh,
phân tích các quy định của pháp luật đồng thời đưa ra những kiến nghị để hoàn
thiện pháp luật điều chỉnh về quy định này.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Điều kiện trong hợp đồng tặng cho có điều kiện là một nội dung rất quan
trọng trong chế định hợp đồng của Việt Nam và các nước trên thế giới. Vấn đề này

đã và đang nhận được sự quan tâm, nghiên cứu từ nhiều nhà khoa học pháp lý trong
và ngoài nước dưới nhiều góc độ, khía cạnh khác nhau. Trong đó có thể kể đến một
số cơng trình tiêu biểu sau:
- Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2017), Giáo trình hợp đồng
và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng (tái bản lần thứ 1, có sửa đổi và bổ sung),
Nxb. Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam; nguồn tài liệu này cung cấp cho tác giả
kiến thức lý luận về pháp luật hợp đồng và các đặc điểm cơ bản của một hợp đồng
như tính đơn vụ hay song vụ; tính thực tế hay ưng thuận, tính đền bù hay khơng có
đền bù; hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu và hủy bỏ hợp đồng. Đây là nền tảng
để đi sâu vào nghiên cứu các vấn đề lý luận về điều kiện và hệ quả pháp lý của hủy
bỏ hợp đồng tặng cho tài sản có điều kiện.
- Đỗ Văn Đại (2018), Luật Hợp đồng Việt Nam – Bản án và bình luận bản án,
tập 1 và tập 2, Nxb. Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam; tài liệu này cung cấp cho
tác giả kiến thức lý luận và thực tiễn về điều kiện trong hợp đồng có điều kiện, bao
gồm điều kiện phát sinh, điều kiện thực hiện và điều kiện chấm dứt hợp đồng. Tài
liệu là cơ sở để đưa ra các lập luận khi nghiên cứu khái niệm điều kiện trong hợp
đồng tặng cho tài sản có điều kiện và hệ quả pháp lý trong trường hợp điều kiện bị


3

vi phạm; đồng thời tài liệu cung cấp cho tác giả kiến thức về tính hợp pháp của điều
kiện trong hợp đồng có điều kiện, tạo cơ sở để xây dựng các yêu cầu pháp lý đối với
điều kiện trong hợp đồng tặng cho tài sản có điều kiện.
- Nguyễn Hải An (2012), Cơ sở lý luận và thực tiễn về tặng cho quyền sử dụng
đất, Luận án tiến sĩ, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội; công trình này phân
tích, lý giải và làm rõ một số khái niệm khoa học về tặng cho quyền sử dụng đất,
đặc điểm, bản chất pháp lý, vai trò, ý nghĩa của tặng cho quyền sử dụng đất; lược sử
quá trình hình thành tặng cho tài sản ở Việt Nam, so sánh với pháp luật một số nước
trên thế giới. Tài liệu phân tích các quy định về tặng cho quyền sử dụng đất, tìm

hiểu cơ sở của việc quy định các điều luật, phân tích tính kế thừa và phát triển, cũng
như những điểm mới quy định về tặng cho quyền sử dụng đất kết hợp với thực tiễn
hoạt động xét xử của Tòa án để đưa ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật. Từ tài
liệu này, tác giả được cung cấp các góc nhìn khác nhau về khái niệm hợp đồng tặng
cho tài sản và quan điểm về các đặc điểm cơ bản của hợp đồng này, đồng thời tiếp
nhận thực tiễn xét xử của Tòa án đối với tặng cho quyền sử dụng đất có điều kiện,
góp phần củng cố lập luận khi nghiên cứu về vi phạm điều kiện tặng cho.
- Lê Thị Giang (2020), Hợp đồng tặng cho tài sản theo pháp luật Việt Nam –
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận án tiến sĩ, Trường Đại học Luật Hà Nội;
cơng trình này xây dựng các khái niệm về hợp đồng tặng cho tài sản, tặng cho tài
sản có điều kiện, đồng thời chỉ ra những đặc điểm đặc trưng làm cơ sở cho việc
phân biệt hợp đồng tặng cho tài sản với các giao dịch khác như hứa thưởng, di tặng;
phân tích các lý thuyết chính ảnh hưởng hay có tác động tới việc xây dựng các quy
định về hợp đồng tặng cho tài sản. Tài liệu đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật về
tặng cho tài sản và tặng cho có điều kiện kết hợp với nghiên cứu, so sánh quy định
có liên quan của một số nước trên thế giới để đưa ra các kiến nghị sửa đổi, bổ sung.
Nguồn tài liệu này giúp tác giả có được các góc nhìn khác nhau về tặng cho tài sản,
có được các luận điểm, luận cứ khi xây dựng các yêu cầu pháp lý đối với điều kiện
tặng cho và hệ quả pháp lý trong trường hợp hủy bỏ hợp đồng do không thực hiện
điều kiện.


4

- Trần Thị Như Trang (2014), Hợp đồng tặng cho tài sản có điều kiện theo quy
định của pháp luật Việt Nam, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ
Chí Minh; tài liệu này nghiên cứu khái niệm, đặc điểm của điều kiện trong giao dịch
có điều kiện, hợp đồng có điều kiện và hợp đồng tặng cho tài sản; thời điểm phát
sinh hiệu lực của hợp đồng tặng cho tài sản có điều kiện trong mối liên hệ với việc
thực hiện điều kiện; đồng thời nghiên cứu bản chất pháp lý của điều kiện trong hợp

đồng tặng cho tài sản và thực tiễn áp dụng pháp luật để đánh giá sự phù hợp của
quy định hiện hành, đề xuất kiến nghị. Cơng trình này góp phần củng cố lập luận
của tác giả về khái niệm điều kiện trong hợp đồng tặng cho tài sản cũng như phân
tích, bình luận các bất cập trong việc xử lý vấn đề về thực hiện điều kiện tặng cho.
- Hồ Thị Thu Hà (2013), Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất giữa cha mẹ
và con theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành - Những vấn đề lý luận và
thực tiễn, Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh; tài
liệu này nghiên cứu lý luận và thực tiễn về khái niệm, đặc điểm, chủ thể, hình thức,
thời điểm có hiệu lực, quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng tặng cho
quyền sử dụng đất giữa cha mẹ và con. Tài liệu cung cấp cho tác giả các quan điểm
khác nhau của thực tiễn xét xử đối với vấn đề vi phạm một phần điều kiện tặng cho
và vấn đề thanh toán phần nghĩa vụ mà bên được tặng cho đã thực hiện trong hợp
đồng tặng cho tài sản có điều kiện theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005, qua
đó góp phần củng cố lập luận khi xây dựng cơ chế hoàn thiện quy định về hệ quả
pháp lý do vi phạm điều kiện tặng cho.
- Lê Thị Hoài Ân (2015), “Quy định của pháp luật về tặng cho tài sản ở một số
quốc gia trên thế giới và ở Việt Nam”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số 12; tài liệu
này nghiên cứu, so sánh các quy định có liên quan về hợp đồng tặng cho tài sản ở
các quốc gia như Pháp, Nhật Bản, Thái Lan; trong đó nghiên cứu về khái niệm tặng
cho tài sản, tặng cho tài sản có điều kiện, hiệu lực của hợp đồng tặng cho tài sản,
hủy bỏ hợp đồng tặng cho tài sản và so sánh với pháp luật Việt Nam. Qua đó giúp
tác giả có góc nhìn khái quát về tặng cho tài sản nói chung và tặng cho tài sản có
điều kiện nói riêng ở các quốc gia, từ đó có sự so sánh, đối chiếu khi nghiên cứu về


5

các quy định liên quan đến hợp đồng tặng cho tài sản có điều kiện theo pháp luật
Việt Nam.
- Dương Anh Sơn (2008), “Một số vấn đề về hợp đồng tặng cho”, Tạp chí

Khoa học pháp lý, số 4; tài liệu này phân tích, so sánh bản chất của hợp đồng tặng
cho, những giới hạn của hợp đồng và vấn đề hủy bỏ hợp đồng sau khi hợp đồng đã
có hiệu lực. Qua đó tác giả được cung cấp góc nhìn về thời điểm có hiệu lực của
hợp đồng tặng cho tài sản, nền tảng cho việc khái quát tính thực tế hay tính ưng
thuận của hợp đồng này; lập luận để lý giải tính khơng có đền bù của hợp đồng tặng
cho tài sản và cơ chế hủy bỏ hợp đồng này trong nghiên cứu, so sánh với pháp luật
Nga, Thái Lan, Pháp.
- Vũ Thị Hồng Yến (2018), “Bình luận quy định của Bộ luật dân sự năm 2015
về hợp đồng tặng cho tài sản”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 09; trên cơ sở
nhận diện bản chất pháp lý của hợp đồng tặng cho tài sản, tài liệu phát hiện và bình
luận những bất cập, thiếu sót trong các quy định về thời điểm phát sinh hiệu lực của
hợp đồng; hậu quả pháp lý của việc tặng cho tài sản không thuộc quyền sở hữu của
bên tặng cho; tặng cho có điều kiện; từ đó đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện
pháp luật về nội dung này. Đây là cơ sở để tác giả nhìn nhận và đánh giá các quy
định của Bộ luật Dân sự năm 2015 về thực hiện điều kiện tặng cho và hệ quả của
việc vi phạm điều kiện trong hợp đồng tặng cho tài sản có điều kiện liên quan đến
thanh toán phần nghĩa vụ đã được thực hiện đối với trường hợp điều kiện phải được
thực hiện trước khi tặng cho.
- Phạm Quang Huy (2016), ““Consideration” theo pháp luật hợp đồng Hoa
Kỳ”, Tạp chí Luật học, số 1; tài liệu phân tích khái niệm “consideration” theo pháp
luật hợp đồng Hoa Kỳ, bình luận một số nội dung liên quan của pháp luật hợp đồng
Việt Nam hiện hành, đồng thời đưa ra một số lưu ý về “consideration” trong giao
kết hợp đồng với đối tác Hoa Kỳ. Nguồn tài liệu này cung cấp cho tác giả góc nhìn
mới về khái niệm “consideration” để từ đó có định hướng áp dụng đối với hợp đồng
tặng cho tài sản có điều kiện trong việc xác định quyền và nghĩa vụ của các bên
trong trường hợp điều kiện được thực hiện trước khi tặng cho, qua đó góp phần


6


chứng minh cho những bất cập trong quy định này và tạo sự thuyết phục trong các
kiến nghị hoàn thiện pháp luật có liên quan.
- Ngồi ra cịn một số cơng trình khoa học, bài viết là nguồn tham khảo có giá
trị giúp tác giả định hướng và kế thừa những giá trị nhất định trong quá trình nghiên
cứu đề tài như: Lê Minh Hùng (2010), Hiệu lực của hợp đồng theo quy định của
pháp luật Việt Nam, Luận án tiến sĩ, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh;
Phạm Văn Cheo (2009), Chuyên đề: “Thời điểm có hiệu lực của hợp đồng tặng cho
có điều kiện theo Điều 470 Bộ luật dân sự 2005”, Kỷ yếu hội thảo khoa học Thời
điểm giao kết và thời điểm có hiệu lực của hợp đồng theo quy định của Bộ luật dân
sự 2005, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh; Lê Thị Giang (2018),
“Tặng cho tài sản trong Bộ luật dân sự Pháp”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số
03; Phùng Trung Tập (2020), “Bàn về hợp đồng tặng cho có điều kiện”, Tạp chí
Kiểm sát, số 04; Nguyễn Xuân Quang, Lê Nết, Nguyễn Hồ Bích Hằng (2007), Luật
Dân sự Việt Nam, Nxb. Đại học Quốc gia TPHCM…
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Đề tài nghiên cứu với mục đích làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về điều kiện
trong hợp đồng tặng cho tài sản có điều kiện. Trên cơ sở phân tích, đánh giá các quy
định hiện hành về điều kiện và hợp đồng tặng cho có điều kiện, so sánh, đối chiếu
với pháp luật các quốc gia, kết hợp với việc phân tích, bình luận thực tiễn hoạt động
xét xử của Tịa án để phát hiện những hạn chế, thiếu sót trong các quy định pháp
luật hiện hành. Từ đó đưa ra các định hướng, kiến nghị hoàn thiện pháp luật liên
quan đến vấn đề đang nghiên cứu.
4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Khi nghiên cứu đề tài, tác giả tập trung vào các quy định của Bộ luật Dân sự
năm 2015 điều chỉnh về bản chất và nội dung của điều kiện trong hợp đồng tặng
cho tài sản có điều kiện. Trong đó đề tài được giới hạn trong một số các vấn đề, bao
gồm: (1) khái niệm, đặc điểm, hiệu lực của hợp đồng tặng cho tài sản có điều kiện;
(2) khái niệm, các yêu cầu pháp lý của điều kiện tặng cho; (3) công nhận và thực
hiện điều kiện; (4) vi phạm điều kiện. Những vấn đề nằm ngoài phạm vi nghiên cứu
của đề tài sẽ được nghiên cứu ở những cơng trình khoa học khác.



7

5. Phương pháp tiến hành nghiên cứu
- Phương pháp lịch sử được sử dụng để tìm hiểu về tặng cho tài sản có điều
kiện trong các quy định pháp luật dân sự của Việt Nam ở từng thời kỳ lịch sử. Qua
đó phát hiện, kế thừa và phát triển những quy định đã tồn tại từ lâu trong pháp luật
cổ nhưng vẫn có giá trị áp dụng liên quan đến điều kiện trong hợp đồng tặng cho tài
sản có điều kiện.
- Phương pháp phân tích - tổng hợp được sử dụng xun suốt trong tồn bộ
Khóa luận để tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật liên quan đến điều
kiện trong hợp đồng tặng cho tài sản có điều kiện, khái quát những nội dung cơ bản,
phân tích cách hiểu và vận dụng phù hợp quy định pháp luật, bổ sung, tổng hợp
thành các quy định hoàn chỉnh liên quan đến vấn đề nghiên cứu.
- Phương pháp so sánh được vận dụng hầu như xuyên suốt nhằm tìm hiểu, so
sánh, đối chiếu quy định của pháp luật Việt Nam ở mỗi giai đoạn, đồng thời so sánh
với pháp luật các quốc gia như Pháp, Nhật Bản, Thái Lan, Đức, Philippines… để
thấy được những điểm tương đồng và khác biệt, từ đó có góc nhìn mới về các vấn
đề có liên quan chưa được luật hóa, làm cơ sở cho việc định hướng hồn thiện pháp
luật.
- Phương pháp bình luận án được sử dụng chủ yếu ở Chương 2 để làm rõ thực
trạng áp dụng pháp luật liên quan đến thực hiện điều kiện tặng cho trong hợp đồng
tặng cho tài sản có điều kiện, qua đó đưa ra những quan điểm sửa đổi, bổ sung
nhằm hoàn thiện pháp luật.
6. Bố cục tổng qt của Khóa luận
Ngồi Phần mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục thì
nội dung nghiên cứu của khóa luận chia làm hai chương:
Chương 1: Khái quát chung về điều kiện trong hợp đồng tặng cho tài sản có
điều kiện.

Chương 2: Hệ quả pháp lý do vi phạm điều kiện trong hợp đồng tặng cho tài
sản có điều kiện và kiến nghị hoàn thiện.


8

CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ ĐIỀU KIỆN TRONG HỢP ĐỒNG
TẶNG CHO TÀI SẢN CÓ ĐIỀU KIỆN
1.1. Khái niệm hợp đồng tặng cho tài sản và hợp đồng tặng cho tài sản có điều
kiện
Hợp đồng tặng cho là một trong những cơng cụ pháp lý được hình thành lâu
đời trong pháp luật dân sự. Ngay từ thế kỷ thứ V đến thế kỷ thứ I trước Công
nguyên, trong Luật La Mã, hợp đồng tặng cho được coi là một trong những cơ sở
làm phát sinh quyền sở hữu và được quy định một cách cụ thể, chi tiết.1 Tương tự,
pháp luật các quốc gia như Pháp, Đức, Thái Lan, Philippines… cũng dần xây dựng
cho mình chế định riêng về hợp đồng tặng cho tài sản (HĐTCTS), trong đó có Việt
Nam. Một số quốc gia xem tặng cho tài sản là hành vi pháp lý đơn phương như:
Anh (bao gồm cả Scotland), Mỹ, Ấn Độ… khác với các quốc gia như Nhật Bản,
Việt Nam, Đức, Thái Lan… xem tặng cho tài sản là hợp đồng dân sự. Trong hệ
thống pháp luật Anh, tặng cho tài sản được gọi tên là “deed of gift” có nghĩa là
“hành vi tặng cho” mà khơng được quy định là “gift of contract” hay “donation
contract” (HĐTCTS). Theo đó, hành vi tặng cho được hiểu là việc chuyển giao tài
sản sang cho chủ thể khác mà không có đền bù. Tương tự, trong pháp luật Ấn Độ
chỉ cần bên tặng cho tuyên bố ý chí tặng cho là đầy đủ căn cứ pháp lý để hình thành
giao dịch tặng cho mà chưa cần phải có sự chấp nhận của bên được tặng cho.2
Bộ luật Dân sự (BLDS) Việt Nam nói riêng và hệ thống pháp luật Việt Nam
nói chung nhìn nhận tặng cho tài sản dưới góc độ là một hợp đồng dân sự mà không
phải là một hành vi pháp lý đơn phương, vì vậy những phân tích dưới đây đều dựa
vào lý luận tặng cho tài sản là một hợp đồng dân sự.
1.1.1. Khái niệm hợp đồng tặng cho tài sản

Điều 457 BLDS năm 2015 đưa ra khái niệm HĐTCTS như sau: “hợp đồng
tặng cho tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên tặng cho giao tài sản
của mình và chuyển quyền sở hữu cho bên được tặng cho mà không yêu cầu đền bù,
bên được tặng cho đồng ý nhận”. Có thể thấy rằng, quy định trên rõ ràng muốn

Dương Anh Sơn (2008), “Một số vấn đề về hợp đồng tặng cho”, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 4, tr. 13.
Lê Thị Giang (2020), Hợp đồng tặng cho tài sản theo pháp luật Việt Nam - Một số vấn đề lý luận và thực
tiễn, Luận án tiến sĩ, Trường Đại học Luật Hà Nội, tr. 21.
1
2


9

nhấn mạnh vào việc chuyển quyền sở hữu tài sản từ bên tặng cho sang bên được
tặng cho và bên được tặng cho chấp nhận điều đó. Bên cạnh đó, BLDS năm 2015
cịn nhấn mạnh vào yếu tố khơng có đền bù trong khái niệm của mình, đây là một
trong những đặc điểm quan trọng nhất của pháp luật Việt Nam về HĐTCTS bên
cạnh tồn tại nhiều quan điểm trái chiều về tính “khơng có đền bù” này sẽ được làm
rõ hơn ở tiểu mục 1.2.3 của Khóa luận.
Do tính thông dụng và phổ biến, khái niệm “HĐTCTS” được luật hóa rất
nhiều trong pháp luật dân sự của các quốc gia cũng như tồn tại trong khoa học pháp
lý dưới nhiều góc nhìn khác nhau. Theo đó: “hợp đồng tặng cho tài sản là sự thoả
thuận giữa bên tặng cho và bên được tặng cho, theo đó khi cịn sống, bên tặng cho
giao tài sản của mình và chuyển quyền sở hữu cho bên được tặng cho mà không yêu
cầu đền bù; còn bên được tặng cho nhận chuyển giao tài sản. Hợp đồng tặng cho
có thể kèm điều kiện tặng cho hoặc không”3. Một tác giả khác cho rằng: “để tặng
cho được xác lập, lời đề nghị của người tặng cho khơng đủ, cần phải có sự chấp
nhận của người được tặng cho. Vậy, tặng cho là một hợp đồng”4.
Tương tự như BLDS năm 2015 pháp luật các quốc gia cũng có quy định về

HĐTCTS, theo đó Phần I Chương II Điều 1806 BLDS bang Quebec (Canada) quy
định: “tặng cho là hợp đồng mà một người, người tặng cho, chuyển giao quyền sở
hữu tài sản bằng danh nghĩa vô cớ cho người khác, người được tặng cho; một phần
của quyền sở hữu, hoặc bất kỳ quyền nào khác do người đó nắm giữ, cũng có thể
được chuyển nhượng bằng quà tặng. Quà tặng có thể là inter vivos (tặng cho trước
khi chết) hoặc mortis causa (tặng cho sau khi chết)”. Điều 516 BLDS Đức quy
định: “tặng cho là việc định đoạt bằng cách một người nào đó làm giàu cho người
khác từ tài sản của chính mình là một khoản tặng cho nếu cả hai bên đồng ý rằng
việc định đoạt xảy ra một cách vô cớ”. Điều 521 BLDS và Thương mại Thái Lan
cũng đưa ra khái niệm tương tự: “tặng cho là một hợp đồng trong đó một người gọi
là người cho, chuyển một tài sản của mình cho một người khác, gọi là người nhận
mà khơng lấy tiền và người nhận nhận tài sản đó.”
Như vậy, có thể xem HĐTCTS là sự thỏa thuận chuyển giao tài sản và quyền
sở hữu tài sản của một bên (bên tặng cho) sang cho bên còn lại (bên được tặng cho)
Lê Thị Giang, tlđd (2), tr. 29.
Nguyễn Ngọc Điện (1999), Một số suy nghĩ về thừa kế trong Luật Dân sự Việt Nam, Nxb. Trẻ, TPHCM, tr.
160.
3
4


10

theo hợp đồng và bên được tặng cho đồng ý nhận tài sản đó.
1.1.2. Khái niệm điều kiện tặng cho và hợp đồng tặng cho tài sản có điều kiện
1.1.2.1. Khái niệm điều kiện tặng cho
Theo từ điển tiếng Việt thì “điều kiện” là “cái cần phải có để cho một cái
khác có thể có hoặc có thể xảy ra”, là “điều nêu ra như một đòi hỏi trước khi thực
hiện một việc nào đó” hay “những gì có thể tác động đến tính chất, sự tồn tại hoặc
sự xảy ra của một cái gì đó”5. Cần phân biệt điều kiện có hiệu lực của hợp đồng với

điều kiện trong hợp đồng tặng cho tài sản có điều kiện (HĐTCTSCĐK). Theo đó,
điều kiện có hiệu lực của hợp đồng “là tổng hợp những yêu cầu pháp lý nhằm đảm
bảo cho hợp đồng được lập đúng bản chất đích thực của nó”6, cịn tặng cho có điều
kiện là một loại hợp đồng được quy định tại Điều 462 BLDS năm 2015. Hiện nay,
trong khoa học pháp lý cũng có bài viết, luận văn, luận án nghiên cứu về
HĐTCTSCĐK, tuy nhiên, rất ít cơng trình đi sâu vào phân tích khái niệm “điều kiện
tặng cho”. Khoản 1 Điều 462 BLDS năm 2015 quy định: “bên tặng cho có thể yêu
cầu bên được tặng cho thực hiện một hoặc nhiều nghĩa vụ trước hoặc sau khi tặng
cho. Điều kiện tặng cho không được vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức
xã hội”. Có thể thấy BLDS năm 2015 xem “điều kiện tặng cho” là nghĩa vụ mà một
bên phải thực hiện vì lợi ích của bên kia. Điều 274 BLDS năm 2015 nêu rõ khái
niệm “nghĩa vụ”: “nghĩa vụ là việc mà theo đó, một hoặc nhiều chủ thể (sau đây gọi
chung là bên có nghĩa vụ) phải chuyển giao vật, chuyển giao quyền, trả tiền hoặc
giấy tờ có giá, thực hiện công việc hoặc không được thực hiện công việc nhất định
vì lợi ích của một hoặc nhiều chủ thể khác (sau đây gọi chung là bên có quyền).”
Điều 276 BLDS năm 2015 xác định đối tượng của nghĩa vụ bao gồm tài sản, công
việc phải thực hiện hoặc không được thực hiện.
Trong khoa học pháp lý có một vài quan điểm về “điều kiện tặng cho” như:
“điều kiện tặng cho được hiểu là một hoặc nhiều nghĩa vụ mà bên được tặng cho
phải thực hiện trước hoặc sau khi nhận tài sản tặng cho. Thông thường, điều kiện
tặng cho do bên tặng cho đưa ra và được sự chấp thuận của bên được tặng cho.”7

Viện Ngôn ngữ học (2006), Từ điển Tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng, tr. 321 -322.
Lê Thị Diễm Phương (2020), “Khái niệm về điều kiện trong loại hợp đồng có điều kiện”, xem tại
/>truy cập lần cuối ngày 01/5/2021.
7 Nguyễn Văn Cừ và Trần Thị Huệ (đồng chủ biên) (2017), Bình luận khoa học BLDS 2015, Nxb. Công an
5
6



11

Hoặc “điều kiện trong hợp đồng tặng cho có điều kiện là dự liệu về một hay một vài
nghĩa vụ dân sự (phải chuyển giao vật, chuyển giao quyền, trả tiền hoặc giấy tờ có
giá, thực hiện cơng việc khác hoặc khơng thực hiện cơng việc nhất định vì lợi ích
của một hoặc nhiều chủ thể khác) do các bên tự thỏa thuận trong hợp đồng mà bên
được tặng cho phải thực hiện trên cơ sở không trái pháp luật, đạo đức xã hội, nhằm
xác lập cơ sở tiền đề cho việc thực hiện tặng cho hoặc xác lập nghĩa vụ thanh tốn
khi bên tặng cho khơng thực hiện việc tặng cho hoặc là căn cứ hủy bỏ hiệu lực của
việc tặng cho nếu sau khi được tặng cho mà bên được tặng cho không thực hiện
nghĩa vụ”.8
Điểm khác biệt cốt lõi nhất giữa HĐTCTSCĐK với HĐTCTS thơng thường
đó chính là “điều kiện tặng cho”. Bên cạnh quy định tại Điều 462, cụm từ “điều
kiện” còn xuất hiện nhiều trong các quy định khác của BLDS năm 2015, trong đó
phải kể đến quy định về giao dịch dân sự có điều kiện (khoản 1 Điều 120); quy định
về thực hiện nghĩa vụ có điều kiện (khoản 1 Điều 284); quy định về hợp đồng có
điều kiện (khoản 6 Điều 402). Trong các quy định này, điều kiện được xem là sự
kiện pháp lý. Theo đó, “sự kiện pháp lý” được hiểu là “những sự kiện, hồn cảnh,
tình huống của đời sống thực tế”. Theo một quan điểm: “không phải mọi sự kiện
xảy ra trong thực tế đều là sự kiện pháp lý mà chỉ những sự kiện làm phát sinh
những hậu quả pháp lý nhất định mới là sự kiện pháp lý có thể là hiện tượng tự
nhiên hoặc là hành vi của con người…(…)… Sự kiện pháp lý trong quan hệ pháp
luật dân sự nói chung là những sự kiện xảy ra trong thực tế được pháp luật dân sự
dự liệu, quy định làm phát sinh hậu quả pháp lý: phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan
hệ pháp luật dân sự”9. Như vậy, vấn đề đặt ra: điều kiện tặng cho trong
HĐTCTSCĐK có thể là một sự kiện pháp lý, bao gồm điều kiện phát sinh, điều
kiện thay đổi và điều kiện chấm dứt hợp đồng khơng? Ví dụ: ông A và bà B đã tổ
chức lễ đính hôn vào ngày 01/01/2021, tại lễ đính hơn, gia đình ơng A đã tặng cho
bà B một số tài sản và thỏa thuận việc ông A và bà B sẽ tổ chức lễ cưới theo ngày
giờ đã định. Theo một quan điểm: “trong tình huống này, thực ra rất khó khai thác

quy định tại Điều 462 BLDS năm 2015 về hợp đồng tặng cho vì phía bên nhà trai

nhân dân, Hà Nội, tr. 690.
8
Trần Thị Như Trang (2014), Hợp đồng tặng cho tài sản có điều kiện theo quy định của pháp luật Việt Nam,
Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Luật TPHCM, tr. 26.
9
Trường Đại học Luật Tp. HCM (2018), Giáo trình những quy định chung về luật dân sự, Nxb. Hồng Đức –
Hội Luật gia Việt Nam, TPHCM, tr. 75 -76.


12

khơng u cầu phía bên nhà gái “thực hiện một hoặc nhiều nghĩa vụ dân sự trước
hoặc sau khi tặng cho”. Trong trường hợp này, liệu có thể khai thác quy định về
giao dịch có điều kiện hủy bỏ thuyết phục hơn vì điều kiện ở đây khơng nhất thiết
phải là thực hiện một hay nhiều nghĩa vụ dân sự?10 Tuy nhiên, tác giả cho rằng vẫn
có thể khai thác quy định này, điều kiện tặng cho là phải tiến hành hôn lễ, trong
trường hợp hôn ước bị huỷ bỏ thì bên được tặng cho phải trả lại tài sản tặng cho là
sính lễ được tặng cho.
Khi nghiên cứu về vấn đề điều kiện tặng cho có thể là sự kiện pháp lý, một
học giả có quan điểm như sau: “điều luật có tiêu đề là “Tặng cho tài sản có điều
kiện” và, khi đi vào nội dung, điều luật chỉ đề cập đến trường hợp bên tặng cho
“yêu cầu bên được tặng cho thực hiện một hay nhiều nghĩa vụ dân sự trước hoặc
sau khi tặng cho”. Với quy định như vậy, khi các bên thống nhất “bên được tặng
cho thực hiện một hoặc nhiều nghĩa vụ dân sự trước hoặc sau khi tặng cho” thì tồn
tại hợp đồng tặng cho có điều kiện. Tuy nhiên, với tiêu đề và nội hàm của điều luật,
chúng ta có thể cho rằng điều kiện trong hợp đồng tặng cho không chỉ giới hạn ở
việc “bên được tặng cho thực hiện một hoặc nhiều nghĩa vụ dân sự trước hoặc sau
khi tặng cho”. Nói cách khác, đây chỉ là một trong những trường hợp có thể của

hợp đồng tặng cho tài sản có điều kiện và hồn tồn có thể tồn tại điều kiện khác
(tùy vào sự tưởng tượng của các bên liên quan).”11 Trên thực tế xảy ra phổ biến các
trường hợp điều kiện tặng cho được các bên thỏa thuận mang tính chất là điều kiện
phát sinh, ví dụ: A thoả thuận tặng cho B 100 triệu đồng nếu B đạt giải nhất trong
cuộc đua marathon, lúc này điều kiện phát sinh là cuộc đua xảy ra và A thắng, B
phải có nghĩa vụ tặng cho 100 triệu đồng; hoặc trường hợp điều kiện tặng cho là
điều kiện hủy bỏ như ví dụ về hợp đồng tặng cho sính lễ giữa ông A và bà B vừa
nêu trên, nếu điều kiện “tổ chức lễ cưới theo ngày giờ đã định” khơng xảy ra thì hợp
đồng bị hủy bỏ. Như vậy, điều kiện tặng cho trong HĐTCTSCĐK cũng có thể được
nhìn nhận là sự kiện mà quyền và nghĩa vụ của các bên phụ thuộc vào đó.
BLDS Nhật Bản coi điều kiện tặng cho là nghĩa vụ khi quy định
HĐTCTSCĐK là việc áp đặt các nghĩa vụ đối với bên được tặng cho12. Điều 190

Đỗ Văn Đại (2018), Luật Hợp đồng Việt Nam – Bản án và bình luận bản án (tập 2), Nxb. Hồng Đức – Hội
Luật gia Việt Nam, Hà Nội, tr. 724 -725.
11
Đỗ Văn Đại, tlđd (10), tr. 724.
12
Lê Thị Hoài Ân (2015), “Quy định của pháp luật về tặng cho tải sản ở một số quốc gia trên thế giới và ở
10


13

Luật Hợp đồng Nhân dân Trung Hoa cũng quy định: “người tặng cho có thể kèm
thêm nghĩa vụ. Nếu tặng cho kèm thêm nghĩa vụ, thì người được tặng cho cần thực
hiện nghĩa vụ theo thỏa thuận”. Tương tự, Điều 522 BLDS và Thương mại Thái
Lan quy định: “việc tặng cho có thể thực hiện được bằng cách đồng ý miễn cho
người nhận việc thi hành một nghĩa vụ, hoặc bằng cách thi hành một nghĩa vụ mà
người nhận có bổn phận phải thi hành.” Có thể thấy, tuy khơng quy định cụ thể về

khái niệm điều kiện tặng cho trong chế định HĐTCTSCĐK của mình nhưng các
quốc gia cho rằng điều kiện tặng cho chính là nghĩa vụ mà các bên thỏa thuận phải
thực hiện trong hợp đồng.
Như vậy, điều kiện tặng cho có thể được hiểu là thỏa thuận giữa các bên
trong HĐTCTSCĐK, theo đó bên được tặng cho phải thực hiện một hoặc một số
nghĩa vụ nhất định theo yêu cầu của bên tặng cho. Nghĩa vụ này có thể được thực
hiện trước hoặc sau khi tặng cho theo thỏa thuận giữa các bên. Điều kiện tặng cho
cũng có thể là sự kiện làm phát sinh hoặc chấm dứt hợp đồng tặng cho tài sản.
1.1.2.2. Khái niệm hợp đồng tặng cho tài sản có điều kiện
Trong BLDS năm 2015 tồn tại các thuật ngữ: “giao dịch dân sự có điều
kiện” và “hợp đồng có điều kiện”, “tặng cho tài sản có điều kiện” để làm rõ vấn đề
này cần có một cơng trình nghiên cứu sâu rộng và trong phạm vi đề tài nghiên cứu,
tác giả chỉ nhìn nhận HĐTCTSCĐK dưới góc độ là một dạng của HĐTCTS từ
những quy định có liên quan của BLDS năm 2015. Trong các quy định về
HĐTCTS, BLDS năm 2015 đã dành riêng một điều luật với tên gọi là Tặng cho tài
sản có điều kiện (Điều 462) để điều chỉnh các vấn đề phát sinh trong hợp đồng tặng
cho tài sản có kèm theo điều kiện. Tuy nhiên, BLDS năm 2015 lại không đưa ra
khái niệm nào về “HĐTCTSCĐK” trong khi thực tiễn xét xử các Tòa án đều mạnh
dạng xác định quan hệ tranh chấp giữa các bên là quan hệ HĐTCTSCĐK. Cụ thể,
Tòa án nhận định: “xét thấy hợp đồng tặng cho tài sản giữa ông Đ và chị A là hợp
đồng tặng cho tài sản có điều kiện: theo đó ơng Đ sẽ cho chị A số tiền 500.000.000
đồng, chị có nghĩa vụ về chung sống như vợ chồng với ơng”13. Một bản án khác
cũng được Tịa án tuyên giữa các bên trong hợp đồng tồn tại quan hệ tặng cho tài
sản có điều kiện:“…bản chất của việc tặng cho nhà đất giữa bà V, ông L và bà D là
Việt Nam”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số 12, tr. 54.
13
Bản án số 82/2020/ DS-ST ngày 03/11/2020 về việc “Tranh chấp hợp tặng cho tài sản” của TAND huyện
Long Hồ tỉnh Vĩnh Long.



14

“Tặng cho tài sản có điều kiện” theo quy định tại Điều 462 Bộ luật Dân sự năm
2015”14. Rất tiếc trong các nhận định này, Tòa án chỉ xác định mà không lý giải
khái niệm HĐTCTSCĐK.
Trong khoa học pháp lý Việt Nam có một số tác giả đưa ra quan điểm về
HĐTCTSCĐK như sau: “hợp đồng tặng cho tài sản có điều kiện là sự thỏa thuận
trong đó bên tặng cho sẽ cân nhắc việc chuyển giao tài sản và quyền sở hữu tài sản
cho bên thụ nhận sau khi bên thụ nhận thực hiện một hay nhiều nghĩa vụ dân sự là
điều kiện của hợp đồng tặng cho hoặc là sự thỏa thuận về việc tặng cho sẽ bị hủy
bỏ sau khi được tặng cho mà bên nhận tặng cho không thực hiện được nghĩa vụ dân
sự do bên tặng cho yêu cầu trước khi tặng cho”.15 Một tác giả khác lại cho rằng:
“hợp đồng tặng cho tài sản có điều kiện là hợp đồng tặng cho tài sản, theo đó bên
tặng cho có thể yêu cầu bên được tặng cho thực hiện một hoặc nhiều nghĩa vụ trước
hoặc sau khi tặng cho. Điều kiện tặng cho không được vi phạm điều cấm của luật,
không trái đạo đức xã hội và khơng được làm thay đổi tính chất khơng có đền bù
của hợp đồng tặng cho tài sản”16. Pháp luật các nước hầu như không đưa ra khái
niệm HĐTCTSCĐK, tuy nhiên, trong bất kỳ quy định nào về HĐTCTS cũng đều đề
cập đến loại hợp đồng này. Điều 525 BLDS Đức quy định về tặng cho có điều kiện:
“bất kỳ ai tặng cho theo một điều kiện đều có thể yêu cầu rằng điều kiện đó phải
được đáp ứng nếu bản thân anh ta đã thực hiện. Nếu việc thực hiện điều kiện là vì
lợi ích cơng cộng, thì cơ quan cơng quyền có thẩm quyền cũng có thể yêu cầu thực
hiện điều kiện sau khi người tặng cho qua đời.” Điều 522 BLDS và Thương mại
Thái Lan quy định: “việc tặng cho có thể thực hiện được bằng cách đồng ý miễn
cho người nhận việc thi hành một nghĩa vụ, hoặc bằng cách thi hành một nghĩa vụ
mà người nhận có bổn phận phải thi hành”.
Như vậy, dựa trên lý luận về điều kiện tặng cho trong HĐTCTS theo quy
định của BLDS năm 2015 cũng như góc nhìn của pháp luật nước ngồi có thể xem
HĐTCTSCĐK là HĐTCTS, theo đó các bên tự thỏa thuận với nhau về việc bên
được tặng cho phải thực hiện một hoặc một số điều kiện tặng cho là sự kiện hoặc

nghĩa vụ dân sự. Điều kiện này có thể được thực hiện trước hoặc sau khi tặng cho.

Bản án số 26/2019/DS-PT ngày 14/01/2019 về việc “Tranh chấp yêu cầu huỷ hợp đồng tặng cho” của
TAND TPHCM.
15
Trần Thị Như Trang, tlđd (8), tr. 30.
16
Lê Thị Giang, tlđd (2), tr. 33.
14


15

1.2. Đặc điểm của hợp đồng tặng cho tài sản có điều kiện
HĐTCTSCĐK là một loại HĐTCTS, do đó HĐTCTSCĐK sẽ mang đầy đủ
những đặc điểm đặc trưng nhất của một HĐTCTS. Tuy nhiên, qua quá trình nghiên
cứu, khoa học pháp lý cũng có nhiều quan điểm tranh luận về các đặc điểm của loại
hợp đồng này, vấn đề này sẽ được tác giả phân tích dưới đây.
1.2.1. Tính đơn vụ hay song vụ
Căn cứ vào tương quan quyền và nghĩa vụ của chủ thể trong hợp đồng, khoa
học pháp lý chia hợp đồng thành các loại chủ yếu trong đó có hợp đồng song vụ và
hợp đồng đơn vụ. Hợp đồng song vụ là hợp đồng mà mỗi bên đều có nghĩa vụ đối
với nhau (khoản 1 Điều 402 BLDS năm 2015). Trong hợp đồng song vụ, mỗi bên
vừa có quyền vừa có nghĩa vụ. Quyền và nghĩa vụ của các bên luôn đối ứng với
nhau, quyền của bên này là nghĩa vụ của bên kia và ngược lại. Hợp đồng đơn vụ là
hợp đồng mà chỉ một bên có nghĩa vụ (khoản 1 Điều 401 BLDS năm 2015).17
Đối với HĐTCTSCĐK thì cịn nhiều quan điểm trái ngược nhau về tính đơn
vụ hay song vụ của hợp đồng. Theo quan điểm pháp lý truyền thống của nước ta từ
trước tới nay, HĐTCTS được xác định là hợp đồng đơn vụ.18 Theo đó: “…khơng thể
coi hợp đồng tặng cho có điều kiện là hợp đồng song vụ, trong đó hai bên cùng có

nghĩa vụ được, vì quyền của bên này không tương ứng với nghĩa vụ của bên kia”.19
Nhưng cũng có học giả lại cho rằng: “hợp đồng tặng cho có thể là hợp đồng đơn vụ,
có thể là hợp đồng song vụ”. Học giả cho rằng trong quan hệ hợp đồng này, một
bên được nhận tài sản tặng cho mà khơng phải thực hiện một nghĩa vụ gì đối với
bên đã tặng cho (trừ trường hợp tặng cho có điều kiện). Như vậy, HĐTCTS khơng
phải hồn tồn bao giờ cũng là đơn vụ. Đối với hợp đồng tặng cho có điều kiện
được coi là hợp đồng song vụ.20
Hợp đồng tặng cho kèm theo điều kiện của người được tặng cho, được
BLDS Nhật Bản xác định là loại hợp đồng song phương, vì nó phát sinh nghĩa vụ
của bên tặng cho cũng như bên được tặng cho: “các quy định liên quan tới hợp
Trường Đại học Luật TPHCM (2017), Giáo trình hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng (tái
bản lần thứ 1, có sửa đổi và bổ sung), Nxb. Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam, TPHCM, tr. 128.
18
Lê Thị Giang, tlđd (2), tr. 41.
19
Nguyễn Hải An (2012), Pháp luật về tặng cho quyền sử dụng đất ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội, tr. 21 -22.
20
Lê Thị Hoài Ân, tlđd (12), tr. 58.
17


16

đồng song phương được áp dụng đối với việc tặng cho do bổn phận để bổ sung cho
các quy định của mục này” (Điều 553). Giống như Nhật Bản, tặng cho có điều kiện
cũng được Điều 528 BLDS và Thương mại Thái Lan coi là hợp đồng song phương
khi quy định những điều kiện kèm theo việc tặng cho đối với người được tặng cho
coi như là trách nhiệm đối với họ: “nếu việc tặng cho có kèm theo một trách nhiệm
và người nhận khơng thực hiện trách nhiệm đó, thì người cho có thể theo những

điều kiện về hủy bỏ trong trường hợp là các hợp đồng song phương, yêu cầu hoàn
trả vật tặng cho theo quy định và hồn trả phần làm giàu khơng chính đáng trong
chừng mực mà vật tặng cho phải được sử dụng để thực hiện trách nhiệm trên”.
Dựa trên góc nhìn của khoa học pháp lý trong nước cũng như tham khảo quy
định của pháp luật nước ngoài, tác giả cho rằng HĐTCTS sẽ là hợp đồng đơn vụ
còn HĐTCTSCĐK là một hợp đồng song vụ. Khoản 2 Điều 402 BLDS năm 2015
quy định: “hợp đồng đơn vụ là hợp đồng mà chỉ một bên có nghĩa vụ”. Tính đơn vụ
trong HĐTCTS được xác định bởi trong hợp đồng này chỉ có bên tặng cho tài sản là
bên có nghĩa vụ thơng báo khuyết tật của tài sản (Điều 461) và trách nhiệm đối với
bên được tặng cho khi cố ý tặng tài sản khơng thuộc quyền sở hữu của mình (Điều
460). Luật khơng quy định nghĩa vụ của bên nhận tài sản tặng cho, tuy nhiên, đối
với HĐTCTSCĐK tác giả cho rằng hợp đồng này vẫn có thể được nhìn nhận dưới
góc độ của một hợp đồng song vụ. Tính song vụ được lý giải bởi khoản 1 Điều 402
BLDS năm 2015 định nghĩa: “hợp đồng song vụ là hợp đồng mà mỗi bên đều có
nghĩa vụ đối với nhau”. Trong HĐTCTSCĐK, luật cũng có quy định nghĩa vụ giữa
bên cho và bên nhận đối với nhau. Ngoài nghĩa vụ của bên tặng đã được phân tích ở
tính đơn vụ thì bên được tặng cho cũng có nghĩa vụ thực hiện điều kiện tặng cho.
Theo đó, bên tặng cho là bên có quyền đưa ra điều kiện tặng cho buộc bên được
tặng cho phải thực hiện, điều này thể hiện rất rõ trong quy định tại khoản 1 Điều
462 BLDS năm 2015: “bên tặng cho có thể yêu cầu bên được tặng cho thực hiện
một hoặc nhiều nghĩa vụ trước hoặc sau khi tặng cho” và lúc này tương ứng với
quyền của bên tặng cho, bên được tặng cho phải thực hiện điều kiện tặng cho. Do
đó, việc thực hiện điều kiện tặng cho được xác định là nghĩa vụ của bên được tặng
cho. Bên cạnh đó, khoản 3 Điều 462 BLDS năm 2015 cũng quy định rất rõ về trách
nhiệm của bên được tặng cho khi không thực hiện điều kiện tặng cho, theo đó:
“trường hợp phải thực hiện nghĩa vụ sau khi tặng cho mà bên được tặng cho không
thực hiện thì bên tặng cho có quyền địi lại tài sản và yêu cầu bồi thường thiệt hại”.


17


Đây là quy định về hệ quả pháp lý của bên được tặng cho khi vi phạm điều kiện đã
thỏa thuận trong hợp đồng, thực chất hành vi phạm điều kiện tặng cho này là hành
vi vi phạm nghĩa vụ để từ đó có cơ chế xử lý là buộc bên được tặng cho phải trả lại
tài sản đồng thời phải bồi thường thiệt hại. Nếu không coi việc thực hiện điều kiện
tặng cho là nghĩa vụ của bên được tặng cho tài sản thì sẽ khơng có cơ sở pháp lý để
giải quyết trường hợp bên tặng cho đã chuyển giao tài sản nhưng bên được tặng
cho không thực hiện điều kiện.21 Như vậy, HĐTCTSCĐK vẫn có thể được xem xét
là một hợp đồng song vụ.
Việc xác định tính đơn vụ hay song vụ của HĐTCTS nói chung và
HĐTCTSCĐK nói riêng có ý nghĩa pháp lý quan trọng về mặt lý luận lẫn thực tiễn.
Thứ nhất, tính song vụ của HĐTCTSCĐK là cơ sở để các bên xác định quyền và
nghĩa vụ của mình trong hợp đồng, từ đó đưa ra cách hành xử thiện chí để đạt được
mục đích giao kết cuối cùng mà các bên đã thỏa thuận. Thứ hai, việc xác định tính
song vụ của HĐTCTSCĐK đồng nghĩa với việc xác định nghĩa vụ của bên tặng cho
và bên được tặng cho, là nền tảng để xác định hệ quả pháp lý và xây dựng chế tài xử
lý trong trường hợp một hoặc các bên vi phạm điều kiện đã thỏa thuận trong hợp
đồng. Đây là cơ chế để đảm bảo hiệu lực áp dụng của HĐTCTSCĐK.
1.2.2. Tính thực tế hay ưng thuận
Lý thuyết về hợp đồng chỉ ra rằng, hợp đồng ưng thuận là hợp đồng mà hiệu
lực của nó phát sinh từ thời điểm các bên thỏa thuận xong nội dung cần thiết (chủ
yếu) của hợp đồng. Về nguyên tắc, hợp đồng ưng thuận là hợp đồng mà hiệu lực
của nó được tạo lập tại thời điểm các bên chấp nhận, đồng thuận hoàn toàn với nhau
về mặt nội dung của hợp đồng. Hợp đồng thực tế là hợp đồng mà hiệu lực của nó
phát sinh từ thời điểm mà các bên thực tế đã chuyển giao cho nhau đối tượng của
hợp đồng. Đặc điểm của cơ bản của hợp đồng thực tế là hiệu lực của nó lệ thuộc
vào thời điểm thực tế, khi một bên hứa giao tài sản đã thực hiện hành vi chuyển
giao tài sản cho bên kia.22 Phần lớn các quan điểm trong nước đều cho rằng
HĐTCTS nói chung và HĐTCTSCĐK nói riêng là hợp đồng thực tế. Cụ thể, theo
Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam của Trường Đại học Luật Hà Nội thì: “hợp đồng

tặng cho tài sản là hợp đồng thực tế. Đặc điểm thực tế của hợp đồng được thể hiện

21
22

Lê Thị Giang, tlđd (2), tr. 35.
Trường Đại học Luật TPHCM, tlđd (17), tr. 132 -133.


18

khi bên được tặng cho nhận tài sản thì khi đó quyền của các bên mới phát sinh. Do
đó, mọi thỏa thuận chưa có hiệu lực khi chưa giao tài sản”23. Một học giả khác
cũng có cùng quan điểm: “sự đồng ý của bên được tặng cho quyết định cho hợp
đồng được xác lập, song hợp đồng chỉ có hiệu lực khi tài sản được tặng cho được
trao cho bên được tặng cho (hợp đồng thực tế). Như vậy, đây là hợp đồng thực tế,
đơn vụ và khơng có đền bù”24. Ngược lại, có quan điểm cho rằng: “tặng cho tài sản
có thể là hợp đồng thực tế, có thể là hợp đồng ưng thuận”25. Một tác giả ủng hộ
quan điểm này nhận định như sau: “có thể khẳng định rằng, hợp đồng tặng cho là
hợp đồng khơng có tính đền bù, tuy nhiên nếu nói rằng hợp đồng tặng cho là hợp
đồng thực tế thì cịn cần phải xem xét”26. Tác giả này lý giải dựa vào quy định tại
khoản 1 Điều 458 BLDS năm 2015: “hợp đồng tặng cho động sản có hiệu lực kể từ
thời điểm bên được tặng cho nhận tài sản, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”. Tác
giả này cho rằng thời điểm “nhận tài sản” theo quy định trên có thể là nhận tài sản
về mặt pháp lý lẫn về mặt thực tiễn. Nói cách khác, việc bên được tặng cho đồng ý
nhận tài sản có thể là đồng ý nhận tài sản ngay tức thì và cũng có thể là đồng ý nhận
tài sản vào thời điểm nào đó trong tương lai. Và theo đó, HĐTCTS là hợp đồng
thực tế khi thời điểm ký kết hợp đồng và thời điểm giao tài sản trùng nhau, tức là
“nhận tài sản” trên thực tế. Trường hợp thời điểm giao tài sản và thời điểm ký hợp
đồng không trùng nhau, thông thường trong trường hợp này tài sản sẽ được chuyển

giao tại một thời điểm xác định trong tương lai sau khi HĐTCTS được ký kết, tức là
“nhận tài sản” về mặt pháp lý thì HĐTCTS là hợp đồng ưng thuận.
Về việc xác định tính thực tế hay ưng thuận của HĐTCTS, pháp luật nước
ngoài cũng quy định khác nhau. BLDS Pháp cho rằng tặng cho là một hợp đồng
ưng thuận tuyệt đối khi quy định: “một chứng thư tặng cho phải lập trước công
chứng viên, theo hình thức thơng thường của hợp đồng và được cơng chứng viên
lưu bản chính. Nếu khơng tn thủ các quy định này, chứng thư tặng cho sẽ vô
hiệu” (Điều 931); “việc tặng cho coi như được hoàn tất ngay sau khi có sự đồng ý
của hai bên; quyền sở hữu tài sản tặng cho được chuyển cho người được tặng cho

Đại học Luật Hà Nội (2006), Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam (tập 2), Nxb. Công an Nhân dân, Hà Nội,
tr. 156.
24
Nguyễn Xuân Quang, Lê Nết, Nguyễn Hồ Bích Hằng (2007), Luật Dân sự Việt Nam, Nxb. Đại học Quốc
gia TPHCM, tr. 397.
25
Nguyễn Hải An, tlđd (19), tr. 17.
26
Dương Anh Sơn, tlđd (1), tr. 14.
23


19

mà không cần phải chuyển giao tài sản trên thực tế” (Điều 938). Điều 549 BLDS
Nhật Bản cũng xem HĐTCTS có tính ưng thuận, theo đó: “hợp đồng có hiệu lực,
khi một bên tun bố chuyển giao khơng hồn lại tài sản của mình cho bên kia và
bên kia đồng ý nhận nó.”27 Ngược lại, Điều 521 BLDS và Thương mại Thái Lan
cho rằng tặng cho tài sản là một hợp đồng thực tế khi quy định tặng cho có hiệu lực
từ thời điểm bên được tặng cho nhận tài sản: “tặng cho là một hợp đồng trong đó

một bên gọi là bên tặng cho, chuyển một tài sản của chính mình cho bên kia, gọi là
bên được tặng cho mà không đền bù và bên được tặng cho đồng ý nhận tài sản đó”.
Như vậy, trong khoa học pháp lý Việt Nam cũng như pháp luật dân sự của
Pháp, Thái Lan, Nhật Bản có quan điểm và quy định khác nhau về tính chất thực tế
hay ưng thuận của HĐTCTS. Qua nghiên cứu thấy rằng tính thực tế hay tính ưng
thuận của hợp đồng đã được ghi nhận trong cổ luật Việt Nam28, khi đó dựa vào tiêu
chí phân loại theo hình thức các khế ước chia thành: khế ước hiệp ý (les contrats
consensuels)29, khế ước trọng thể (les contrats solennels)30 và khế ước giao vật (les
contrats réels)31. Xét về bản chất có thể thấy rằng hợp đồng ưng thuận chính là khế
ước hiệp ý, cịn hợp đồng thực tế là khế ước giao vật. Đồng thời, trong bài viết của
mình, tác giả Vũ Văn Mẫu cũng khẳng định tặng cho động sản là khế ước giao vật
và tặng cho bất động sản là khế ước trọng thể.32 Trong lịch sử cổ luật La Mã, quan
niệm khế ước giao vật chỉ đánh dấu một phản ứng chống lại quan niệm khế ước
trọng thức trên con đường tiến đến nguyên tắc hiệp ý.33 Ngày nay, trong quy định
tại Điều 458 và Điều 459 BLDS năm 2015 về thời điểm có hiệu lực của HĐTCTS
đề cập đến khế ước giao vật và khế ước trọng thể. Theo đó, nếu đối tượng là tài sản

Lê Thị Hoài Ân, tlđd (12), tr. 53.
Vũ Văn Mẫu (1963), Việt Nam dân luật lược khảo - Khế ước và Nghĩa vụ, Bộ Giáo dục quốc gia xuất bản,
Hà Nội, tr. 61 -63.
29
Khế ước hiệp ý là các khế ước hiệp ý do sự ưng thuận của các người kết ước lập thành là loại khế ước
chính yếu. Cũng như Dân luật của Pháp, Dân luật Việt Nam công nhận nguyên tắc hiệp ý (principe du
consesualisme) và coi sự ưng thuận là căn bản. Như vậy, khế ước có thể được kết lập một khi ý chí của đôi
bên đã gặp gỡ nhau và thỏa thuận, không cần phải ký kết một chứng thư gì cả.
30
Khế ước trọng thể là trong các khế ước trọng thể, nhà lập pháp hoặc bắt buộc các khế ước ấy phải do
chưởng thể hay một cơng lại có thẩm quyền soạn thảo, hoặc bắt buộc phải ghi một số điều khoản nhất định,
mục đích để bảo vệ các đương sự trong trường hợp ký kết các khế ước quan trọng và lưu ý họ đặc biệt tới
một số điều khoản thiết yếu.

31
Khế ước giao vật là sự thiết lập các khế ước này phải tùy thuộc thiết yếu vào sự giao nạp đồ vật (la
tradition). Nếu yếu tố này chưa thực hiện, chưa có khế ước giao vật.
32
Giải pháp này đã được chấp nhận minh thị trong Điều 866 Dân luật Bắc và Điều 9769 Dân luật Trung: “sự
tặng dữ tiền bạc hay động sản khơng phải theo hình thức nào cả. Sự tặng dữ ấy được thực hiện bằng cách
người tặng chủ giao vật cho người thụ tặng.” (Xem Vũ Văn Mẫu, tlđd (28), tr. 64.)
33
Vũ Văn Mẫu, tlđd (28), tr. 65.
27
28


×