Tải bản đầy đủ (.pdf) (198 trang)

Một số vấn đề pháp lý liên quan đến giao dịch dân sự có đối tượng là quyền sử dụng đất của hộ gia đình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.22 MB, 198 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN THỊ ÁI TIÊN

MỘT SỐ VẤN ĐỀ PHÁP LÝ LIÊN
QUAN ĐẾN GIAO DỊCH DÂN SỰ CÓ
ĐỐI TƯỢNG LÀ QUYỀN SỬ DỤNG
ĐẤT CỦA HỘ GIA ĐÌNH

KHĨA LUẬN CHUN NGÀNH LUẬT DÂN SỰ

TP. HỒ CHÍ MINH - THÁNG 7 - NĂM 2021


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN THỊ ÁI TIÊN

MỘT SỐ VẤN ĐỀ PHÁP LÝ LIÊN QUAN ĐẾN GIAO DỊCH DÂN
SỰ CÓ ĐỐI TƯỢNG LÀ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT CỦA
HỘ GIA ĐÌNH

NGƯỜI HƯỚNG DẪN: ThS. NGUYỄN NHẬT THANH

TP. HỒ CHÍ MINH – THÁNG 7 – NĂM 2021


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan khóa luận tốt nghiệp này là cơng trình nghiên cứu của bản


thân tơi, được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của Thạc sĩ Nguyễn Nhật
Thanh. Các thông tin, số liệu, những kết luận nghiên cứu được trình bày trong khóa
luận là hồn tồn trung thực và có trích dẫn một cách chính xác và đầy đủ.
Tơi xin chịu trách nhiệm hồn tồn về lời cam đoan này.
Tác giả khóa luận

NGUYỄN THỊ ÁI TIÊN


LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, em xin gửi lời cảm ơn đến Khoa Luật Dân sự Trường đại học
Luật TP. Hồ Chí Minh đã tạo điều kiện thuận lợi để chúng em hồn thành được
khóa luận tốt nghiệp của mình.
Để hồn thành khóa luận tốt nghiệp này đúng thời hạn khơng chỉ dựa vào việc
nghiên cứu của chính bản thân em mà cịn có sự đóng góp rất lớn từ Thạc sĩ Nguyễn
Nhật Thanh. Em xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến thầy Nhật Thanh, cảm ơn
thầy đã ln giúp đỡ, hướng dẫn tận tình, chu đáo và ln góp ý kiến giúp em hồn
thiện tốt khóa luận tốt nghiệp của mình. Em kính chúc thầy Nhật Thanh cùng quý
thầy cô luôn tràn đầy sức khỏe, cống hiến hết mình cho sự nghiệp trồng người của
mình.
Trân trọng cảm ơn!
Tác giả khóa luận

NGUYỄN THỊ ÁI TIÊN


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

Từ viết tắt


Từ được viết tắt

BLDS

Bộ luật Dân sự

GCN

Giấy chứng nhận

HĐXX

Hội đồng xét xử

LĐĐ 2013

Luật Đất đai 2013

Luật HNGĐ 2014

Luật Hơn nhân và Gia đình 2014
Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15 tháng

Nghị định 43/2014/NĐ-CP

5 năm 2014 của Chính Phủ Hướng dẫn thi
hành Luật Đất đai
Thơng tư số 02/2015/TT-BTNMT ngày 27
tháng 01 năm 2015 của Bộ Tài nguyên và


Thông tư số 02/2015/TT-BTNMT

UBND

Môi trường Quy định chi tiết một số điều của
Nghị định số 43/2014/NĐ-CP và Nghị định
số 44/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của
Chính Phủ
Ủy ban nhân dân


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ GIAO DỊCH DÂN SỰ CÓ ĐỐI
TƯỢNG LÀ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT CỦA HỘ GIA ĐÌNH ............................. 7
1.1. Khái quát chung về giao dịch dân sự có sự tham gia của hộ gia đình ............. 7
1.2. Khái quát về hộ gia đình .............................................................................. 12
1.2.1. Tiến trình lịch sử về “hộ gia đình” trong pháp luật Việt Nam ................ 12
1.2.2. Pháp luật hiện hành quy định về hộ gia đình.......................................... 17
1.3. Quyền sở hữu chung của hộ gia đình ........................................................... 22
1.4. Đặc điểm đặc trưng về giao dịch dân sự có đối tượng là quyền sử dụng đất
của hộ gia đình ................................................................................................... 28
1.5. Hộ gia đình dưới góc nhìn từ pháp luật nước ngồi ..................................... 31
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 .................................................................................... 38
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT LIÊN QUAN ĐẾN GIAO DỊCH
DÂN SỰ CÓ ĐỐI TƯỢNG LÀ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT CỦA HỘ GIA ĐÌNH,
NHỮNG BẤT CẬP VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT................ 39
2.1. Thực trạng giải quyết liên quan đến phương thức thỏa thuận xác lập quyền sở
hữu đối với hộ gia đình, bất cập và kiến nghị hoàn thiện .................................... 39
2.2. Thực trạng giải quyết liên quan đến quyền sở hữu chung theo phần đối với hộ

gia đình, bất cập và kiến nghị hồn thiện ............................................................ 43
2.3. Thực trạng giải quyết liên quan đến quyền định đoạt của thành viên hộ gia
đình, bất cập và kiến nghị hoàn thiện.................................................................. 54
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 .................................................................................... 63
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 64
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thông qua việc thực hiện Nghị quyết số 10 của Bộ Chính trị khóa VI năm
1988 về đổi mới quản lý kinh tế nơng nghiệp, kinh tế hộ gia đình được xem là một
đơn vị kinh tế tự chủ và độc lập. Sự phát triển của kinh tế hộ gia đình địi hỏi pháp
luật cần có những quy định mang tính quy phạm điều chỉnh cụ thể về địa vị pháp lý
của chủ thể này. Hộ gia đình lần đầu tiên được ghi nhận là người sử dụng đất – chủ
thể tham gia quan hệ pháp luật đất đai theo Luật Đất đai 1993, tiếp đó Bộ luật Dân
sự lần đầu tiên của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được công bố, ban
hành vào năm 1995 đánh dấu mốc khẳng định hộ gia đình là một trong những chủ
thể của quan hệ pháp luật dân sự. Nước ta tiếp tục duy trì áp dụng mơ hình cơng
nhận hộ gia đình là một chủ thể pháp luật dân sự độc lập, mãi đến khi Bộ luật Dân
sự 2015 có hiệu lực, chính thức khơng cịn thừa nhận hộ gia đình là chủ thể quan hệ
dân sự mà được quy chiếu về các thành viên của hộ gia đình. Có thể thấy, do sự
thay đổi về mặt lập pháp giữa các Bộ luật đã dẫn đến những vướng mắc hay khó
khăn trong việc vận dụng quy định pháp luật liên quan đến chế định hộ gia đình.
Mặt khác, chính vì hộ gia đình đã tồn tại lâu và được duy trì trong Bộ luật Dân
sự 2015 cũng như Luật Đất đai 2013 mà các giao dịch dân sự do các thành viên hộ
gia đình thực hiện là phổ biến, đặc biệt các giao dịch có đối tượng là quyền sử dụng
đất. Quyền sử dụng đất là một loại tài sản khá phức tạp, việc được sử dụng làm đối
tượng của giao dịch chịu sự chi phối hay điều chỉnh không chỉ bởi Luật hay Nghị

định mà kể cả các văn bản như Công văn, Quyết định… do từng địa phương quy
định, như thơng tin quy hoạch, thơng tin về diện tích đất tối thiểu đối với từng loại
đất ở địa phương… Có thể thấy, ngay từ đối tượng của giao dịch rất phức tạp dẫn
đến việc giao dịch của các thành viên trong hộ gia đình từ giai đoạn giao kết, thực
hiện hợp đồng đã phát sinh nhiều vấn đề pháp lý liên quan. Thêm nữa, cơ cấu tổ
chức của hộ gia đình là sự tập hợp các thành viên trong gia đình có quan hệ huyết
thống, hơn nhân, ni dưỡng với nhau, do đó, quyền sử dụng đất chung của hộ là tài
sản chung của các thành viên trong gia đình. Hiện nay, pháp luật dân sự ghi nhận
quyền sở hữu chung của hộ gia đình là sở hữu chung theo phần dẫn đến thành viên
hộ gia đình có thể tham gia với tư cách là cá nhân đối với phần quyền của mình
trong khối tài sản chung đó. Xuất phát từ các vấn đề trên mà hàng loạt các vấn đề
pháp lý liên quan đến giao dịch dân sự có đối tượng là quyền sử dụng đất mà hộ gia
đình tham gia gặp phải như các vấn đề về đại diện tham gia giao dịch hay về việc
1


phân chia quyền sử dụng đất chung của hộ hoặc vấn đề về hiệu lực của các giao
dịch mà thành viên của hộ gia đình tham gia liên quan đến sở hữu chung theo phần.
Dưới góc độ thực tiễn xét xử, mỗi Tịa án sẽ có cho mình những hướng giải
quyết khác nhau, chẳng hạn trong trường hợp một thành viên định đoạt quyền sử
dụng đất chung của hộ thì hiện nay có hai quan điểm giải quyết: một là, theo hướng
giao dịch vơ hiệu tồn bộ; hai là, theo hướng giao dịch vơ hiệu từng phần. Tuy
nhiên, để có được một mẫu số chung về mặt áp dụng các quy định pháp lý liên quan
cho từng vụ việc thì địi hỏi cần có sự thống nhất, nhất qn về quy định của pháp
luật.
Trên đây là lập luận để tác giả lựa chọn nghiên cứu đề tài: “Một số vấn đề
pháp lý liên quan đến giao dịch dân sự có đối tượng là quyền sử dụng đất của hộ
gia đình”.
2. Tình hình nghiên cứu
Đề tài trên khơng phải q mới mẻ trong giới nghiên cứu học thuật. Tuy nhiên

hiện nay, phần lớn vấn đề về chế định hộ gia đình chỉ được nghiên cứu thông qua
những bài viết ngắn trên các tạp chí pháp lý như: tạp chí Tịa án nhân dân, tạp chí
Dân chủ và Lập pháp, tạp chí Nghiên cứu lập pháp hay tạp chí Khoa học Pháp lý
của Trường Đại học luật TP. Hồ Chí Minh:
- “Xác định tư cách chủ thể thành viên hộ gia đình trong định đoạt quyền sử
dụng đất là tài sản chung của hộ gia đình” của tác giả Nguyễn Minh Tuấn được
đăng trên tạp chí Luật học, số 2 (141), năm 2012; “Hộ gia đình trong những tranh
chấp về đất đai” của tác giả Hoàng Thị Thùy Linh được đăng trên tạp chí Tịa án
nhân dân, số 1, năm 2011; “Hộ gia đình sử dụng đất theo Luật Đất đai 2013” của
tác giả Ngơ Gia Hồng được đăng trên tạp chí Nhà nước & Pháp luật, số 4 (380),
năm 2014… mặc dù các bài viết này được phân tích theo nhiều chiều hướng khác
nhau, tuy nhiên, nhìn chung các bài viết này đã chỉ ra được những bất cập và hướng
giải quyết liên quan đến việc xác định tư cách thành viên của hộ gia đình trong Bộ
luật Dân sự cũng như Luật Đất đai, đưa ra kiến nghị nhằm làm rõ khái niệm như thế
nào là hộ gia đình, thành viên hộ gia đình, hộ gia đình sử dụng đất.
-“Địa vị pháp lý của hộ gia đình trong pháp luật dân sự” của tác giả Lê Minh
Hùng được đăng trên tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 4 (51), năm 2005, bài viết này
đã nêu ra được những hạn chế trong quy định hộ gia đình ở Bộ luật Dân sự 2005 và
các giải pháp để sửa đổi quy định pháp luật liên quan như quy định về căn cứ phát

2


sinh, chấm dứt tư cách hộ gia đình… trong bối cảnh pháp luật vẫn duy trì hộ gia
đình là chủ thể quan hệ pháp luật.
- “Không nên quy định hộ gia đình là chủ thể khi sửa đổi, bổ sung Bộ luật
Dân sự 2005” của tác giả Phùng Trung Tập đã được đăng lên tạp chí Nghiên cứu
lập pháp, số 24 (255) năm 2013, bài viết này lý giải tại sao khơng nên quy định hộ
gia đình là chủ thể quan hệ pháp luật.
- “Những khó khăn và bất cập trong hoạt động công chứng các quy định về

quyền sử dụng đất của cá nhân, hộ gia đình” của Chu Văn Khanh được đăng trên
tạp chí Nghề luật, số 4 năm 2010, bài viết giúp cho độc giả thấy được bất cập trong
quy định về thành viên của hộ gia đình từ đó dẫn đến khó khăn cho hoạt động công
chứng.
- “Xử lý tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất của hộ gia đình” của tác giả
Phạm Văn Lưỡng được đăng trên tạp chí Luật sư Việt Nam, số 8 (54), năm 2018;
“Phân chia tài sản chung của hộ gia đình để thi hành án cịn nhiều vướng mắc”
của tác giả Lê Văn Sua được đăng trên tạp chí Luật sư Việt Nam, số 8 (54), năm
2018, “Bất cập trong thi hành án dân sự liên quan đến quyền sử dụng đất của hộ
gia đình” của tác giả Ngơ Văn Lượng được đăng trên tạp chí Dân chủ & Pháp luật,
số 11 (344), năm 2020. Các bài viết này đã chỉ ra những khó khăn trong hoạt động
thi hành án liên quan đến hộ gia đình và những giải pháp pháp lý liên quan đến Luật
thi hành án dân sự và quy định hộ gia đình trong Bộ luật Dân sự 2015, Luật Đất đai
2013.
Về sách chuyên khảo hay sách tham khảo thông thường chỉ viết ngắn gọn
trong một phần hoặc một chương của cuốn sách hay phân tích kèm theo, chẳng hạn
như:
- “Giao dịch và giải quyết tranh chấp giao dịch về quyền sử dụng đất” do
PGS.TS Đỗ Văn Đại chủ biên. Trong cuốn sách này, các tác giả phân tích các vấn
đề về mặt lý luận, bình luận những vụ việc dân sự thực tế có liên quan và đưa ra các
kiến nghị hoàn thiện pháp luật xoay quanh các giao dịch có đối tượng là quyền sử
dụng đất: chuyển nhượng, chuyển đổi, thế chấp, cho thuê, đặt cọc,…
- “Bình luật khoa học Bộ luật dân sự năm 2015 của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam” do Nguyễn Văn Cừ và Trần Thị Huệ đồng chủ biên, tác giả xem
xét các quy định của pháp luật của Bộ luật Dân sự 2015 về giao dịch dân sự, hộ gia
đình, sở hữu chung.

3



- “Bình luận khoa học những điểm mới của Bộ luật Dân sự năm 2015” do
Nguyễn Minh Tuấn chủ biên, trong tài liệu tác giả vừa phân tích quy định pháp luật
hiện hành vừa có sự so sánh, đối chiếu với các quy định của Bộ luật Dân sự 2005.
Về giáo trình: hiện nay các vấn đề lý luận liên quan đến giao dịch dân sự có
đối tượng là quyền sử dụng đất của hộ gia đình được nghiên cứu trong một số giáo
trình, cụ thể: Giáo trình Pháp luật về tài sản, quyền sở hữu và thừa kế (Tái bản có
sửa đổi bổ sung) - Trường Đại học Luật TP. HCM; Giáo trình Pháp luật về hợp
đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng (Tái bản lần thứ 1, có sửa đổi và bổ
sung) - Trường Đại học Luật TP. HCM; Giáo trình Luật Đất đai (Tái bản lần thứ
nhất) - Trường Đại học Luật TP. HCM; Giáo trình Luật Dân sự - PGS.TS Nguyễn
Ngọc Điện - Trường Đại học Mở Tp. HCM; Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam PGS.TS Vũ Thị Hồng Vân (Chủ biên) - Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội và một số
giáo trình khác.
Có thể thấy, hiện nay có nhiều cơng trình nghiên cứu về hộ gia đình, quyền sử
dụng đất, giao dịch dân sự của hộ gia đình nhưng nhìn chung cơng trình nghiên cứu
về giao dịch dân sự có đối tượng là quyền sử dụng đất của hộ gia đình chưa được
chun sâu, tồn diện.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở phân tích thực tiễn áp dụng pháp luật liên quan đến giao dịch dân
sự có đối tượng là quyền sử dụng đất của hộ gia đình, từ đó chỉ ra những mặt hạn
chế, vướng mắc cịn tồn đọng trong q trình giao kết giao dịch dân sự cũng như
trong việc giải quyết tranh chấp tại các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Tác giả đề
xuất, kiến nghị các giải pháp hoàn thiện pháp luật có liên quan trong tương lai nhằm
thống nhất trong cách hiểu và áp dụng các quy định pháp luật liên quan đến giao
dịch dân sự có đối tượng là quyền sử dụng đất của hộ gia đình cũng như đảm bảo
quyền lợi của các thành viên hộ gia đình một cách tốt nhất.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, các nhiệm vụ nghiên cứu được đặt ra
như sau:
- Đưa ra hệ thống cơ sở lý luận cơ bản về giao dịch dân sự có đối tượng là

quyền sử dụng đất của hộ gia đình trên cơ sở phân tích và làm rõ những khái niệm
có liên quan như: giao dịch dân sự, hộ gia đình, quyền sử dụng đất,…

4


- Nghiên cứu thực tiễn về cách giải quyết các giao dịch dân sự liên quan đến
chủ thể thực hiện là hộ gia đình.
- Nghiên cứu các quy định của pháp luật nước ngồi có đặc điểm tương tự với
xã hội, pháp luật Việt Nam, chẳng hạn pháp luật nước Cộng hòa nhân dân Trung
Hoa, pháp luật Liên bang Nga,…
- Trên cơ sở của việc nghiên cứu, tác giả đề xuất các phương hướng, giải pháp
cụ thể về vấn đề này nhằm hoàn thiện pháp luật liên quan đến chế định hộ gia đình,
chế định hợp đồng.
4. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu
4.1. Phạm vi nghiên cứu
Xuất phát từ khuôn khổ khóa luận có hạn cũng như năng lực của bản thân, tác
giả chỉ tập trung nghiên cứu làm rõ các vấn đề sau:
Về nội dung nghiên cứu: tập trung nghiên cứu làm rõ các vấn đề liên quan đến
hộ gia đình ở khía cạnh quyền sở hữu chung và chế định đại điện ủy quyền khi tham
gia xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự. Ngoài ra, tác giả khơng đi sâu phân tích
từng loại giao dịch dân sự mà tập trung vào những khó khăn, vướng mắc trong quá
trình tham gia giao kết hai giao dịch phổ biến và thường gặp nhất là hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất, hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất của hộ gia
đình.
Về pháp luật nghiên cứu: nghiên cứu các quy định tập trung mấu chốt ở Bộ
luật Dân sự 2015 và một vài quy định có liên quan trong Luật Đất đai 2013, Luật
Công chứng 2014, các văn bản hướng dẫn thi hành. Ngồi ra, phân tích, so sánh với
các quy định pháp luật trên thế giới như: Bộ luật Dân sự Liên bang Nga, Bộ luật
Dân sự nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, Luật liên bang về nền kinh tế nông

dân.
Về đối tượng nghiên cứu: các giao dịch dân sự điển hình như hợp đồng
chuyển nhượng, hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất. Thêm nữa, đối tượng của
giao dịch dân sự là quyền sử dụng đất của hộ gia đình mà tác giả nghiên cứu chỉ áp
dụng đối với quyền sử dụng đất đã đáp ứng các điều kiện quy định tại Điều 188
Luật Đất đai 2013, cụ thể:
- Có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất;
- Đất khơng có tranh chấp;
- Quyền sử dụng đất không bị kê biên để bảo đảm thi hành án;
- Trong thời hạn sử dụng đất.
5


4.2. Đối tượng nghiên cứu
- Pháp luật Việt Nam quy định về giao dịch dân sự có đối tượng là quyền sử
dụng đất của hộ gia đình.
- Một số quy định về pháp luật của một số quốc gia trên thế giới về vấn đề
này, điển hình như pháp luật Liên bang Nga, Cộng hòa nhân dân Trung Hoa.
- Thực tiễn áp dụng quy định pháp luật liên quan đến giao dịch dân sự có đối
tượng là quyền sử dụng đất của hộ gia đình.
5. Phương pháp nghiên cứu:
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ
thể sau đây:
- Phương pháp phân tích: phân tích lý luận về giao dịch dân sự, chủ thể hộ gia
đình, quyền sở hữu chung của các thành viên gia đình trong Bộ luật Dân sự 2015 –
được sử dụng để viết Chương 1 của khóa luận.
- Phương pháp so sánh: tác giả so sánh quy định về hộ gia đình giữa các Bộ
luật Dân sự năm 1995, năm 2005 và năm 2015 cũng như các văn bản pháp luật
chuyên ngành như Luật Đất đai để lý giải tại sao có sự thay đổi về lập pháp. Ngồi
ra, tác giả còn so sánh quy định pháp luật Việt Nam với pháp luật nước ngoài –

được sử dụng để viết Chương 1 của khóa luận.
- Phương pháp chứng minh: đưa ra những luận điểm, luận cứ, sử dụng các lý
lẽ cũng như dẫn chứng từ các bản án đã có hiệu lực của Tòa án để chứng minh cho
vấn đề cần nghiên cứu – được sử dụng để viết Chương 2 của khóa luận.
- Phương pháp bình luận án: được sử dụng để bình luận một số vụ án dân sự
đã được giải quyết bằng bản án, quyết định có hiệu lực của Tòa án – được sử dụng
để viết Chương 2 của khóa luận.
- Phương pháp tổng hợp: tổng hợp lại các vấn đề pháp lý để đưa ra kết luận –
được sử dụng để viết Chương 2 của khóa luận.
6. Bố cục của khóa luận
Bố cục của khóa luận gồm 3 phần, phần mở đầu, nội dung khóa luận và danh
mục tài liệu tham khảo, nội dung khóa luận được chia thành hai chương, cụ thể:
Chương 1. Một số vấn đề cơ bản về giao dịch dân sự có đối tượng là quyền sử
dụng đất của hộ gia đình.
Chương 2. Thực trạng giải quyết liên quan đến giao dịch dân sự có đối tượng
là quyền sử dụng đất của hộ gia đình, những bất cập và kiến nghị hoàn thiện pháp
luật.
6


CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ GIAO DỊCH DÂN SỰ CÓ ĐỐI
TƯỢNG LÀ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT CỦA HỘ GIA ĐÌNH
1.1. Khái quát chung về giao dịch dân sự có sự tham gia của hộ gia đình
 Khái niệm giao dịch dân sự
“Giao dịch dân sự là căn cứ phổ biến, thông dụng nhất trong các căn cứ làm
phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự; là phương tiện pháp lý
quan trọng nhất trong giao dịch dân sự, trong việc dịch chuyển tài sản và cung ứng
dịch vụ nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của tất cả các thành viên trong xã
hội.”1 Có thể nói giao dịch dân sự là một trong những sự kiện pháp lý cơ bản và phổ
biến nhất làm phát sinh các quan hệ pháp luật dân sự.

Giao dịch dân sự dưới góc độ thực tế thì đây là một sự kiện pháp lý vô cùng
quan trọng để làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ dân sự với nhau. Còn về mặt
pháp lý, giao dịch dân sự gồm hai loại: hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương
làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự.2
Theo pháp luật Liên bang Nga, cụ thể tại Điều 153 Bộ luật Dân sự ngày
30/11/1994 (được sửa đổi vào ngày 09/03/2021) (BLDS Liên Bang) đặt ra khái
niệm về giao dịch như sau: “Giao dịch được thừa nhận là hành động của công dân,
pháp nhân nhằm xác lập, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”, theo pháp
luật nước này thì giao dịch dân sự cũng bao gồm giao dịch đa phương và giao dịch
đơn phương, cụ thể tại khoản 1 Điều 154 Bộ luật nói trên: “Các giao dịch có thể là
song phương hoặc đa phương (hợp đồng) và đơn phương.”. Bộ luật Dân sự nước
Cộng hòa nhân dân Trung Hoa ngày 28 tháng 5 năm 2020 (BLDS Trung Quốc)
cũng quy định về giao dịch dân sự như sau:“Hành vi dân sự là hành vi mà chủ thể
dân sự xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật dân sự thông qua việc thể
hiện ý chí.”
Như vậy, giao dịch dân sự là một trong những sự kiện pháp lý đặc trưng làm
phát sinh quan hệ pháp luật dân sự, ở đó các chủ thể có thể tự do thỏa thuận, bày tỏ
ý chí của mình nhằm hướng đến mục đích xác lập giao kết, làm thay đổi hay chấm
dứt quan hệ pháp luật dân sự, tuy nhiên sự tự do ý chí vẫn nằm trong khn khổ,
kiểm sốt của pháp luật. Khi các chủ thể tham gia quan hệ dân sự, sự trao đổi lợi ích

1

Đinh Văn Thanh, Nguyễn Minh Tuấn (Chủ biên) (2006), Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam, Nxb. Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, tập 1, tr.282.
2
Điều 116 Bộ luật Dân sự 2015.

7



xảy ra trong lĩnh vực dân sự, dưới góc độ pháp lý thì người ta gọi đó là giao dịch
dân sự.
Giao dịch dân sự có thể là hành vi pháp lý đơn phương nếu xuất phát từ ý chí
của một bên chủ thể hay là hợp đồng nếu xuất phát từ ý chí của từ hai bên chủ thể
trở lên với cùng mục đích làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân
sự.
 Điều kiện có hiệu lực của một giao dịch dân sự
Theo quy định tại Điều 117 BLDS 2015 về điều kiện có hiệu lực của giao dịch
dân sự, ta có thể chia các điều kiện trên thành hai nhóm điều kiện nhỏ sau:
Một, nhóm điều kiện liên quan đến chủ thể:
Liên quan đến chủ thể, điều kiện đặt ra là chủ thể đó đầu tiên phải có năng lực
pháp luật, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự.3 Hiện nay, pháp
luật dân sự chỉ ghi nhận hai chủ thể quan hệ pháp luật dân sự là cá nhân và pháp
nhân. Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân bằng hành vi
của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự,4 nói cách khác, năng lực hành
vi dân sự thể hiện ý chí, khả năng nhận thức và làm chủ hành vi của mình để làm cơ
sở pháp lý cho một người có thể đánh giá được họ có thể tham gia vào giao dịch
dân sự được hay không, trong trường hợp nào bản thân họ tự tham gia, trong trường
hợp nào cần tham gia thông qua người đại diện hợp pháp… Ngồi ra, để người đại
diện hợp pháp có thể tham gia vào thì có những u cầu trong các quy định liên
quan về giám hộ, đại diện… Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là khả năng của
cá nhân có quyền dân sự và nghĩa vụ dân sự.5 Đối với pháp nhân phải đáp ứng tất cả
các điều kiện luật định và tham gia phù hợp với lĩnh vực hoạt động, việc tham gia
giao dịch sẽ được thực hiện thông qua người đại diện hợp pháp.6
Yếu tố tự nguyện là một trong những điều kiện bắt buộc làm phát sinh hiệu
lực của giao dịch dân sự.7 Tự nguyện là nguyện vọng của bản thân, làm theo ý chí
đích thực của bản thân mình. “Ý chí và sự bày tỏ ý chí là hai mặt của một vấn đề,
chúng ln có quan hệ mật thiết, gắn bó khăng khít với nhau. Ý chí tự nguyện chính
là sự thống nhất giữa ý muốn chủ quan bên trong và sự bày tỏ ý chí đó ra bên

3

Điểm a khoản 1 Điều 117 Bộ luật Dân sự 2015.
Điều 19 Bộ luật Dân sự 2015.
5
Khoản 1 Điều 16 Bộ luật Dân sự 2015.
6
Điều 87 Bộ luật Dân sự 2015.
7
Điểm b khoản 1 Điều 117 Bộ luật Dân sự 2015.
4

8


ngồi.”8 “Muốn xem xét các chủ thể có tự nguyện trong giao kết hợp đồng hay
không, cần phải dựa vào sự thống nhất biện chứng giữa hai phạm trù: ý chí và sự
bày tỏ ý chí.”9 “Chỉ khi nào các bên bình đẳng với nhau về mọi phương diện trong
giao kết hợp đồng thì ý chí tự nguyện của các bên mới thật sự được bảo đảm. Vì
thế, theo nguyên tắc trên, những hợp đồng được giao kết thiếu bình đẳng và khơng
có sự tự nguyện của các bên sẽ không được pháp luật thừa nhận.”10 Thiếu yếu tố tự
nguyện thì giao dịch dân sự trên sẽ khơng có hiệu lực, tức là bị vô hiệu, chẳng hạn
trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo11 hoặc do bị nhầm lẫn12 hoặc do bị
lừa dối, đe dọa, cưỡng đoạt13 hoặc giao dịch dân sự vô hiệu do người xác lập không
nhận thức và làm chủ được hành vi của mình.14
Hai, nhóm điều kiện liên quan đến nội dung và hình thức của giao dịch:
Nội dung của giao dịch đó là sự tổng hợp những điều kiện, điều khoản, cam
kết hay ý định mà các bên mong muốn thể hiện thành những nội dung cụ thể. Nội
dung của giao dịch chính là hiện thân của sự thỏa thuận giữa các bên. Tuy nhiên,
nội dung hay mục đích của giao dịch phải phù hợp với luật định, không vi phạm

điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội, trường hợp nội dung hay mục đích của
giao dịch vi phạm điều cấm hay trái đạo đức xã hội sẽ đương nhiên vơ hiệu.15
Về mặt hình thức: Hình thức của giao dịch là cách thức biểu hiện ra bên ngoài
của những nội dung dưới dạng vật chất hữu hình. Hay nói cách khác, hình thức của
giao dịch là phương tiện để ghi nhận nội dung mà các chủ thể đã xác định.16 Do đó,
đây là một yếu tố pháp lý quan trọng của giao dịch, có quan hệ biện chứng với bản
chất, nội dung, giá trị hiệu lực, thời điểm có hiệu lực của giao dịch và là phương
tiện để diễn đạt ý chí của các bên cũng như để chứng minh sự tồn tại của giao dịch.
Hình thức của giao dịch được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi

8

Trường Đại học Luật Hà Nội (2015), Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam, Nxb. Cơng an nhân dân, tập II,
tr.131.
9
Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội (2017), Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam, Vũ Thị Hồng Vân (Chủ biên),
Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, tập 2, tr.212.
10
Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội, tlđd (9), tr.212.
11
Điều 124 Bộ luật Dân sự 2015.
12
Điều 126 Bộ luật Dân sự 2015.
13
Điều 127 Bộ luật Dân sự 2015.
14
Điều 128 Bộ luật Dân sự 2015.
15
Điều 123 Bộ luật Dân sự 2015.
16

Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội, tlđd (9), tr.199.

9


cụ thể.17 Hiện nay pháp luật khơng quy định hình thức là điều kiện bắt buộc, tuy
nhiên đối với một số giao dịch nhất định pháp luật đặt ra điều kiện phải tuân thủ về
mặt hình thức chẳng hạn như hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, hợp
đồng mua bán nhà ở…, nếu các bên trong quan hệ hợp đồng khơng tn thủ về điều
kiện trên có thể dẫn đến hợp đồng vô hiệu.18
 Một số giao dịch dân sự điển hình do hộ gia đình xác lập
Hiện nay, hộ gia đình có thể tham gia các giao dịch liên quan đến quyền sử
dụng đất như chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho,
thế chấp hay góp vốn bằng quyền sử dụng đất.19 Tuy nhiên, thực tế hai giao dịch
phố biến nhất ta thường gặp đó là giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho
cá nhân hay hộ gia đình khác và giao dịch thế chấp quyền sử dụng đất.
“Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất là sự thỏa thuận thống nhất ý
chí giữa các bên; theo đó, người có quyền sử dụng đất (bên chuyển nhượng) có
nghĩa vụ giao quyền sử dụng đất cho bên nhận chuyển nhượng, bên nhận chuyển
nhượng có nghĩa vụ trả tiền cho bên chuyển nhượng theo thỏa thuận và các bên phải
thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước theo quy định của pháp luật.”20 Hợp đồng thế chấp
quyền sử dụng đất là một giao dịch mà trong đó một bên (sau đây gọi là bên thế
chấp) dùng quyền sử dụng đất của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ và không
phải chuyển giao quyền sử dụng đất cho bên kia (sau đây gọi là bên nhận thế
chấp).21 Về mặt hình thức tên gọi của các hợp đồng này khác nhau nhưng bản chất
đây là các giao dịch dân sự thường gặp trên thực tế, do vậy, để hợp đồng có hiệu lực
các bên trong quan hệ hợp đồng phải đáp ứng được các yếu tố của một giao dịch
dân sự cơ bản, cụ thể:
Về điều kiện liên quan đến chủ thể: về phía hộ gia đình, chủ thể tham gia phải
là các thành viên của hộ từ đủ mười tám tuổi trở lên, có đầy đủ năng lực hành vi dân

sự. Yếu tố tự nguyện được đặt ra, hộ gia đình giao kết dựa trên sự tự nguyện, không
bị ép buộc, đe dọa và hợp đồng giao kết phải được sự đồng ý của các thành viên
này, cụ thể theo quy định tại khoản 1 Điều 64 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày
15 tháng 5 năm 2014 của Chính Phủ Hướng dẫn thi hành Luật Đất đai: “Hợp đồng,
17

Điều 119 Bộ luật Dân sự 2015.
Điều 129 Bộ luật Dân sự 2015.
19
Khoản 1 Điều 167 Luật Đất đai 2013.
20
Tạ Thị Thu Trang (2020), “Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp,
số 21 (421), tr.27.
21
Điều 317 Bộ luật Dân sự 2015.
18

10


văn bản giao dịch về quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất của
hộ gia đình phải được người có tên trên Giấy chứng nhận hoặc người được ủy
quyền theo quy định của pháp luật về dân sự ký tên.”, người có quyền ký tên trong
quy định trên theo Thông tư số 02/2015/TT-BTNMT ngày 27 tháng 01 năm 2015
của Bộ Tài nguyên và Môi trường Quy định chi tiết một số điều của Nghị định số
43/2014/NĐ-CP và Nghị định số 44/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính Phủ
hướng dẫn thì những người đó chỉ được thực hiện việc ký hợp đồng, văn bản giao
dịch về quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất khi đã được các
thành viên trong hộ gia đình sử dụng đất đồng ý bằng văn bản và văn bản đó đã
được cơng chứng hoặc chứng thực theo quy định của pháp luật. Chủ thể tham gia có

thể ủy quyền cho một thành viên của hộ hoặc người thứ ba tham gia giao dịch, tuy
nhiên văn bản ủy quyền này phải bằng văn bản và được công chứng hoặc chứng
thực theo quy định của pháp luật.
Về điều kiện liên quan đến nội dung cũng như hình thức của giao dịch: nội
dung của hợp đồng phải thể hiện rõ bên chuyển nhượng/ thế chấp là những ai, có
quyền sở hữu chung quyền sử dụng đất trên hay khơng, vị trí cũng như diện tích
thửa đất,… nội dung của hợp đồng không được vi phạm điều cấm của luật cũng như
trái đạo đức xã hội. Về hình thức của giao dịch, đây là một trong các giao dịch đặc
biệt, do đó hình thức của hợp đồng bắt buộc phải cơng chứng hay chứng thực thì
mới phát sinh hiệu lực pháp luật.22
Tuy nhiên, điểm khác biệt giữa hai hợp đồng này là: nếu hộ gia đình chuyển
nhượng quyền sử dụng đất cho người thứ ba thì quyền sử dụng đất đó phải được
chuyển giao cho bên kia, hộ gia đình khơng cịn là chủ sở hữu quyền sử dụng đất đó
nữa, hộ gia đình và bên tham gia giao dịch phải thực hiện thủ tục đăng ký biến động
đất đai hay nói cách khác là sang tên sổ đỏ, đây là thủ tục bắt buộc23 và thời điểm
đăng ký là thời điểm việc chuyển quyền sử dụng đất trên có hiệu lực theo quy định
tại Điều 503 BLDS 2015. Còn nếu quyền sử dụng đất của hộ gia đình là đối tượng
của các giao dịch thế chấp thì hậu quả pháp lý là khác, bởi lẽ thế chấp là một biện
pháp bảo đảm bằng tài sản, tức hộ gia đình có thể đứng ra đảm bảo cho khoản vay
của mình hay của một trong các thành viên bằng chính quyền sử dụng đất mà mình
đang nắm giữ. Khác so với chuyển nhượng, thế chấp không chuyển giao quyền sở

22
23

Khoản 3 Điều 167 Luật Đất đai 2013.
Điều 95 Luật Đất đai 2013.

11



hữu mà bên thế chấp chỉ giao các giấy tờ chứng minh quyền sở hữu cho bên nhận
thế chấp,24 không giao tài sản đó cho bên nhận thế chấp25, bên thế chấp là hộ gia
đình vẫn được tồn quyền chiếm hữu và sử dụng quyền sử dụng đất đó, ngồi ra, hộ
gia đình vẫn được chuyển nhượng quyền sử dụng đất trên nếu như được bên nhận
thế chấp đồng ý.26 Trong trường hợp bên có nghĩa vụ thanh tốn khoản nợ, khơng
thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm thì bên nhận thế chấp được quyền xử lý tài sản thế
chấp trên. Hơn thế, liên quan đến thế chấp, phát sinh việc đăng ký giao dịch bảo
đảm27 nhằm phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba, xác định thứ tự ưu tiên
trong việc xử lý tài sản đảm bảo.
1.2. Khái quát về hộ gia đình
1.2.1. Tiến trình lịch sử về “hộ gia đình” trong pháp luật Việt Nam
Gia đình được xem là một tế bào của xã hội, là đối tượng tham gia thường
xuyên nhất vào các hoạt động dân sự. Một số nhà nghiên cứu nước ngoài cho rằng
địa vị của chủ thể dân sự là gia đình ít nhiều có thể bắt nguồn từ thời kỳ luật La Mã,
trong luật La Mã, người cha là đại diện của gia đình, khơng phải là chủ thể độc lập
và quyền kiểm soát tài sản của người cha đối với tài sản của gia đình chỉ là quyền
dân sự mà chủ thể gia đình được hưởng, bị hạn chế bởi tính chủ quan của gia đình.28
Hiện nay trên thế giới, địa vị của gia đình được tồn tại dưới ba mơ hình chính: một
là thừa nhận rõ ràng tư cách chủ thể của gia đình, hai là thừa nhận tư cách chủ thể
của gia đình một cách gián tiếp và thứ ba là tư cách không được thừa nhận.29 Vậy
qua các thời kì pháp luật Việt Nam điều chỉnh về hộ gia đình theo mơ hình nào?
Trước giai đoạn năm 1988, hộ gia đình chưa được coi là một đơn vị kinh tế
trong nền kinh tế Việt Nam, do đó các quy định thừa nhận hộ gia đình là một chủ
thể pháp luật dân sự là khơng có. “Bắt đầu từ cuối những năm 80, đầu những năm
24

Khoản 1 Điều 320 Bộ luật Dân sự 2015.
Đỗ Văn Đại (2017), Luật nghĩa vụ và bảo đảm thực hiện nghĩa vụ Việt Nam – Bản án và bình luận bản án,
Nxb. Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam, tr.94.

26
Điều 321 Bộ luật Dân sự 2015.
27
Khoản 1 Điều 3 Nghị định số 83/2010/NĐ-CP ngày 23 tháng 7 năm 2010 của Chính Phủ Về đăng ký giao
dịch bảo đảm và khoản 3 Điều 188 Luật Đất đai 2013.
28
Nguồn: />ngName=&fbclid=IwAR1mU29A0Pi0x221qHZI_QS_9unuUpoC7w43OFjKzdyZgXZKTI9iT4y2Awon,
ngày 20/5/2021.
29
Nguồn: />ngName=&fbclid=IwAR1mU29A0Pi0x221qHZI_QS_9unuUpoC7w43OFjKzdyZgXZKTI9iT4y2Awo
,
ngày 20/5/2021.
25

12


90 của thế kỷ XX là thời kỳ chuyển sang nền kinh tế hàng hóa và kinh tế hợp tác xã
được thay thế bởi kinh tế hộ gia đình và tổ hợp tác”,30 điển hình thơng qua việc ban
hành Nghị Quyết số 10/NQ-TW ngày 05/4/1988 về đổi mới quản lý kinh tế nông
nghiệp, với chủ trương chuyển giao đất đai và các tư liệu sản xuất khác cho hộ nông
dân quản lý và sử dụng lâu dài để thực hiện kinh tế, hộ gia đình đã trở thành một bộ
phận cấu thành của cơ cấu thành phần kinh tế nước ta lúc bấy giờ. Hơn nữa, ở thời
điểm này hộ gia đình là chủ thể được giao đất với mục đích sử dụng ổn định lâu dài
vào mục đích sản xuất nông nghiệp31, cho đến năm 1993, Luật Đất đai 1993 – Luật
Đất đai đầu tiên của nước ta đã đặt nền tảng cho việc xác lập địa vị pháp lý hộ gia
đình. “Với tư cách là một đơn vị kinh tế chủ yếu, trực tiếp sản xuất nông nghiệp, hộ
gia đình trở thành chủ thể độc lập trong quan hệ pháp luật đất đai.”32 Tuy nhiên, mãi
cho đến năm 1995, Việt Nam ta mới ghi nhận hộ gia đình là một chủ thể pháp luật
dân sự song hành cùng hai loại chủ thể truyền thống là pháp nhân và cá nhân. Với

việc thừa nhận hộ gia đình là một chủ thể dân sự đã gặp nhiều vướng mắc, tranh cãi.
Theo Tờ trình của Chính Phủ về dự án BLDS 1995 của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam tại kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa IX, ngày 07 tháng 6 năm 1994, đã
có nhiều ý kiến cho rằng hộ gia đình là các đơn vị kinh tế tự chủ đã và đang tồn tại
và được khuyến khích phát triển không chỉ trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp mà
cả trong tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ. Đơn vị này cũng tham gia vào quan hệ dân
sự (nhận đất, thuê đất, chuyển quyền sử dụng đất, vay vốn ngân hàng, ký kết các
hợp đồng, v.v...). Hộ gia đình khi tham gia các quan hệ dân sự, kinh tế khơng phải
là pháp nhân, vì chưa đủ các điều kiện để trở thành pháp nhân, nhưng cũng không
hẳn là cá nhân, do đó phải coi hộ gia đình là chủ thể đặc biệt của quan hệ dân sự.
Vào ngày 28 tháng 10 năm 1995, BLDS đầu tiên của nước ta đã được Quốc hội
khố IX, kỳ họp thứ 8, thơng qua, theo đó khẳng định hộ gia đình là một chủ thể
của quan hệ pháp luật dân sự. Việc đưa các chế định này vào Việt Nam được lý giải
bằng sự tương thích của các loại chủ thể này với trình độ phát triển kinh tế của Việt
Nam thời kỳ đổi mới: một mặt, Việt Nam cịn là nước nơng nghiệp, đơn vị sản xuất
được hình thành từ các hoạt động khai thác tiềm năng của đất đai, rừng và sơng,
30

Hà Thị Mai Hiên (2013), “Pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005:
Những bất cập và hướng hoàn thiện”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 10 (306), tr.44.
31
Xem thêm tại Nghị định số 64/CP ngày 27 tháng 9 năm 1993 của Chính Phủ Về việc quy định về việc giao
đất nơng nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích sản xuất nông nghiệp.
32
Trường Đại học Luật Hà Nội (2016), Giáo trình Luật Đất đai, Nxb. Cơng an nhân dân, tr.203.

13


rạch; mặt khác, quy mô sản xuất chưa lớn, xu thế hình thành các đơn vị sản xuất

chưa lớn, xu thế hình thành các đơn vị sản xuất cỡ nhỏ còn rất phổ biến. Cùng với
việc thừa nhận hộ gia đình là chủ thể quan hệ pháp luật dân sự, BLDS 1995 ghi
nhận hộ gia đình thành một mục riêng, cụ thể tại mục 1 Chương IV Bộ luật này đã
quy định như thế nào là hộ gia đình, phương thức sở hữu tài sản chung, vấn đề đại
diện cũng như trách nhiệm dân sự của hộ gia đình. Bộ luật này tạo nên một hành
lang pháp lý cơ bản quy định về hộ gia đình, hộ gia đình theo Bộ luật này là những
thành viên có tài sản chung để hoạt động kinh tế chung trong quan hệ sử dụng đất,
trong hoạt động sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp và trong một số lĩnh vực sản xuất,
kinh doanh khác do pháp luật quy định, ngoài ra chủ thể sử dụng đất là hộ gia đình
cũng là chủ thể quan hệ pháp luật dân sự khi tham gia vào các giao dịch liên quan
đến đất ở.33 Chủ hộ là người đại diện đương nhiên của hộ khi tham gia xác lập giao
dịch dân sự khi chứng minh mục đích của giao dịch là vì lợi ích chung của hộ, trách
nhiệm dân sự là trách nhiệm liên đới và vô hạn.
Trong khoảng thời gian mười năm thi hành BLDS 1995, có nhiều vướng mắc,
bất cập xoay quanh chủ thể hộ gia đình. Do đó, cơng tác soạn thảo BLDS thay thế
BLDS 1995 cũng dấy lên nhiều ý kiến nên bỏ hộ gia đình ra khỏi nhóm chủ thể của
quan hệ pháp luật dân sự hay không?
Bảng 1: Cơ cấu hộ gia đình khu vực nơng thơn phân theo ngành nghề
Đơn vị tính: hộ, %.
Năm

2001

2006

Tiêu chí

Số lượng

Tỷ lệ


Số lượng

Tỷ lệ

Tổng hộ

13.065.785

100

13.778.472

100

Hộ NN-LN-TS

10.573.756

80,9

9.783.644

71.1

Hộ CN-XD

752.204

5.8


1.401.943

10.2

Hộ DV

1.381.121

10.6

2.064.193

14.9

Hộ khác

358.704

2.7

528.692

3.8

Nguồn: Tổng hợp số liệu Tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp, thủy sản năm
2001, 2006.34
Dựa trên bảng số liệu trên, có thể thấy số lượng hộ gia đình về nơng – lâm –
ngư nghiệp giảm đáng kể tuy nhiên nhìn mặt bằng chung hộ gia đình vẫn tồn tại với
33

34

Điều 116 Bộ luật Dân sự 2015.
Tổng cục Thống kê, Tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp và thủy sản các năm 2001, 2006, 2011.

14


số lượng lớn, lên đến con số hàng triệu hộ gia đình, do đó có thể thấy nền kinh tế hộ
gia đình vẫn chiếm tỉ trọng lớn trong nền kinh tế nước ta, nếu bỏ chế định này sẽ
dẫn đến các chủ thể hộ gia đình điêu đứng trong các giao dịch, các chủ thể và các cơ
quan có thẩm quyền chưa thích nghi với sự thay đổi đột ngột về mặt pháp luật. Vì
vậy, BLDS 2005 vẫn giữ tư cách chủ thể hộ gia đình là chủ thể của quan hệ pháp
luật dân sự, tuy nhiên có một số thay đổi về mặt lập pháp để đảm bảo việc tham gia
thực hiện của chủ thể này, thay đổi lớn nhất là về quyền định đoạt của các thành
viên của hộ, theo đó, các thành viên có quyền sở hữu như nhau, đối với việc định
đoạt tài sản của hộ gia đình phải được đa số các thành viên từ đủ mười lăm tuổi trở
lên đồng ý, trừ trường hợp tài sản đó là tư liệu sản xuất hay tài sản có giá trị lớn thì
phải được tất cả các thành viên từ đủ mười lăm tuổi trở lên đồng ý.35
Sự thừa nhận hộ gia đình theo mơ hình cơng nhận là một chủ thể pháp luật dân
sự ở nước ta xuất phát từ nền kinh tế hộ gia đình. Tuy nhiên, “kinh tế hộ gia đình là
loại hình kinh tế trong đó các hoạt động sản xuất chủ yếu dựa vào lao động gia đình
(lao động khơng th) và mục đích của loại kinh tế này trước hết nhằm đáp ứng nhu
cầu của hộ gia đình (khơng phải mục đích chính là sản xuất hàng hóa để bán)”36, do
đó hoạt động kinh tế chính của hộ gia đình là sản xuất nơng – lâm – ngư nghiệp, hộ
gia đình không phải là chủ thể phổ biến trong các giao dịch, trừ một số giao dịch
liên quan đến quan hệ đất đai, điện nước,… “Điều chủ yếu nhất quyết định việc xác
định hộ gia đình là chủ thể trong BLDS Việt Nam là bởi vì trong một thời gian dài
cá nhân không được thừa nhận là chủ sở hữu các tư liệu sản xuất, trong đó có đất
đai, khơng có quyền tự do kinh doanh nên không thể là chủ thể kinh doanh, hộ gia

đình là một chủ thể văn hóa truyền thống.”37 Ngày nay, nền kinh tế thị trường ngày
càng phát triển, lấn áp kinh tế hộ gia đình, cùng với đó là những bất cập trong quy
định của các BLDS trước đã tiềm ẩn rất nhiều vướng mắc, khó khăn cho các chủ thể
cũng như là các cơ quan thực thi pháp luật, cụ thể “hộ gia đình là một tổ chức tự
phát, tự sinh rồi tự diệt; pháp luật chưa có căn cứ quy định sự khai sinh hoặc chấm
dứt tư cách chủ thể của hộ gia đình khiến cho các bên liên quan khơng thể trù tính
được thời điểm chấm dứt tư cách chủ thể của hộ gia đình, bản thân các thành viên

35

Điều 109 Bộ luật Dân sự 2015.
Sở Nông Nghiệp và Phát triển nông thơn tỉnh Quảng Bình (2008), Tài liệu tập huấn Phát triển kinh tế hộ
gia đình, tr.5.
37
Hà Thị Mai Hiên, tlđd (30), tr.45.
36

15


của hộ cũng không thể biết rõ thời điểm tồn tại và chấm dứt của hộ gia đình”38,
ngồi ra, tư cách tố tụng của hộ gia đình khơng được thừa nhận, Tịa án nhân dân tối
cao đã từng có quyết định giám đốc thẩm theo hướng hộ gia đình khơng phải là
đương sự theo pháp luật tố tụng dân sự, không thể thực hiện việc khởi kiện cũng
như không thể bị kiện, trong khi đó đây là yếu tố rất cần thiết nếu được xem là một
chủ thể pháp luật.39 Theo Tờ trình số 390/TTr-CP về dự án BLDS (sửa đổi) ngày 12
tháng 10 năm 2014, Chính phủ có ý kiến khơng thừa nhận hộ gia đình là một tư
cách chủ thể quan hệ pháp luật dân sự, thay vì trước đây xác lập giao dịch thông qua
hành vi đại diện của chủ hộ thì nay dự thảo bộ luật mới quy định hộ gia đình tham
gia sẽ do các thành viên thực hiện thông qua việc thỏa thuận cử người đại diện, có

thể là chủ hộ hoặc khơng. Với ý kiến trên, BLDS 2015 có hiệu lực đã khơng cịn ghi
nhận tư cách chủ thể của hộ gia đình khi tham gia trong quan hệ pháp luật dân sự.40
“Quan hệ dân sự của hộ gia đình đã có q trình lịch sử được pháp luật thừa nhận
và trở thành tập quán của người Việt Nam, nhất là giao dịch dân sự bằng tài sản
chung và vì lợi ích chung của hộ gia đình cần được tiếp tục ghi nhận. Hơn nữa, đối
tượng của giao dịch dân sự của gia đình rất quan trọng và phổ biến như nhà ở, đất
đai, lối đi, đường điện, đường nước, sản phẩm hàng hóa do cơng sức của các thành
viên trong gia đình sản xuất tạo ra.”41 Nếu như trước đây tại BLDS 1995 và BLDS
2005, ở một chừng mực nào đó hộ gia đình vẫn được coi là chủ thể tương đối độc
lập trong quan hệ dân sự thì tại BLDS 2015, mỗi cá nhân thành viên của hộ gia đình
mới là chủ thể trực tiếp tham gia xác lập, giao kết, giao dịch.42 “Tư duy pháp lý này
giúp tháo gỡ được những vướng mắc và hạn chế đã tồn tại trong thời gian dài, tạo ra
cơ chế minh bạch và công khai hơn trong việc xác định tư cách chủ thể tham gia
quan hệ pháp luật dân sự, qua đó xác định chính xác quyền và nghĩa vụ của các bên
tham gia.”43
38

Lê Minh Hùng (2005), “Địa vị pháp lý của hộ gia đình trong pháp luật dân sự”, Tạp chí Nghiên cứu lập
pháp, số 4 (51), tr.51.
39
Đỗ Văn Đại (Chủ biên) (2016), Bình luận khoa học những điểm mới của Bộ luật Dân sự năm 2015 (Xuất
bản lần 2, có bổ sung), Nxb. Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam, tr.46.
40
Đỗ Văn Đại (Chủ biên), tlđd (39), tr.239.
41
Nguyễn Văn Cừ, Trần Thị Huệ (Đồng chủ biên) (2017), Bình luật khoa học Bộ luật dân sự năm 2015 của
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân, tr.196.
42
Tuấn Đạo Thanh (Chủ biên) (2017), Bình luận một số quy định trong Bộ luật Dân sự năm 2015 có liên
quan trực tiếp đến hoạt động cơng chứng, Nxb. Tư Pháp, tr.74.

43
Phùng Trung Tập, Kiều Thị Thùy Linh (Đồng chủ biên) (2020), Nhập môn Luật Dân sự, Nxb. Lao động,
tr.202.

16


Như vậy, có thể thấy quy định về hộ gia đình của các BLDS là khác nhau.
BLDS 1995 và BLDS 2005 theo mơ hình thừa nhận rõ ràng tư cách hộ gia đình là
chủ thể pháp luật dân sự, tuy nhiên sau khoảng thời gian dài thực thi các quy định,
thấy rõ quy định trên là không phù hợp, do đó ở BLDS 2015 đã có sự thay đổi lớn
về mặt lập pháp theo mơ hình khơng thừa nhận tư cách hộ gia đình là chủ thể pháp
luật dân sự.
1.2.2. Pháp luật hiện hành quy định về hộ gia đình
 Khái niệm hộ gia đình
Như đã phân tích ở trên, hiện nay pháp luật dân sự khơng cịn thừa nhận tư
cách chủ thể độc lập của hộ gia đình, tuy nhiên do xuất phát từ bản chất của hộ gia
đình là sự liên kết giữa các thành viên mà BLDS 2015 đã đặt ra nhiều quy định
nhằm bảo vệ quyền, lợi ích của các thành viên.
Khác với hai Bộ luật cũ, BLDS hiện hành không đưa ra định nghĩa như thế
nào là hộ gia đình, tuy nhiên, hộ gia đình phải được xem xét từ bản chất ra đời của
chính nó, đó là trên cơ sở thỏa thuận của các thành viên chứ không phải sự thừa
nhận đương nhiên của nhà làm luật.44 Hộ gia đình dưới góc độ của Bộ luật này thì
khơng cịn được coi là một chủ thể mà chỉ được coi là một thực thể kết hợp dân sự,
tức là nhiều người cùng kết hợp lại để tạo thành một mục đích cho giao dịch. Đối
chiếu với pháp luật dân sự hiện nay ở Luật HNGĐ 2014 chỉ đề cập đến khái niệm
gia đình, theo quy định tại khoản 2 Điều 3 thì gia đình là tập hợp những người gắn
bó với nhau do hơn nhân, quan hệ huyết thống hoặc quan hệ nuôi dưỡng, làm phát
sinh các quyền và nghĩa vụ giữa họ với nhau.
Hiện nay khái niệm hộ gia đình được đề cập trong pháp luật đất đai với tư

cách là chủ thể sử dụng đất, theo quy định tại khoản 29 Điều 3 LĐĐ 2013 thì hộ gia
đình sử dụng đất là tập hợp những người có quan hệ hơn nhân, huyết thống, ni
dưỡng, đang sống chung và có quyền sử dụng đất chung tại thời điểm được Nhà
nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất, nhận chuyển quyền sử
dụng đất. “Thực trạng cho thấy, việc xác định chủ thể thực sự của quyền sử dụng
đất của hộ gia đình trở thành “mê cung”, mà ở đó, các nhà nghiên cứu, xây dựng
pháp luật, chính sách lẫn những người thực thi như cán bộ chính quyền cơ sở, thẩm

44

Nguyễn Minh Tuấn (Chủ biên) (2016), Bình luận khoa học những điểm mới của Bộ luật Dân sự năm 2015,
Nxb. Tư Pháp, tr.148.

17


phán, công chứng viên... không dễ dàng gỡ rối, phân định tách bạch, rõ ràng.”45
Xuất phát từ khó khăn trong việc áp dụng, Tòa án nhân dân tối cao cũng như Tổng
cục thi hành án dân sự đã ban hành văn bản hướng dẫn nghiệp vụ như sau: theo Văn
bản giải đáp số 01/2017/GĐ-TANDTC ngày 07/4/2017 khoản 4 Mục III có quy
định như sau: “Thời điểm để xác định hộ gia đình có bao nhiêu thành viên có quyền
sử dụng đất là thời điểm được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử
dụng đất; nhận chuyển quyền sử dụng đất. Việc xác định ai là thành viên hộ gia
đình phải căn cứ vào hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Trường hợp
cần thiết, Tòa án có thể yêu cầu Ủy ban nhân dân có thẩm quyền cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất xác định thành viên hộ gia đình tại thời điểm cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất để làm căn cứ giải quyết vụ án và đưa họ tham gia
tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.” và tại Công văn số
1987/TCTHADS-NV1 ngày 06/6/2018 của Tổng cục THADS, có quy định về căn
cứ xác định thành viên hộ gia đình như sau: “Căn cứ để xác định số lượng thành

viên của hộ gia đình là hồ sơ đề nghị cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và
các giấy tờ có liên quan (như giấy chứng nhận đăng ký kết hôn, giấy khai sinh của
các thành viên trong hộ gia đình...). Trường hợp cần thiết, cơ quan thi hành án dân
sự đề nghị cơ quan có thẩm quyền (Ủy ban nhân dân, cơ quan quản lý nhà nước về
đất đai, Văn phòng đăng ký đất đai...) xác định thành viên hộ gia đình tại thời điểm
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng.”
Như vậy, có thể thấy khái niệm hộ gia đình khơng đồng nhất với khái niệm gia
đình. Nhìn dưới góc độ so sánh, khái niệm gia đình bao trùm lên khái niệm hộ gia
đình và dường như hộ gia đình ln ln là một bộ phận cấu thành nên gia đình.
“Mặc dù cùng được xây dựng dựa trên quan hệ hôn nhân, huyết thống và nuôi
dưỡng nhưng để trở thành thành viên hộ gia đình, những cá nhân này (thường) phải
sống chung với nhau trong khi yêu cầu kể trên lại không áp dụng khi xác định thành
viên của gia đình.”46 Theo đó, thành viên của hộ gia đình và thành viên của gia đình
có thể khơng đồng nhất với nhau, thành viên của hộ gia đình thì ln là thành viên
của gia đình nhưng thành viên của gia đình chỉ trở thành thành viên của hộ nếu hội

45

Lê Thị Hoàng Thanh, Phạm Văn Bằng (2012), “Hộ gia đình – Những vấn đề đặt ra khi sửa đổi chế định
chủ thể trong Bộ luật Dân sự 2005, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 20 (228), tr.34.
46
Hồng Gia Linh (2017), “Hộ gia đình – góc nhìn chủ thể từ hoạt động cơng chứng”, Tạp chí Nghề luật, số
4, tr.20.

18


đủ các yếu tố luật định từ đó loại trừ cách nhìn về hộ gia đình chỉ dựa vào hình thái
bên ngồi như: các thành viên phải có chung hộ khẩu.”47
 Tài sản chung của hộ gia đình

Bản chất của hộ gia đình là sự liên kết giữa các thành viên hộ gia đình, do đó
tài sản của các thành viên gia đình cùng sống chung là các tài sản do các thành viên
đóng góp, cùng nhau tạo lập nên và những tài sản khác được xác lập quyền sở hữu
theo quy định của Bộ luật này và luật khác có liên quan. Chẳng hạn như các tư liệu
sản xuất của hộ gia đình hay các tài sản mà các thành viên cùng đóng góp tạo nên
hay các tài sản không chứng minh được là tài sản riêng của một thành viên nào đó
thì đều được xem là tài sản chung của hộ gia đình. Liên quan đến đề tài khóa luận,
tài sản chung của hộ gia đình là quyền sử dụng đất của hộ là một tài sản chung điển
hình và phổ biến, quyền sử dụng đất chung của các thành viên hộ gia đình được
hình thành dựa trên phát sinh các sự kiện được Nhà nước giao đất, cho thuê đất,
công nhận quyền sử dụng đất hay sự kiện pháp lý các thành viên đều đóng góp nhận
chuyển quyền sử dụng đất của cá nhân hay hộ gia đình khác.
Liên quan đến tài sản chung của các thành viên của gia đình, vấn đề đặt ra là
quyền sở hữu chung của hộ gia đình, bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng
cũng như quyền định đoạt tài sản được quy định như thế nào? Hiện nay, quyền sở
hữu tài sản của hộ gia đình được ưu tiên thực hiện theo phương thức thỏa thuận,
trường hợp không thỏa thuận sẽ áp dụng sở hữu chung theo phần.48
 Cách thức tham gia giao dịch
Khác với hai Bộ luật trước, việc tham gia của hộ gia đình trong các giao dịch
dân sự sẽ do chủ hộ thực hiện hoặc thành viên khác được chủ hộ ủy quyền. Với
cách thức tham gia giao dịch như vậy cho thấy quyền tham gia giao dịch chỉ thuộc
về chủ hộ, các thành viên khác muốn đại diện tham gia giao dịch vì lợi ích của hộ
thì phải được chủ hộ ủy quyền. Có thể thấy, các quy định về hộ gia đình ở BLDS
1995 và BLDS 2005 đã trao cho chủ hộ quá nhiều quyền lực. Tuy nhiên, hiện nay
các nhà làm luật đã nhìn nhận đúng bản chất của hộ gia đình, theo đó căn cứ quy
định tại khoản 1 Điều 101 BLDS 2015, chủ thể tham gia các quan hệ dân sự chính
là các thành viên của hộ gia đình. Tất cả các thành viên có thể tự mình tham gia
hoặc các thành viên ủy quyền bằng văn bản cho một người khác tham gia, người

47

48

Trường Đại học Luật Hà Nội, tlđd (32), tr.203.
Phần nội dung này sẽ được phân tích rõ hơn tại mục 1.3 của Khóa luận này.

19


×